Vườn tình - Chương 09
Cuối cùng, chị để các dụng cụ xuống. Chị thở dài. Chị cắn môi,
nhíu mày. Một lúc sau, ông không thể chịu được nữa và hỏi: “Có nghiêm
trọng không, thưa bác sĩ?”. Và giọng của ông thành thực, ánh mắt của ông
lo âu đến nỗi thậm chí chị không cảm thấy buồn cười nữa. Không, chị
nghĩ, tất nhiên là không rồi. Không nghiêm trọng. Không có gì nghiêm
trọng khi người ta nghĩ là như vậy. Nhất là đối với nhóc Elmer. Ai cũng
biết là nhóc Elmer không chết. Ai cũng biết là nhóc Elmer lại trở về
từng lúc. Một cú mắc lừa vĩnh cửu.
Chị không trả lời như thế. Chị lại thở dài và buột miệng: “Để em đo thân nhiệt xem, thưa thầy Cyrillus. Thầy nằm sấp đi.”
Giọng
điệu hoàn hảo. Những gì nghiêm trọng bắt đầu. Ông thầy phải trả giá
bằng việc bị đo nhiệt độ ở trán. Mắt ông lảng tránh. Dương vật của ông
căng lên. Ồ, không có gì là hoành tráng cả nhưng thế đó, và điều này
không thoát khỏi đôi mắt tinh tường của nữ bác sĩ. Túi trước hơi nhô lên
một tí. Nó không dựng hẳn lên, có thể nói như vậy. Gương mặt thản
nhiên. Chị chỉ tấm thảm trải dưới đất. “Mời thầy”, chị nói. Quả là bàn
khám bệnh hơi thấp, nhưng một vài sự nhượng bộ không phải là hi sinh. Vả
lại, từ khoảnh khắc này, nữ diễn viên kịch câm sắm vai thầy thuốc đã rã
rời thân xác. Nghi thức bị phá hủy. Hay đang thoát ra, cũng có thể.
Bệnh nhân nằm sấp, có nguy cơ đè bẹp sự cương cứng khiêm tốn của mình.
Chị ở bên cạnh, bên tấm đệm. Chị tuột sịp của ông thầy xuống, thấy hai
mông xanh xao tội nghiệp hơi trễ ra sau, gần như không có lông. “Giạng
ra”, chị bảo. Ông giạng ra. Độ đàn hồi của chiếc quần sịp cho phép giạng
bao nhiêu thì ông giạng bấy nhiêu.
Đúng lúc này thì chị mới dùng
đến chai nước tạo bọt quen thuộc. Cần cho mọi chủ ý. Ca phẫu thuật rất
khó, nhưng chị đã thành công. Ông thầy úp mặt vào gối càu nhàu. Vì đau
ư? Vì sướng ư? Thân nhiệt tăng, tất nhiên rồi. Đó là cả một kỹ thuật. Cả
một nghệ thuật. Một tay phải giữ cổ chai, tay kia vỗ vỗ vào đít chai.
“Và một chai Perrier loại nhỏ, một!”, chị không thể không nghĩ như thế.
Thật đê tiện! Thậm chí không xứng một lang băm tầm thường đểu giả. Chị
tự trách mình. Chị định thần lại. Chị vỗ, vỗ. Ông thầy bắt đầu rên rỉ.
Vì đau ư? Vì sướng ư? Và như thế, khi chị quyết định bất ngờ tấn công.
Vẻ như không. Chị lên giọng:
Cuối cùng cho chúng thấy sợ hãi là gì
Với cánh tay đỏ lên vì sấm sét và giận dữ
Tàn phá, đả thương, lòng đầy hãnh diện
Với con quỷ này cả thế giới đều sai...
Chị
có biết cách nói chuyện với các bệnh nhân không, nữ bác sĩ tử tế này?
Chị có biết cách chọn lựa ngôn từ, phong thái? Làm ơn theo bản năng!
Hiệu quả gần như ngay tức thì. Qua một thời gian ngạc nhiên rất ngắn
ngủi, vừa hết khổ thơ, ông thầy đã bật lên một tiếng rú rất dài. Đúng
như thế. Ông cảm thấy thích thú, vẻ am hiểu. Ông ưỡn lưng. Căng người.
Cởi mở. Lần này không phải tự chất vấn làm gì nữa: Đau hay thích thì có
quan trọng gì, quan trọng là ông muốn tiếp tục như thế. Và nhiều hơn
thế. Ông thầy đòi hỏi. Chị vâng theo.
Những kẻ thù của sự nghỉ ngơi,
của Chúa trời và của các hoàng tử
Những kẻ thù của nhân dân
và của các tỉnh lẻ
Những kẻ thù bất tử của danh dự lăng mộ...
Cả
hai là những đứa trẻ. Cách đây chưa lâu lắm đâu, chị còn chơi trong
vườn với một con chó lớn bằng chị. Một con chó bụ bẫm. Một tấm lông
nhung sống động. Chị bá lấy cổ ông thầy. Mùa hè, chị chỉ mặc mỗi một
chiếc quần ngắn bằng vải cotton trắng. Chị là Mowgli ở chốn rừng sâu,
ông thầy là Bagheera kết hợp với Baloo. Chị những muốn ngủ với ông. Và
rồi con chó đã chết. Vì sao ư? Đến giờ người ta vẫn chưa trả lời chị.
Chị
vỗ, vỗ lên đít chai. Giờ thì ông thầy hí như ngựa. Đúng như thế đấy.
Cách đây khá lâu - nhưng là gì so với sự vĩnh cửu - ông còn nắm tay mẹ,
đi bên cạnh mẹ trên đường phố lát đá, cuối phố ông biết có một quán trà
rất nổi tiếng. Hôm đó là chiều chủ nhật. Ông dạy buổi sáng. Thời đó mẹ
ông chưa bị tàn phế.
Bà bận đồ đen. Quán trà ở trên tầng. Cả hai
mẹ con ngồi vào một cái bàn đặt ở đầu phòng. Ông là đứa trẻ duy nhất
trong quán. Ngồi thẳng đơ trên chiếc ghế bành Louis XV. Ông được ăn
sôcôla nóng và hai cái bánh ngọt. Cả hai lặng lẽ ăn uống. Đèn trần chiếu
sáng ngay giữa ban ngày. Một tỉ bóng đèn. Qua những ô cửa sổ cao cao,
ông thấy những cành cây tiêu huyền đung đưa. Khi đó là mùa đông. Vẫn
luôn là mùa đông và gió lạnh. Tôi hình dung thế.
Chị vỗ, vỗ, vỗ
mạnh hơn, nhanh hơn. Chị đóng đinh. Trái với những gì người ta tưởng,
không nên lẩn trốn vào những lúc đó. Không nên tìm cách thoát thân. Phải
luôn hiện diện và ý thức được mọi chuyện. Ở hẳn bên trong. Lội bì bõm.
Lấy ra và tích trữ. Phải nuôi dưỡng, phải nặn được thành viên ở trong.
Phải nhét vũ khí vào tận trong mồm.
Trên cả những tiếng rên, tiếng rú, tiếng hí, giọng của chị ngân lên:
Và cũng không lăng mộ,
những xác người thối tha
Bồng bềnh trên nước, trôi nổi lang thang
Chỉ làm mồi cho cá và thức ăn cho quạ.
Ông
thầy kêu lên. Ông bị co giật một cách lạ lùng, chân huơ lung tung may
mà chị tránh kịp. Rồi ông thầy nằm bẹp xuống đệm, miệng há hốc, bọt mép
sùi ra, vẻ kinh hãi, hoảng hốt. Chị vừa rút cái chai ra vừa thông báo:
“Đã hạ sốt rồi. Thầy có thể mặc quần áo vào.” Chị không cần phải thắt cà
vạt cho ông. Lần này không, lần khác cũng không. Ông bị kẹt rồi. Nút đã
được thắt. Từ trên cao cửa sổ nhìn xuống, chị nhìn ông đi vào bóng đêm.
Bóng ông ốm yếu, thoảng qua, đi sát những bờ tường. Bóng đè lên bóng.
“Ông mà đòi yêu tôi à”, chị nghĩ bụng, “ông mà đòi làm cho tôi thỏa mãn à?”.
*
* *
Vài
đoạn mà tôi cho ông đọc đó, rồi ông sẽ hiểu, là được rút ra từ các cuốn
sổ ghi chép của Flo. Những đoạn khác được trích ra từ những cuốn sổ của
Ariel. Tôi phân thân. Sở dĩ tôi đã chọn những đoạn này, đã trích lọc
một cách trung thành, các bạn hãy tin như thế, là vì tôi thấy những đoạn
đó có thể soi rọi phần nào những ngõ ngách tối tăm nhất. Cũng là vì một
số nhân vật chính có trong đó không còn xa lạ gì nữa đối với ông.
Ý tôi muốn nói là, thưa ông Astrid, ông đã rất cận kề với sự thật. Nếu như có một sự thật. Và một sự thật duy nhất.
Về
những ghi chép của Florence, hẳn ông sẽ để ý thấy cách mà chị nói về
mình rất lạ, chị sử dụng ngôi thứ ba. Như thể đó là câu chuyện về một
người con gái khác, một người đàn bà khác. Sự chia lìa giữa thể xác và
tinh thần ư? Sự tách rời chính mình một cách tuyệt đối ư? Có cần thiết
như vậy không, có phải đó là điều phải làm không? Quả là tôi đã thắc mắc
phải chăng tất cả chúng ta, tùy theo hoàn cảnh mà phải viện đến hạ sách
này để cho cuộc sống tiếp tục có thể chịu đựng được. Những hành vi của
chúng ta có vẻ như đôi khi tách rời tâm hồn của chúng ta. Và ngược lại.
Có đúng như thế không hay đó chỉ là một cái mẹo thôi?
Ở trường hợp
này, điều đó muốn nói là bộ mặt giấu kín thực sự gớm ghiếc, và khi mặt
nạ rơi xuống, không còn hy vọng nào nữa. Mỗi người sẽ tự nhận ra mình,
những tấm gương sẽ tan ra thành nghìn mảnh, nghìn mảnh gương kinh hãi và
đáng xấu hổ. Tôi hiểu là người ta có thể nói ở ngôi thứ hai hay ngôi
thứ ba. Tôi hiểu người ta thường thích đổ lỗi cho người khác, trút gánh
nặng lên người khác. Và chính mình thì hài lòng với việc chịu tang.
Những thứ đó phức tạp lắm.
Tôi
đã chứng kiến, cách đây vài tháng, một cảnh tượng gây ấn tượng mạnh.
Lúc đó là buổi sáng sớm, gần nhà ga. Tôi đang từ chỗ đậu xe đi bộ ra thì
thấy trước mắt mình, trên vỉa hè, hai con chim: một con chim mòng biển
và một con cu gáy. Chim cu gáy đã chết. Nó nằm trên vỉa hè rải nhựa, bị
mổ bụng, phanh thây. Con chim mòng biển đang ăn nó. Hơn thế nữa, nó bám
riết lấy con mồi, xé nát thịt da nó ra. Nhìn cảnh nó như đang nhảy múa
xung quanh xác chết, nhìn cách quần con mồi, cách bất thình lình dang
cánh ra rồi kêu lên giận dữ, sự rồ dại trong đôi mắt tròn xoe của nó,
nhìn những cú mổ mạnh bạo của nó, tôi không có cảm tưởng mình chỉ đang
chứng kiến bữa ăn trời phú của con kền kền. Điều đó làm cho ta nghĩ đến
sự thỏa mãn mối hận thù đã gặm nhấm từ lâu. Như thể con cu gáy là kẻ thù
truyền kiếp, kẻ thù không đội trời chung mà nó vừa đánh bại. Bản năng
sơ đẳng trỗi dậy. Sau bao thế kỷ bị gò bó, mối căm thù, sự tàn bạo thắng
thế và tha hồ thả cửa. Cho dù điều này diễn ra giữa những kẻ đồng loại.
Tôi
gọi nó là chim cu gáy nhưng nó giờ chỉ còn là một tấm giẻ rách thảm hại
không lời nào có thể tả nổi. Cái mỏ của con chim mòng biển nhuốm máu,
lông trắng ở cổ nó cũng lốm đốm máu tươi.
Để hoàn chỉnh bức tranh
này, trên vỉa hè đối diện có ba kẻ ăn xin đang nằm ườn dưới những tấm
cáctông. Họ nằm trong hốc kê giường bằng bêtông dọc theo mặt trước khu
nhà phụ của nhà ga. Tôi không nhìn rõ mặt họ. Đàn ông hay đàn bà, trẻ
hay già, sống hay chết. Dù sao đó cũng là những kẻ đồng loại với tôi.
Và hình như họ thờ ơ với số phận của những con chim.
Tôi
thấy toàn bộ cảnh tượng đó. Có rút ra được bài học nào không? Ngay lập
tức, tôi tự nhủ đơn giản: Điều đó tồn tại, không chỉ trong đầu tôi.
Tôi nghĩ bụng: Đây có thể là một cách nhìn, một hình ảnh biểu trưng của thế giới.
Nhưng
hẳn tôi đang đi hơi quá xa câu chuyện mình đang kể. Về câu chuyện của
chúng ta. Chúng ta quay lại câu chuyện này đi. Việc học tiếp đại học đối
với tôi không phải là một sự lựa chọn khó khăn: tôi sẽ theo Ariel. Cho
dù hắn đi đâu đi nữa, tôi cũng sẽ đi theo, theo bất kỳ ngành học nào, đi
bất cứ nơi đâu.
Tôi không nghĩ hắn đã từng mơ tưởng đến việc làm
nghề gì đó sau này - nghề chủ doanh nghiệp hay giám đốc công ty vi tính
lại càng không. Với hắn, công việc không phải là mục đích cuối cùng,
cũng không phải là cách để phát triển, và kiếm sống đối với hắn không
phải là một việc cần thiết. Chỉ riêng gia sản hiện tại cũng giúp hắn
sống ung dung cho đến hết đời. Hơn nữa, trong tính cách của hắn không có
gì đại loại như sự tham lam. Tất cả những gì hắn đã có thể làm thì hắn
đã làm, không phải làm miễn phí nhưng không hề vì mục đích vụ lợi. Rõ
ràng là như thế.
Trường đại học gần nhất cách đó tám mươi cây số.
Không thể ngày nào cũng đi đi về về được, Ariel đề nghị tôi ở chung căn
hộ với hắn: Một lời mời mà, dĩ nhiên, tôi hồ hởi chấp nhận. Trong mắt
tôi, bất cứ xó xỉnh nào cũng xong, miễn là chúng tôi ở chung là được.
Thế là cuối tháng Chín năm ngoái, lần đầu tiên tôi tạm biệt bố mẹ và
thành phố nhỏ Saintes-sur-Mer nơi tôi đang sống. Còn mười lăm ngày trước
khi nhập học, Ariel và tôi dành để khám phá một vùng đất mới. Tôi vẫn
còn nhớ như in những ngày ngập tràn niềm vui đó.
Tôi còn nhớ trời
rất đẹp. Mùa hè ấn Độ kéo dài mãi không thôi. Chúng tôi chạy xe hàng giờ
trên chiếc Saab (giờ Ariel đã đủ tuổi lái xe), chúng tôi đi theo những
đường phố lớn như bị cuốn theo một luồng gió uể oải. Chỉ riêng những cái
tên đường mà tôi đọc được trên những tấm biển cũng đã chứa đựng cái gì
đó ngoại lai và hứa hẹn những chuyến phiêu lưu thú vị. Tôi thấy cái gì
cũng đẹp, cũng đầy phấn khởi, tuyệt diệu. Tôi tưởng như mình đang ở
trong một xứ sở thần tiên. Có thể mắt tôi đang vẽ hào quang lên tất cả
những vật, những người mà chúng tôi bắt gặp. Có thể ngay sau khi chúng
tôi đi qua, những thứ đó, những con người đó sẽ lại trở về với vẻ ngoài
tẻ nhạt thường nhật. Tôi không quay lại. Tôi mỉm cười khoan khoái. Bàn
tay Chúa đặt lên vai tôi...
Một lần nữa, phải nhận thấy khuynh
hướng tai hại của tôi, đó là khuynh hướng miêu tả những ngày hạnh phúc.
Tôi sợ điều đó làm cho câu chuyện của tôi lệch lạc. Tôi phô diễn niềm
vui, sự kinh ngạc, sự khoan khoái dịu dàng, tôi nói về trời xanh và
những tình cảm cao thượng, nhưng phải chăng tôi không biết những gì đang
ẩn giấu ở đằng sau? Về điểm này, phải chăng tôi ngây thơ khờ dại, đến
nỗi không hề linh cảm thấy những gì đang được thêu dệt: sự ghê tởm dưới
vỏ bọc của sự sảng khoái, thanh thản?
Như tôi đã nói, tôi không
tin vào sự tình cờ thuần túy. Vả lại, tôi cũng không tin vào số phận
được định sẵn một cách nghiệt ngã, như một định mệnh. Cuộc sống là sự
kết hợp tinh tế giữa hai điều ấy thì hơn. Đường đời lắm nẻo, chúng ta
tha hồ mà dấn thân vào đường này hay nẻo khác. Quả là phần lớn thời gian
không thấy phần cuối con đường. Cái đích sự lựa chọn của chúng ta hiện
giờ đang lẩn tránh chúng ta (và đôi khi mãi mãi), nhưng sự lựa chọn này
là có thật. Tôi muốn tin như thế. Bởi vì nếu như chỉ có sự tình cờ thống
trị, hay chỉ có số phận khắc nghiệt, thì sẽ không có công lý ở đời. Sẽ
không ai chịu trách nhiệm và cũng không ai có tội. Và không chịu trách
nhiệm hay không có tội thì cũng không phải nhờ tài cán gì. Trong việc
này chỉ có nạn nhân mà thôi.
Quá dễ. Tôi không muốn giấu giếm, tôi
không muốn lúc nào cũng lẩn tránh. Phô diễn trần trụi sự xấu xí của
mình: điều này quả là khó. Sự chân thành luôn có cái giá của nó.
Thế
là, lùi lại một tí, tôi có thể khẳng định là tôi đã từng đánh hơi thấy
mùi máu trước khi nó chảy. Và tôi tự nhủ chính vì lí do này mà, sau khi
đã suy nghĩ kỹ xong, tôi theo con đường này. Đường này chứ không phải
đường kia.
Tôi không cần phải xin lỗi.
Thế nên, nếu chỉ để
nêu thí dụ về ông thầy đó, ông Cyrillus, tôi không cần phải mất nhiều
thời gian để thấy được kết cục của câu chuyện. Như ông biết đấy, một
buổi sáng, người ta đã phát hiện ra một xác chết ở bụi cây trong công
viên thành phố mà ông ta biết rất rõ. Cơ thể ông ta trần truồng và biến
dạng. Một tội ác man rợ đã làm cả khu phố chấn động, đặc biệt là trường
đại học nơi ông ta đã dạy. Ai có thể mong chờ một sự ghê tởm như thế,
cho dù đã từ lâu, người ta đồn nhiều về những thói quen kỳ quặc của ông
thầy, về những mối quan hệ mà không phải lúc nào cũng đáng noi theo.
Elmer
nhỏ con tội nghiệp. Người ta không còn nghe giọng mũi của ông khắp các
giảng đường nữa. Trên ghế đá, mỗi người bình luận một kiểu theo quan
điểm riêng của mình. Tôi thu lượm đây đó một số chi tiết, một số mẩu
chuyện khả dĩ có thể làm tôi mỉm cười nếu như tôi còn lòng dạ để cười.
Tôi thì tôi im lặng. Tôi không cần phải khai báo gì hết. Chỉ có duy nhất
một câu hỏi mà tôi đã có thể tự đặt cho mình vào thời điểm đó: Tôi có
quyền làm cho câu chuyện xoay sang chiều hướng khác hay không?
Nhưng
đề cập quá sớm đấy. Tất cả câu chuyện này chỉ diễn ra khi chúng tôi học
đại học năm thứ hai. Trước đó, có một sự kiện trọng đại liên quan trực
tiếp đến chúng tôi. Trước đó, có một cuộc gặp gỡ.
Ariel và
Florence đã nhận ra nhau ngay. Florence không phải kiểu con gái mà nếu ở
bên cạnh người ta không cảm thấy bối rối tí nào. Bây giờ cũng thế, cho
dù ở nhiều khía cạnh, em đã thay đổi rất nhiều. Có một số người mà chỉ
riêng sự hiện diện cũng đủ làm cho bạn xao động, kể cả các giác quan và
tâm hồn. Tôi không hiểu tại sao. Tôi không hiểu bản chất của cái mùi
hương không tên mà những người đó tỏa ra, câu thần chú câm lặng về số
phận mà họ truyền đến. Tôi chỉ biết là những thứ đó làm rung động. Như
thế đó. Florence là con người như thế. Cũng như Ariel. Chính vì thế mà
tôi nói về “sự nhận ra” giữa họ với nhau, chứ không nói về mối tình sét
đánh hay tia chớp khác. Họ đã có thể ruồng rẫy nhau, như hai cực của
những hòn nam châm giống nhau. Sau khi đã khinh bỉ nhìn nhau, thách thức
nhau, căm thù nhau, đánh nhau, với cùng những vũ khí như nhau và vì một
sự tự tôn.
Thoạt nhìn, họ rất hợp với nhau.
Hôm đó, bầu
trời thấp lè tè, ánh sáng xám xịt. Các giờ học đã bắt đầu được ba tuần
rồi. Vào giờ nghỉ trưa, tôi và Ariel có thói quen nhâm nhi một mẩu bánh
mua ở quán Xnachba trong trường. Có vài bàn đặt ở bên ngoài quán, phía
trong sân. Do thời tiết thay đổi bất thường nên quán gần như vắng bóng
người, một vài tờ giấy bay vật vờ, lẫn vào lá vàng rơi. Lúc đó là mùa
thu. Và em ở đó. Florence. Như một thành phố đẹp.
Nhưng khi đó tôi còn chưa biết tên em.
Em
ngồi một mình, không ăn uống gì cả. Em hút thuốc. Nếu điều đó không gây
khó dễ cho tôi, tôi có thể nói là em chờ hắn. Tôi còn nhớ Ariel bỗng
nhiên lặng người giữa lưng chừng cầu thang dẫn đến cái sân đó. Tôi nhìn
theo ánh mắt của hắn. Tôi đã hiểu. Mắt em giấu kín sau cặp kính đen
nhưng tôi biết em cũng đang nhìn hắn chằm chằm. Hai người nhìn nhau
trong một phần của sự vĩnh cửu. Tôi nhìn người này rồi lại nhìn người
kia. Như một con chó lúc lắc cái đầu.
Từ lúc đó, tôi biết là tôi
sẽ sớm đau khổ mà thôi. Tôi biết khoảng cách giữa em và hắn sớm thu
thành một đoạn rất nhỏ, thu thành một kẽ hở trong đó tôi sẽ phải lẻn cả
người vào. Tôi biết tôi sẽ phải thu mình bé lại, nhưng không thể thiếu,
tôi biết mình phải cố bám víu để sống còn. Ai cũng có thể biết điều đó.
Họ không cần trao nhau tín hiệu. Cô gái không nhúc nhích. Tôi chạm tay
vào vai Ariel. “Cậu đi chứ?” tôi hỏi. Hắn nhìn tôi, vẻ không hiểu. Tôi
nhắc lại: “Đi nào.” Hắn nhúc nhích. Hắn chậm chạp đi theo tôi, đi như
một kẻ mộng du. Chúng tôi vào trong quán Xnachba. Tôi mua hai cái bánh
mì kẹp. Ariel dường như không nói nên lời. Hắn lả người trước quầy, mắt
nhìn chăm chăm, khác hẳn với cú sốc mạnh mà hắn vừa phải chịu đựng. Đừng
có nhầm: Thái độ của hắn không phải là lóa mắt vì tình, không phải là
hoan hỉ, cũng không phải là bùng nổ bất ngờ và hân hoan của con tim.
Không. Không hề như thế. Nét mặt hắn hoàn toàn hoài nghi, không hiểu,
thậm chí người ta còn cảm thấy lộ ra một sự lo sợ nào đó - thái độ mà
người ta thường có khi một người thân tưởng như mãi mãi mất đi bỗng
nhiên xuất hiện. Tôi chưa bao giờ thấy hắn ở trong tình trạng đó. Tôi
phải kéo tay hắn thì hắn mới đi.
Và bây giờ, tôi thề rằng những gì
tiếp theo là hoàn toàn có thật. Không giả tạo mà cũng không bịa đặt.
Tôi lấy cái gì tôi quý nhất trên đời ra mà thề, tôi lấy đầu của những
đứa con tôi ra mà thề.
Khi chúng tôi ra khỏi quán Xnachba, cô gái
đó không còn ở đó nữa. Ở chỗ cô, đậu trên lưng ghế dựa mà cô đã ngồi là
một con chim. Một con chim cổ đỏ. Tại sao lại là một con chim cổ đỏ ư?
Tại sao đó không phải là con chim sẻ ngô ư? Tôi không biết.
Lần
này, chúng tôi đồng thời bị bất ngờ khi nhìn thấy cảnh đó và sững người
lại. Tôi nhìn con chim một lúc rồi quay về phía Ariel. Tôi chắc hắn cũng
nghĩ như tôi. Tôi thấy ánh lửa lo âu cháy rực trong mắt hắn dần dần lụi
tắt, sự băn khoăn của hắn bắt đầu tan biến. Tôi thấy hắn như nhẹ cả
người. Rồi nụ cười phảng phất trên môi hắn, một nụ cười đồng lõa, nụ
cười mà chỉ có những người am hiểu mới nắm bắt được. Nụ cười đó không
phải dành cho tôi. Ariel nhìn con chim không rời mắt. Vết đỏ son trên
màu trắng của chất dẻo, trên màu xám của bêtông. Mặc dù vậy, không ai
trong vài ba nhóm sinh viên đang la cà gần đó để ý thấy điều đó. Không
ai có vẻ chú trọng điều đó.