Vườn tình - Chương 08

Hai con rắn. Hai con thú dữ trong một cái chuồng. Cùng đi quanh một xác chết.

Tôi
không nghĩ mình đã có lần thấy Walter Weiss nhịn rượu. Ý tôi muốn nói
là: không có giọt rượu nào trong máu. Cũng không bao giờ say đến nỗi lăn
dưới gầm bàn. Ông ta thuộc loại công tử bột say sưa nhưng vẫn biết giữ
mình ngay cả thời điểm suy sụp. Ông Weiss có bờ trán cao, thân mình rắn
chắc, từ lòng trắng trong mắt ông ánh lên những mạch máu hồng. Ông uống
rượu thường xuyên nhưng uống ít, uống dàn trải suốt cả ngày và cả về
đêm. Đến nỗi mà tình trạng say rượu của ông như đã trở thành một bản
chất thứ hai.

Những ngày trời nắng và không khí tràn trề sinh lực,
ông ngồi hàng giờ trong một chiếc ghế bành bằng da thuộc to tướng trong
phòng đọc sách, nói phòng đọc sách nhưng thực ra không hề có sách, mắt
ông nhìn về phía lò sưởi không có lửa. Rồi khi ông đâm ra chán, có trời
mới biết vì lý do nào, ông đứng dậy và bắt đầu bước từng bước khắp
phòng, đi dọc rồi lại đi ngang, đi lên rồi lại đi xuống, và đi chân đất
(một đặc tính khác), ít khi ông bước chân ra khỏi giới hạn đó, ít khi ra
thềm hoặc ra vườn.

Walter Weiss đã từng là một bác sĩ phẫu thuật
rất giỏi. Có tiếng. Ông đã từng là một bác sĩ đầu ngành. Giờ ông không
còn được như thế nữa. Người ta không bao giờ cố ý giao phó mạng sống của
mình cho những bàn tay run, cho đôi mắt tối sầm hơi rượu. Rượu đã kết
liễu nghề nghiệp của ông: rượu là nguyên nhân chứ không phải là hậu quả.
Cũng như về cái chết của bà Ludmilla Weiss, mẹ của Ariel. Theo Ariel
thì chính người cha nghiện ngập của hắn đã giết chết mẹ hắn. Giết dần
giết mòn. Giết từng chút một. Người đàn bà khốn khổ đó đã chịu đựng quá
nhiều, đã đau khổ quá nhiều, rốt cuộc bà đã chết vì điều đó.


chính Ariel là người đã phát hiện bà nằm sóng soài trên giường. Tím tái
như ngủ mê giữa những chai lọ không. Sự giải thoát ở Valium. Đó không
phải là sự oán thán, dù là nhỏ nhất, của hắn đối với cha mình.

Ludmilla Hortense Bérard, vợ Weiss. Mẹ.

Sau khi bà chết, họ đã quyết định chuyển nhà.

Trong
thời gian này, tôi cũng đã có vinh dự được đi theo Ariel đến nơi bờ đá
hoang vắng chật hẹp, chỗ mà hắn thích ẩn dật. Được đến thánh địa của
hắn, ở đó, hắn đã dạy cho tôi cách nghe, nghe ra trò, lắng nghe tiếng
hát của biển khơi và những gì có trong tiếng hát đó, ký ức, lịch sử loài
người, những đau khổ và hy vọng, những tai họa và vinh quang trong quá
khứ của họ. Thật đẹp. Tôi đã tin. Tôi nhận ra cho đến lúc đó mình chỉ
mới tiếp cận thế giới một cách hời hợt. Thịt da, trí óc tôi trơn tru và
trong trắng, không dấu vết và không có sẹo. Hắn đã giúp tôi mở mắt và mở
tấm lòng. Tôi đã thấy màu sắc xuất hiện chỗ mà mới đó màu xám đang ngự
trị. Ở chốn đồng bằng buồn tẻ, tôi đã thấy hiện lên những ụ đất mới lạ.
Tôi đã nắm bắt. Tôi đã nuốt chửng, đã hấp thu, đã tái tạo tất cả cho
riêng mình.

Khó mà hình dung nổi những gì tôi đã đền đáp công ơn của hắn.

Phần
lớn thời gian chúng tôi ở bên nhau diễn ra như thế này: hắn nói còn tôi
ngồi nghe. Nguy nhất là cái nuôi sống các bạn cũng có thể nuốt sống các
bạn, giày vò các bạn. Tôi đã gặp mối nguy đó.

Thế là tôi đã học
cách hiểu Ariel. Tôi đã học cách “sống chung” – thêm một cách nói mà
người ta thường dùng tầm bậy tầm bạ - và tôi thường tự hỏi làm thế nào
mà đến lúc này tôi đã có thể “sống riêng”.

Tôi biết ông sẽ hiểu như thế, thưa ông Astrid khả kính. Liều thuốc độc nhỏ sẽ thành chén thuốc độc lớn.

Chúng
tôi đến tuổi mười bảy, rồi mười tám. Học cấp ba xong. Sắp mở ra một kỷ
nguyên mới. Câu lạc bộ của chúng tôi sẽ sớm được mở rộng, sẽ được bổ
sung. Một nhân tố thứ ba sẽ nhập cuộc và khi đó, chúng tôi sẽ biết chắc
chắn hơn nên xoay xở như thế nào.

Nhưng hiện tại chúng tôi không
nghĩ đến điều đó. Chúng tôi cứ để mặc thế. Mùa hè trước khi chúng tôi
vào đại học đã trôi qua không có biến động gì rõ ràng. Đó đúng là một kỳ
nghỉ thực sự. Và để kết luận chương này, tôi sẽ giữ lại hình ảnh này
của chúng tôi, hình ảnh hai chúng tôi ngồi bên nhau trên một chiếc ghế
đu trong vườn, chúng tôi thường ngồi như thế vào cuối buổi tối. Không
khí ấm áp, dìu dịu. Một cây keo uy nghi bao bọc chúng tôi bằng những
cành lá của nó. Chúng tôi thì thầm ru nhau, thì thầm nói. Đúng là không
phải để tái tạo thế giới cũng như không phải để phá hoại nó.

Và khi đó, đêm xuống làm chúng tôi hòa lẫn với nhau mà chẳng ai hay.

Rốt
cuộc tôi đã rời tay khỏi vô lăng để mở cửa xe. Marie vẫn đứng trước
cổng trường. Mình khoác một chiếc áo choàng rộng, cổ quàng khăn, vai
mang một chiếc túi xách nhỏ, tay xách một chiếc cặp da. Những thứ thích
hợp với đôi vai của em. Tôi từ từ tiến lại gần và em cứ để tôi đến. Tôi
đứng trước mặt em. Tôi mở mắt ra và thấy trước mặt mình là một người đàn
bà năm mươi tuổi. Một người phụ nữ tuyệt vời. Tôi sợ em cũng thấy tôi
như tôi thấy em. Em tiếp tục im lặng nhìn tôi soi mói. Em hoàn toàn có
quyền quay lưng lại với tôi rồi bỏ đi không nói một lời. Em đã không làm
thế. Em cười một nụ cười đượm buồn tuyệt diệu rồi nói:

- Thú thật em không còn tin nữa...

Tôi
những muốn trả lời thế nào đó nhưng tôi không thể. Tôi không lường
trước được sự thể lại làm lòng tôi xao động đến thế. Tôi dang tay ra ôm
lấy em. Ôm chặt. Úp mặt vào tóc em, tôi đã nhận ra và hít hà mùi hương
của em. Tất cả những gì mà tôi có thể thì thầm bên tai em, đó là:
“Marie...” Sự tiếp xúc này đã làm tôi tan nát cõi lòng. Một trận gió lớn
giữa mùa đông. Sự trinh nguyên của em đã bắt đầu phần nào xâm chiếm lấy
tôi. Tôi ôm em rất lâu vào lòng. Từ trên kia nhìn xuống, có lẽ người ta
tưởng chúng tôi là hai học sinh cấp hai đang cô độc trên cõi đời, đang
tràn trề nhựa sống và đầy ắp ảo tưởng. Chúng tôi đã từng như thế.

Marie
không có bằng lái. Em nhận lời để tôi đưa em về. Em ngồi bên cạnh tôi
sau khi tôi vứt ra sau chiếc bánh kẹp ăn dở và chiếc túi nhựa đựng cuốn
sổ tay được buộc lại bằng một sợi dây chun. Trong suốt chuyến đi, chúng
tôi thầm lặng trao nhau những cái nhìn trộm rụt rè. Em có vẻ thích như
thế. Em chỉ nói:

- Thất vọng à?

Tôi ra hiệu không.

- Anh đã có mắt như mù trong một thời gian dài, thế thôi.


em phơn phớt đỏ, em quay mặt nhìn đường. Tôi để ý thấy một vài nếp nhăn
đây đó trên mặt em, nếp môi trông rõ hơn, gân nổi nhiều hơn trên mu bàn
tay. Ánh mắt của em chưa hề mất đi sự sáng trong hay chiều sâu của nó -
trông như cánh cửa sổ mở ra một bầu trời sáng sủa. Một cách khái quát
không thể xứng đáng hơn cho em. Tôi tránh bóng mình trong gương chiếu
hậu.

Em vẫn ở tòa nhà cổ dành cho giới quý tộc, ngay tại trung tâm thành phố.

Một
căn hộ thừa kế của bố mẹ. Tôi đậu xe, lấy túi đựng cuốn sổ tay rồi theo
em bước lên cầu thang. Một luồng cảm xúc mới xâm chiếm lấy tôi khi vào
trong căn hộ này. Marie đã cải tạo lại căn hộ theo ý mình từ lâu. Phía
trong rất dịu mắt, tinh tế và ấm cúng. Một hộp đựng tư trang gần như
hoàn hảo, có điều nó hơi rộng lớn so với một viên kim cương đơn độc.

Cây
đàn piano đã biến mất. Trong một lọ hoa màu vàng cao cao có một bó hoa
tươi. Marie cất đồ rồi ném áo khoác lên một chiếc ghế bành.

- Anh ngồi đi, em nói. Anh thích gì? Cà phê? Trà? Hay gì khác?...

Không ít dấu chấm lửng sau “gì khác” này, nhưng tôi không thể trách em. Em không biết cụ thể tôi đã ở đâu.

- Em cho anh cà phê. Có lẽ hôm nay đây là ly thứ mười bốn của anh.

Mắt
em ánh lên vẻ đồng tình. Tôi nghe em lục cục dưới bếp khoảng năm phút.
Em quay lại cùng hai ly cà phê trên một cái khay nhỏ. Tôi vẫn đứng như
thế, đung đưa chiếc túi trong tay. Tôi chờ em ngồi xuống rồi làm theo
em. Em uống một ngụm rồi đặt ly xuống. Em nhìn tôi. Tôi chưa chuẩn bị
được câu nào. Cuối cùng, em nói:

- Suốt ngày, em thấy bọn trẻ bị các thầy cô bắt lỗi: mặt anh giờ cũng như mặt chúng!

- Lạ thật, tôi nói. Khi anh quay lại đây. Anh vẫn thường tự hỏi từ khi nào...

- Lâu rồi, em ngắt lời tôi. Quá lâu rồi. Nhưng dẫu sao nét mặt anh có vẻ tươi tỉnh hơn lần trước.

Tôi
không nhớ nổi nhưng tôi mường tượng khá rõ thảm họa. Vẻ mặt hối hận của
tôi có lẽ đã bộc lộ rõ hơn tất cả. Em cúi người về phía trước rồi nói
thêm:

- Em rất vui khi được gặp anh, Alex ạ. Thật sự đấy.

Tôi biết em chân thành. Tôi đã xua đi một loạt ăn năn hối hận, trói buộc chúng lại trước khi chúng trở nên nặng nề.

- Anh không chắc là em sẽ nói như lúc nãy, sau khi đã thấy cái mà anh mang đến cho em.

- Hừm, thêm một điều bất ngờ nữa chăng?

- Có thể nói như thế, tôi nói.

Tôi
nắm lấy cái túi và trong khoảng mười lăm giây, tay tôi luống cuống ở
chỗ buộc mà không mở ra được. Cuối cùng tôi xé cái bọc ra. Tôi cầm tập
giấy đặt lên đùi. Hơi hướng cuối cùng của dã tâm. Kéo Marie vào đó không
khác gì ném bùn xuống một dòng sông trong vắt. Không hãnh diện lắm,
nhưng vẫn còn ích kỷ. Tôi thở dài:

- Anh cần em, Marie ạ.

- Thế thì tốt quá!

Tôi ngước mắt lên. Mắt em long lanh. Rồi em bỗng nhiên ngửa cổ cười thầm còn tôi nhảy lùi lại ba mươi năm.

-
“Marie!” Em kêu lên. Không ai còn gọi em như vậy từ đời xửa đời xưa
rồi! Sau đó, mặt em sững ra, như thể niềm vui chóng vánh đó đã làm cho
em ngạc nhiên. Môi em mím lại thành một nụ cười thoảng qua.

- Để em xem nào, em nói.

Tôi
chuyền cuốn sổ tay cho em qua mấy cái ly. Em gỡ dây chun ra rồi từ từ
lướt tay trên trang đầu tiên, như để kiểm tra chất lượng giấy hoặc để
phủi đi những vết bụi nhỏ. Em tranh thủ đọc tiêu đề một trăm lần.

- Anh viết à? Em hỏi.

- Không. Anh thấy trong thùng thư, sáng qua.

- Cái gì thế?

- Anh muốn em đọc trước rồi chúng ta sẽ nói chuyện.

Em cầm một tờ giấy lên, rồi một tờ khác một cách vô tình, đọc lướt qua vài dòng cùng một lúc. Mắt nheo lại.

-
Đừng miễn cưỡng, Marie ạ, tôi nói. Em có thể để anh đi ra ngoài dạo
chơi, anh sẽ không giận em đâu. Cái thứ này có khả năng... làm em đau
khổ đấy.

Em lắc đầu.

- Đồng ý. Anh cho em biết trước nhé.

Tôi
lại thở dài. Chỉ như thế tôi mới cảm thấy thoải mái. Marie cúi xuống
cái túi của tôi và nhặt lên cái hộp đựng kính, rồi em nhổm dậy, với cuốn
sổ tay trên tay.

- Anh cho em... ờ... ba tiếng nhé? Tôi sửng sốt.

- Cái gì? Tôi nói. Em bắt đầu luôn bây giờ ư?

- Tại sao không? Tối nay em có dự định gì đặc biệt đâu. Còn anh?

- Ờ… không.

-
Tốt quá. Thế anh ngồi xuống đi. Đĩa nhạc đấy, sách đấy. Em đã pha cà
phê ở dưới bếp. Nếu anh đói thì mở tủ lạnh ra thích gì ăn nấy. Được chứ?

Tôi vẫn chưa cởi áo bludông ra.

- Thế là quá đủ, tôi nói.

Em đi về phòng. Lúc em đang bước qua ngưỡng cửa thì tôi gọi giật lại.

- Marie!

Em quay người lại.

- Anh cũng vậy, tôi nói. Anh rất vui khi được gặp em. Em vào phòng, đóng cửa mà không nói thêm gì.

Khi
chỉ còn lại một mình, tôi ngồi một lúc trên tràng kỷ, đầu óc bồng bềnh.
Rồi tôi đứng dậy xem trên giá sách có gì. Những chồng đĩa nhạc. Tôi
biết sở thích của Marie, xem ra những sở thích đó không thay đổi. Có một
số đĩa nhạc cổ điển không thể thiếu, nhưng phần lớn bộ đĩa hát của em
là tuyển tập ca khúc Pháp từ những năm sáu mươi đến nay, từ những ca sĩ
bất hủ như Brel, Brassens, Ferré... đến những ca sĩ tầm thường hơn.
Marie đã làm cho tôi ngạc nhiên khi rất chuộng những ca sĩ mà tôi chỉ
xem là những ca sĩ quèn... Marie hát rất hay những ca khúc của Haydn và
của Dvorák, đồng thời có thể nhỏ lệ khi nghe Salvatore Adamo ngâm nga
bài Tuyết rơi...

Tôi tự nhủ nếu mình cố thử thì thể nào em cũng
mủi lòng. Tôi cho đĩa nhạc của Aznavour vào đầu đĩa rồi ngồi xuống tràng
kỷ. Nghe đến bài thứ ba thì tôi thiếp ngủ, với lý do cáo lỗi duy nhất
là cần ngủ bù cho hai nghìn năm ngủ muộn.

“Người đàn ông đó rất
yêu mẹ. Ai cũng cảm thấy thế, ai cũng trông thấy thế. Đã qua năm mươi
lăm tuổi rồi, ông vẫn sống chung với mẹ trong một căn hộ và trong một
cuộc sống, không chịu nghe tiếng gọi câu thúc của nhà an dưỡng, cho dù
mẹ mắc đủ thứ bệnh, cho dù mẹ bị tàn phế, cho dù bao nhiêu phức tạp mà
bệnh tật kéo theo. Ân cần biết bao nhiêu, hy sinh biết bao nhiêu. Sáng
chủ nhật, khi thời gian cho phép, người ta thấy hai mẹ con đi dọc theo
những lối đi trong công viên thành phố. Người đàn ông có tuổi và bà già
dìu nhau ngồi trên ghế bành, thường cúi xuống mái đầu bạc phơ của nhau
để nói cho nhau nghe về cảm tưởng nào đó của mình, đưa ra lời bình luận
nào đó về sự khoan dung của trời đất hay vẻ lộng lẫy của một cây mimosa
đương hoa. Hay là về việc chọn những món tráng miệng ngọt ngào cho ngày
chủ nhật. Bánh Minfơi, bánh chồng, bánh kem mứt ngọt lịm của hiệu
Fourques. Mẹ thèm ăn gì nhất, mẹ yêu?

Người mẹ khốn khổ đã mất gần
hết giác quan, nhưng vẫn còn một bộ răng rắn chắc. Và tình yêu thương
bất di bất dịch của con trai mình.

Jean-Baptiste Cyrillus. Tiến sĩ
văn chương. Giáo sư đại học đáng kính. Người mà sinh viên thường mệnh
danh là “Elmer”, chủ yếu vì âm giọng của ông, giọng của ông không phải
là không gợi nhớ tới giọng của kẻ bị Bugs Bunny và bạn bè của ông bắt
nạt. Đúng là không hơn gì nét mặt của ông. Có thể tưởng tượng ra cảnh
ông Elmer trung hậu này chăm sóc người mẹ bại liệt cho đến khi bà qua
đời.

Complet màu sẫm vải sọc, cà vạt: cùng kiểu ăn mặc trong tuần
trên giảng đường cũng như trong công viên vào ngày nghỉ cuối tuần. Một
người kín đáo và uyên bác, hơi gàn, ngoài mẹ ra, đối tượng tận tâm và
sùng kính khác của ông là các nhà thơ thời Phục hưng - thế nên ông có
thể ngâm những khổ xtăngxơ của Ronsard, và thơ của Du Bellay, ông cũng
có khả năng phủ nhận toàn bộ dược điển của bệnh viêm đa khớp. Và tất cả
những thứ đó luôn được thể hiện bằng giọng mũi của gã Elmer nhỏ con.

Chân
dung phác họa. Phải chăng đó là chân dung mà người ta sẽ đặt trên lăng
mộ ông sau này? Có thể như vậy lắm. Tuy nhiên, cần chỉnh sửa đôi chỗ:
Đúng, người đàn ông đó rất mực yêu thương người mẹ già của mình, say mê
thơ thế kỷ 16 và cũng thích người ta nhét chai Perrier vào đít mình.

Và tại sao không? Chị tự nhủ.

Trước
hết, đó là vấn đề thực tế. Tối đầu tiên mà ông xuất hiện, chị bị bất
ngờ. Chị còn chưa biết sở thích của ông là gì. Như thế để nói rằng việc
mở một loạt đồ uống là việc dở ẹc đáng nhớ. Ông thầy vẫn mặt lạnh như
tiền. Không bao giờ uống rượu. Chỉ thích mỗi nước uống có ga. Hơn nữa,
không phải ông ở đó để đùa. Ông đang rất vội: Người mẹ tội nghiệp của
ông đang ở một mình trong căn hộ và ông không muốn thế.

Tuy nhiên,
ông vẫn ở lại. Ông liếc mắt nhìn gian phòng rồi có vẻ hài lòng. Ngăn
nắp, sạch sẽ, một chỗ hợp lý cho bà. Bà vẫn luôn săn sóc kỹ càng mọi
ngóc ngách. Và săn sóc những người bệnh. Ông thầy ra chỉ dẫn một cách
chính xác, cụ thể, với cái giọng y như đang giảng bài. Chị hiểu và ghi
nhớ. Chỉ có điều, như ta đã nói, đồ đạc còn thiếu. Chẳng hạn như tối hôm
đó, ông hẳn sẽ bằng lòng với một chai Schweppes, còn chị cảm thấy ông
hơi phật ý nhưng thực ra hoàn toàn không phải thế. Chị cố gắng và quan
tâm rất nhiều để bù đắp. Trước khi ông ra về, chính tay chị đã thắt lại
cà vạt cho ông. Tuyệt! Hẳn đó là điều duy nhất khiến ông quyết định cho
chị một cơ hội thứ hai.

Lần sau, chị chuẩn bị đầy đủ tất cả mọi
thứ. Công việc tiếp phẩm đã xong. Một két sáu chai để dưới đất bên cạnh
tủ lạnh. Perrier, 33 cl. Biết những chai nước đó dành để làm gì. Chị
không thể uống loại nước uống đó. Chị đổ hết vào bồn rửa bát. Để thấy
chuyện gì xảy ra. Chị cũng đã bỏ tiền mua một chiếc áo blu trắng và một
hộp dụng cụ y tế đầy đủ. Cuối cùng, ông thầy không cần phải gợi ý, chị
đã học thuộc lòng một bài thơ sonnê của Étienne Jodelle, chị tính nếu
đọc đúng lúc, vài câu thơ này chỉ có thể làm cho quả ngon thêm vị ngọt
mà thôi. Ranh ma phết.

Ông giáo trở lại, đúng như đã thông báo,
vào ngày thứ sáu tuần sau đó, lúc 21 giờ. Đúng răm rắp. Cô thư ký mời
ông vào ngồi trong phòng đợi. Ông ngoan ngoãn chờ đợi, tay lần giở một
cuốn tạp chí trong khi chị thay đồ ở phòng bên cạnh. Khi mở cửa ra, chị
mặc chiếc áo blu trắng và không hề ra vẻ đang đùa. “Thưa thầy, đến lượt
thầy đấy”, chị nói. Qua cách ông liếc nhìn sau đôi tròng kính, chị biết
mình nắm chắc phần thắng. Ông đặt tạp chí xuống, đứng dậy, hắng giọng.
“Chào bác sĩ”, ông vừa nói vừa tiến về phía chị và chìa tay ra.

Một phong cách rất cổ điển. Nhưng lạy Chúa, con đường dẫn tới sự mê hoặc đôi khi rất dài và vòng vo.

Tiếp
theo đó, sự việc diễn ra theo như dự kiến. Chị đưa ông thầy vào phòng
khám rồi đóng cửa lại. “Thầy bị làm sao thế?” Ông tả mình đau thế nào,
triệu chứng ra sao. Chị vừa lắng nghe vừa lắc đầu. Sau đó chị nói: “Tốt,
tốt.” Rồi chị nói: “Thầy cởi quần áo ra, em sẽ xem thử xem sao.” Ông
làm ngay, chỉ mặc mỗi chiếc quần sịp và đi một đôi tất vải sợi Êcốt. Đôi
chân cứng đờ, phẳng lì, khuỷu chân như khuỷu chân gà. Chị bới lục trong
số những dụng cụ của mình rồi lấy ra một cái đè lưỡi và một cái đèn pin
nhỏ xíu. Chị lại gần ông, lúc ấy đang đứng giữa phòng, hai tay đu đưa.
Ông có phần nhỏ người hơn chị. “Há ra”, chị nói. Chị thọc dụng cụ vào
tận trong cổ họng ông. Chị khám rất kỹ, và bỗng nhiên, trong một khoảnh
khắc bất ngờ, chị nhận ra mình có thể ngã khuỵu, có thể bị nuốt chửng,
cả người chị có thể chui vào trong cái lỗ đen ngòm, ẩm ướt đó, như chui
vào đáy sâu của một cái hầm giam trong một lâu đài ma ám, nơi đó chị có
gào, gào, gào mấy cũng thế thôi, chẳng có ai đến cứu giúp chị. Qua rồi.
Chị banh mi mắt của ông lên rồi chĩa đèn vào con ngươi, một con côn
trùng đen hốt hoảng. Mi mắt này rồi mi mắt kia. Sau đó, chị đeo ống nghe
vào, đặt lên làn da xám, lên cơ thể gầy gò, cằn cỗi với cái bụng bắt
đầu phình ra (Ôi! Bánh kem thông nổi tiếng ở nhà hàng Fourques!). Ở vùng
tim, chị nghe tiếng đập dồn dập.

Ở chỗ khác, chị nhận ra những âm
thanh khác không rõ nguồn gốc. “Ho đi”, chị bảo. Ông ho. Ông thầy này
là một bệnh nhân ngoan ngoãn. Trong suốt thời gian nghe bệnh, chị chú ý
để cho ánh mắt mình ra vẻ nghiêm trang và bàn tay mình ra vẻ lạnh lùng.
Ánh mắt và cử chỉ của một thầy thuốc lão luyện. Giữ khoảng cách. Đấy
không phải là việc khó nhất. Sáp lại gần quá, mùi tuổi già của người đàn
ông xông lên mũi. Mùi của mẹ. Mùi thoảng qua thôi nhưng không phải
không nhận ra, một mùi hôi của lọ hoa bốc lên từ những cánh hoa úa tàn
trong nước ứ đọng hôi thối. Rồi một ngày nào đó, phải chăng chính mình
cũng bộc lộ một tính chất như thế? Làn da của chị đang mát mẻ, gợi cảm
như thế kia. Nàng hỡi, ta đi ngắm hoa hồng...

Chị tiếp tục khám,
thỉnh thoảng lại thì thầm “Tốt, tốt, tốt”, giọng chị như tiên đoán một
điều ngược lại thì đúng hơn. Ông thầy cứ để mặc thế. Trong khi mà chị
bận rộn khám lưng, ông cảm thấy hơi thở của chị phả vào gáy mình và
không thể không rùng mình. Sự căng thẳng của ông tăng lên dần dần.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3