Và Thế Là Chúng Ta Tiêu - Chương 12

Năm năm sau - Hank là ai nhỉ? - Ngày của Bố già - Nhà Mongtague và nhà Capulet - Jim đến một cuộc họp - Với chúng tôi đó không bao giờ là một điều lo lắng - Buổi đọc sách của Hank - Harry Ghi đông - Vì Lynn, và sau đó, vì Tom - Vị Lạt Ma cải cách - Cuối cùng

Mùa hè năm 2006, Benny Shassburger nhận được một bức email từ một ai đó anh ta không nhớ ra. Cái tên quen quen, anh ta biết lẽ ra anh ta phải biết nó, nhưng càng chằm chằm nhìn lâu thì nó lại càng lảng tránh anh ta. Anh ta nói to cái tên lên. Người hàng xóm ngăn bên cạnh, một kẻ gầy nhẳng và khó chịu vốn dĩ không bao giờ chịu bỏ qua chuyện gì mà không dò xét, thò cái đầu chó săn màu vàng cát của gã qua vách ngăn và nói, “Cậu vừa nói gì cơ?” Benny chẳng hơi sức đâu mà giải thích. “Tôi chỉ đang nói chuyện một mình,” anh ta nói. Ian đáp lại rằng có một nghiên cứu mới khẳng định rằng khi một người nói điều gì đó to thành tiếng và rồi một người khác hỏi, “Cậu vừa nói gì cơ?” và người đó trả lời rằng anh ta chỉ đang nói chuyện một mình, thì nghĩa là người đó không hề chỉ đang nói chuyện một mình, mà thực ra nhiều khả năng là đang nói với một ai đó cụ thể, cho dù chỉ là một cách vô thức. Ian theo dõi sát sao tất cả những nghiên cứu mới. Benny cảm thấy mệt mỏi.

Chúng tôi đã tìm đâu ra năng lượng? Cập nhật hồ sơ xin việc của mình, phỏng vấn lại, tìm hiểu một tuyến đường đi làm mới. Chúng tôi đã tỏa ra khắp cả ngành, tìm việc ở những công ty khác, ở những hãng thiết kế và các bộ phận marketing nội bộ, thường là những nơi đầu tiên nhận chúng tôi. Số kém may mắn hoặc kém giỏi giang hơn trong chúng tôi tìm đến những công ty tiếp thị qua thư trực tiếp hoặc quay sang các công ty thời vụ kiếm những công việc ban ngày không có bảo hiểm. Sơ đồ tầng, hình dáng những chiếc bàn, tên người và màu sắc logo của các công ty tất cả đều mới mẻ và khác lạ, nhưng bài hát và điệu nhảy thì vẫn thế. Chúng tôi sung sướng khi có việc làm. Chúng tôi suốt ngày than thở về chúng. Chúng tôi bước quanh những phòng làm việc mới của mình với hai tâm trí. Tất cả những gương mặt và tên gọi mới phải ghi nhớ, những bình cà phê lạ lẫm và những bệ toilet không quen thuộc. Chúng tôi có những tờ khai thuế thu nhập W-4 phải điền mà không bao giờ biết đó là zero hay sẽ là cái mang lại tiền về cho chúng tôi. Có Bộ phận Nhân sự hỗ trợ, nhưng họ không bao giờ tốt như chỗ Nhân sự cũ. Chúng tôi mất hai ba tuần đầu tiên, và một số người chúng tôi chắc phải đến một hai tháng, trong tình trạng cô lập và vô danh. Suốt cả một quãng dài không thể nào chịu nổi, bữa trưa là một cuộc tình đơn phương. Chỉ có dần dần chúng tôi mới hòa được mình vào đám đông, chỉ có dần dần những thực thể chính trị mới mới bắt đầu ló dạng. Ai đang hục hặc và vì chuyện gì, ai là kẻ thô lậu, kiêu ngạo, ngu xuẩn, quyền lực, giả tạo, tính toán, tráo trở, hoặc là một người tốt hoàn toàn - tất cả những điều này bắt đầu hiện rõ. Nhưng nó không xảy ra một sớm một chiều. Mất hàng tuần, mất hàng tháng, và việc chúng tôi tập trung sức lực để bắt đầu lại từ đầu ở những công ty mới là một bằng chứng về sự kiên cường của chúng tôi. Nó là dấu hiệu rằng chôn giấu dưới tất cả những lời than thở, có những phần của công việc mà chúng tôi yêu quý. Đó là bằng chứng cho thấy chúng tôi cần tiền.

“Cậu biết tôi là một người thân thiện,” Benny vừa nói vào điện thoại, vừa nhìn qua bức vách ngăn để chắc chắn là Ian chưa quay lại. “Nhưng tôi không biết là mình có thể chịu đựng thêm được bao lâu nữa. Tôi nói thật với cậu nhé, cái thằng cha Ian ấy? Hắn đang hủy hoại cốt cách của tôi.”

Một số người thích nghi tốt hơn những người khác. Có sự tự do trong việc bắt đầu lại vì chẳng có ai biết là liệu mình có phải là một người thô lậu, kiêu ngạo, ngu xuẩn, quyền lực, giả tạo, tính toán, tráo trở, hay là một người tốt hoàn toàn. Bạn có thể tự sáng tạo lại con người mình. Chẳng phải đó là một phần của lời hứa Mỹ sao? Một vài tháng ngất ngây trôi qua trong đó việc tự giấu mình là không thể. Những bài học rút ra từ sai lầm trong quá khứ giữ cho chúng tôi ở vị trí ngon lành. Một số người trong chúng tôi thể hiện sự phát triển nhanh chóng về độ lọc lõi. Những người khác băn khoăn điều gì đã xảy ra. “Tôi từng là một con người ra dáng thế cơ mà,” Benny tiếp tục. “Nhớ không? Mọi người thường vào phòng tôi và tôi mua vui cho họ bằng những câu chuyện. Có lẽ chỉ trừ Paulette Singletary, tôi là người mà ai cũng yêu quý nhất. Chuyện gì đã xảy ra chứ?”

“Tại sao cậu không xuống phòng tôi để chúng ta cùng nói về chuyện đó?” Jim bảo anh ta.

Khi Benny tới nơi, thì anh ta kia. Jim Jackers. Đang soạn một bức email. Nếu như vẻ mặt của Jim có là một dấu hiệu nào đó, Benny nghĩ bụng, thì dường như vận mệnh của toàn bộ công ty phụ thuộc cả vào một bức email đó. Benny kéo một chiếc ghế đối diện anh ta và chờ đợi. Anh ta không thích ở phía bên này của chiếc bàn. Anh ta muốn ở phía bên kia. Phía của Jim.

“Được rồi, nghe này,” Jim nói, sau khi anh ta đã soạn xong bức email vô-cùng-quan-trọng. “Cậu là người tiếp theo trong danh sách được nhận phòng làm việc riêng, được chứ? Chỉ cần cậu phải kiên nhẫn thôi.”

“Làm sao cậu biết tôi là người tiếp theo?” Benny hỏi.

“Tôi sẽ quan tâm vụ đó, đừng lo. Nhưng cậu phải đợi đến khi có người chuyển đi. Chúng tôi không thể cứ thế đá ai đó ra khỏi một căn phòng họ đã ở sẵn rồi và chuyển họ ra một ngăn chung được.”

“Tôi đã bị đá ra khỏi một phòng riêng và tống ra một ngăn chung đấy thôi.”

“Bởi vì cậu bị đuổi việc,” Jim nói.

“Một vấn đề kỹ thuật thôi,” Benny trả lời. Anh ta ngồi ngả ra sau ghế. “Đừng hiểu lầm ý tôi, Jim. Tôi mãi mãi biết ơn cậu đã thuê tôi. Tôi đã làm việc tự do quá lâu rồi. Nhưng một công ty nhỏ không thích hợp với tôi theo cách nó thích hợp với cậu. Tôi không thể ngày nào cũng nhìn đi nhìn lại vẫn ba mươi người đó. Tôi cần nhiều tầng. Tôi mới nhận ra điều đó ở bản thân mình. Tôi là một sinh vật mà môi trường sống tự nhiên của nó là nhiều tầng. Và tôi cần một phòng riêng. Tôi nhớ phòng làm việc cũ của tôi. Tôi nhớ mọi người. Cậu biết tôi nhớ ai không? Tôi sẽ nói cho cậu biết tôi nhớ ai,” anh ta nói. “Tôi nhớ lão Brizz.”

“Làm sao cậu lại có thể nhớ lão Brizz chứ?” Jim hỏi. “Cậu chưa bao giờ thực sự biết rõ lão. Nếu như cậu có nhớ lão ta, thì là bởi vì lão già và lão đã chết rồi trong khi không có ai ở đây hiện đang sở hữu một phòng làm việc riêng lại phù hợp với miêu tả đó cả.”

“Jim, cậu đã trở thành một kẻ yếm thế,” Benny nói. “Tôi đổ lỗi cho tác dụng làm tha hóa con người của quyền lực. Tôi nhớ lão Brizz vì tôi kiếm được mười đô mỗi người từ tất cả lũ mơ tưởng hão huyền Charlton Heston[52] các cậu khi lão Brizz tội nghiệp ngỏm củ tỏi.” Anh ta ghé sát lại gần Jim hơn qua bàn và hạ thấp giọng. “Điều tôi nhớ, Jim ạ, là Danh sách Theo dõi Nhân vật Nổi tiếng Sắp chết. Tôi thậm chí còn không tổ chức được một vụ cá cược Super Bowl[53] ở đây nữa. Có điều gì không ổn với những người này thế hả? Tôi không được vùng vẫy và điều đó đang khiến tôi phát điên. Tôi nhớ cảm giác được thỏa chí. Nhân tiện nói đến chuyện này,” anh ta nói, ngồi ngả lại ra sau. “Hank Neary là ai nhỉ?”

Âm thanh của cái tên đó chụp lấy sự chú ý của Jim. “Hank Neary,” anh ta nói. “Hank Neary.” Nhăn trán lại và nhìn xa xăm, anh ta chậm rãi, tỉ mẩn nhẩm lại cái tên đó như một từ mất hết mọi ý nghĩa. “Hank,” anh ta nói. “Hank. Hank.”

“Chúng ta đã làm cùng anh ta, đúng không?”

“Hank Neary,” Jim nói. “Hank Neary.”

“Chẳng phải chúng ta làm việc cùng anh ta sao, Jimmy? Ở công ty cũ ấy?”

“Chờ chút. Cho tớ một phút nào,” Jim nói. “Chúng ta đã làm việc cùng anh ta.”

“Neary,” Benny nói, nheo mắt nhìn Jim. “Hank Neary.”

“Hank Neary,” Jim nói. “Nó đang chuội khỏi tớ.”

“Trí nhớ của tớ,” Benny vừa nói vừa lắc đầu.

“Trí nhớ của tớ nữa. Cậu biết gì không? Hãy gọi cho Marcia. Cô ấy sẽ biết.”

Benny lắc đầu. “Không thể gọi cho Marcia ngay lúc này được,” anh ta trả lời. “Marcia đang điên lên với tớ.”

“Cô ấy điên lên với cậu vì chuyện gì chứ?”

“Jim, tớ có một câu chuyện phải kể cho cậu,” anh ta thốt lên. “Tớ có câu chuyện hay nhất mà cậu từng được nghe. Chờ một giây trong lúc tớ lấy thêm cà phê.”

“Không, Benny...”

“Gì chứ?”

“Tớ có một cuộc họp trong vòng mười phút nữa.”

“Ôi.”

“Được rồi, đừng có buông xuôi thế,” Jim nói, nhận ra sự thất vọng của Benny. “Tớ vẫn còn mười phút cơ mà.”

“Được rồi, tớ sẽ kể mà không cần cà phê vậy. Nhưng làm ơn cho tớ cái,” Benny nói. “Hãy để tớ ngồi vào ghế của cậu trong khi tớ kể.”

“Cậu có nghiêm túc không đấy?”

Benny đứng lên. Jim miễn cưỡng đứng lên và họ đổi chỗ cho nhau. Benny mỉm cười. Anh ta đã lại trở về đúng phía của chiếc bàn. Anh ta có thể nhìn ra ngoài hành lang, thấy tất cả mọi người đi qua và gọi họ vào.

“Michael!” anh ta rống lên vọng ra hành lang. “Michael, vào trong này mà nghe chuyện của tớ. Một câu chuyện cực đỉnh, cậu sẽ thích cho mà xem.”

Michael chỉ dừng lại để thò đầu vào bên trong phòng của Jim. “Không được,” anh ta nói. “Tớ đang có deadline với cái thông cáo này.”

Anh ta vội vàng bỏ đi, và Benny giơ hai tay lên để diễn tả sự ngỡ ngàng của mình. “Cậu có thấy không nào?” anh ta hỏi. “Giờ thì cậu thấy chưa, Jim, thấy tớ muốn nói gì chứ? Có điều gì đó không ổn với những người này.”

“Benny, cậu ta đang có deadline mà.”

“Ai mà không có lấy mười phút để nghe một câu chuyện hay cơ chứ?”

“Benny. Kể câu chuyện cho tớ đi xem nào.”

Thế là Benny kể cho Jim nghe câu chuyện tại sao Marcia lại phát điên lên với anh ta. Kể từ khi đi làm kín thời gian trở lại, anh ta đã dần nhận ra một hiện tượng dường như chỉ xảy ra ở chỗ làm, hoặc ít ra thì cũng là xảy ra với tần suất nhiều hơn tại chỗ làm so với những nơi khác trong cuộc sống, và hiện tượng đó là thế này: một người nói điều gì đó mà người nghe hoàn toàn không hiểu anh ta hay cô ta định nói gì, nhưng không muốn tỏ ra thô lỗ, hoặc tệ hơn, ngu ngốc, hoặc nếu không thì, không muốn mất thêm chút thời gian nào nữa, dễ dàng nhất là chỉ việc gật đầu hoặc cười theo còn hơn là ngừng lại gặng hỏi thực sự thì người kia định nói điều gì. Điều này đặc biệt đúng với kiểu đùa cợt ngoài hành lang và chuyện phiếm trong bếp và các loại trao đổi vô thưởng vô phạt hằng ngày khác. Người ta thờ ơ với những gì được nói, hoặc đang bận tâm đến những chuyện khác, hoặc từ rất lâu trước đó đã kết luận rằng những cái được gọi là lời nói trong quãng thời gian của một ngày làm việc chủ yếu là những tiếng ú ớ của mấy thằng ngốc. “Vì thế tớ nghĩ, Liệu có thực sự khác gì không? Liệu thẳng thắn mà nói thì có khác gì không nếu thay vì trả lời như bình thường vẫn trả lời, tớ đi trả lời mọi người bằng những câu thoại trong phim Bố già?”

Jim thấy tò mò. “Cậu làm thế bằng cách nào?” anh ta hỏi.

Benny giải thích rằng anh ta tự đặt ra cho mình một quy tắc đơn giản: không gì ra khỏi miệng anh ta mà lại không xuất phát trước hết từ miệng của Michael, Sonny, Fredo, Tom Hagen, hoặc thậm chí là chính Bố già[54] - hoặc bất kỳ ai cũng được trong hai phần đầu tiên.

“Tại sao chỉ là hai phần đầu tiên?” Jim hỏi.

“Thôi nào, Jim,” Benny nói. “Cậu biết tại sao mà. Chúng ta có cần phải gọi cho Don Blattner không?”

“Vì phần ba chẳng ra đếch gì à?”

“Bạn ơi, tôi nhớ tay Don Blattner ngày xưa,” Benny nói.

Kết thúc một cuộc họp buổi sáng, mà trong đó anh ta đã giữ mình hoàn toàn im lặng, trong khi mọi người thu dọn đồ của mình, Benny đã quay sang Heidi Savoca và nói, “ ‘Bố dành cả đời mình cố gắng để không cẩu thả. Phụ nữ và trẻ em có thể cẩu thả, nhưng đàn ông thì không’.” Vẻ mặt của Heidi cho thấy cô ta chẳng hề biết câu nói của Benny từ đâu ra, nhưng còn đáng báo động hơn sự bối rối của cô ta lại là vẻ khó chịu của cô ta đối với bản thân câu đó. “Thật là phân biệt giới tính đấy, Benny,” cô ta trả lời. Lúc sau trong buổi sáng đó, Seth Keegan ghé qua ngăn của Benny để hỏi anh ta một câu về mấy chỗ điều chỉnh nào đó cho một dự án mà hai người đã bắt tay làm trong suốt cả mấy tuần trước đó. “Cậu có rảnh một lát không?” Seth hỏi Benny. Benny xoay lại trên ghế của anh ta. “ ‘Một lần này thôi’,” anh ta nói. “ ‘Một lần này thôi anh sẽ để em hỏi anh về công việc của anh’.” “Tốt,” Seth nói, anh ta vào hẳn bên trong ngăn. “Tôi đang băn khoăn anh nghĩ chúng ta nên làm gì với những chỗ đè bóng này. Điều tôi đang nghĩ chúng ta có thể làm là...” Benny để anh ta nói, chốc chốc lại gật gù, và chẳng mấy chốc Seth đã đi đến một kết luận mà chẳng cần đến lời góp ý nào từ Benny cả. Đúng lúc anh ta đang quay đi, Benny nghĩ thì làm đếch gì nhau nào, và gọi với theo anh ta, “ ‘Ê, hôm nay là đám cưới em gái tôi mà’,” anh ta giận dữ nói. “Ồ, thế à?” Seth nói. “Em gái cậu lấy chồng à?” “ ‘Và khi ông chủ bảo tôi bấm nút một gã’,” Benny nói tiếp, “ ‘thì tôi bấm nút’.” Seth tròn mắt nhìn anh ta. “Hay lắm,” anh ta nói. Anh ta gật đầu. Rồi anh ta bỏ đi.

Đến buổi chiều Carter Shilling tới ngăn của anh ta, và Benny không nghĩ anh ta có thể tiếp tục nếu như anh ta phải nói chuyện với Carter, gã sếp luộm thuộm, mắt lác của anh ta. Rít the thé hoặc sủa ông ổng, đó là hai cách mà Carter giao tiếp, và hiện tại thì anh ta đang sủa ông ổng, gầm rú về việc khách hàng mới thật là ngu xuẩn khi đi yêu cầu những thay đổi ngu xuẩn đến thế đối với quảng cáo của họ. Suốt một hồi lâu Benny không phải nói một từ nào. Cuối cùng Carter nhìn anh ta và hỏi xem anh ta có đồng ý rằng khách hàng thật ngu xuẩn không. “ ‘Tôi nghĩ giá kể chúng ta có một quân sự thời chiến’,” Benny nhận ra anh ta đang trả lời với giọng rất nhỏ, “ ‘chúng ta đã không rơi vào mớ bung bét này’.” Carter chằm chằm nhìn anh ta và hỏi đó có phải là ám hiệu của điều gì khác không. “Cậu đang nói là chúng ta có lỗi trong chuyện này à?” Carter hỏi.

“Thế là tớ thề có Chúa, Jim ạ,” Benny nói, “tớ mới lấy vẻ mặt nghiêm túc nhất, anh bạn ạ, chẳng qua chỉ là làm ra vẻ thế thôi, tớ nhìn thẳng vào mắt anh ta rồi nói, ‘Carter, chuyện kiểu này phải xảy ra khoảng năm năm một lần. Giúp loại bỏ máu xấu.’ Và cả hai chúng tôi, cùng một lúc, đều nhìn xuống bức quảng cáo, mà khách hàng mới xé nát thành từng mảnh, và anh ta bảo tôi, ‘Ừ,’ anh ta nói, ‘tôi nghĩ thế.’ Cứ như thể điều tôi vừa nói có ý nghĩa gì đó lắm. ‘Vậy thì cứ tự động thay đổi đi,’ anh ta nói. ‘Tôi đếch thèm quan tâm nữa đâu.’ Và rồi anh ta hầm hầm ra khỏi phòng tôi. Đúng là...”

Đúng lúc đó hai người bị ngắt lời bởi chính Carter Shilling khi anh ta tình cờ đi qua phòng Jim trên đường đến cuộc họp. “Cậu không phải là Jim,” anh ta rít lên, chỉ tay vào Benny. “Cậu mới là Jim,” anh ta nói, chỉ tay vào Jim. “Trò hoán đổi kiểu gì đây?”

“Chết tiệt, Jim,” Benny thốt lên, búng ngón tay đánh tách kiểu thôi-xong-rồi. “Anh ấy phát hiện ra rồi.”

Với vẻ mặt hầu như không đổi, Carter gật đầu tỏ vẻ bật cười. Anh ta thể hiện rất nhiều cảm xúc của mình bằng một cái gật đầu. Anh ta quay đi khỏi Benny. “Cậu có đi họp không?” anh ta hỏi Jim.

“Đang đi đây,” Jim nói.

“Jim, đúng là lố bịch,” Benny nói, ngay sau khi Carter đã đi khỏi.

“Benny, đừng nói với Carter kiểu đó.”

“Tớ nhớ Joe Pope,” Benny nói.

“Cậu vẫn chưa giải thích tại sao Marcia lại phát điên lên với cậu,” Jim nói.

Benny phải nói là quá sẵn lòng tiếp tục câu chuyện từ cái đoạn anh ta buộc phải bỏ dở khi Carter xuất hiện. Anh ta kể với Jim rằng cứ thế đến buổi chiều, sứ mệnh của anh ta trở nên phức tạp hơn. Trí nhớ của anh ta về những câu thoại trong Bố già đang bị bòn rút nặng nề, và vào khoảng ba giờ chiều, Marcia bắt đầu gọi cho anh ta với tần suất khác thường, gần như cứ mười phút một. Benny không thể dùng điện thoại vì sẽ không thể nào tuân thủ các quy tắc của trò chơi qua điện thoại, nên anh ta để mặc nó đổ chuông và rồi kiểm tra hộp thư thoại xem có tin nhắn không. Nhưng Marcia không để lại tin nhắn.

“Tớ đã kể cho cậu nghe về cánh anh em trai của cô ấy rồi, đúng không?” anh ta nói với Jim.

“Rằng họ chén người Do Thái cho bữa tối.”

“Đúng rồi,” Benny nói. “Ngay cả thằng út cũng thực sự là một cái xà beng. Đám cưới sẽ là... tên của mấy dòng họ đó là gì nhỉ, trong Romeo và Juliet ấy?”

“Nhà Montague và nhà Capulet,” Jim nói.

“Nhà Montague và nhà Capulet,” Benny thốt lên. “Chính xác là như thế. Làm sao mà cậu biết?”

“Tớ theo học một khóa về Shakespeare mùa hè vừa rồi,” Jim nói. “Kiểu như học học nữa học mãi.”

“Không đùa chứ?” Benny nói, “Vậy đấy, lễ cưới sẽ giống như nhà Montague và nhà Capulet. Chỉ trừ cái là nhà Montague sẽ không có kiếm, họ sẽ có hàng đặc biệt tối thứ Bảy[55], cậu biết đấy, còn nhà tớ, nhà tớ sẽ chỉ có bộ kinh Torah và bất kể mảnh vỡ nào chúng tớ có thể thu gom được từ nghi thức đập vỡ cốc[56]. Muốn ra sao thì ra,” anh ta nói.

Anh ta để mặc điện thoại văn phòng của mình đổ chuông suốt phần còn lại của buổi chiều, băn khoăn tại sao Marcia gọi điện mà không để lại tin nhắn, và chỉ trả lời điện thoại di động sau khi đã kết thúc ngày làm việc và ra khỏi tòa nhà. Khi cuối cùng anh ta cũng bắt máy, Marcia đang trong cơn tam bành. Cậu em trai út của cô đã dính vào một vụ ẩu đả - cậu ta vẫn còn là học sinh lớp 10 trường trung học - và phải được đưa vào một bệnh viện ở Bờ Nam. Mẹ Marcia đang khóc lóc, các anh trai của cô thì đang thề trả thù, còn bố cô đang ngủ bù sau một ca đêm. Marcia đang cố liên lạc với Benny để anh ta có thể giúp cô giải quyết mọi việc. Benny vội vàng chạy tới bệnh viện và hỏi tại quầy trực của y tá xem thằng bé nằm ở phòng nào.

“Khi tớ đến đó, chẳng có ai khác ở quanh cả. Sau mới biết là họ đang nói chuyện với bác sĩ. Tớ bước vào và nhìn qua Mikey trên giường bệnh - Jim, thằng bé bị đập tơi bời. Tay gãy, mắt thâm đen. Vết rách dài trên cằm nó. Nhưng nó vẫn tỉnh táo. Thằng bé sẽ ổn thôi. Và cậu biết tớ đã nói gì không? Tớ không thể nào kiềm chế được. Tớ bước thẳng lại chỗ nó và tớ nói, ‘Em của anh! Xem bọn nó làm gì em trai anh thế này’!”

Sau đó Marcia tìm ra lý do tại sao Benny không nghe điện thoại, và đó là lý do cô nổi điên lên với anh ta. Cô cho đó là một trò chơi thật vô tâm và trẻ con và nó giải thích tại sao anh ta vẫn còn ngồi ở một ngăn chung. “Tại sao anh lại không thể giống Jim hơn được hả?” cô hỏi.

Carter lại ghé qua lần nữa. “Jim, có đi không?”

“Carter,” Jim nói, đứng vụt lên khi nghe thấy giọng của người đàn ông kia. “Đi đây.”

“Jim, đúng thật là lố bịch,” Benny nói, ngay khi Carter đã khi khỏi.

“Tớ phải tham dự cuộc họp này,” Jim nói.

Anh ta thu gom chút giấy tờ trên bàn và Benny bị bỏ ngồi lại một mình ở phòng làm việc của người khác. Anh ta đang cố quyết định xem có nên đứng dậy hay không - anh ta tự nhủ có một số việc anh ta có thể làm khi quay về ngăn của mình, nếu như Ian không chen ngang vào - thì Jim lại hiện ra trên ngưỡng cửa. “Vậy bây giờ thì sao đây?” anh ta hỏi.

“Ý cậu là sao cơ?”

“Ý tớ là nếu như cậu qua được với những câu thoại từ Bố già, và chẳng điều gì cậu nói ra là quan trọng cả, như thế thật thê thảm, cậu có nghĩ thế không? Chẳng phải chúng ta muốn những điều chúng ta nói ra có sức nặng sao?”

Benny xoay êm ru trên chiếc ghế không phải là của anh ta và trao cho Jim một cái nhìn ngỡ ngàng, bối rối. Anh ta gỡ ngón tay ra và xòe mở hai bàn tay thành một cái nhún vai. “Có chuyện gì vậy, Jim, cậu bị làm sao thế? Tớ chỉ đùa chút cho vui thôi mà.”

“Cậu không muốn mọi người coi trọng cậu sao, Benny?”

“Nhưng tại sao cậu lại phải diễn giải như thế làm gì? Tại sao Marcia phải hỏi tớ tại sao tớ không thể giống như cậu hơn, và tại sao Michael không thể ngồi nghe chuyện của tớ lấy mười phút ngu ngốc chứ? Chuyện gì xảy ra với các người vậy? Tất cả các người đều nghiêm túc quá thể.”

Jim đứng yên trên ngưỡng cửa, lặng thinh và lãnh đạm. “Tại sao cậu lại giữ cây cột tô tem của lão Brizz vậy?” cuối cùng anh ta nói.

“Gì cơ?” Benny nói. “Cậu đang nói chuyện gì vậy? Tớ có giữ đâu. Tớ cho nó đi mà.”

“Không, cậu đã giữ nó trong kho suốt sáu tháng. Tại sao cậu lại làm như vậy?”

“Chuyện này ở đâu ra vậy hả?”

“Từ trước đến giờ tớ vẫn luôn muốn biết.”

“Nhưng tại sao cậu lại lôi nó ra lúc này?” Benny hỏi.

“Cậu có nghĩ,” Jim nói, “là lão đang cố truyền đạt điều gì đó với cậu không?”

Benny ngừng xoay và ghì lấy tay vịn ghế của Jim. “Như thế nào cơ?”

“Tớ không biết,” Jim nói. “Tớ đang hỏi cậu mà.”

“Có thể là lão chỉ giở trò chơi khăm tớ thôi. Có thể lão biết tớ để lão ở trên cùng trong Danh sách Nhân vật Nổi tiếng Sắp chết.”

“Có thể,” Jim nói. “Nhưng Brizz đâu phải là người hay chơi xỏ nhỉ.”

Benny gật đầu đồng tình. “Không, lão không thế.”

“Và cuối cùng hóa ra thì cái của đó đáng giá cả đống tiền,” Jim nói thêm. “Để lại cho một người khác rất nhiều tiền không phải là một trò chơi xỏ thâm nho gì.”

“Không, không phải.”

“Vậy tại sao cậu lại giữ nó? Tại sao cậu lại giữ nó suốt sáu tháng?”

“Nó có ý nghĩa gì đó đối với tớ, tớ nghĩ thế.”

“Ý nghĩa gì?”

“Tớ không biết,” Benny nói.

“Cậu không biết?”

“Tớ biết và tớ không biết,” Benny nói. “Cậu có hiểu ý tớ không?”

Jim cắn bên trong má của anh ta. Anh ta chậm rãi gật đầu ra vẻ buông xuôi một cách đầy tôn trọng.

“Hank Neary,” cuối cùng anh ta nói, rồi lắc đầu. Anh ta nói lại lần nữa, “Hank Neary.” Rồi anh ta giơ hai tay lên và bỏ ra ngoài hành lang đi họp.

Một số người không bao giờ quên những người nhất định, một vài người lại nhớ tất cả mọi người, và hầu hết chúng tôi phần lớn là sẽ bị quên lãng. Đôi khi thế hóa ra lại là tốt nhất. Larry Novotny muốn được quên lãng vì vụ chim chuột của anh ta với Amber Ludwig. Tom Mota muốn bị quên lãng vì cái vụ liên quan đến những viên đạn sơn. Nhưng có ai lại muốn bị quên lãng hoàn toàn chứ? Chúng tôi đã cống hiến nhiều năm tháng cho cái nơi đó, chúng tôi lao động với niềm tin mơ hồ rằng chúng tôi đang tạo dựng tên tuổi cho chính mình, trong thâm tâm chúng tôi phải tin tưởng rằng mỗi người trong chúng tôi đều đáng được nhớ đến. Và làm gì có ai lại muốn được nhớ đến vì cái gu kém cỏi hoặc hơi thở nặng mùi? Ấy thế nhưng tốt nhất là được nhớ đến bởi những điều đó còn hơn là bị quên lãng bởi sự nhạt nhẽo thô sượng hoàn hảo của mình.

Nói cách khác, sự ân xá là một món quà, nhưng sự lãng quên lại là một nỗi kinh hoàng.

Hầu hết chúng tôi nhớ một cách chung chung người này người kia, những đặc điểm của họ bị phóng đại lên bởi ký ức, tên tuổi họ bị mất đi vĩnh viễn, về những người khác chúng tôi chỉ có thể gọi lên những nét phác họa chung mờ nhạt nhất, như thể thay vì đã bước qua họ ngoài hàng lang đến cả trăm lần mỗi ngày, chúng tôi mới chỉ chạm mặt họ trên mây có một lần, lúng búng buông một câu chào lịch sự, và đi tiếp. Năm thì mười họa lắm, mỗi chi tiết ngẫu nhiên - giọng nói, nơi có nốt ruồi - bỗng bất ngờ rạch giời rơi xuống. Mỗi lần như thế lại là một cảm giác thật quái đản. Và rồi lại còn có một số người mà một số người chúng tôi không thể nào rũ khỏi. Janine Gorjanc không thể nào rũ bỏ ký ức về đứa con đã mất của chị. Benny không thể rũ bỏ Frank Brizzolera vì Frank đã chết và để lại cho anh ta một cây cột tô tem. Ông chú Max không bao giờ quên được bà Edna của mình.

Về phần chúng tôi, đó không bao giờ là một điều lo lắng. Chúng tôi sẽ không bao giờ bị lãng quên bởi bất kỳ ai.

“Anh đúng là đần,” Marcia nói với Benny cuối ngày hôm đó. “Làm sao anh lại có thể quên được Hank Neary nhỉ?”

Benny hộc tốc chạy tới cửa phòng Jim. “Thằng cha da đen ấy!” anh ta thốt lên. “Hay mặc áo vest nhung tăm!”

“Chậc chậc, bạn ơi! Tôi đã muốn nói với cậu điều đó mà!” Jim nói. Anh ta đang đọc email của Hank, bức thư cũng đã được gửi đến cho anh ta, tới một tài khoản email mà anh ta ít khi kiểm tra. “Mặt anh ta vừa mới hiện lên trong đầu tớ,” anh ta nói. “Làm sao mà chúng ta lại có thể quên được Hank, Benny nhỉ?”

“Tớ không biết,” Benny trả lời. “Tớ nghĩ cũng là chuyện thường mà.”

Mọi người đều đã nhận được cùng một bức email như Benny và Jim và tất cả chúng tôi đều băn khoăn bằng cách nào mà Hank lần ra được chúng tôi, vốn đã tan tác như bây giờ. Hầu hết chúng tôi đều nhớ anh ta rất rõ và nhận ra tên anh ta ngay lập tức, bởi vì đâu phải ngày nào bạn cũng được làm việc cùng một gã da đen ăn mặc như một đại thi hào ở Oxford. Chúng tôi thường đùa rằng thứ duy nhất còn thiếu là một cái tẩu cặp giữa hai hàm răng trong lúc anh ta dành mối quan tâm to lớn đến sự lụi tàn từ từ của thể thơ ngũ ngôn Hy Lạp. Nhưng không, anh ta không phải là một nhà thơ, anh ta là một tiểu thuyết gia thất bại, và khi chúng tôi nhận được email của anh ta thì cũng giống như nghe thấy rằng một trong những kịch bản của Don Blattner đã được lựa chọn bởi Warner Brothers và George Clooney sẽ đóng vai chính. Hóa ra là Hank vừa mới xuất bản một cuốn sách, và buổi đọc sách của anh ta sẽ diễn ra tại một hiệu sách trong khuôn viên Đại học Chicago. Chúng tôi thấy ngỡ ngàng và ngờ vực.

Chúng tôi nhét chật kín cả khán phòng. Chúng tôi chưa kịp có đủ thời gian để chào hỏi tất cả mọi người khi anh ta xuất hiện, sách trên tay, cùng với một quý ông lưng còng và để râu, vị này bước lên bục giới thiệu anh ta. Ông ta có nhiều điều tốt đẹp để nói về Hank, chúng tôi nhận thấy ánh mắt ngượng nghịu và lảng tránh của anh ta trong khi vị kia nói. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng thay cho cái áo vest nhung tăm, bây giờ Hank mặc một cái áo phông trắng đơn giản hiệu Fruit of the Loom làm nổi bật lên hai cánh tay ngăm đen lòng khòng và thân hình như trai trẻ của anh ta. Không còn cặp kính tổ chảng trông mặt anh ta gầy mảnh hơn, đẹp trai hơn. Anh ta mặc quần jean và đeo thắt lưng màu đen giản dị. Vẻ ngoài của anh ta nhìn khá khẩm hơn hẳn, và chúng tôi hài lòng nhận thấy là anh ta đã vượt qua giai đoạn bắt chước làm ra vẻ đạo mạo kỳ quặc của mình. Tuy hồi đó chúng tôi không nói ra, nhưng dường như nó chẳng bao giờ phù hợp cả.

Trong khi màn giới thiệu bắt đầu, chúng tôi nhìn quanh một số khuôn mặt quen thuộc. Amber Ludwig ngồi ở cuối hàng thứ ba với một đứa bé trong lòng, con bé miệt mài chơi với một con búp bê trần truồng bẩn thỉu. Đứa bé tội nghiệp có nét nam tính của Larry, nhưng lại mang thân hình mập mạp như hải cẩu của Amber. Bản thân Larry Novotny thì ngồi ở phía sau, một mình, giấu mặt dưới một chiếc mũ lưỡi trai Cubs mới tinh. Dan Wisdom ngồi cạnh Don Blattner, và bên tay phải, ở hàng ghế đầu, Genevieve Latko-Devine ngồi cạnh chồng cô. Anh ta đang ôm một đứa bé vào sát ngực mình, đứa bé bỗng nhiên ré lên một tràng những tiếng khóc không hài lòng. Phản ứng rất nhanh, anh ta chuyển đứa bé trên tay, nhẹ nhàng xoa lưng nó và chẳng mấy chốc đứa bé đã ngủ trở lại.

Mọi người đều vỗ tay khi Hank đứng lên và ra đứng trước bục. Chúng tôi hơi chộn rộn một chút sau mấy tiếng lụp bụp của mirco. Anh ta điều chỉnh lại mic, trao cho chúng tôi một nụ cười ngượng nghịu, và bắt đầu nói với giọng run rẩy đầy dễ thương. Chúng tôi có thể thấy là anh ta đang hồi hộp. Cùng một lúc, những cơn trào dâng dữ dội của cảm xúc xung đột tràn ngập trong chúng tôi. Một người trong chúng tôi đã thành công; chúng tôi tự hào, choáng váng, ghen tị, ngờ vực, thờ ơ một cách mơ hồ, chỉ chực vồ lấy bóng dáng đầu tiên của sự kém cỏi, và thực lòng mừng cho anh ta. Tất cả chúng tôi đều đúng là như vậy và còn hơn thế. Trước khi ngồi xuống, nhiều người trong chúng tôi đã lấy những bản sách của anh ta ra khỏi giá trưng bày, và giờ đây chúng tôi lật giở qua để soát lỗi. Chúng tôi đọc trang cảm ơn để xem anh ta cảm ơn những ai. Mà nó về cái gì ấy nhỉ? Và ai mà có thời gian đọc sách khi làm việc từng ấy tiếng đồng hồ như chúng tôi chứ? Chúng tôi phải tự bắt mình dừng lại và tập trung chú ý, vì anh ta đã kết thúc phần cảm ơn chúng tôi vì đã tới và đang mở cuốn sách ra để đọc.

“ ‘Đêm trước’,” anh ta bắt đầu. Bỗng nhiên anh ta ngừng lại. Cả phòng im phắc vì hồi hộp. Anh ta đang bíu chặt lấy cái bục với bàn tay trắng nhợt và chằm chằm nhìn xuống như thể đang cố nhớ xem phải thở bằng cách nào. Anh ta hắng giọng. Anh ta nhấp một ngụm nước. Cốc nước run rẩy trên tay anh ta. Rồi anh ta thở một hơi thật sâu và tiếp tục.

“ ‘Đêm trước ca mổ’,” anh ta bắt đầu trở lại, trước sự thở phào nhẹ nhõm của chúng tôi, “chị chẳng có bữa tiệc nào của hiệp hội phải đến dự, không có những buổi lễ trao thưởng nào, không có những họp mặt kết giao. Chị bất chợt nảy ra một kế hoạch ở ghế sau chiếc taxi khi chị bước lên yêu cầu tài xế đi theo đường Inner Drive. Chị hình dung ra chiếc ghế sofa của mình, hai con mèo, gọi món gì đó ngon lành về nhà, và một chai rượu vang mà chị vẫn để dành. Họ yêu cầu ta không được ăn bất cứ thứ gì trong vòng mười hai tiếng đồng hồ trước đó, nhưng nói thật nhé, như thế quá là vô lý, đúng không nào - cơ hội cuối cùng cho ta được ăn một bữa bình thường trong biết bao lâu chứ?”

Căn phòng yên lặng ngoài một vài tiếng ồn khe khẽ vẳng lại từ những bàn đăng ký đằng xa và giọng độc thoại mỏng mảnh của Hank, được kích bởi chiếc micro, làm tôn lên những loáng thoáng ngôn từ êm ái như gió thoảng được hình thành trong cái miệng khô khốc của anh ta. Chúng tôi hồi hộp thay cho anh ta đến nỗi mà, sau khi anh ta đã bắt đầu trở lại, thật khó mà tập trung được vào những gì anh ta đang nói. Chúng tôi chỉ cảm thấy mừng khi thấy là anh ta sẽ không bị ngất.

Anh ta đổi thế đứng từ chân này sang chân kia, thả lỏng hai cánh tay một chút, và bắt đầu đọc với một nhịp điệu khoan thai, dễ chịu hơn. “ ‘… sẽ tốt hơn nếu đi xem phim với một ai đó. Đi một mình, luôn có khoảng mười phút khó xử giữa lúc ta đến và lúc họ giảm bớt ánh sáng để chiếu phần giới thiệu khi mà dù biết là vô lý ta vẫn tin rằng tất cả mọi người trong rạp đang chằm chằm nhìn ta bởi vì’…”

Chúng tôi tiếp tục nhìn quanh tìm những khuôn mặt quen thuộc. Benny Shassburger tròn ủng và Jim Jackers mặt tàn nhang ngồi cùng nhau, và giữa họ, Marcia Dwyer với kiểu tóc hơi lạc mốt. Carl Garbedian ngồi kia với Marilynn. Khó lắm mới nhận ra anh ta. Cái bụng phệ của anh ta đã biến mất và anh ta lại còn rám nắng như một quả hạnh nhân. Anh ta mặc một cái áo vest vải thô màu xanh tím than với áo sơ mi để hở cổ và anh ta đã làm gì đó với tóc của mình. Chân anh ta vắt chéo nhau, anh ta đang hướng về Hank với vẻ rất tò mò, hoàn toàn yên lặng, lắng nghe.

“ ‘… bước dọc hành lang về phía phòng của một cộng sự. Chẳng lẽ chị lại đang thực sự khát khao được là một phần của điều đó? Chẳng lẽ chị sẵn sàng đánh đổi những không gian sáng choang và rộng rãi đầy ắp những mẫu giày dép, thời trang, rồi nước hoa và phụ kiện tốt nhất thế giới này’…”

Karen Woo có mặt ở đó, chúng tôi có những cảm giác lẫn lộn về điều này. Chúng tôi không thấy bóng dáng Chris Yop đâu cả. Có vẻ như anh ta không bao giờ tha thứ cho chúng tôi về vụ xem thường ngày xửa ngày xưa ấy. Cũng không thấy cả Tom Mota đâu, và chúng tôi đoán có lẽ gã đang ở trong nhà tù đâu đó cố gắng thuyết phục các giám thị cho phép gã trồng cà chua dọc theo rìa sân bóng rổ. Janine Gorjanc đã thay đổi. Chị mặc một chiếc quần da thay vì chiếc quần jean bạc phếch, đi kèm với một chiếc áo khoác da. Những chiếc khuyên tai bạc lủng lẳng, chắc có lẽ được làm ở Santa Fe, lấp lánh cạnh tóc chị, mái tóc mà chị đã để cho mọc dài và ngả màu xám. Trước phần đọc sách, chị đã giới thiệu chúng tôi với bạn trai mình. Anh ta cũng mặc một áo khoác da và khoe một chòm ria mép rậm rạp kiểu ghi đông xe đạp. Tên anh ta là Harry và anh ta đã bắt tay chúng tôi một cách thẹn thùng hơn rất nhiều so với những gì bộ mặt lông lá của anh ta thể hiện. Họ đã phóng đến buổi đọc sách trên chiếc Harley Davidson của Harry và cả hai đều đội mũ bảo hiểm màu đen kiểu cổ giống như những chiếc mũ được đội trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Kể ra cũng thật kỳ lạ khi thấy là giờ đây Janine tham gia vào giới chơi motor. Khi buổi đọc sách bắt đầu, chị và Harry chọn chỗ cho mình ở một trong những hàng ghế sau.

“ ‘... vào bên trong - nơi này có một bầu không khí thoáng đãng, vang vọng, nghe ầm ì những giọng nói khe khẽ, và tiếng bước chân trên những bậc thang cẩm thạch mà chị có thể nghe rõ từng tiếng một. Anh tháo tấm băng che mắt ra và họ dành một giờ’…”

Giá kể Brizz Già mà có mặt ở đó, có lẽ lão đã lẩn ra ngoài giải lao hút thuốc, vì buổi đọc sách của Hank đang diễn ra lâu hơn chúng tôi dự kiến. Chúng tôi đã hoàn toàn chẳng còn tập trung gì nữa. Những mối lo toan muôn thuở đã xâm chiếm lấy chúng tôi - những lo lắng gia đình, các dự án đang triển khai ở chỗ làm, kỳ nghỉ cuối tuần và những gì ẩn chứa trong nó, điều gì đó buồn cười được nói tại bữa trưa, chất thiên tài trong luật “infield fly rule” của môn bóng chày, cái áo khoác kia đẹp quá, cô ta đi đôi giày xấu tệ, thực sự là có thể làm một chầu - đủ thứ cả. Giọng nói đều đều, khẽ khàng của Hank lơ lửng trên đầu chúng tôi giống như những đám mây đang lững lờ trôi qua đỉnh các tòa nhà.

“ ‘... ngắm nhìn bầu trời mở ra từ cửa sổ phòng mình, cảnh tượng thật huy hoàng, nhất là sau tất cả những công việc mà chị vừa hoàn thành’…”

Và chúng tôi không thể nào ngừng tự hỏi Joe Pope có thể đang ở đâu. Anh ta vẫn luôn tỏ ra có cảm tình với Hank. Kể cũng lạ khi không thấy anh ta lộ diện và ủng hộ Hank như đám chúng tôi. Và rồi chúng tôi nghĩ, chờ một phút đã nào. Chẳng lẽ năm năm trời lại nghiệt ngã với ký ức của chúng tôi đến nỗi chúng tôi có thể quên mất được là phải tìm Joe Pope ở đâu vào giờ đó sao? Anh ta vẫn đang ở văn phòng, tất nhiên rồi, làm việc.

Cuối cùng Hank gấp cuốn sách của anh ta lại và nói, “Cảm ơn các bạn.” Chúng tôi vỗ tay hưởng ứng.

Sau khi buổi đọc sách kết thúc, chúng tôi đi loanh quanh. Chúng tôi mua sách của Hank. Chúng tôi tới chúc mừng anh ta. Tất cả chúng tôi đều hết bắt tay lại ôm và anh ta ký tặng vào sách của chúng tôi với những lời chúc may mắn riêng. Một người hỏi anh ta cuốn sách này có phải cũng chính là cuốn sách anh ta đã nói đến trong thời gian chúng tôi còn ở cùng nhau không, cuốn sách nhỏ, giận dữ của anh ta về công việc. Nhờ bị cho nghỉ việc và bắt buộc phải đi tìm chỗ làm mới, chúng tôi đã phát hiện ra rằng mỗi công ty đều có tay copywriter bất mãn mà trong đời thực là một tiểu thuyết gia thất bại đang bắt tay vào viết một cuốn sách nhỏ, giận dữ về công việc. Công việc là một chủ đề được tôn thờ đối với một số đồng nghiệp của chúng tôi, nhưng không giống như Don Blattner, kẻ muốn tất cả mọi người đều đọc những kịch bản của anh ta với điều kiện họ ký cam kết giữ bí mật, cánh nhà văn viết sách lại tỏ ra kín kẽ hơn nhiều, và thường là giấu biệt. Những áng văn thê thảm nằm lặng câm bên trong các ngăn kéo bàn. Những lưỡi rìu được mài đẹp đẽ tan chảy trong lò sưởi. Chúng tôi cảm kích thay cho cả thế giới.

“Không,” Hank trả lời. “Đây là cuốn sách khác.”

“Chuyện gì đã xảy ra với cuốn cũ vậy?” ai đó hỏi. Hồi đó anh ta tham vọng với nó thế cơ mà.

“Cuốn đó bị bỏ đi như một con chó già ốm,” anh ta nói. “Nhưng còn các cậu thì sao?” bỗng nhiên anh ta hỏi và nhìn quanh. “Các cậu có gì mới nào?”

Chúng tôi có thể thấy là anh ta đang thiết tha muốn chuyển ánh đèn sân khấu khỏi cuốn tiểu thuyết thất bại của mình sang một chủ đề gì khác, vì vậy Benny và Marcia thông báo rằng họ sẽ kết hôn vào mùa thu.

“Nếu anh ấy không làm tôi nổi điên trước lúc đó,” cô ta nói, và nhìn Benny âu yếm.

Cô ta đeo một chiếc nhẫn kim cương khiêm tốn đến khổ sở và luồn tay mình qua tay Benny trong lúc Benny chia sẻ cái tin không kém phần bất ngờ rằng, xét ở mọi khía cạnh, Jim Jackers là sếp mới của anh ta.

“Các cậu có tin được không hả?” anh ta nói. “Chính anh chàng này đây!”

Anh ta quàng tay quanh người Jim và cúi đầu xuống như thể Jim đang chuẩn bị trao cho anh ta một cái vò đầu. Jim nhướng mày lên tỏ vẻ đầu hàng một cách lặng lẽ và khiêm tốn và trong giây lát ba bọn họ, Marcia và Benny cùng Jim, đan vào nhau như thể họ là một gia đình nhỏ.

Carl kể cho chúng tôi nghe những chi tiết về công ty phong cảnh của anh ta, Garbedian và Con trai, một cơ sở khiêm tốn. “Thôi nào, hãy nói thật đi,” Marilynn nói. Cô quay sang Hank, “Nó là một hiện tượng, phải nói như thế mới đúng.” “Thật vậy à, Carl?” Hank hỏi. Tất cả chúng tôi đều giục Carl kể nhiều hơn cho chúng tôi. Cuối cùng anh ta thừa nhận, “Chúng tôi đang hoạt động ở khoảng hai mươi khu ngoại ô.” Chúng tôi nghĩ bụng, Mẹ khỉ! Hai mươi khu ngoại ô? Thằng cha này chắc phải cào về khối. “Nhưng anh vẫn không phải là bác sĩ, đúng không?” chúng tôi chắc mẩm Jim sẽ nói thế, nhưng anh ta không hề nói điều gì như vậy, và điều đó thậm chí dường như còn không có trong tâm trí của Carl. Anh ta đang mỉm cười và gật đầu và tay anh ta quàng quanh người Marilynn như thể công việc thiết kế phong cảnh đã thay đổi cuộc đời anh ta vậy.

Amber giới thiệu chúng tôi với Becky, đứa bé bẽn lẽn trốn sau cái chân lừng lững của mẹ nó. Chúng tôi nhìn quanh tìm Larry, nhưng anh ta đã biến mất. Chúng tôi tránh chủ đề đó bằng cách tập trung vào đứa bé. Cuối cùng chúng tôi quay trở lại câu chuyện người lớn, và đó là khi Becky ra khỏi phía sau chân Amber và lại gần Benny. Con bé có vẻ thích thú với việc giới thiệu anh ta với con búp bê trần truồng và dính đất của mình. Anh ta cúi xuống làm quen với nó. Mọi người cũng chúc mừng Genevieve về đứa con của cô, và chồng cô trả lời thay vợ khi chúng tôi hỏi đứa bé bao nhiêu tuổi (mười tháng) vì Genevieve và Amber đang mải mê với những câu chuyện về việc làm mẹ.

Điều hài hước về bản thân công việc là ở chỗ nó mới thật dễ chịu đựng làm sao. Ngay cả công việc kinh khủng nhất cũng hoàn toàn có thể chịu đựng được. Nó mang lại những thách thức để vượt qua, sự khuây khỏa do cảm giác cấp bách đem đến, và sự hài lòng khi hoàn thành một nhiệm vụ - vào bất kể ngày nào, những điều này làm cho công việc trở nên cực kỳ, thậm chí là vô cùng dễ chịu. Điều mà chúng tôi kêu ca, điều mà chúng tôi không thể nào để yên nổi, điều khiến chúng tôi bị phân tâm và xâm chiếm chúng tôi bằng cơn điên cuồng mù quáng, là người này hay người kia, những kẻ hết giày vò, quấy quả rồi lại xúc phạm các thiên thần trên thiên đường, những kẻ toàn mặc quần áo xấu mù và đánh tráo lên chúng tôi những đặc điểm không thể nào chịu nổi của họ, những kẻ chẳng xứng đáng được hưởng bất kỳ điều gì từ Đức Chúa công minh ngoài lòng khinh bỉ vì họ thật nhạt nhẽo, thô thiển, dai dẳng đến tàn ác, chẳng hề biết gì trước nguồn ân sủng lớn lao. Và có thể thế, vâng, có thể thế. Nhưng khi chúng tôi đứng đó, chúng tôi phải khó khăn lắm mới nhớ được những chi tiết cụ thể, bởi vì tất cả mọi người dường như mới thật dễ thương làm sao.

Theo đề nghị của Benny chúng tôi kéo đi uống một chầu. Có một quán Ireland gần đó và chúng tôi kéo bàn lại gần nhau rồi Carl Garbedian bao chầu đầu tiên, thế cũng là đúng thôi xét đến hai mươi khu ngoại ô của anh ta, và chúng tôi nâng cốc chúc mừng Hank cùng thành công của anh ta, rồi chúng tôi nói về những niềm nuối tiếc và về quãng thời gian cũ cũng như sung sướng nhớ ra rằng không phải tất cả đều là khổ ải. Đến khi chúng tôi đã giải quyết xong chầu đầu tiên, chúng tôi có lý do để nhớ ra rằng Benny đã từng là một người kể chuyện rất hay, và Jim Jackers là người suốt ngày bị mang ra làm trò cười, còn Genevieve là một niềm khoan khoái để ngắm nhìn. Và Lynn Mason, tất cả chúng tôi đều đồng ý, là người sếp tốt hơn bất cứ ai mà chúng tôi tìm thấy từ hồi đó đến giờ. Bên cạnh Harry Ghi đông, người đi ngược lại những kỳ vọng nhậu nhẹt của chúng tôi bằng cách gọi một tách cà phê đã lọc caffein, Janine ngồi nhấm nháp ly nước việt quất ướp lạnh quen thuộc của chị, cảnh tượng không hiểu sao thật dễ chịu. Chị với tay ra vỗ nhẹ lên tay Hank. “Tôi đã đọc cuốn sách của cậu, Hank,” chị nói.

“Ồ,” Hank nói. “Cảm ơn chị.”

“Nó viết về Lynn, đúng không?”

“Ừm,” anh ta nói. “Một phần cuốn sách dựa trên Lynn, vâng.”

Chúng tôi không thể tin nổi điều đó. Cuốn sách của anh ta là về Lynn sao?

“Và đúng như thế à?” chị hỏi.

“Cuốn sách à? Không, cuốn sách là... phần nào cơ?”

“Phần nào cũng thế.”

“À, tôi ghé thăm chị ấy vài lần trong bệnh viện,” anh ta nói.

Chờ một phút đã, chúng tôi nghĩ, chờ một phút đã nào. Anh ta đã vào thăm chị ấy trong bệnh viện sao?

“Trong cuốn sách đầu tiên mà tôi cố viết,” anh ta giải thích, “cuốn sách mà tôi đã bỏ đi ấy, tôi xây dựng một nhân vật dựa trên Lynn, và tôi biến nhân vật đó thành một bạo chúa. Tôi chủ ý làm thế, bởi vì bất cứ ai là sếp trong cuốn sách đó phải là một bạo chúa. Bất cứ ai tin vào những điều tốt đẹp của chủ nghĩa tư bản, và những công ty hủy hoại linh hồn, và làm việc làm việc làm việc - tất cả những cái đó - thì tất nhiên là người đó không xứng đáng có bất kỳ sự thông cảm nào. Nhưng khi tôi quyết định cho giải tán cuốn sách đó, ơn Chúa, và viết một thứ gì đó khác, tôi biết chị ấy đang bị ốm, thế nên tôi vào thăm chị ấy. Cũng chỉ là cho vui thôi. Vì tôi có biết gì về chị ấy nào? Không gì hết, thực sự như thế. Tôi không biết chị ấy - không theo một cách đáng kể nào. Và hóa ra chị ấy lại rất cởi mở trò chuyện với tôi, không chỉ về bệnh tật của chị ấy, mà còn cả về đời sống riêng tư của chị ấy, rất nhiều thứ khác nữa. Lúc đó chị ấy đang sắp chết...”

Jim Jackers ngắt lời anh ta. “Ý anh là sao?”

“Lynn chết vào mùa hè năm 2003,” Hank trả lời. “Vì ung thư buồng trứng.”

“Và tôi là người duy nhất không biết điều đó?” Jim hỏi và nhìn quanh.

“Và tôi nghĩ chị ấy biết mình sắp chết,” Hank nói tiếp, “và ở góc độ nào đó, tôi cũng nghĩ là chị ấy hy vọng tôi sẽ viết được gì đó đáng giá một chút, về điều này thì tôi có thể nói thật với các bạn, tôi đã không làm được. Tôi có thể bảo đảm với các bạn là tôi đã không làm được. Nhất là với những phần viết về chị ấy.”

Janine phản đối. “Tôi đã đọc cuốn sách,” chị nói. “Tất nhiên là cậu đã làm được.”

“Hãy tin tôi,” Hank nói với chị. “Tôi không làm được lấy một nửa đâu.”

Genevieve và chồng cô ra về vì họ phải cho đứa bé đi ngủ, rồi chúng tôi còn mất cả Amber và Becky nữa. Benny không muốn cho họ đi - tất cả những cửa sổ của anh ta đều mờ sương hoài niệm - nhưng họ nhất quyết là họ phải về nhà. Anh ta yêu cầu là tất cả những người còn lại trong chúng tôi phải ở lại, và thế là chúng tôi ở. Vả lại hầu hết chúng tôi đều muốn làm thêm chầu nữa. Marcia tấn công cái hộp nhạc với khoảng một tuần lương và bật hết bản ballad ngọt lịm này sang bản khác thành thử cảm giác như thể chưa một ngày nào trôi qua kể từ khi chúng tôi tan đàn xẻ nghé. Jim Jackers trả tiền chầu tiếp theo, thế cũng là đúng thôi xét đến sự thăng tiến không thể nào lý giải nổi của anh ta trên thang bậc, và thực tế rằng chúng tôi đã phải chịu đựng anh ta suốt những năm tập tọng đó của anh ta.

Chúng tôi nâng cốc để tưởng nhớ đến Lynn Mason và chợt nhận ra chúng tôi đang kể những câu chuyện về chị, chúng tôi chẳng gặp khó khăn gì khi nhớ lại những cuộc chạm trán và đấu khẩu, những cuộc chạm trán với Brizz Già - xét cho cùng thì chị là sếp của chúng tôi cơ mà, và tất cả chúng tôi đều có những trải nghiệm riêng biệt và đáng nhớ của mình với chị. Ví dụ như không ai trong chúng tôi có thể quên cảm giác phấn khích và vẻ vang chúng tôi đã trải qua khi chị tỏ ra thích thú đặc biệt với một ý tưởng nào đó mà một trong chúng tôi đã nghĩ ra, và chúng tôi nhớ với sự chính xác đến bất ngờ đó là quảng cáo cho công việc nào, và cái ý tưởng đó, cùng những lý do chị đưa ra cho sự thán phục của mình. Không có sự tán thành của bất kỳ ai lại có ý nghĩa đối với chúng tôi hơn của chị, và không gì dễ dàng hơn là nhớ lại những lời tán thưởng của chị. Chúng tôi còn nhớ cả những đôi giày đắt tiền và trang nhã của chị, và cái lần chị xuất hiện bên giường bệnh của Carl với một bó hoa thảm hại, và cả việc chị đã đi dán tờ bướm cho Janine cùng tất cả chúng tôi như thế nào khi Jessica mất tích, rồi Jim kể cho chúng tôi nghe câu chuyện ở trong thang máy khi chị nói với anh ta rằng chị từng có thời là một cô gái hula. “Lúc đó chị ấy chỉ nói đùa thôi,” anh ta nói, “nhưng tôi lại cứ đinh ninh là chị ấy nói thật.” Chúng tôi nhớ là mặc dù lúc nào chị cũng tỏ ra khó tính làm sao, rất nhiều điều mà chị nói lại rất buồn cười.

Đến cuối chầu thứ hai, Sandy Green ở bộ phận trả lương nói cô ta phải về nhà, và cả Donald Sato và Paulette Singletary cũng thế. Benny nài xin tất cả họ ở lại. Anh ta muốn nói chuyện về việc hiện tại họ có đang hạnh phúc hay không trong công việc mới của mình, những người mới như thế nào, và họ có điều gì phàn nàn không. “Các cậu biết đấy,” anh ta khích lệ, “so sánh với mọi chuyện trước kia xem thế nào.” Họ ở lại lâu hơn một chút, nhưng khi cuối cùng họ ra về, Benny trông chán hẳn. “Cái câu gì mà Tom Mota thường nói ấy nhỉ, cái câu tống tiễn mà gã thường dành tặng khi có người bỏ về ấy? Có ai nhớ không vậy?”

Không ai nhớ cả.

“Đó là một câu nâng cốc chúc mừng,” Benny nói, “và nó được nói đại loại thế này, ‘Nếu vậy thì chúc cậu may mắn.’ Và rồi gã sẽ nốc hết ly của mình, nhớ không, rồi kiểu như ợ một cái? Và sau đó gã sẽ lại giơ cái ly lên và nói, ‘Và quỷ tha ma bắt cậu đi vì đã ra về, đồ khốn nạn’.”

Mọi người bật cười, mặc dù nói thẳng ra thì cũng không phải câu chuyện đó có gì buồn cười cho lắm - kỳ thực ra là rất không thoải mái. Khi tiếng cười lắng xuống, chúng tôi băn khoăn thành tiếng là chuyện gì đã xảy ra với Tom và tại sao gã không có mặt ở buổi đọc sách.

“Các cậu không biết về Tom sao?” Carl hỏi.

Chẳng ai biết gì hết cả.

“Các cậu có biết là cậu ấy đã gia nhập lục quân không?”

Gia nhập lục quân à? Chắc Carl đang trêu chúng tôi.

“Không, thật đấy.”

“Thôi đi,” Benny nói.

“Không có ai khác nhận được email của Tom à?”

Không ai có thể nói là mình đã nhận được.

“Lạ thật. Cậu ấy thường viết cho tất cả mọi người mà.”

“Thôi đi,” Benny. “Người ta lại để cho gã điên đó gia nhập lục quân sao?”

“Kỹ năng thiện xạ siêu việt,” Carl nói gọn lỏn.

Bỗng nhiên một ý tưởng điên rồ trở nên dường như hoàn toàn có thể.

“Dạo đó cậu ấy đang phải đối mặt với án tù,” Carl tiếp tục, “các cậu biết phần đó rồi. Nhưng vợ cậu ấy, Barb, ra làm chứng cho cậu ấy. Và cả Joe Pope nữa. Đúng thế,” anh ta nói, trước vẻ ngờ vực của chúng tôi. “Và thế là bên công tố quận đồng ý giảm cáo trạng xuống thành cư xử không đúng mực. Sau đó, cậu ấy đến làm việc cho tôi một thời gian. Nhưng không lâu lắm. Cậu ấy suốt ngày nói về việc muốn nhập ngũ - sau tất cả những gì đã xảy ra, các cậu biết rồi đấy. Cậu ấy không thể nào rũ được ý nghĩ đó ra khỏi đầu mình. Cậu ấy sợ mình quá tuổi rồi. Và cậu ấy sợ họ sẽ không chịu nhận vì hồ sơ của cậu ấy. Nhưng nó liên tục giày vò cậu ấy. Mặc dù vậy, cậu ấy không chịu đi nói chuyện với người phụ trách tuyển quân, vì sợ rằng họ sẽ nói không - cậu ấy khát khao nó vô cùng. Cậu ấy không muốn ai đó nói không với mình. Nhưng rồi một hôm vừa cầu nguyện cậu ấy vừa đi thẳng đến đó, và may mắn thế nào, cậu ấy và tay sĩ quan tuyển quân hợp nhau ngay, đơn giản là họ kết nhau ngay từ đầu. Tom nói với ông ta điều cậu ấy muốn và cậu ấy thèm muốn nó nhiều đến nhường nào, và tay kia, tay sĩ quan tuyển quân, đã bố trí để Tom có thể chứng tỏ cho ông ta thấy những gì cậu ấy có. Và sau khi họ chứng kiến cậu ấy bắn, họ nói, Cậu muốn nhập ngũ, chúng tôi vui lòng được có cậu. Thế là Tom gia nhập lục quân.”

Carl chắc chắn là đang nói đùa.

“Không, cậu ấy không đùa đâu,” Janine nói.

Tất cả chúng tôi đều nhìn vào Janine. Chị ấy cũng nhận được email của Tom à?

“Cậu ấy có viết thư cho tôi,” Janine trả lời.

“Cậu ấy nói rằng đó là quyết định tốt nhất cậu ấy từng thực hiện,” Carl nói.

“Và cậu ấy không bao giờ hối tiếc,” Janine nói. “Cậu ấy đã hạnh phúc được ở đó. Cậu ấy hạnh phúc được làm những gì cậu ấy đang làm.”

“Cậu ấy đã tin tưởng, các cậu biết đấy,” Carl nói, “vào việc chiến đấu cho đất nước của mình.”

“Cậu ấy gọi việc đó là như thế đấy - và tôi sẽ luôn nhớ Tom vì nhiều điều,” Janine nói. “Nhưng có một điều cậu ấy viết mà tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi vẫn còn giữ lá thư. Cậu ấy gọi đất nước này là nền cộng hòa tốt đẹp nhất từng bắt đầu lụi tàn. Đó chính xác là những lời của cậu ấy. Tôi vẫn còn giữ nó. Cậu ấy đã rất tự hào rằng họ cho cậu ấy vào một sư đoàn thiện xạ đặc biệt.”

“Tôi nghĩ chắc không có ai ngạc nhiên là Tom ngắm đích tốt,” Carl nói.

Những giọt nước đọng trong mắt Janine thật quen thuộc, bất chấp cả cái áo da mới. “Và có lẽ cậu ấy đã là một người lính tốt nữa - cậu có nghĩ vậy không, Carl?”

“Kỷ luật là điều mà cậu ấy đã cần trong suốt ba mươi bảy năm. Ít nhất đó cũng là cách cậu ấy diễn tả với tôi,” Carl nói.

“Như thế vẫn còn là rất trẻ,” Janine nói. “Ba mươi bảy.”

“Vâng,” Carl đồng ý. “Rất trẻ.”

“Chuyện gì đã xảy ra?” Benny hỏi. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta?”

Mọi người gọi martini để tưởng nhớ Tom, và nâng cốc chúc mừng gã như một người yêu nước và một học giả, một quân nhân tốt, và một công dân tệ hại của giới công sở. Chúng tôi cảm ơn gã vì đã gửi những bức email kỳ quái, vì những trò hề phát tiết từ việc gã nốc hai ly martini trong bữa trưa, và vì tất cả những trò điên khùng rồ dại mà bây giờ nhìn lại mới thấy đã mang lại cho chúng tôi rất nhiều niềm tiêu khiển, không có chúng những buổi chiều của chúng tôi chắc hẳn đã dài hơn và cuộc sống của chúng tôi càng nhạt nhẽo hơn. Gã đã chết vì đạn của quân mình tại Afghanistan.

“Vì Tom,” chúng tôi nói.

Chúng tôi nâng những ly martini của mình lên. “Vì Tom.”

“Trời ạ,” Janine nói, với vẻ mặt nhăn nhó. “Làm sao cậu ấy lại có thể thích thú cái thứ này nhỉ?”

Nếu như không có Don Blattner, chắc có lẽ chúng tôi đã đắm mình trong nỗi lãng quên của rượu và những ý nghĩ u ám, nhưng Hank đã hỏi anh ta xem việc viết lách của anh ta đang tiến triển đến đâu rồi, và Don cho biết rằng nhờ vào ý chí bền bỉ đến phi thường, anh ta đã không bỏ cuộc mà tiếp tục viết những kịch bản thảm hại, không thể nào sản xuất nổi của mình. Thậm chí ngay lúc chúng tôi đang nói chuyện đây, anh ta cũng đang ấp ủ một kịch bản mà anh ta tin rằng có tiềm năng thực sự. “Nhưng lúc nào tôi chẳng nói thế,” Don nói. Quả đúng thế thật - lúc nào anh ta chẳng nói thế. Chúng tôi hỏi xem kịch bản mới của anh ta là về cái gì, và anh ta kể với chúng tôi rằng đó là câu chuyện về một vị Lạt Ma Tây Tạng đức cao vọng trọng trong một chuyến đi thuyết giảng tại Mỹ đã bị quyến rũ vào thế giới béo bở của những hợp đồng quảng cáo. Ông ta bắt tay vào cải thiện quảng cáo mà trong đó ông ta xuất hiện, trước sự kính sợ và phấn khích của nhóm sáng tạo đen đủi phụ trách dự án đó, mà bệnh yếm thế và chán chường của những người này thì cao chưa từng có. Cuối cùng vị Lạt Ma tìm thấy niềm hạnh phúc thực sự khi từ bỏ những môn đệ ngoan ngoãn của mình để đổi lấy công ty quảng cáo mới hồi sinh, trở thành giám đốc sáng tạo của nhóm, phụ trách các hợp đồng với Nike, Microsoft và BMW. Ông ta ngủ với các người mẫu và chết một cách hạnh phúc khi đang đọc tạp chí Time trong một cái bể sục ở Crested Butte, Colorado.

Tất cả mọi người đều nghĩ nó sẽ thành công vang dội.

“Để rồi xem,” Don nói.

Carl và Marilynn rời bỏ chúng tôi, rồi chúng tôi phải nhường Janine và Harry cho sự thôi thúc của giấc ngủ tuổi trung niên. Một số người khác ra về, và Benny quay sang Jim. “Benny, tay vừa mới rời khỏi là ai vậy nhỉ? Chúng ta làm việc cùng với hắn à?”

“Đó là Sanderson,” Benny nói. “Bill Sanderson.”

“Bill Sanderson?”

“Cậu nhớ Bill mà,” Benny nói.

“Tớ chẳng có ý niệm gì về thằng cha đó cả.”

“Chắc chắn là cậu có, Jim. Chẳng qua cậu không nhận ra hắn vì hắn không còn bộ ria thôi.”

Chẳng mấy chốc ngay cả Jim cũng chuẩn bị ra về. “Hôm nay là tối đi học,” anh ta giải thích.

Một tối đi học? Từ khi nào mà Jim Jackers lại trở nên... trở nên… người lớn thế này nhỉ?

“Jimmy, cậu đừng đi!” Benny kêu lên.

“Benny, mai cậu sẽ lại gặp tớ mà.”

“Ồ, tớ nghĩ đúng là thế mà, phải không,” Benny nói. “Lại đây, anh bạn già,” Benny đang uống nốt ly cuối, theo như lời Marcia. Jim bắt buộc phải cúi xuống ôm anh ta.

“Tôi cũng phải đi luôn đây,” Reiser nói.

“Cậu không đi được, Reiser!” Benny nói. “Cậu chưa hề nói lấy một lời nào về những người cậu đang làm việc cùng bây giờ. Họ thế nào? Cậu có hạnh phúc không?”

Reiser đứng lên trong khi Benny xổ ra tràng câu hỏi của mình, anh ta nhún vai lãnh đạm sau mỗi câu hỏi.

“Nhưng cậu có nhớ nó không?” Benny dai dẳng.

“Nhớ gì cơ?” Reiser hỏi.

“Tớ sẽ cho cậu biết tớ nhớ ai,” Benny nói. Đột nhiên anh ta rút điện thoại di động của mình ra. “Hãy gọi cho Joe Pope!”

Chúng tôi nhìn Reiser cà nhắc ra khỏi quầy bar, và không hiểu sao thật dễ chịu khi nhận thấy là anh ta vẫn còn đi tập tễnh. Ngay sau khi anh ta đã đi khỏi Benny áp điện thoại của mình lên tai và cố gắng tìm câu trả lời.

“Chắc là tớ bấm nhầm số lẻ rồi,” anh ta kết luận và ngắt máy. “Đó là bàn của ai đó tên là Brian Bayer. Có ai nhận ra cái tên đó không?”

Không ai nhận ra cả. Chắc hẳn anh ta đã đến sau thời của chúng tôi. Kể cũng lạ khi nghĩ rằng họ lại tuyển dụng tiếp. Chúng tôi thấy thật khó khăn khi hình dung những khung cảnh quen thuộc bị chiếm ngự bởi những người xa lạ, những giọng nói không quen biết vọng ra từ sau những vách tường trát thạch cao chia các ngăn làm việc cũ của chúng tôi, những người đàn ông và đàn bà không biết mặt ngồi trên ghế của chúng tôi.

Chúng tôi hỏi Benny xem anh ta gọi số lẻ nào. Anh ta bấm đúng số - đó chính là số lẻ của Joe. Không ai có thể quên được nó, chúng tôi đã gọi số đó quá thường xuyên. Anh ta ngắt máy lần thứ hai. “Vẫn là Brian Bayer,” anh ta nói. Anh ta nảy ra giải pháp khôn ngoan là gọi vào tổng đài chính. Khi được nhắc, anh ta bấm chữ “P” cho Pope. “Tên của anh ta không xuất hiện,” anh ta nói.

Don Blattner quay trở lại từ phòng vệ sinh và hỏi Dan Wisdom là anh ta đã sẵn sàng để đi chưa? Họ đã cùng lái xe đến.

“Tên anh ta không hiện lên,” Benny nói.

“Chúng ta cũng phải đi thôi, Benny,” Marcia nói. “Cũng muộn rồi.”

Don và Dan ném tiền lên bàn và chúng tôi chào tạm biệt họ. “Ê, đợi đã!” Benny kêu lên. Nhưng anh ta còn quá mải mê nên không thể rời khỏi cái điện thoại, và cuối cùng họ về mất.

“Anh ta ở đâu nhỉ?” anh ta nói, đặt điện thoại xuống và nhìn quanh những người còn lại chúng tôi. “Joe Pope ở đâu được nhỉ?”

“Thôi nào, Benny,” Marcia nói. “Em sẽ đưa anh về.”

“Anh ta không có trong danh bạ, Marcia. Vậy anh ta ở đâu?”

“Benny, anh yêu, anh say rồi.”

“Là Joe mà,” anh ta nói. “Anh ta không bao giờ rời khỏi bàn làm việc.”

“Benny,” cô nói.

“Genevieve đâu rồi? Cô ấy đâu? Cô ấy sẽ biết anh ta đang ở đâu.”

“Genevieve à? Benny, anh yêu, cô ấy về từ mấy tiếng rồi.”

Cô lôi anh ta ra khỏi ghế của mình.

“Hank, chắc chắn anh phải biết chuyện gì đã xảy ra. Chuyện gì đã xảy ra với Joe, Hank?”

Nhưng nếu Hank có biết điều gì thì anh ta cũng không nói. Chúng tôi nhìn Benny say lảo đảo trên chân anh ta. “Nhưng đó là Joe mà, Marcia,” anh ta nói. “Joe không bao giờ bỏ đi cả.”

“Benny,” cô nói. “Đôi khi chúng ta vẫn để mất dấu thôi mà.”

Lát sau họ đã ra ngoài cửa, vọng theo là những sợi cuối cùng của một trong những bản ballad ban nhạc tóc xù của Marcia.

Hầu hết chúng tôi theo họ đi ra ngay sau đó, và, rốt cuộc, ly cuối cùng được công bố. Ánh điện bật lên, chiếc máy nghe nhạc im lặng. Chúng tôi có thể nghe tiếng ly cốc lanh canh và sự im lặng mệt mỏi của đám nhân viên trong lúc họ bắt đầu dọn dẹp, lau chùi những bề mặt sáng bóng, xếp những chiếc ghế đẩu lên mặt quầy bar. Chỉ lát nữa thôi công việc của họ sẽ xong, họ có thể nhìn thấy điều đang chờ đợi họ ở nhà - một cái giường, một bữa tối, một người yêu. Nhưng chúng tôi không muốn đêm kết thúc. Chúng tôi cứ nán lại, đợi họ cử đến một thằng cha lực lưỡng, kẻ sẽ tống chúng tôi ra bằng một mệnh lệnh dứt khoát. Và cuối cùng thì chúng tôi cũng sẽ đi thôi. Ra ngoài bãi đỗ xe, dăm ba lời giã biệt. “Thực sự là rất vui khi gặp lại cậu,” chúng tôi sẽ nói. Và nói xong, chúng tôi sẽ vào xe của mình rồi mở cửa sổ ra và lái đi, nhấn còi một lần cuối cùng. Nhưng ngay lúc này, thật khoan khoái khi cứ thế ngồi đó bên nhau. Chúng tôi là hai người duy nhất còn lại. Chỉ hai người chúng tôi, bạn và tôi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3