Và Thế Là Chúng Ta Tiêu - Chương 04
Lại giảm biên chế - Tại sao nói bọn trung gian mua dịch vụ truyền thông là lũ vứt đi - Tấm biển quảng cáo - Yop ở chỗ in tài liệu - Cuộc họp tầng hai - Lynn trong phòng mổ - Chúng tôi biết những gì Joe biết - Bữa trưa hai ly Martini - Mối lo ngại thực sự của Amber - Công việc lương thiện - Có gã nói chuyện với Benny - Lời buộc tội của Genevieve-Janine Gorjanc trong bể bóng nhựa - Màn dàn dựng - Chúng tôi xin lỗi - Bóng sơn
Trong những tuần đầu của năm 2001, họ cho Kelly Corma, Sandra Hochstadt, và Toby Wise nghỉ việc. Toby có một chiếc bàn làm việc thửa riêng trong văn phòng của anh ta, được anh ta đặt làm từ tấm ván lướt sóng ưa thích - anh ta là một người mê lướt sóng cuồng nhiệt. Phải mất một lúc lâu mới tháo được chiếc bàn, kéo dài thời gian nấn ná của anh ta so với quy định thông thường. Sau đó anh ta nhờ giúp khiêng các mảnh xuống chỗ đỗ xe. Chúng tôi chất cái bàn lên phía sau chiếc Trailblazer mới của anh ta và chuẩn bị nói tạm biệt - bắt tay, hay là ôm? Chúng tôi nghe thấy Toby đóng sập cửa sau chiếc Trailblazer và chờ đợi anh ta sẽ đi vòng qua chỗ chúng tôi đang tụ tập chờ sẵn. Thay vào đó anh ta nhảy tót lên ghế lái và hạ cửa kính đen ngòm xuống. “Vậy có lẽ tớ sẽ còn gặp lại các cậu,” anh ta nói, một cách vui vẻ không chút khách sáo. Sau đó anh ta kéo cửa kính lên và lái đi. Chúng tôi cảm thấy hơi tẽn tò. Chẳng lẽ một cái bắt tay cũng là đòi hỏi quá đáng sao. Nếu như quả thực anh ta đang giở trò tháu cáy để giấu nước bài xấu, nếu như đó chỉ là bộ mặt chơi xì phé của anh ta, thì chắc chắn đó là trò rất trơn tru và hoa mỹ. Anh ta dừng lại ở khúc quanh để nhìn xem có xe nào không rồi đạp dấn ga một chút. Đó là lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy anh ta.
Những tuần trước khi xảy đến kết cục của Tom Mota, mùa xuân năm đó, Tom bị bắt gặp đi ra từ văn phòng của Janine Gorjanc với mật độ rất dày. Khó có thể nói là họ đang nói về chuyện gì. Chúng tôi không khoái gì hơn là bỏ phí cả nửa tiếng đồng hồ để đoàn già đoán non về những chuyện tình lãng mạn nơi công sở, nhưng chúng tôi không thể nào hình dung nổi một cặp lạ lùng hơn. Chàng Napoléon hay hờn dỗi, dễ kích động lưu đày tới một hòn đảo Elba trong ý nghĩ của riêng mình, và bà mẹ đau đớn đang khóc than. Tình yêu diễn ra theo nhiều kiểu đến là quái đản. Chúng tôi quên mất là họ có những điểm chung - cùng mất con. Họ an ủi nhau, có lẽ thế. Họ san sẻ cơn ác mộng dài dằng dặc là không biết phải làm gì với gánh nặng của một tình yêu nhất định từ chối lời thỉnh cầu của họ là hãy khuyết đi, hãy tan vỡ đi, làm ơn hãy đi đi, và thế là họ nhận ra mình đang hướng tình yêu đó về nhau. Nhưng đó chỉ là cách chúng tôi giết thời gian. Trên thực tế, chẳng có vụ yêu đương nào cả. Tom chỉ muốn hạ tấm biển quảng cáo xuống.
Dân trung gian mua dịch vụ truyền thông của chúng tôi, như Jane Trimble và Tory Friedman, thường là những phụ nữ nhỏ nhắn, hoạt bát, ăn mặc điệu đà, thơm nức mùi nước hoa và có duyên ăn nói. Họ giữ những túi kẹo trong ngăn kéo bàn làm việc của mình mà không bao giờ tăng cân nào. Họ dành hầu hết thời gian nói chuyện điện thoại với các nhà cung cấp dịch vụ truyền thông, viễn cảnh nhàm chán của công việc đó khiến chúng tôi muốn nôn khan, và nhờ dịch vụ của mình mà họ nhận được những món quà linh tinh và vé xem các sự kiện thể thao, sự bất công trắng trợn của chuyện đó làm chúng tôi tức giận với một nỗi ghen tị mờ mắt và đầy sát khí. Bởi vì họ làm thủ tục đặt hàng và nói chuyện với giọng lươn lẹo giả lả, nên họ được hối lộ bằng những của bố thí đó, như những tên gác cổng bẩn thỉu, và chúng tôi nghĩ họ xứng đáng với một tầng địa ngục đặc biệt, tầng dành riêng cho các thị trưởng tham nhũng, dân vận động hành lang và đám trung gian mua dịch vụ truyền thông. Nhưng chúng tôi chỉ cảm nhận như thế lúc còn ở trong hệ thống. Khi một người trong chúng tôi đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha và ra khỏi hệ thống, nghĩ lại về những người trung gian mua dịch vụ truyền thông lúc nào cũng ríu rít và mỉm cười đó, chúng tôi lại cho rằng họ là một trong số ít những người tử tế nhất.
Tom đang đi kêu ca với Jane. “Hắn ta phải cho hạ cái bảng quảng cáo khốn kiếp đó xuống,” gã nói với cô ta sau khi đi thẳng vào phòng làm việc của cô ta mà không thèm gõ cửa hay chào hỏi gì. Không may là Jane biết thừa gã đang nói đến chuyện gì: tay cung cấp dịch vụ mà cô ta đã đặt hàng. Tờ rơi của cô bé mất tích không phải là nỗ lực duy nhất chúng tôi đã thực hiện để giúp Janine và Frank Gorjanc trong những ngày diễn ra cuộc tìm kiếm ngắn ngủi con gái họ. Sử dụng một chút tiền của họ, với sự bổ sung của khoản quỹ góp vội vàng, chúng tôi cho in tấm ảnh của Jessica từ năm lớp bốn với dòng chữ MẤT TÍCH và một số điện thoại liên lạc lên một tấm bảng quảng cáo trên đường I-88 đối diện với dòng giao thông đến từ phía Tây. Rất lâu sau khi cô bé đã được tìm thấy rồi, tấm biển quảng cáo vẫn còn nguyên đó. Jane cố gắng giải thích không có ai muốn thấy tấm biển quảng cáo đó bị hạ xuống nhiều bằng cô ta, nhưng những việc như vậy thường mất nhiều thời gian khi không có doanh thu ngay tức thì nào. “Không có doanh thu ngay tức thì?” Tom gào lên. “Cả sáu tháng nay rồi!” “Ông ta đã hứa với tôi là ông ta đang cho xúc tiến,” Jane trả lời với vẻ nhã nhặn và kiên nhẫn được trông đợi ở một trung gian mua dịch vụ truyền thông. “Hừ, như thế là chưa đủ,” Tom sủa lên với cô ta. “Ít nhất cũng bảo hắn lột nó xuống.” “Lột hay cởi,” Jane bẽn lẽn giải thích, vì biết rằng chắc hẳn mình tỏ ra rất thô bỉ, “đáng tiếc là lại rất tốn tiền, Tom ạ.”
Đó là một không gian không mấy người biết đến, đó mới là vấn đề. Xa tít ngoài đường I-88, mạn phía Tây sông Fox, phần đô thị của Chicago thực sự kết thúc, nhường những khu công nghiệp và khu nhà ở ngoại ô của mình cho những cánh đồng cỏ linh lăng và những thị trấn nhỏ chỉ có một trạm xăng duy nhất. Những tấm biển ở Bắc Aurora tốt cho quảng cáo sòng bạc trên thuyền và thuốc lá, và có thể thỉnh thoảng là một chiến dịch nâng cao nhận thức về AIDS, nhưng chẳng có gì hơn. Tay cung cấp có thể đã đại hạ giá thuê nhưng chỉ riêng việc thuê tấm biển đó thôi cũng là phúc tổ cho hắn rồi, và có lẽ hắn không bao giờ có khách hàng nào lại đi kêu ca về việc tiếp tục được phơi mặt sau khi hợp đồng thuê hết hạn. Quảng cáo miễn phí - ai có thể kêu ca về điều đó được cơ chứ?
Cứ có cơ hội kêu ca là chúng tôi kêu ca. Nhóm sáng tạo kêu ca về nhóm khách hàng. Nhóm kinh doanh kêu ca về khách hàng. Tất cả mọi người đều kêu ca lúc này lúc khác về bộ phận nhân sự, còn bộ phận nhân sự thì kêu ca với nhau về tất cả mọi người trong chúng tôi. Cánh trung gian mua dịch vụ truyền thông gần như là những người duy nhất không bao giờ kêu ca, bởi vì họ lúc nào cũng chết ngập trong vé và quà cáp hối lộ, nhưng khi Janine kêu ca với Tom về tấm biển quảng cáo, Tom mang lời kêu ca đó đến chỗ họ. Tấm biển đó, gã nói, thông báo rằng Jessica bị mất tích, trong khi Jessica không còn mất tích mấy tháng nay rồi. Jessica đã được tìm thấy. Jessica đã được chôn cất. Gã phàn nàn rằng hằng ngày Janine phải nhìn thấy tấm biển đó bên đường I-88 trên đường từ chỗ làm về nhà, phải bị gợi nhớ về cái tuần chị đã trải qua chờ đợi trong tê tái và hoài công hy vọng rằng tấm biển có thể bằng cách nào đó giúp mang cô con gái nhỏ của chị quay về, và về sự suy sụp của chị khi biết rằng nó chẳng có tác dụng gì. Giờ thì tấm biển đó chẳng còn là gì ngoài một vật gợi nhớ tàn nhẫn, quảng cáo từ trên cao tít số phận thảm khốc của cô bé. Tom nhất định không để yên. Gã phàn nàn về cái thằng cung cấp dịch vụ chó đẻ xúc tiến công việc chậm rề rề quá thể đáng, và về cái tính lúc nào cũng hơn hớn, ba phải của bọn trung gian mua dịch vụ truyền thông như Jane Trimble - kêu ca nhiều đến nỗi Jane buộc phải điện thoại cho tay cung cấp dịch vụ và kêu ca. Khi cô ta nói chuyện điện thoại xong với tay cung cấp dịch vụ, Jane gọi cho Lynn Mason để kêu ca về Tom Mota - chỉ là thêm một lời kêu ca chắc chắn đã góp phần vào dấu chấm hết của gã.
Vào cái buổi sáng tháng Năm mà Lynn Mason có lịch vào phòng mổ, cái ngày sau khi chị cho Chris Yop nghỉ việc, Yop trở lại tòa nhà, đứng ở khu in ấn tài liệu. Marcia Dwyer giật mình khi thấy anh ta ở đó. Đó là buổi sáng sớm. Marcia đến để photo câu chuyện đầy cảm động về một người sống sót khỏi căn bệnh ung thư đăng trên một số cũ của tạp chí People. Khi Yob quay lại nhìn thấy cô ta, anh ta giật bắn mình như một con thú bị dồn vào đường cùng. “Lạy Chúa Toàn năng,” anh ta nói. “Tôi cứ tưởng cô là Lynn.”
“Hôm nay Lynn đi mổ,” cô ta nói. “Không nhớ à?”
Marcia nói với giọng đặc trưng của dân Bờ Nam và để kiểu tóc dài mái bằng. Những lọn tóc đen phía sau được cố định bằng một loại thuốc hãm kỳ diệu nào đó. Nếu đúng như con người cô ta mà chúng tôi biết, thì khi nói chuyện với Yop có lẽ cô ta đã chống một tay lên hông với cổ tay quay vào phía trong.
“Anh đang làm gì ở đây vậy, Chris?” cô ta hỏi.
“Làm lý lịch xin việc,” Yop nói với vẻ đề phòng.
Marcia kể cho chúng tôi về cuộc gặp gỡ này khoảng nửa tiếng đồng hồ sau đó, khi ngày làm việc chính thức bắt đầu. Chúng tôi đã tụ tập lại bên những chiếc ghế bành chuẩn bị cho một cuộc họp tăng hai. Một ngày sau cuộc họp với Lynn chúng tôi thường có một cuộc họp sau cuộc họp do Joe tiến hành, tại đây những chi tiết cụ thể hơn của dự án được cụ thể hóa mà không làm phí thêm chút thời gian nào của Lynn. Dạo này, Lynn dành thời gian họp hành với các thành viên quản trị khác trong nỗ lực giữ cho công ty còn khả năng thanh toán. Không làm lãng phí thời gian của chị đã trở thành một điều bắt buộc.
Giống hệt như là chúng tôi có hai cuộc họp cho một dự án vậy. Không ai từng băn khoăn liệu sự tồn tại của những cuộc họp tăng hai có chút liên quan nào đến việc Lynn cần có những cuộc họp về khả năng thanh toán không - hoặc nếu có băn khoăn, họ cũng không hé miệng. Xét cho cùng, chúng tôi thích những cuộc họp tăng hai. Chỉ trong một cuộc họp tăng hai ta mới có thể hỏi những câu hỏi mà ta ngần ngại đưa ra trong cuộc họp đầu tiên vì sợ tỏ ra ngớ ngẩn trước mặt Lynn, nhưng chúng tôi không ngại điều đó trước mặt Joe.
Một công ty quảng cáo mà chúng tôi biết, ở tận dưới San Fransisco, thuê kiến trúc sư đến để thiết kế sơ đồ mặt sàn bao gồm cây thật, bảng phi tiêu, đá lát, pin mặt trời, quầy cà phê, và cả một nửa sân bóng rổ đủ cho một trận đấu mỗi bên ba người. Bọn khốn may mắn đó không biết thế nào là một cái phòng họp hoặc một cánh cửa kính mờ. Chúng tôi phải chịu đựng những điều sỉ nhục đó, nhưng bù lại, chúng tôi được cấp những đồ nội thất thư giãn không đồng bộ với mục đích tạo cảm hứng cho động lực sáng tạo và chúng tôi được khuyến khích nằm ườn lên đó. Được bố trí giữa những khoảng không gian trống nơi những khung cửa sổ kéo dài ra cho phép ánh nắng rọi vào, những điểm nóng nhỏ nhoi này là sự thay đổi hấp dẫn khỏi những hành lang và ô làm việc, và cũng là nơi chúng tôi luôn tới để họp tăng hai. Marcia ngồi vắt vẻo trên thành một trong những chiếc ghế ngả thư giãn, sáng hôm đó tóc cô ta búi cao cầu kỳ một cách khác thường.
Cô ta kể với chúng tôi là Yop có vẻ tự ái khi cô ta hỏi anh ta đang làm gì ở trạm in tài liệu. “Cứ như thể anh ta tưởng tôi là một con mẹ phản trắc sắp sửa hô hoán gọi bảo vệ,” cô ta nói, “nhưng tôi chỉ hỏi anh ta đang làm gì thôi mà. Ý tôi là, mới hôm qua thằng cha đó bị sa thải, đúng không - vậy mà sáng nay anh ta đã quay trở lại tòa nhà? Thế là thế nào?”
Chúng tôi không thể tin là Yop đã quay trở lại tòa nhà.
“Tôi hỏi anh ta, tôi nói là, ‘Anh không nên ở đây, đúng không?’ Và anh ta nói với tôi, ‘Đúng, tôi không nên ở đây.’ Thế là tôi mới bảo, ‘Vậy chuyện gì sẽ xảy ra nếu có người bắt gặp anh?’ và anh ta nói, ‘Ừm, thế thì tôi ăn cám.’ ‘Thế nghĩa là thế nào, anh bảo ăn cám là sao?’ tôi hỏi, và anh ta bảo, ‘Thì xâm phạm trái phép’!”
Chúng tôi không thể tin điều đó. Xâm phạm trái phép cơ à? Anh ta sẽ bị bắt sao?
“Đúng thế, cô có tin được không?” Yop hỏi Marcia. “Đó là những gì tôi được thông báo ngay sau cuộc họp hôm qua khi Lynn gọi tôi quay lại văn phòng chị ta, nhớ chứ? Sự có mặt của tôi trong tòa nhà này sẽ bị coi là hành động tội phạm. Tôi mới bảo chứ, ‘Lynn, chắc chắn là chị đang đùa tôi, đúng không? Sau tất cả những gì tôi đã làm cho cái chỗ này, chị sẽ cho người bắt tôi vì tội xâm phạm?’ Chị ta ngừng kéo tấm mành - thậm chí chị ta còn không thèm nhìn tôi khi chị ta nói câu đó! Nhưng dù sao đi chăng nữa, chị ta cũng ngồi xuống, và cô biết cái ánh mắt mà chị ta có thể nhìn cô rồi đấy, gần như là chị ta đang thiêu cháy cả óc của cô ra bằng đôi mắt laser của mình ấy? Chị ta kéo ghế của mình vào, chị ta hướng ánh mắt đó về phía tôi rồi chị ta bảo, ‘Tôi rất tiếc, nhưng anh không thể vẫn ở đây được, Chris. Anh đã bị sa thải rồi.’ Thế là tôi bảo chị ta, ‘Vâng, tôi biết rồi, Lynn, nhưng khi chúng ta đang nói chuyện dở lúc trước và tôi không kiềm chế được, nhớ không? Và tôi phải rời khỏi văn phòng của chị ấy? Tôi không nghĩ là tôi phải rời khỏi đây cho đến khi chúng ta có cơ hội kết khúc cuộc nói chuyện của mình, giống như chúng ta đang làm bây giờ. Bởi vì tôi vẫn còn một điều quan trọng phải nói trước khi tôi ra đi.’ Thế là chị ta bảo tôi, ‘Chris, cứ nói với tôi bất kỳ điều gì anh định nói với tôi, nhưng sau đó anh cần phải ra khỏi đây. Anh hiểu chứ? Tôi không thể mạo hiểm để anh lại trong tòa nhà.’ Thế là thế chó nào, đúng không? Chị ta không thể mạo hiểm để tôi ở trong tòa nhà ấy à? Tôi sẽ làm gì chứ, ăn trộm chiếc ghế của Ernie à? Có thể tôi xuống được đến sảnh cùng với nó bằng thang máy chở hàng. Nhưng tôi vẫn sẽ phải đẩy nó qua cổng bảo vệ. Làm thế nào tôi có thể ra khỏi tòa nhà với chiếc ghế của Ernie chứ? ‘Giờ thì nói đi nào.’ Lynn nói với tôi. ‘Anh có gì để nói nào?’ ‘Được rồi, tôi chỉ muốn biết một điều thôi,’ tôi bảo chị ta. ‘Chị có biết hay chị đã bao giờ biết gì về các số series chưa?’ Đó là điều tôi hỏi chị ta. ‘Cụm từ số series có ý nghĩa gì với cá nhân chị không?’ Chị ta phản ứng như thế nào? Chị ta bảo, ‘Số series à?’ Đúng thế, chị ta nhìn tôi như thể tôi bị điên rồi vậy. ‘Tôi không biết anh đang nói chuyện gì nữa, Chris,’ chị ta bảo với tôi, ‘số series.’ Cô hiểu chưa - TÔI ĐÃ BIẾT NGAY MÀ!” Yop rít lên trong tiếng thì thào giận dữ, rồi len lén ném một cái liếc nhanh về phía cửa trạm in ấn tài liệu. Và với giọng khẽ khàng hơn, “Tôi biết đứt đuôi đi ấy chứ! Con mẹ quản lý văn phòng đó đã dựng lên toàn bộ chuyện này! Đó là hệ thống cá nhân của riêng mụ ta. Chẳng có tí quái nào là chính thức về cái vụ số series này hết! Mụ ta có một khẩu súng đóng dấu ấy. Cô biết tôi đang nói về cái gì rồi đấy, thứ có bánh xe ấy? Hóa ra chúng từ đó mà ra! Những số series! Lynn thậm chí còn chẳng biết gì về chúng cả! Chị ta bảo chứ, ‘Số series à?’ Thế là tôi kể cho chị ta nghe tất cả về vụ số series, về việc mụ quản lý văn phòng nghĩ ra chúng như thế nào, kiểm soát tất cả mọi thứ kiểu như chương trình Big Brother[20] hay đại loại thế. Nhưng dù sao đi nữa, chị ta lắng nghe, rất lịch sự, nhưng rồi chị ta bảo, ‘Thật thế à?’ Và tôi bảo, ‘À, vâng, nhưng…’ tôi cứ tưởng ít nhất thì chị ta cũng cho gọi mụ quản lý văn phòng quay trở vào và chúng tôi sẽ bắt đầu lại và lần này tôi sẽ được đối xử một cách công bằng. Nhưng rõ ràng là đừng hòng có chuyện chị ta sẽ cho tôi làm việc trở lại. Và rồi chị ta bảo tôi là nếu còn nhìn thấy tôi trong tòa nhà lần nữa, chị ta sẽ phải báo với bộ phận bảo vệ, họ sẽ gọi cho cảnh sát bắt giữ tôi vì tội xâm phạm. Cô có tin được không?” Đôi mắt sưng húp, ướt nhoét của Yop như lồi ra nhìn Marcia. Anh ta thực sự không ở trong tình trạng sức khỏe tốt nhất. “Sau tất cả thời gian của tôi ở đây,” anh ta tiếp tục. “Thế là lúc đó tôi nghĩ, ‘Ồ, vậy sao? Hừ, đã vậy cứ xem tôi quay lại đây vào ngày mai và dùng máy của các người để in lý lịch xin việc của tôi ra. Các người có biết ở Kinko họ tính bao nhiêu tiền cho việc này không? Đừng hòng có chuyện tôi sẽ tiêu khoản tiền lương cuối cùng ở cửa hàng Kinko. Tôi đã cống hiến rất nhiều cho cái chỗ này, và tôi nghĩ tôi nên được phép tiết kiệm vài đồng in ấn.’ Nhân tiện,” anh ta nói. “Cô đọc soát lỗi cho tôi được không?”
“Thế là tôi bảo anh ta, ‘Đọc soát cái gì cơ?’ ” Marcia nói với chúng tôi ngay trước khi cuộc họp tăng hai bắt đầu. “Anh ta muốn tôi đọc soát lỗi lý lịch xin việc của anh ta! Tôi thật không thể nào tin nổi. Tôi bảo chứ, ‘Chris, tôi là một chuyên viên mỹ thuật. Anh mới là copywriter. Anh làm phần soát lỗi, còn nhớ chứ? Ý tôi là, nói thực lòng, khả năng chính tả của tôi có khác gì một người trong bệnh viện tâm thần đâu. Ấy thế mà anh ta vẫn nói, ‘Ừ, tôi biết, nhưng tôi thực sự cần có một cặp mắt soát qua nó một lượt.’ Và sau đó anh ta cứ đứng đó chìa ra một cái bút. Một cái bút đỏ! Anh ta muốn tôi làm việc đó ngay tại trạm in tài liệu!”
Thế là Marcia đứng ngay cạnh máy photocopy đọc soát lý lịch xin việc của Yop, chốc chốc lại liếc mắt về phía cửa vì cô ta không muốn bị bắt gặp với một người có thể bị bắt giữ vì tội xâm phạm. Trong khi cô ta làm việc, anh ta vẫn nói chuyện huyên thuyên. Anh ta hỏi cô ta có muốn biết điều trái khoáy của việc bị đuổi việc không. “Điều thực sự chán mớ đời và trái khoáy,” anh ta nói. “Cô có muốn biết là gì không?”
“Tôi đang cố tập trung vào lý lịch xin việc của anh ta,” cô ta kể với chúng tôi, “và tôi cũng đang phải trông chừng cửa vì tôi không muốn có ai bước vào và nhìn thấy tôi với thằng cha đó. Tôi chả biết tỏng cái điều chán mớ đời và trái khoáy đó rồi: cái thằng cha chết giẫm đáng thương ấy vừa quay lại tòa nhà. Nhưng tôi không nói ra điều đó, vì tôi đang cố tỏ ra tử tế.”
“Điều chán mớ đời và trái khoáy,” Yop thú nhận, “là ở chỗ tôi muốn làm việc. Cô có tin được điều đó không? Tôi muốn làm việc. Đúng là chán mớ đời phải không? Cô hiểu tôi đang nói gì ở đây không, Karen? Tôi vừa mới bị đuổi việc, vậy mà trong đầu mình tôi vẫn đang làm việc!”
“Ôi, lạy Chúa tôi,” Marcia nói, ngẩng đầu lên khỏi bản lý lịch xin việc của anh ta. “Tên tôi là Marcia cơ mà.”
“Đến nước đó,” Marcia nói với chúng tôi, “thì tôi đúng là hết thuốc. Anh ta thậm chí còn không biết cả tên tôi nữa?”
“Tôi vừa nói gì ấy nhỉ?” Yop nói.
“Anh vừa mới gọi tôi là Karen,” Marcia trả lời.
“Karen à?” Yop nhìn lảng đi và lắc đầu. “Tôi vừa nói thế à? Tôi nói là Karen à? Tôi xin lỗi,” anh ta nói. “Tôi biết cô không phải là Karen chứ, cô là Marcia, tôi biết mà. Cô và tôi đã làm việc cùng nhau một thời gian dài, tôi biết cô là ai chứ. Cô là Marcia, quê cô ở Berwyn.”
“Bridgeport.”
“Tôi biết cô là ai chứ,” Yop nói. “Karen là người khác cơ. Karen là cái cô người Hoa ấy.”
“Người Triều Tiên.”
“Đầu óc tôi sáng nay đúng là loạn hết cả lên rồi, chắc là thế thôi,” anh ta nói. “Tôi hy vọng cô bỏ quá cho tôi. Với lại, vấn đề chính mà tôi đang định nói là...”
“GÌ?” Marcia gào lên với chúng tôi từ chỗ ngồi cô ta ngồi vắt vẻo trên cái ghế ngả. “Vấn đề chính mà anh đang định nói là GÌ nào, hả cái đồ đần độn nói lắp kia? Berwyn? Tôi không thể tin nổi là thằng cha đó lại gọi nhầm tên tôi.”
“Vấn đề chính mà tôi đang định nói,” Yop nói tiếp, “là tôi nhận ra mình đang suy nghĩ về vụ gây quỹ. Cô có tin được điều đó không?”
“Vụ gây quỹ nào?” Marcia hỏi.
“Vụ gây quỹ ấy,” Yop trả lời. “Vụ gây quỹ mà chúng ta phải nghĩ ra kế hoạch quảng cáo ấy.”
“À, cho ung thư vú,” Marcia nói, và gật đầu. “Dự án từ thiện miễn phí.” Nó nhắc cô ta nhớ ra là trong vài phút nữa cô ta phải tham gia một cuộc họp tăng hai.
“Nhưng rồi tôi mới chợt nghĩ ra, anh ta thì không phải!” Marcia thốt lên. “Tôi chỉ muốn bảo anh ta, ‘Ôi, lạy Chúa tôi, Chris - anh có còn làm việc ở đây nữa đâu. Từ bỏ cái vụ gây quỹ đi. Hãy rời khỏi tòa nhà. Tự đi mà đọc soát cái sơ yếu lý lịch chết tiệt của anh đi!’ Nhưng lạy Chúa tôi,” cô ta nói, “anh ta nhất định không chịu thôi nói. Anh ta bảo tôi, ‘Cô có tin được là tôi không thể nào ngừng làm việc trong đầu không? Tôi cứ làm việc mãi làm việc mãi và làm việc mãi - đúng là chán mớ đời và trái khoáy phải không?’ À, ừ. Ừ đúng là chán mớ đời và trái khoáy thật. Anh có còn làm việc ở đây nữa đâu! Nhưng tôi không nói thế. Tôi vẫn cố gắng tỏ ra tử tế. Cũng có lúc tôi cố gắng tỏ ra tử tế chứ. Vậy là mặc dù anh ta không biết tên tôi, tôi vẫn tiếp tục đọc soát lỗi cái sơ yếu lý lịch xin việc ngớ ngẩn của anh ta, cơ man nào là lỗi. Thế nào mà chúng ta lại đi thuê cái thằng cha đó làm copywriter nhỉ? Tôi đang chỉ chúng ra với anh ta, tất cả những lỗi chính tả và đánh máy rồi này nọ, thì anh ta nói, hoàn toàn chẳng đâu vào đâu - ý tôi là, tôi không biết nó ở đâu ra. Mặc dù vậy, tôi biết có chuyện không ổn rồi, vì anh ta không nói nói nói mãi nữa, anh ta chỉ chằm chằm nhìn tôi, thế là tôi ngẩng lên khỏi bản sơ yếu lý lịch của anh ta và tôi bảo, ‘Gì vậy?’ và anh ta nói, ‘Nó sẽ xảy ra cả với cô nữa, cô biết mà. Đừng có nghĩ là không.’ Và tôi nói, ‘Cái gì sẽ xảy ra với tôi cơ?’ ‘Bị sa thải,’ anh ta nói. ‘Nó sẽ xảy ra với cô đúng như nó đã xảy ra với mọi người khác, và khi đó cô sẽ không còn lên mặt với mọi người như cô đang thể hiện lúc này.’ Tôi không thể tin vào những gì tôi nghe được nữa,” cô ta bảo với chúng tôi. “Tôi đang đọc soát lỗi bản sơ yếu lý lịch của thằng cha khốn kiếp đó - chính tôi! - đang làm cho nó khá khẩm hơn, vậy mà anh ta bảo tôi là tôi sắp bị đuổi việc? Và không chỉ có như thế, mà còn bảo là tôi tỏ ra lên mặt với tất cả mọi người khác? Chỉ bởi vì tôi cho mình lên mặt với thằng cha dở hơi đáng thương đó đâu có nghĩa là tôi lên mặt với tất cả mọi người. Tôi đang cố giúp hắn kiếm một công việc mới, vì Chúa! Chẳng phải tôi như thế là quá tử tế rồi à? Tôi muốn nói, đúng là đồ ăn cháo đá bát! Chẳng phải hắn đúng là đồ ăn cháo đá bát toàn tập sao,” cô ta hỏi chúng tôi, “khi bảo tôi, ‘À, với lại nhân tiện, cái điều tồi tệ vừa xảy ra với tôi ấy mà? Nó cũng sẽ xảy ra với cô thôi.’ Giả sử mà Brizz làm như thế thì sao? Giả sử Brizz lại bảo, ‘Cảm ơn đã đến thăm tôi trong bệnh viện, các bạn ạ, nhưng nói để các bạn biết, một ngày nào đó tất cả các bạn cũng chết thôi, và khi ngày đó đến, các bạn cũng không thể thở được đâu, các bạn cũng sẽ đau đớn và khốn khổ vô cùng, và rồi các bạn sẽ chết. Vì vậy, chúc may mắn, lũ thộn ạ.’ Thế là tôi xé tan tờ sơ yếu lý lịch của anh ta ra thành từng mảnh, và ném chúng vào mặt anh ta, và một mẩu nhỏ dính lại trên trán anh ta, anh ta đang toát mồ hôi đầm đìa. Rồi tôi nói một điều thực sự cay nghiệt đối với anh ta, tôi không kìm được, tôi bảo chứ, ‘Anh vã mồ hôi nhớp nhúa làm tôi thấy buồn nôn.’ Lẽ ra tôi không nên nói như thế. Nhưng lúc đó tôi thích nói như thế, bởi vì đúng là anh ta ra mồ hôi nhớp nhúa thật. Thật là một thằng cha đần độn chết tiệt! Dám bảo tôi là tôi sẽ bị sa thải. Các cậu nhớ đấy,” cô ta nói. “Các cậu phải hiểu. Tôi đã nơm nớp từ cuộc họp hôm qua rồi.”
Chúng tôi hỏi Marcia tại sao cô ta lại phải nơm nớp. Cô ta cảnh giác nhìn quanh, với cô ta thì điều đó thật khác thường, vì có bao giờ cô ta thèm bận tâm đến việc ai nghe thấy cô ta nói gì đâu. Marcia không bao giờ phải nơm nớp cả. Cô ta sinh ra và lớn lên ở Bridgeport, cô ta tự thay dầu xe, cô ta nghe nhạc của Motley Crue.
“Bởi vì tôi là người đã lấy chiếc ghế của Tom Mota,” cô ta thú nhận. “Các cậu hiểu chứ? Ghế của Tom đang ở trong phòng tôi. Đã thành lệ từ lâu nay là khi có người chuyển đi, nếu ai đến trước thì được lấy ghế của người đó. Tôi vào đó trước tiên, tôi đã lấy chiếc ghế của Tom. Tôi chẳng hề biết gì về số series cả. Mãi cho đến khi cái thằng cha đầu sai ấy bắt đầu huyên thuyên về chúng tại cuộc họp hôm qua. Từ đó đến giờ tôi cứ thấy nơm nớp. Nó làm tôi phát điên lên. Tôi chỉ muốn tống khứ nó đi, nhưng bởi vì anh ta đã mang chiếc ghế của Ernie xuống phòng Tom, cố làm ra vẻ như đó thực sự là ghế của Tom chứ không phải của Ernie, nên tôi không thể mang chiếc ghế thực sự của Tom xuống đó được vì như thế Tom sẽ có hai chiếc ghế. Chẳng phải trông như thế sẽ rất đáng ngờ sao? Nhưng nếu họ kiểm tra và thấy là tôi đang giữ chiếc ghế với số series của Tom trên đó - các cậu có hiểu không, tôi có chiếc ghế kèm số series! Tôi nên làm gì bây giờ? Có ai biết về những số series này không? Tôi thì không biết gì. Mọi người có biết không?”
Cô ta thở không ra hơi và kích động chẳng khác gì Yop. Chúng tôi bảo cô ta bình tĩnh lại. Chris Yop bị cho nghỉ việc không phải chỉ bởi vì anh ta bị bắt quả tang với giá sắt của Tom Mota. Anh ta bị cho nghỉ bởi vì anh ta thậm chí còn không thể soạn sơ yếu lý lịch của mình mà không có lỗi đánh máy. Lynn Mason và các thành viên quản trị khác không thể tin tưởng giao phó những chiến dịch quảng cáo cả triệu đô la vào tay những copywriter cẩu thả - ấy là nói, nếu như chúng tôi lại có những chiến dịch quảng cáo cả triệu đô la. Đó là lý do tại sao Chris Yob bị cho nghỉ.
Nói gì thì nói, chúng tôi nghĩ sẽ là khôn ngoan hơn nếu cô ta vào văn phòng của Tom tráo chiếc ghế của Ernie với ghế của Tom. Đang là quãng thời gian nhạy cảm, và trong những quãng thời gian nhạy cảm thì tỉnh táo ra là nên đề phòng hết sức. Bị bắt quả tang với chiếc ghế của Ernie còn tốt hơn là với ghế của Tom. Và đúng khi nói đến đó, chúng tôi nhận ra mình đang nói những chuyện như là Marcia bị bắt quả tang với chiếc ghế nào thì sẽ tốt hơn, khi ấy chúng tôi nhận ra mình đã sa đà đến mức nào.
Joe xuất hiện tại cuộc họp tăng hai mang theo cuốn sổ lên kế hoạch trong ngày của anh ta, điều mà ai cũng đoán trước và lấy làm khó chịu. Chúng tôi bị ức chế bởi sự quen thuộc bất di bất dịch của cái sổ kế hoạch trong ngày khốn kiếp đó. Đôi khi chúng tôi hầu như nghĩ chúng tôi có thể quý Joe nếu họa hoằn cứ mười lần thì có một lần anh ta bỏ cuốn sổ nhật ký bọc da đó ở lại bàn làm việc của mình. Nhưng không. Chiếc sofa và hai chiếc ghế tình yêu cùng mấy cái ghế ngả bọc da đều đã bị chiếm dụng nên Joe phải ngồi trên sàn.
Tại một cuộc họp tăng hai có một số việc lúc nào cũng xảy ra. Joe tách chúng tôi ra thành các nhóm, một chuyên viên mỹ thuật cho mỗi copywriter. Theo như lý tưởng thì sau mỗi cuộc họp tăng hai, mỗi đội sẽ tập hợp lại và vạch ra các ý tưởng. Tuy nhiên, hiệu quả của cách làm này trên thực tế bao giờ cũng khác. Tay copywriter chuồn mất hút theo ý mình và chuyên viên mỹ thuật cũng làm giống hệt, mỗi người tự vạch ra những ý tưởng độc lập với người kia. Sau đó họ tập hợp lại với nhau để phân định thắng thua. Ai là người hóm hỉnh hơn, ai có nhiều sự am hiểu hơn, ai làm nổi bật được ý tưởng. Tất cả chúng tôi đều có chung một lời cầu nguyện: cầu cho đó là mình. Bất kể cái mình ấy là ai đi nữa, anh ta hoặc cô ta đều cố vô cùng bình thản về điều đó, nhưng không thể nào chối cãi được, họ ngự trị trên chiến thắng trong một ngày trong khi những người còn lại chúng tôi quay trở về bàn của mình lặng lẽ dằn vặt. Chúng tôi đã thua, và sự tối dạ của chúng tôi khiến chúng tôi trở thành đối tượng bị đánh giá thấp, thì thầm dè bỉu, với viễn cảnh đáng sợ là trở thành người kế tiếp.
Vì vậy hãy hình dung nỗi choáng váng của chúng tôi, và cả nỗi bẽ bàng của chúng tôi, khi chúng tôi ngồi xuống ghế với những cốc cà phê của mình để họp tăng hai - trong khoảng thời gian đó chúng tôi chỉ tỉa tót lại các chi tiết, chúng tôi chỉ đề nghị làm rõ - thì Karen Woo thông báo rằng cô ta đã có những ý tưởng quảng cáo. Cô ta có cả một chiến dịch hoàn chỉnh. “Mọi người biết không, tôi chán ngấy khi phải nhìn những phụ nữ quyến rũ kiểu những năm 1960 mỉm cười nhìn vào máy ảnh và nói, ‘Hãy nhìn tôi này, tôi là một người sống sót. Tôi đã chiến thắng ung thư vú.’ Điều đó thật nhảm nhí,” cô ta nói. “Ngành công nghiệp này cần gạt qua một bên trò nói cười ồn ã và đi thẳng vào sự thật trần trụi.”
Chúng tôi nhìn cô ta trong khi cằm thì vẫn đang nổi lềnh phềnh trong cốc cà phê của mình. Chờ chút! Chúng tôi chỉ muốn hét lên. Cô không thể có những ý tưởng được. Chúng ta thậm chí còn chưa họp tăng hai cơ mà!
“Ý tưởng của cô là gì?” Joe hỏi.
Ý tưởng của cô ta? Chúng tôi sẽ cho cô ta biết ý tưởng của cô ta, Joe. Là tàn sát. Không ai nói gì đến nó, không ai nói một lời nào, nhưng động cơ thực sự chạy ở khắp cái nơi này là khát khao nguyên thủy được giết chóc. Được trở thành chuyên gia quảng cáo giỏi nhất trong tòa nhà, khuấy lên sự ghen tị, đánh bại tất cả những kẻ còn lại. Mối đe dọa về cắt giảm biên chế chỉ càng khiến nó trở thành một động cơ hiệu quả hơn.
“Tôi bất ngờ là cô đã có sẵn ý tưởng rồi cơ đấy, Karen,” Larry Novotny nói. Karen và Larry không hòa thuận với nhau cho lắm. “Nó thực sự làm tôi bất ngờ đấy.”
“Sáng kiến mà,” Karen tự đắc nói.
“Tôi không muốn nói thay cho bất kỳ ai,” Larry nói thêm, “nhưng thực lòng mà nói, nó thực sự khiến tất cả chúng tôi bất ngờ vãi linh hồn đấy.”
Karen chồm người lên trên ghế sofa và quay về phía Larry đang ngồi trên chiếc ghế ngả của anh ta, khó có thể nhìn thấy ánh mắt của anh ta dưới cái lưỡi trai uốn cong của chiếc mũ Cubs. Anh ta đang mặc một trong những chiếc áo sơ mi vải flanen tẻ nhạt của mình. Hai người gườm gườm, nhìn nhau. Karen và Larry không ưa nhau vì Larry là chuyên viên mỹ thuật (Art Director) còn Karen lại là một chuyên viên mỹ thuật cấp cao (Senior Art Director) và tước hiệu mới là tất cả. Mỗi AD đều muốn trở thành một SAD. Nếu như bạn là một SAD thì kiểu gì bạn cũng chăm chăm muốn trở thành một Acker. Acker là kiểu viết tắt của chúng tôi cho chức danh Associate Creative Director (Đồng Chuyên viên Sáng tạo). Acker thì lại muốn trở thành Creetors (Creative Director - Chuyên viên Sáng tạo), và mỗi Creetor thì lại ghen tị với Eveep. Bạn có thể hoặc là một Creveep (Creative Executive Vice President - Phó Trưởng phòng Phụ trách Sáng tạo) hoặc là một Ackveep (Account Services Executive Vice President - Phó Trưởng phòng Phụ trách Kinh doanh), nhưng cả hai loài này đều hy vọng ngang nhau về một ngày nào đó được mời trở thành thành viên quản trị. Còn điều mà các thành viên quản trị mơ đến là những thứ của Magellan, da Gama, Columbus, v.v. và v.v...
Vấn đề là chúng tôi cực kỳ xem trọng cái thứ chết tiệt này. Họ đã lấy đi hoa của chúng tôi, những kỳ nghỉ hè của chúng tôi, và cả những khoản thưởng của chúng tôi nữa, chúng tôi đang bị treo lương và treo cả việc tuyển dụng, người người đang bay vèo ra khỏi cửa như vô số những hình nộm bị tháo rời. Chúng tôi vẫn còn một điều chờ đợi mình: viễn cảnh được thăng chức. Một chức vụ mới: đúng thế, nó chẳng mang lại đồng nào, quyền lực thì hầu như luôn luôn là viển vông, thứ đồ bố thí như một công cụ xảo quyệt rẻ tiền mà ban lãnh đạo bày ra để ngăn không cho chúng tôi nổi loạn, nhưng khi tin tức lan truyền đi là một trong chúng tôi vừa nhảy thêm một bậc chữ viết tắt, thì người đó ngày hôm ấy hơi lặng lẽ hơn mọi khi, ăn trưa lâu hơn mọi khi, quay lại mà không cầm theo túi mua hàng, dành cả buổi chiều nói năng khẽ khàng vào điện thoại, và ra về bất kỳ khi nào anh ta muốn tối hôm đó, trong khi những người còn lại trong chúng tôi gửi email bay đi bay lại về những chủ đề lớn lao như Bất công và Mờ ám.
“Karen,” Joe nói. “Ý tưởng của cô là gì?”
Karen rời mắt khỏi Larry và quay sang Joe.
“Hãy nhìn này,” Karen nói. Cô ta trình bày ba ý tưởng trơn tru mà cô ta gọi là chiến dịch “Những người thân yêu”. Từ những ngân hàng ảnh cô ta đã chọn ra ảnh cận cảnh những gương mặt riêng rẽ, tất cả đều là nam giới. Đầu tiên là một cậu bé da đen, thứ hai là một người đàn ông châu Á, cuối cùng là một ông già da trắng. Họ nhìn thẳng vào ống kính với gương mặt không chút biểu cảm. Tất cả chúng tôi đều nghĩ, cô ta đã ở trên trang web của Photonica suốt mười tám tiếng đồng hồ vừa rồi để tìm kiếm những viên ngọc quý này. Những dòng tiêu đề là mẫu mực về sự đơn giản và nghệ thuật thu hút sự chú ý. Mỗi dòng là một câu trích dẫn. Với đôi chút thao tác trên Photoshop, Karen để cho cậu bé da đen cầm một tấm áp phích màu trắng mang dòng chữ “Dì tôi”. Tấm áp phích của người đàn ông châu Á viết “Mẹ tôi”. Còn của ông già da trắng thì ghi “Vợ tôi”. Tất cả chỉ có thế, hình ảnh và những dòng tiêu đề. Karen tin rằng chúng đủ bắt mắt đến nỗi bất kỳ ai tình cờ liếc qua cũng phải muốn đọc phần nội dung chi tiết, trong đó có phần trình bày ở ngôi thứ nhất giải thích nỗi đau đớn khi mất đi một người thân yêu vì căn bệnh ung thư vú và sự cấp thiết phải tìm ra cách chữa trị.
“Hơi nặng nề,” Larry góp ý, “cô không nghĩ vậy à?”
“Không, Larry. Tôi không nghĩ vậy. Nó rất lôi cuốn, chân thực và đầy thúc giục, nhất định là thế.”
“Không dễ chấp nhận cho lắm.”
“Quá dễ chấp nhận là khác ấy chứ, Larry!”
“Chẳng khác gì nhìn thấy một đứa trẻ châu Phi chết đói trên ti vi, Karen. Có khi chúng ta lôi được cả Sally Struthers[21] tham gia cũng nên.”
“Joe,” Karen nói.
“Larry,” Joe nói.
“Tôi chỉ nói thôi mà, Joe,” Larry nói.
Chúng tôi căm ghét Karen Woo. Chúng tôi căm ghét việc đi căm ghét Karen Woo vì chúng tôi sợ biết đâu mình lại là kẻ phân biệt chủng tộc. Nhất là những người da trắng trong số chúng tôi. Nhưng không chỉ có những người da trắng. Benny, vốn là dân Do Thái, và Hank, là người da đen, cũng ghét Karen. Có thể chúng tôi ghét Karen không phải bởi vì cô ta là người Triều Tiên mà bởi vì cô ta là một người phụ nữ với những quan điểm mạnh mẽ trong một thế giới do đàn ông ngự trị. Nhưng không chỉ có cánh đàn ông; Marcia không chịu nổi cô ta, trong khi bản thân cô ta cũng là phụ nữ. Donald không phải là người Triều Tiên nhưng ít nhiều cũng là người châu Á, và tất cả mọi người đều yêu quý anh ta như Marcia mặc dù anh ta không mấy khi nói lời nào. Một lần, Donald có mở miệng, khi anh ta ngoảnh khỏi máy tính của mình trong thoáng chốc, hướng về một nhóm bốn năm người chúng tôi, “Ông nội tớ có một bộ sưu tập kỳ quái toàn tai người Trung Quốc.” Trước lúc ấy chúng tôi đã thảo luận chuyện gì đó, chứ không hẳn là câu đó bỗng tự nhiên ở đâu phọt ra. Nhưng mặt khác, cũng chẳng có gì là khác thường khi cả ngày trôi qua mà Donald chỉ nói, “Ừ, có lẽ thế,” đâu như bốn hay năm lần gì đó, có đến một nửa trong số đó được nói khi anh ta thậm chí còn không thèm hướng sự chú ý ra khỏi chiếc máy tính của mình, và rồi đến năm giờ thì chẳng thấy Donald đâu nữa. Giờ thì anh ta lại nói với chúng tôi về bộ sưu tập của ông nội anh ta - “Ý cậu là sao, một bộ sưu tập tai à?” Benny hỏi. “Cậu đang nói đến tai thật, tức là tai thật ấy à?” “Tai từ đầu của những người Trung Quốc, đúng rồi,” Donald xác nhận, anh ta đã quay lại với màn hình máy tính từ bao giờ. “Cả một bao đầy luôn.” Câu chuyện càng lúc càng trở nên bí hiểm. “Một bao cơ à? Bao kiểu như thế nào?” Sam Ludd, người hút rất nhiều cần sa và thường xuyên bốc mùi như những gói bim bim vị hành Funyun, quay sang Benny để truyền đạt với anh ta điều gì đó bằng thứ ngôn ngữ bí mật của tiếng cười. “Nhưng nói nghiêm túc nhé,” Benny gặng hỏi, xoay người lại trên bậu cửa sổ để nhìn thẳng vào Donald, “cậu đang nói đến cái quái quỷ gì vậy, Don?” “Và một bộ sưu tập tai người Trung Quốc kỳ quái thì để làm gì chứ?” Sam hỏi, anh ta trụ được có hai giây rưỡi sau khi quá trình tinh giảm biên chế bắt đầu. “Chúng có từ thời chiến tranh,” Don nói với cái màn hình. “Ông tôi không muốn nói về chuyện đó.” “Nhưng cậu nhìn thấy nó rồi chứ?” Benny nói. “Có hơn một cái cơ mà,” Don nói. “Không, cái bao, cái bao cơ,” Benny nói. Don nhìn anh ta và gật đầu. “Có chứ.” “Hừm, liệu có phải, liệu có phải là ông ấy tự tay cắt chúng không? Hay ông ấy mua chúng? Được người ta cho ông ấy làm kỷ niệm? Don, hãy nói chuyện với tớ nào.” “Thực sự tớ cũng không biết gì hơn nhiều. Tớ chỉ biết ông tớ từng tham gia chiến tranh. Có thể chính ông đã cắt chúng, tớ cũng không biết nữa. Đó không phải điều cậu có thể hỏi thẳng ông nội mình.” “Được rồi, nhưng...” Benny thấy ức chế, “nếu vậy thì lẽ ra cậu đừng có mà khơi chuyện ra, anh bạn ạ, nếu như cậu không có nhiều thông tin hơn.” “Tớ nghĩ cậu nhầm rồi, Don,” Sam nói. “Tớ nghĩ cậu có thể hỏi ông mình là có phải ông đã cắt tai người Trung Quốc không.” “Trông chúng như thế nào?” Benny hỏi. “Cậu nói cho tớ biết được không?” Don nói với cái màn hình là anh ta không thực sự biết trông chúng như thế nào. Trông chúng giống như những cái tai. Những cái tai chết chóc già nua nhăn nhúm. Và cái bao chỉ là một cái túi dạ có dải rút. Benny gật gù và bặm môi.
Lại nói đến Karen Woo. Liệu có phải chúng tôi không ưa cô ta vì chúng tôi là những kẻ phân biệt chủng tộc, bởi vì chúng tôi là những kẻ ghét phụ nữ, bởi vì cái “sáng kiến” của cô ta giày vò và tham vọng của cô ta thật là trắng trợn, bởi vì cô ta chưng cái chức vụ cấp cao của mình như một chiếc nhẫn rực rỡ, hay bởi vì cô ta là con người như cô ta bây giờ và số phận buộc chúng tôi lúc nào cũng phải ở gần cô ta? Sự đa dạng của chúng tôi gần như bảo đảm chắc chắn rằng nó là sự kết hợp của tất cả những yếu tố vừa nêu.
“Tôi nghĩ vấn đề tôi đang gặp phải với dự án này, Joe,” Benny nói, ngồi nhong nhong trên tay vịn ghế sofa, “là biết được cách tiếp cận cơ bản mà chúng ta nên áp dụng ở đây. Liệu có phải nó chỉ là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng rằng nghiên cứu ung thư vú cần thêm tiền, hay là chúng ta cần đá đít ai đó theo kiểu những người thân đã chết của Karen kia và khiến mọi người phải gửi séc ngay lập tức?”
“Có thể là đâu đó ở giữa,” Joe trả lời, sau một thoáng ngẫm nghĩ. “Nói như thế không có nghĩa là loại bỏ những cái này đâu, Karen. Tôi thích chúng. Cứ thống nhất là một số người trong chúng ta đi theo một hướng và những người còn lại đi theo hướng khác.”
Chúng tôi thảo luận ngày in, ai sẽ là người phụ trách khâu đảm bảo cho dự án, và sau đó chúng tôi chia ra thành các nhóm. Joe là người đầu tiên đứng lên. Ngay trước khi đi ra anh ta thông báo rằng chúng tôi sẽ không trình bày những ý tưởng hoàn thiện cho Lynn xem; chúng tôi sẽ trình bày chúng cho anh ta xem.
Tất cả chúng tôi đều muốn biết tại sao lại như thế. Joe trả lời rằng đó là bởi vì Lynn sẽ vắng mặt ở văn phòng từ nay đến hết tuần.
“Đến hết tuần?” Benny nói. “Chị ấy đi nghỉ à?”
“Tôi không biết,” Joe nói.
Nhưng anh ta biết. Anh ta cũng biết như chúng tôi rằng hôm đó chị đang ở trong phòng mổ và sẽ trong giai đoạn hồi phục khi đến thời hạn nộp ý tưởng - sự khác biệt là ở chỗ có lẽ anh ta có thông tin trực tiếp từ Lynn, trong khi đó chúng tôi phải lấy thông tin của mình từ những nguồn khác. Chúng tôi chưa bao giờ ghét Joe hơn khi anh ta có những thông tin mà chúng tôi cũng có, nhưng anh ta lại nhất định không kể với chúng tôi.
“Chúng ta có thể làm ơn ngừng nói chuyện về Joe Pope lấy hai phút được không?” Amber Ludwig hỏi khi Joe đã rời khỏi khu đặt những chiếc ghế sau cuộc họp tăng hai. Chúng tôi vẫn nấn ná lại để thảo luận thực tế rằng chúng tôi biết điều anh ta không nghĩ là chúng tôi biết và điều đó mới khó chịu làm sao.
“Vậy chúng ta nên nói chuyện về cái gì đây, Amber?” Larry hỏi. “Những người chết của Karen à?”
“Họ được gọi là Những người thân yêu, Larry.”
Amber, tất cả chúng tôi đều biết, đang lo lắng bởi một chuyện vừa mới nảy nòi ra tuần trước, khi Lynn Mason nhận được cú điện thoại từ vợ cũ của Tom Mota thông báo cho chị biết rằng có vẻ như Tom đã lặn mất tăm.
Barbara, cô vợ cũ, đã nhận được một số hình thức liên lạc kỳ lạ - thư thoại, email, thư viết tay - đầy những lời trích dẫn từ đủ mọi nguồn: Kinh Thánh, Emerson, Karl Marx, Nghệ thuật yêu của Erich Fromm, nhưng đáng ngại nhất là còn có cả Triết học của kẻ vô chính phủ, một ấn bản của McLenox. Amber xem trên website McLenox và phát hiện ra rằng nhà xuất bản này còn có những đầu sách khác như Những nơi trú ẩn cả dưới nước và dưới lòng đất và Cách tạo giấy khai sinh giả bằng máy tính tại nhà.
Những thông điệp Tom gửi vợ anh ta là những lập luận minh triết đến lạ lùng dùng để cải tạo tình cảnh khủng khiếp của một con người nhận ra mình đang mắc kẹt trong cuộc sống mòn mỏi, với rất nhiều ám chỉ đến tình yêu, lòng trắc ẩn, sự nhân hậu, đức tính khiêm tốn và trung thực, cùng với một số những lời ám chỉ không-được-minh-triết-cho-lắm về việc làm điều gì đó sẽ “khiến cả thế giới phải choáng váng”, theo như lời anh ta, điều sẽ khiến tên tuổi của anh ta đi vào lịch sử. “ ‘Toàn bộ lịch sử sẽ tự tiêu tan rất dễ dàng vào trong tiểu sử của một vài người bền bỉ và kiên định’,” Tom viết trong một bức email mà, đến ba giờ chiều thứ Sáu trước đó, đã được chuyển tiếp cho tất cả mọi người trong văn phòng. “Barbara,” bức thư kết luận, “cô cứ cười đi, nhưng tôi có ý định trở thành một trong những người đó.”
Barbara gọi cho Lynn để hỏi xem liệu có bất kỳ ai khác nghe được tin gì từ Tom không. “Và tôi cũng muốn cảnh báo với mọi người,” Barbara nói thêm. “Tôi ghét phải diễn đạt theo cách này, vì trước kia tôi không bao giờ nghĩ về anh ta như thế. Nhưng rồi sau đó anh ta xuất hiện ở nhà tôi với một chiếc gậy bóng chày và đập phá tất cả những gì nhìn thấy, điều đó khiến ta phải nghĩ, có lẽ mình chưa bao giờ thực sự biết rõ con người này. Lúc đó tôi không biết anh ta và bây giờ tôi cũng không biết anh ta có thể làm những gì, và tôi thực sự không muốn loanh quanh bên anh ta để tìm ra.”
“Tôi không thể nói là tôi trách cô được,” Lynn trả lời.
“Vì thế tôi gọi điện chỉ để nói rằng tôi đã cố gắng liên lạc với anh ta, chỉ là để bảo đảm rằng... chị biết rồi đấy. Nhưng... và tôi không muốn chị nghĩ rằng anh ta đang sắp làm điều gì đó... bất ngờ. Tôi chỉ nghĩ là tôi nên thông báo cho mọi người biết rằng tôi không sao tìm được anh ta.”
“Tôi rất cảm kích vì cô đã gọi,” Lynn nói.
Chị gác điện thoại và gọi Mike Boroshansky, tay gốc Ba Lan bên Bờ Nam phụ trách công tác bảo vệ tòa nhà. Mike thông báo cho mọi người trong bộ phận bảo vệ biết về tình huống có thể xảy ra. Họ dán một bức ảnh của Tom lên bàn bảo vệ ở dưới sảnh, và vào ban ngày, ông bạn Roland của Benny so sánh nó với các vị khách đến qua những cánh cửa xoay, còn ban đêm, một tay bảo vệ khác cũng làm như vậy.
Bản thân chúng tôi thì lại nghĩ khác. Tom Mota sẽ không làm bất kỳ chuyện gì điên rồ. Đúng là gã điên rồ, nhưng không điên đến thế. Chúng tôi không thể tin được là mọi người lại lo lắng thế. Trương hẳn một bức ảnh của Tom lên cơ à? Ai cũng biết làm thế đúng là dở hơi.
Tất cả mọi người trừ Amber Ludwig, người vẫn nhớ như in với nỗi lo lắng đã trở thành cố hữu về Tom Mota sau khi gã nốc hai ly martini trong bữa trưa. Thời buổi này thì họa hoằn lắm mới lại có người uống một ly martini trong bữa trưa. Nên được nhìn thấy Tom nốc liền hai ly thì quả là một niềm vui thuần khiết. “Điều gì đã xảy ra với nước Mỹ,” gã hỏi, và rồi lại tự chặn lời mình. “Ê, tôi đang nói đây.” Chúng tôi lại phải bỏ dở câu chuyện của mình và hướng sự chú ý sang gã. “Điều gì đã xảy ra với nước Mỹ,” gã tiếp tục, “đến nỗi bữa trưa với hai ly martini lại bị thay thế bởi cái này, cái này...” Gã vừa chằm chằm nhìn chúng tôi vừa lắc lắc quả đầu chó bun vẻ đầy khinh bỉ. “... cả một quán đầy bọn đồng tính, tất cả đều chung diện đồ kaki và nhấm nháp cùng một loại trà đá là sao hả? Hả?” gã nói. “Điều gì đã xảy ra vậy?” Gã thực sự muốn biết. “Chẳng phải General Motors,” gã vừa nói tiếp vừa nâng ly martini mới lên cao một cách rất khéo léo, để không làm nó bị sánh, “IBM, và Madison Avenue đều đã xây dựng sức mạnh Mỹ thời hậu chiến từ bữa trưa hai ly martini sao?”
Đó mới chỉ là khúc dạo đầu cho màn rượu nói của gã. “Nâng cốc nào,” gã nói. “Uống mừng những chiếc quần Docker và áo Windbreaker của các người.” Gã vươn cặp môi chuối mắn đỏ bầm của mình về chiếc ly, trong khi một tay vẫn giữ ngay ngắn thân ly.
Những ngày ấy, sau khi quay về văn phòng, trong khoảng thời gian nhàm chán từ hai giờ đến năm giờ, chúng tôi không bao giờ biết gã sẽ giở những trò gì. Đôi khi gã sẽ chợp mắt trong một ngăn ở nhà vệ sinh nam. Có lúc gã đi tất đứng lên bàn làm việc tháo những bảng đèn tuýp ra khỏi trần. Lúc đi qua, chúng tôi tò mò hỏi gã đang làm gì trên đó vậy. “Tại sao các người không đi mà lo chuyện cứt đái của mình?” gã gợi ý. Đúng là hay ho thật. Nhưng đó không phải hành vi của một người điên, theo quan điểm của chúng tôi. Gã là một kẻ bế tắc toàn tập và khích động - điên rồ, hung hăng và cần được giải thoát, xét cho cùng đó chính là lý do cho bữa trưa hai ly martini. Chúng tôi tốn rất nhiều thời gian buôn dưa lê về chuyện công việc và vụ ly dị đã biến Tom Mota thành một kẻ nghiện ngập như thế nào.
Ai là kẻ nghiện ngập, dù chỉ là mới manh nha, vẫn tỉnh táo bình thường, hay đã say bí tỉ - đó lúc nào cũng là chủ đề cho câu chuyện của chúng tôi. Còn ai đang thậm thụt với ai, đó lại là chủ đề khác. Chẳng có gì là bí mật chuyện Amber Ludwig đang dan díu với Larry Novotny. Bây giờ thì Amber muốn chúng tôi ngừng nói về chuyện đó. Nhưng chẳng phải đúng thế còn gì? Nếu không đúng, đã chẳng ai thèm đả động đến nữa. Đúng không? Amber? Không phản ứng gì. Được rồi - vậy thì chuyện gì bây giờ? Nếu không phải là chuyện thậm thụt với Larry, và nếu như cô vừa mới yêu cầu chúng tôi ngừng nói chuyện về Joe Pope, vậy chúng tôi nên nói về chuyện gì bây giờ? Rốt cuộc, nguyên tắc dân chủ vẫn là nền tảng trong toàn bộ chuyện điên rồ này. Diễn đàn là của cô. Một lần nữa, cứ việc viện lý lẽ là cô không còn cảm thấy an toàn ở đây nữa, rằng Tom Mota lúc nào cũng làm cô sởn gai ốc, và rằng cái mà chúng tôi gọi là những trò hề và hài kịch rẻ tiền thì cô lại coi là chứng điên rồ có thể giết người. Amber?
“Đêm qua tôi cố gắng chợp mắt,” cô ta nói, “nhưng tôi không sao hết lo được.”
Chúng tôi cố nói với cô ta đến cả lần thứ năm mươi rằng gã sẽ không quay trở lại. Cô ta chằm chằm nhìn quanh như thể cô ta là Marcia, như thể cô ta có quyền năng của Marcia, chỉ cần một ánh mắt dữ dội là hạ cấp chúng tôi thành những sinh linh nhỏ nhoi và lố bịch ngay được. Nhưng khi Amber làm thế, ánh mắt chằm chằm lại hướng vào trong và tiết lộ một điều về cô ta, rằng cô ta cảm thấy mình bị hiểu lầm và vì thế thấy tự ái.
“Mọi người đang nói về cái gì vậy?” cô ta hỏi. “Các người lại đang nói chuyện về Tom Mota nữa đấy à? Làm sao các người có thể nói về Tom Mota tại một thời điểm như thế này chứ?”
Cô ta đang nói về ai thế nhỉ?
“Còn ai nữa?” cô ta nói. “Tôi còn có thể nói về ai được nữa trong lúc này?”
Đến khi ấy thì rõ ràng là đã tới lúc chúng tôi đứng lên, quay lại bàn làm việc của mình, và cố gắng bắt kịp Karen trong cuộc chạy đua giành ý tưởng gây quỹ xuất sắc nhất, nhưng vì lý do nào đó không một ai nhúc nhích. “Các người có tin được là ngay lúc này chị ấy đang ở trong phòng mổ không?” Amber hỏi chúng tôi. “Tôi muốn nói là ngay phút này này. Có ai biết ca mổ diễn ra lúc mấy giờ không?”
“Tôi không nghĩ là có ai biết cả,” Genevieve nói.
“Đêm qua,” Amber tiếp tục, “tôi không biết tại sao nữa, nhưng tôi cứ thắc mắc không hiểu chị ấy có bạn trai không.”
“Ồ, thực ra tớ biết đôi chút về chuyện này,” Genevieve thông báo.
Amber sững sờ. “Gì cơ, cậu biết điều gì?”
“Là chị ấy đang hẹn hò với một luật sư.”
“Làm sao cậu lại biết? Chị ấy nói với cậu à?”
“À, không. Tớ nhìn thấy ở nhà hàng hôm tớ đi cùng chồng. Chồng tớ biết tay kia. Họ là luật sư đối đầu nhau trong một vụ án.”
“Cậu nhìn thấy họ ở một nhà hàng à?” Amber hỏi. “Trông anh ta thế nào?”
“Có vẻ đậm người, nếu tớ nhớ không nhầm. Nhưng không béo. Sexy, tớ nghĩ thế. Tớ nghĩ là trông họ rất đẹp đôi.”
“Vậy chuyện gì đã xảy ra? Họ vẫn cùng nhau chứ?”
“À, chuyện đó thì tớ không biết,” Genevieve nói. “Tớ chỉ nhìn thấy họ có một lần ở một nhà hàng thôi mà.”
Im lặng bao trùm. Dường như có một điều rõ ràng là tất cả chúng tôi đều đang tự hỏi Lynn Mason làm gì vào buổi tối khi chị về nhà. Chị có xem ti vi không, hay chị nghĩ rằng ti vi là trò phí thời gian? Chị có những sở thích gì? Hay là chị đã hy sinh việc có sở thích cho tham vọng nghề nghiệp? Chị có tập thể dục không? Chế độ ăn uống của chị có tệ lắm không? Gia đình chị có tiền sử bị ung thư không? Người thân của chị là ai? Bạn của chị là ai? Chuyện gì đã xảy ra giữa chị và tay luật sư? Và chị cảm thấy như thế nào khi đã ngoại tứ tuần rồi mà vẫn chưa kết hôn?
“Tối qua tôi muốn gọi cho chị ấy và đề nghị đưa chị ấy đến bệnh viện,” Amber nói. “Mọi người có hình dung được không? Có khi chị ấy lại bảo, ‘Amber, làm ơn đừng có gọi về nhà tôi lúc mười một giờ đêm.’ Cạch.”
“Ôi, tôi không biết nữa,” Genevieve nói. “Biết đâu chị ấy lại thấy cảm động thì sao. Nhớ sinh nhật chị ấy không?” Chúng tôi đã làm một đoạn phim cho chị nhân dịp sinh nhật, tổng hợp lại những bày tỏ của tất cả mọi người về việc chị tuyệt vời như thế nào. “Chị ấy rất cảm động,” Genevieve nói. “Tôi không nghĩ chúng ta nhìn nhận chị ấy một cách thấu đáo trên tư cách một con người.”
“Khó đấy,” Benny nói. “Chị ấy thật đáng sợ.”
“Tôi không thể hình dung nổi chị ấy mà hẹn hò thì sẽ như thế nào,” Larry nói.
Lại một khoảng lặng kéo dài, cho đến khi Genevieve hỏi, “Mọi người có thực sự nghĩ rằng chị ấy cần được chở đến bệnh viện không?”
Chúng tôi giải tán, trèo xuống tầng năm mươi chín và lên tầng sáu mươi ba, hoặc các tầng ở giữa. Nếu có gì đó đang phát trên đài thì chúng tôi cũng vặn tiếng cho thật nhỏ. Thời tiết bên ngoài, nhìn từ cửa sổ chỗ chúng tôi, có vẻ u ám nhưng không lạnh. Cuối cùng thì cũng đến mùa xuân. Chúng tôi bắt tay vào làm các quảng cáo gây quỹ. Chúng tôi mở một tài liệu Quark mới, hoặc lôi bút chì của mình ra. Chốc chốc lại có một cây bút chì được gọt đẹp đẽ gãy trên trang giấy vì ấn mạnh và chúng tôi lại phải đi tìm chiếc gọt bút chì chạy điện duy nhất. Thật bực mình. Quay về ghế của mình chúng tôi gõ gõ đầu tẩy giữa hai hàm răng. Nếu một cái cặp giấy lẻ loi nào đó tình cờ nằm lăn lóc bên cạnh thì thể nào chúng tôi cũng uốn nó biến dạng. Một số người trong chúng tôi biết làm thế nào để biến một cái kẹp giấy biến dạng thành một viên đạn có thể phóng lên tận trần nhà. Nếu sự chú ý của chúng tôi được hướng lên trần, chúng tôi thường đếm lại những tấm lợp phòng mình. Khi quay trở lại màn hình máy tính, chúng tôi xóa sạch bất kỳ bước khởi đầu chuệch choạc nào mà chúng tôi tìm được, cảm thấy hổ thẹn vì chúng. Chúng tôi có cảm giác rằng những ý tưởng tồi tệ của chúng tôi có lẽ còn tồi tệ hơn những ý tưởng tồi tệ của những người khác. Đến lúc đó thì những kẻ làm việc trên những tập giấy ký họa đã tham gia vào cái trò tiêu khiển tuyệt vời nhưng không được thừa nhận của đời sống văn phòng Mỹ, ném những cục giấy vò nát. Trò này, hơn bất kỳ trò nào khác, chính là hàm ý của thuật ngữ “giờ được trả lương”. Bao giờ cũng thật bực mình khi một bên mí mắt bắt đầu giật giật. Chúng tôi thực hiện một số thao tác kéo-và-thả. Thứ còn thiếu là một bảng màu hấp dẫn, nên chúng tôi lại nằm ngả người ra sau ghế và ngẫm nghĩ một lúc. Loại màu Pantone nào sẽ là hoàn hảo cho một buổi gây quỹ. Không ai từng công khai thú nhận, nhưng có những ngày tụt hứng khủng khiếp. Điện thoại đổ chuông. Nhưng chẳng có gì. Chúng tôi kiểm tra email. Chúng tôi nhấp chuột quay trở lại Quark và thiết lập những hướng dẫn snap-to mới. Thỉnh thoảng máy tính lại treo cứng và chúng tôi phải gọi xuống cho bộ phận IT. Hoặc chúng tôi cần gì đó từ phòng kho. Gần đây đồ trong phòng kho dường như chỉ còn một nửa so với trước kia, và những chiếc giá trống hoác tang thương gợi nhớ đến những chương trình truyền hình chiếu tư liệu về hạn hán và mùa màng thất bát trong lịch sử của một dân tộc bị ruồng bỏ. Nhưng thường thì chúng tôi cũng chẳng cần gì ở phòng kho cả. Chúng tôi lôi những túi đồ ăn vặt của mình ra khỏi ngăn kéo bàn, hoặc chúng tôi gặm móng tay. Bất thình lình một tia chớp sáng lòa của cái hiển nhiên vụt lóe lên, và một tràng những âm thanh gõ bàn phím vang vọng ra ngoài hành lang. Chúng tôi tự nhủ, “Một ý tưởng không đến nỗi nào.” Đó là tất cả những gì chúng tôi cần, một sự rọi sáng nhỏ nhoi. Chỉ một loáng là hình hài thô nhám nhất, thông điệp trần trụi nhất, bắt đầu dần thành hình một cách mạch lạc. Một điều không tránh khỏi là khi đạt đến điểm đó, chúng tôi ngừng lại để vào nhà vệ sinh.
Thành thực mà nói, thì liệu một mình cái buổi gây quỹ này, một trong cả nghìn buổi như vậy, cho dù nó có quyên được bao nhiêu tiền tài trợ đi nữa, có mảy may cơ hội nào đưa chúng ta đến gần hơn việc tìm ra thuốc chữa ung thư vú không? Ai mà biết, có thể nó sẽ làm được. Không ai trong chúng tôi hiểu những tiến bộ trong y học là như thế nào. Biết đâu họ chỉ cần đúng một đô la nữa và sự khẩn nài của chúng tôi sẽ giúp họ tha hồ mà rủng rỉnh.
Chúng tôi cũng xem công việc của mình ngày hôm đó như một ân huệ riêng dành cho Lynn, mặc dù chúng tôi không khỏi nghĩ rằng, bằng cách quyết định không nói cho chúng tôi biết chị bị ung thư, chị đã lừa tước đi của chúng tôi một trong những ảo tưởng to đùng - cụ thể là, chúng tôi có mặt ở đây không chỉ là vì tiền, mà còn là vì cũng biết quan tâm đến tình cảnh của những người xung quanh.
Có lẽ đây là lý do tại sao chị không kể với chúng tôi:
Không lâu sau khi quá trình giảm biên chế bắt đầu, mọi thứ tự nhiên theo nhau biến mất khỏi chỗ làm việc của chúng tôi. Cái vòng tay của Marcia Dwyer, chuỗi hạt Mardi Gras của Jim Jackers. Thoạt đầu chúng tôi tưởng chúng tôi để lẫn những thứ này ở đâu đó. Chúng tôi đã cho mượn chúng, hoặc có thể chúng bị rơi sau giá sách. Don Blattner treo những khung ảnh chụp từ các bộ phim quanh tường phòng của anh ta, đặc biệt nhấn mạnh vào những cảnh từ phim The Lost Boys và From Here to Eternity. Larry Novotny có một bộ sưu tập những lá cờ đuôi nheo World Series có từ năm 1984. Ai mà biết tại sao chúng tôi lại cảm thấy cần phải trưng bày những thứ đó trong phòng làm việc của mình? Đối với vài người điều đó giúp nói lên rằng, Xin chào, đây là tôi. Những người khác đơn giản là thích có những thứ vớ vẩn vô giá trị của mình ở nơi mà họ dành phần lớn thời gian. Khi những thứ vớ vẩn vô giá trị đó bắt đầu biến mất, chúng tôi trở nên tức giận.
Chúng tôi không bao giờ nghi cho đội lao công. Những linh hồn lặng lẽ đó khó có thể liều đổi địa vị pháp lý của họ lấy một cái chặn giấy hoặc một vài thứ đồ chơi lên dây cót bằng nhựa. Đúng là kỳ diệu - không bao giờ có một chiếc CD Walkman, không bao giờ một chiếc ví nào bị bỏ quên trên bàn làm việc qua đêm cả. Thay vào đó, quả địa cầu tuyết Hawaii của Karen. Cái bảng tên mạ vàng của Chris Yop. Những tấm ảnh lồng khung rẻ tiền chụp các bậc cha mẹ béo phì của chúng tôi đi nghỉ. Những món đồ vô tích sự cả về mặt vật chất cũng như tinh thần đối với tất cả mọi người, trừ chúng tôi.
Ông bạn Roland của Benny ở bộ phận bảo vệ thỉnh thoảng làm ca đêm. Một buổi sáng thứ Sáu trong thời gian đó, Benny hỏi bác ta, “Vậy bác tìm thấy gì trong đó?”
“À, tôi kiểm tra rồi,” Roland nói. “Đầu tiên là các tủ tài liệu. Bên trong chẳng có gì sất. Tôi thậm chí còn kiểm tra cả các cặp tài liệu ấy chứ. Sau đó tôi kiểm tra qua các giá sách, nhưng trên giá của anh ta cũng đâu có nhiều sách cho lắm.”
Bác ta đang nói về giá sách của Joe Pope. Một số người đã thuyết phục Benny nói chuyện với Roland, dù chỉ để xem chuyện sẽ như thế nào, và Roland đã làm theo lời Benny một cách rất nghiêm túc.
“Và tôi xem qua cả các ngăn kéo của anh ta nữa,” Roland tiếp tục. “Trong đó cũng chẳng có gì, trừ cái chân thỏ may mắn này.”
“Một cái chân thỏ à?” Benny nói. “Để tôi xem nào.”
Roland chìa ra một cái móc đeo chìa khóa gắn với một chiếc chân thỏ. Trước khi hết ngày Benny đã kịp khoe nó ra với tất cả mọi người và tất cả chúng tôi đều nói không, không có thứ gì trong đống đồ vớ vẩn vô giá trị của chúng tôi lại dính dáng đến một cái móc chìa khóa gắn chân thỏ cả.
“Chắc là thuộc về người ở phòng đó hồi trước,” Roland kết luận khi Benny trả lại nó cho bác ta.
Sau đó, một người mà mãi về sau vẫn sẽ giấu tên vào phòng của Benny; gã bảo gã có một tin muốn Benny đi phao lên. Benny cười rũ rượi về chuyện đó. Nhưng gã kia nói, “Nhưng khoan đã nào, Benny - bọn tớ không đùa đâu. Bọn tớ nghiêm túc đấy.” Và Benny, vẫn cười khùng khục, nói, “Ừ, buồn cười thật, thông minh thật.” Gã kia ngắt lời anh ta. Benny không chịu nghe gã. Benny không lắng nghe gã. “Bọn tớ hoàn toàn nghiêm túc mà,” gã kia nói. Giờ thì Benny có thể thấy là gã kia không hề đùa. “Cậu nghiêm túc à?” Benny nói. “Cậu có chịu nghe tớ không thì bảo, Benny?” gã kia nói. “Bọn tớ cực, cực, cực kỳ nghiêm túc.” “Ồ,” Benny nói. “Tớ cứ tưởng các cậu đang đùa.” “Không, bọn tớ không hề đùa,” gã kia nói. “Bọn tớ không đùa.” “ ‘Bọn tớ’ là những ai vậy?” Benny hỏi. “Benny,” gã kia nói, “đừng có đầu đất thế được không. Cậu nói thế nào đây, cậu có tham gia không?” “Các cậu đang nói đến chuyện cố tình cài bẫy anh ta,” Benny nói. “Như một trò đùa thôi mà!” gã kia thốt lên. “Chỉ là một trò chơi khăm ngu ngốc thôi mà!” “Tớ thấy không ổn lắm,” Benny nói. “Tại sao lại không?” “Tớ không biết,” anh ta nói. “Chỉ là đó không phải chuyện tớ nghĩ tớ muốn làm.” Gã kia chỉ còn biết vỗ tay lên đầu gối và đứng lên. “Được rồi,” gã nói. “Tùy cậu thôi.”
Sau khi gã kia đi, Benny gọi xuống bộ phận bảo vệ. “Tôi có thể làm gì cho cậu đây, Benjamin?” Roland hỏi. “Nghe này,” Benny nói. “Tôi nghĩ bác nên ngừng mấy vụ kiểm tra văn phòng của Joe đi. Đến giờ bác đã vào đó bao nhiêu lần rồi?” Roland bảo với anh ta rằng lần nào trực ca đêm bác ta cũng ghé vào đó, tức là các tối thứ Năm. “Và bác đã tìm được thứ gì chưa?” “Không có gì,” Roland nói, “trừ có cái chân thỏ may mắn đó.” “Nghe này,” Benny nói, “hôm trước chúng tôi chỉ đùa thôi, khi nói anh ta có thể là kẻ đó vì anh ta thực sự là người duy nhất ở lại đây đến chín mười giờ tối. Anh ta làm chúng tôi cảm thấy như thể chúng tôi không làm việc đủ chăm chỉ bởi vì chúng tôi không ở đây lâu bằng một nửa anh ta. Nhưng đó chỉ là nói đùa thôi, Roland. Anh ta không phải thủ phạm của bác đâu. Anh ta đâu có muốn mấy cái đồ lặt vặt của chúng tôi.” “Vậy nếu không phải là anh ta,” Roland nói, “thì là ai đây?” “Này, Roland, bác là bảo vệ ở đây cơ mà. Bác phải nói cho tôi biết mới đúng chứ.” “Nhưng tôi tưởng các cậu bảo các cậu biết đó là ai mà.” “Thì là nói đùa thôi!” Benny thốt lên. “Nói đùa! Đó không phải là anh ta!” “Hừm, thế thì tôi sẽ không vào đó nữa, nếu các cậu bảo tôi rằng tôi nên tìm kiếm ở chỗ khác.” “Tôi đang nói với bác,” Benny nói. “Bác sẽ không tìm thấy bất kỳ thứ gì nếu bác vào trong đó.”
Một hai ngày sau cuộc nói chuyện này, Joe Pope đi tìm một người phụ nữ tên là Paulette Singletary. Paulette là một người phụ nữ da đen xởi lởi khoảng bốn mươi tuổi gì đó với mái tóc rẽ ngôi ở giữa trông gần như y hệt một cái mái nhà lợp tranh. Chị ta chào hỏi tất cả mọi người. Kể ra thì chào hỏi mọi người cũng có thể không phải là chuyện gì to tát lắm, nhưng ở một văn phòng lớn như của chúng tôi, ngày nào chúng tôi cũng nhìn thấy những gương mặt mà chúng tôi còn biết rõ hơn cả mặt mẹ mình, ấy vậy mà chúng tôi không bao giờ được giới thiệu với họ. Có thể chúng tôi ngồi cùng nhau trong một cuộc họp hoặc nhìn thấy họ tại một buổi liên hoan toàn công ty, nhưng bởi vì chúng tôi chưa bao giờ được giới thiệu, chúng tôi lảng ánh mắt của mình mỗi khi đi ngang qua họ ngoài hành lang. Paulette Singletary là người duy nhất trong chúng tôi dừng người khác lại và nói, “Tôi không nghĩ là tôi và anh từng gặp nhau. Tôi tên là Paulette.” Có thể đó là kiểu của dân miền Nam. Paulette quê ở Georgia và vẫn giữ chút giọng pha mà bạn có thể loáng thoáng nhận ra. Với lời chào dành cho tất cả mọi người, một nụ cười ấm áp và một tiếng cười thoải mái, Paulette được tất cả mọi người yêu quý. Thật là một thách thức khi phải tìm ra một người được đồng lòng ủng hộ như vậy, trừ phi đó là Benny Shassburger, và ngay cả Benny cũng có những kẻ dè bỉu.
Joe đi tìm Paulette, nhưng khi không tìm thấy chị ta ở chỗ ngồi, anh ta tự tiện đặt vào chỗ cũ một cục thủy tinh mờ nhỏ cầm trong tay - một thiên thần màu xanh và nâu đỏ - thứ mà anh ta biết thuộc về ô làm việc của Paulette, bởi vì anh ta đã nhìn thấy nó ở đó suốt nhiều tuần nhiều tháng liền. Ngay khi nhìn thấy cục thủy tinh bất ngờ lấp lánh ở góc phòng mình, Joe đã biết nó thuộc về đâu.
Ngày hôm sau, một trong những chiếc laptop cấu hình cao mới mua bỗng mất tích.
“Tất cả các người đang âm mưu gì đó,” Genevieve Latko-Devine vừa nói, vừa lia ngón tay qua một số đông chúng tôi, “và tôi nghĩ các người nên thôi ngay đi.”
Chuyện này có lẽ xảy ra một hay hai ngày sau khi chiếc máy tính bị ăn trộm. Khó mà nhớ được câu nói của cô ta - thực sự là một lời buộc tội, một lời buộc tội thô thiển và hầu như là bất công - là trước một cuộc họp, trong bữa trưa, hay ở quầy cà phê, hoặc có thể là một phút không đâu nào đó mấy người chúng tôi tụ tập quanh chỗ ngồi nào đó trước khi quay về bàn làm việc của mình. Joe đã kể với cô ta là anh ta bối rối như thế nào khi tìm thấy cục thủy tinh mờ của Paulette Singletary trong phòng làm việc của mình. Lẽ ra anh ta đã không để ý nếu như cánh cửa phòng vẫn để ngỏ vào giờ đó của buổi chiều, nhưng anh ta đã đóng cửa lại để làm chút việc, và nó nằm kia, phản chiếu ánh mặt trời trong góc phòng.
Hầu hết trong chúng tôi thực sự không hiểu Genevieve đang nói chuyện gì. “Ồ? Chẳng lẽ cũng là thế này,” cô ta hỏi chúng tôi, “khi có người viết từ Đĩ đực lên tường phòng anh ta?”
“Chính Joe đã làm chuyện đó mà,” Karen Woo nói.
“Ồ, miễn cho tôi đi, Karen. Điều đó thật lố bịch và cô biết thế mà.”
“Tôi không nghĩ là nó lại lố bịch đến thế,” Tom nói.
“Đầu óc các người đúng là bệnh hoạn hết rồi,” Genevieve nói.
“Chứng minh đi,” Tom trả lời.
“Được rồi,” Genevieve nói. “Vậy nói sao về cái lần các người trang trí phòng anh ta bằng băng dính cảnh báo nguy hiểm sinh học?”
Trước đó trong năm, một vài người đã nhúng tay vào một cuộn băng dính nhựa cảnh báo nguy hiểm sinh học màu vàng và khoác một tấm áo mới cho phòng làm việc của Joe. Liệu anh ta có bao giờ đoán ra cái hàm ý bóng gió được tạo ra bởi cái băng dính đó không - rằng vì là một tên “đĩ đực”, anh ta là kẻ mang mầm một căn bệnh không được dễ chịu cho lắm - không ai biết cả. Trên thực tế anh ta không bao giờ đả động đến chuyện này. Anh ta chỉ gỡ băng dính ra khỏi ngưỡng cửa và ghế của mình, rồi, sau khi dựng và khóa xe đạp lại, vẫn tiếp tục như thể chưa hề có chuyện gì xảy ra. Anh ta không tìm kiếm những cái tên hoặc chạy sang chỗ Lynn Mason. Anh ta chỉ vứt đống băng dính vào thùng rác của mình.
“Hay là,” Genevieve tiếp tục, “còn cái lần - và đây là một trong những vụ yêu thích của cá nhân tôi - các người khóa anh ta khỏi máy chủ?”
Bởi vì tất cả các công việc của chúng tôi đều được lưu trên một máy chủ trung tâm, nếu như có một người đang mở một file trên máy tính của anh ta hoặc cô ta, không một ai khác có thể mở file đó ra nữa. Đây là vấn đề quy định bất di bất dịch - chỉ một người được làm việc trên một file cụ thể tại một thời điểm cụ thể. Bằng cách đó chúng tôi loại bỏ được sự chồng chéo và những thứ đại loại. Tin tức lan đi là Joe đang đến deadline của một dự án và cần truy cập vào một tài liệu cụ thể. Tất cả những gì cần làm để khóa anh ta khỏi tài liệu đó là một người mở nó ra. Khi Joe phát hiện ra rằng anh ta đang bị cấm truy cập, anh ta gửi đi một bức email, và rồi một bức khác, và rồi một bức thứ ba, hỏi xem ai là người mở tài liệu đó thì làm ơn đóng nó lại, anh ta đang đến deadline phải hoàn thành. Không ai trả lời. Anh ta buộc phải đi lòng vòng nhìn vào màn hình của từng người. Khi cuối cùng anh ta tìm ra thì người chủ của máy tính đó xin lỗi anh ta, thoát khỏi file đó, rồi gọi cho một người khác ở một tầng khác với một máy tính ở rất xa người này sau đó sẽ mở file đó ra trước khi Joe kịp quay về bàn làm việc của mình, khiến cho anh ta lại bị khóa ở ngoài. Anh ta phải quay lại người đầu tiên, người này viện dẫn mình hoàn toàn vô tội, và nửa giờ sau thì anh ta tìm thấy người thứ hai, người này lại xin lỗi, thoát ra, và gọi cho một người mới, bắt đầu vòng tròn lại từ đầu. Theo lời họ, ý tưởng là, nếu như Joe Pope thích làm việc muộn, cứ việc cho anh ta làm việc muộn.
“Đầu óc bệnh hoạn,” Genevieve nói.
Trước hết, chúng tôi bảo cô ta, chúng tôi chẳng liên quan gì đến việc cục thủy tinh mờ của Paulette nằm ở phòng làm việc của Joe Pope cả. Còn toàn bộ cái vụ ĐĨ ĐỰC ấy à? Mike Boroshansky đã điều tra và đích thân loại trừ trách nhiệm cho tất cả mọi người chúng tôi, và trong đó bao gồm cả Tom Mota. Chẳng phải đúng là đáng sợ sao, chúng tôi hỏi Genevieve, khi nghĩ rằng chính Joe đã làm điều đó? Có thể anh ta đang tìm kiếm sự chú ý, hoặc có mặc cảm bị mọi người ngược đãi. Hơn nữa, chúng tôi tiếp tục thanh minh, chúng tôi không định bao biện cho hành vi của bất kỳ ai, nhưng Joe Pope đâu phải là người quảng giao nhất trên thế giới. Bù khú sau giờ làm với Joe Pope ấy à? Đừng hòng. Joe, anh muốn đi ăn tạm chút gì không? Quên chuyện đó đi.
“Lần cuối cùng,” Genevieve hỏi chúng tôi, trước khi lắc đầu và bỏ đi, “bất kỳ ai trong các người mời Joe đi ăn trưa là khi nào?”
Genevieve đưa ra lời buộc tội của cô ta cũng vào chính khoảng thời gian một buổi chiều Karen Woo ghé qua chỗ ngồi của Jim Jackers và đưa ra tuyên bố khét tiếng của cô ta.
“Tôi vừa mới quay về,” cô ta nói, “từ quán McDonald.”
Câu đó nghe như thể một lời tiết lộ, cái cách mà cô ta nói nó. Jim ngẩng lên khỏi bất kỳ thứ gì đang làm Jim bận tâm khi anh ta ngồi ở bàn làm việc của mình. “Ôi lạy Chúa tôi,” Karen vừa nói vừa tiến lại gần hơn, ngồi vào chiếc ghế nhựa bên cạnh bàn làm việc của anh ta, “tôi vừa mới quay lại...” cô ta dừng lại để tăng thêm sức nặng “... từ quán McDonald.”
“Ở McDonald có gì à?” Jim hỏi.
Theo lời thanh minh của Jim, không thể nào không dính vào Karen khi cô ta ghé qua chỗ ngồi của bạn. Giọng nói của cô ta là một lực tự nhiên, câu chuyện của cô ta là một màn liến thoắng đầy rẫy những cơn xoáy lốc xoắn tít chết chóc. Cô ta giống như Hitler thiếu mỗi chủ nghĩa bài Do Thái, hoặc MLK[22] thiếu lòng trắc ẩn và sự nghiệp cao cả. Trong khi đó Jim lại là một mục tiêu quá dễ dàng. Anh ta lúc nào cũng ngừng bất kỳ thứ gì anh ta đang làm và lắng nghe bất kỳ ai.
“Được rồi, tôi không bao giờ tới McDonald,” Karen nói. “Tôi không tới McDonald có lẽ từ hồi đại học đến giờ. Sáng nay tôi thức dậy và thấy thèm một chiếc Filet-O-Fish[23] kinh khủng.” “Kỳ quái nhỉ,” Jim nói. “Kỳ quái thật phải không?” Karen nói. “Chẳng hiểu sao lại thế. Mới có bảy giờ sáng mà tôi thấy thèm kinh khủng. Thế là, được rồi, tôi phải chờ đến bữa trưa. Tôi chờ được đến mười một rưỡi. Nhưng dù sao cũng mới có mười một rưỡi! Tôi không thể đến McDonald lúc mười một rưỡi mà gọi một suất Filet-O-Fish được. Thế thì thô thiển quá.” “Có thật nó được gọi là Filet-O-Fish không vậy?” Jim hỏi. “Cái gì, chẳng lẽ anh nghĩ nó là Fish-O-Filet chắc?” “Không, tôi tưởng nó là McFilet chứ,” Jim nói. “Không, không phải là McFilet đâu, Jim,” Karen nói. “Đúng là dở hơi. Cực kỳ dở hơi ấy chứ. Không phải là McFilet. Anh có nghe câu chuyện của tôi không thì bảo? Thế là tôi đợi thêm nửa tiếng đồng hồ nữa, sốt ruột đến chết mất, nhưng tôi vẫn đợi. Tôi đến đó. Họ lại hết Filet-O-Fish rồi mới khốn nạn. Tôi thì đứng ở quầy. Lúc đó tôi như kiểu hừ...hừ... và rồi tôi gần như ngã xuống chết ngất.” “Thế cô gọi món gì?” “Không, Jim, đó không phải điều tôi định nói. Tôi chẳng gọi gì cả. Tôi ghét McDonald. Tôi không bao giờ gọi bất kỳ sản phẩm bơ sữa nào của McDonald, tởm bỏ xừ. Tôi muốn một suất Filet-O-Fish cơ.” “Thế cuối cùng cô đi đâu?” Karen trợn mắt lên và hất đầu ra sau thể hiện sự tức giận không để đâu cho hết. “Jim,” cô ta nói, “anh không hiểu à. Đó không phải là những gì tôi định kể. Anh có chịu nghe câu chuyện của tôi không vậy hả? Lúc đó tôi buồn đi vệ sinh kinh khủng,” cô ta nói tiếp, “thế là tôi đi qua khu vực ăn để ra phía sau, và anh đã từng tới McDonald rồi, đúng không? Anh biết là khu vệ sinh nằm ở phía bên tay trái, và phía bên phải là khu vui chơi. Anh hiểu ý tôi nói khu vui chơi là thế nào, đúng không? Với những nhân vật hóa trang kiểu món McFry, với đu quay hình bánh thật băm pho mát và đủ các thứ ấy?” “Khu Playstation,” Jim nói. “Playstation, thế nào cũng được,” Karen nói. “Không, Playstation là trò chơi điện tử,” Jim nói. “PlayPlace!” “Playstation, PlayPlace - thế nào cũng được, Jim. Anh biết là tôi đang nói đến cái gì, đúng không?” Jim gật đầu. “Được rồi, ở khu PlayPlace, họ có một trong những khu quây bằng lưới mà bên trong toàn là bóng nhựa ấy. Anh biết tôi đang nói về cái gì không?” “Chắc chắn rồi,” Jim nói. “Bể bóng nhựa.” “Anh biết à?” Karen hỏi. “Tôi biết chứ,” Jim nói. “Vậy là tôi vào nhà vệ sinh, tôi đi ra, tôi tình cờ nhìn qua cửa sang khu PlayPlace - có một cảnh lọt vào mắt tôi. Tôi dừng lại. Tôi chăm chú nhìn. Hóa ra là Janine Gorjanc.” “Ý cô là sao, Janine Gorjanc là thế nào?” Jim nói. “Thì bên trong bể bóng nhựa,” Karen nói. “Cô nói bên trong là sao cơ?” “Chị ấy ở bên trong với những quả bóng chứ còn sao,” Karen nói. “Ngồi đúng bên trong luôn. Bóng ngập lên tận đây.” “Cô đang nói gì vậy,” Jim nói, “chị ấy ngồi bên trong bể bóng nhựa à?” “Bên trong mà,” Karen nói, “đúng, với những quả bóng ngập tận đây.” “Chị ấy đang làm gì trong đó vậy?” “Thì ngồi.” “Đúng rồi, nhưng tại sao ấy chứ?” “Anh đang hỏi tôi ấy à?” Karen nói. “Làm sao mà tôi biết được?” “Cô có chắc đó là chị ấy không?” “Đúng là Janine Gorjanc mà,” Karen nói. “Chị ấy ngồi ngay bên trong bể bóng nhựa.”
Ngày hôm sau Karen thuyết phục Jim đi theo cô ta tới quán McDonald. Họ gọi bữa trưa - cuối cùng Karen cũng gọi được món sandwich cá của cô ta - và rồi ngồi xuống ở một ngăn trông ra phía trước. Trước khi kịp cắn một miếng, Karen nói, “Quay lại ngay đây.” Khi quay lại, cô ta bảo, “Đi mà xem.”
“Chị ấy có ở trong đó không?”
“Đi mà xem,” Karen nói.
Khi Jim vào đến khu vệ sinh, anh ta nhòm qua cửa ra khu PlayPlace nhưng không nhìn thấy gì. Bồn chồn, anh ta vội chạy vào trong nhà vệ sinh nam. Tuy nhiên, khi quay ra, anh ta nhận thấy mình có cơ man nào là thời gian. Anh ta nhòm qua cửa và rồi qua những lớp lưới thưa màu đen ra khoảng tối nơi bình thường người ta chỉ tìm thấy những đứa trẻ lạch bạch đi loanh quanh, ném quả bóng này vào quả bóng kia, và nắm lấy những mảnh lưới để giữ thăng bằng khi chúng lần theo bề mặt luôn chuyển động của hàng trăm quả bóng. Nhưng tất cả những hoạt động phóng túng đó đã bị thay thế bởi sự hiện diện lặng lẽ, tang tóc của Janine, vẫn là sự hiện diện nặng nề và câm lặng mà chị mang theo mình đến khắp nơi quanh văn phòng. Jim cảm thấy nó rõ mồn một kể cả qua lần cửa kính. Không một quả bóng nào nhúc nhích. Không một đứa trẻ hạnh phúc nào tung tăng quanh đó. Chị không bị nhấn chìm, như Karen đã tả cho anh ta ngày hôm trước. Chân chị, đến đầu gối, chỉ hơi chìm mất dưới những quả bóng. Trông như thể chị đang ngồi nghỉ ngơi bên bờ bể, mà quả đúng thế thật, nói theo cách nào đó, mặc dù dáng ngồi sụp xuống bất động của chị chẳng hề tiết lộ chút gì là niềm vui sướng và thư thái cụm từ đó gọi lên. Khuỷu tay chị chống trên hai đầu gối trong khi mái đầu ủ rũ của chị cùng hai bờ vai tròn gục một cách khổ não vào đống bóng tập trung xung quanh, còn vẻ mặt u tối của chị khiến ta có cảm giác như chị đang trào ra những giọt nước mắt màu đá quý. Jim đoán chị đã tháo bỏ giày trước khi vào trong vì có một đôi giày nữ màu đen nhỏ nhắn nằm ngay phía trước cái cầu thang dành cho trẻ con dẫn lên bể.
Jim quay lại ngăn và thả người xuống ghế của mình.
“Tôi nhìn thấy chị ấy rồi,” anh ta nói.
Karen nói, “Đó không phải là điều kỳ quặc nhất anh từng nhìn thấy đấy chứ?”
“Tôi không biết,” anh ta nói, và chậm rãi gật đầu. “Tôi vẫn đang cố mà tin chuyện đó đây.”
Ngày hôm sau Karen và Jim thuyết phục Benny Shassburger đi đến McDonald cùng với họ. Họ không nói với anh ta là tại sao, họ chỉ nói là ở đó có một thứ mà anh ta sẽ muốn xem. Tất cả đều gọi bữa trưa. “Vậy tại sao tôi lại ở đây?” Benny hỏi khi họ ngồi xuống. “Vì Janine Gorjanc…” Jim bắt đầu, nhưng bị Karen ngắt lời ngay lập tức. “Đừng nói với cậu ta!” cô ta quát lên, phát vào tay anh ta. “Nó sẽ không có tác động như thế nếu cậu ta nghe kể trước khi nhìn thấy.” “Tôi sẽ nhìn thấy gì?” Benny nói. “Được rồi,” Karen nói, “Tôi muốn cậu vào nhà vệ sinh, và trên đường vào đó, tôi muốn cậu nhìn qua cửa sang khu vui chơi. Cậu biết khu vui chơi là gì rồi, đúng không? Đừng có nhìn chằm chằm, đừng mở cửa. Chỉ nhòm qua thôi. Hiểu chưa?” Benny quay lại và nói. “Chuyện quái quỷ gì vậy?” “Là Janine Gorjanc mà,” Karen nói. “Ừ, tôi biết rồi,” Benny nói. “Nhưng chị ấy làm gì trong đó vậy?” Jim và Karen nhún vai không nói gì. “Tôi phải nhìn lại mới được,” Benny nói, và đứng lên khỏi ngăn.
Anh ta nấn ná ở nhà vệ sinh nam. Janine ngồi gục đầu trên những quả bóng màu với hai chân bị lấp kín. Chị cầm một quả bóng và đang chậm rãi tung đi tung lại nó giữa hai tay. Chị thả nó xuống và nhặt một quả khác lên. Sau đó chị vốc lên liền mấy quả cùng một lúc và rải chúng lên lòng, và mấy quả bóng vẫn nằm nguyên ở đó khi chị luồn tay dưới đùi tự ôm lấy mình.
Benny quay lại ngăn. “Như thể chị ấy là đứa trẻ lên năm vậy,” anh ta nói.
“Đó không phải là điều kỳ quặc nhất cậu từng thấy đấy chứ?” Karen hỏi.
Đến ngày thứ ba họ đưa Marcia Dwyer đi cùng. Họ lặp lại quy trình đó với Marcia và khi Marcia quay trở về từ nhà vệ sinh cô ta bảo, “Ừ, đúng là hơi lạ lùng thật.” “Hơi lạ lùng ấy à?” Karen nói. “Ít nhất cũng phải hơn hơi lạ lùng một chút chứ, Marcia.” “Lũ ngu ngốc các người,” Marcia vừa nói vừa nhìn quanh bè lũ mọi rợ mà số phận ngẫu nhiên đã buộc cô ta vào cùng. “Chị ấy đang than khóc.” “Than khóc?” Jim nói. “Ừ, than khóc,” Marcia nói. “Tiếc thương. Đã bao giờ nghe thấy chưa hả?” “Chị ấy đang làm vậy sao?” Jim hỏi. “Chị ấy đang than khóc?” “Tất nhiên là chị ấy đang than khóc rồi,” Karen nói. “Nhưng ai mà lại đi than khóc kiểu đó?” Marcia trả lời một cách am hiểu rằng mỗi người khác nhau thì than khóc theo kiểu khác nhau. “Một số người thậm chí còn không khóc,” cô ta nói. “Một số người thì khóc mãi không thôi. Tất cả cũng tùy.” “Ừ, nhưng có vẻ cô không hiểu rồi, Marcia,” Karen nói. “Chị ấy đang ngồi trong một bể bóng nhựa ở ngay giữa một quán McDonald. Điều đó đúng thật là kỳ quái.”
Jim xin kiếu vào ngày hôm sau, và cả Benny cũng vậy, nhưng Karen vẫn thuyết phục được Amber Ludwig đến ăn ở McDonald cùng với cô ta, và với Amber thì còn có cả Larry Novotny nữa. Khi Amber quay lại ngăn của mình mắt cô ta ngấn lệ. Ngày hôm sau nữa, Dan Wisdom đi cùng Karen tới quán McDonald. Sau đó thì cuối tuần qua đi, và đến thứ Hai là Chris Yop. Sang thứ Ba, Reiser tập tễnh đến đó. Không ai thực sự muốn đi cả. Xét cho cùng thì đó là một quán McDonald, và ăn trưa với Karen thì bao giờ cũng điếc cả tai. Nhưng cô ta rất dai dẳng, mọi người chỉ đi cùng cô ta cho xong nợ. Janine vẫn ở đó, ngồi giữa bể bóng nhựa, và mọi người biết tại sao họ lại đến đây.
Dần dần suốt cả mấy tuần sau đó, về cơ bản là tất cả mọi người đều đến quán McDonald. Nếu Karen không đi được, họ đi mà không có cô ta. Nói thế có nghĩa là, chúng tôi đi mà không có cô ta. Bạn biết đấy, mọi người đều nói về chuyện đó. Đó đâu phải là chuyện mà bạn có thể bỏ qua cho được. Kiểu gì bạn cũng phải đi. Đầu tiên bạn nghe nói về chuyện đó, sau đó bạn phải tận mắt chứng kiến mới xong. Bạn đứng trước cửa nhà vệ sinh như thể bạn hoàn toàn có ý định bước vào bên trong, nhưng thay vào đó bạn nhòm qua cánh cửa, qua tấm lưới, và theo dõi dáng người cúi gằm không lẫn vào đâu được của Janine Gorjanc - có lúc nhìn trân trân vào cõi vô định, lúc khác thì lại tập trung vào những quả bóng theo cách nào đó, cầm hoặc tung hay lướt tay qua bề mặt lượn sóng của chúng. Bạn đi để khi quay về văn phòng, cả bạn cũng có thể khẳng định rằng bạn đã nhìn thấy cảnh đó - Janine Gorjanc ngồi trong bể bóng nhựa - và đó thật là một cảnh tượng lạ lùng.
Joe Pope đi lên thang máy với chiếc xe đạp của anh ta và dắt nó dọc hành lang về phòng làm việc của mình, nơi anh ta tìm thấy Mike Boroshansky, mặc áo vest màu xanh hải quân, đứng dựa mông vào chiếc tủ kệ phía sau, và ông bạn Roland của Benny đứng dựa lưng vào tường, chờ anh ta đến. Chiếc laptop, vốn đã mất tích tuần trước đó, nằm trên mặt bàn ngăn nắp của Joe, cùng những món đồ văn phòng lặt vặt đã chứng tỏ là chúng đủ mỏng để nhét giữa bức tường phòng anh ta và giá sách: những tấm biển số xe màu xanh của bang Vermont, một khung ảnh chụp Burt Lancaster và Frank Sinatra mặc quân phục hải quân tụ tập với những người khác tại một quán bar. Mọi người đi qua nhận ra những món đồ này vì họ đã quen nhìn thấy chúng ở những phòng làm việc khác.
“Tại sao anh không đóng cửa lại, Joe?” Mike Boroshansky gợi ý. “Lynn sẽ tới đây bất kỳ lúc nào.”
Toàn bộ vấn đề được làm rõ trong nửa tiếng đồng hồ sau đó. Không lâu sau khi Lynn bước vào, người ta nhìn thấy Genevieve Latko-Devine gõ cửa phòng Joe. Kẻ tình nghi mọi khi được dẫn vào - đó là mấy tháng trước khi Tom bị sa thải, nhưng vốn dĩ gã lúc nào chẳng ở trong tình trạng phấp phỏng bấp bênh. Chúng tôi có thể nghe thấy những câu phản đối lúng búng của gã qua vách tường mỏng như tờ giấy. Chúng bị ngắt bởi Benny Shassburger. Benny vênh vang khẳng định rằng anh ta vào đó hoàn toàn là tự theo ý mình. Anh ta không việc gì phải vào đó cả; lẽ ra anh ta có thể đứng ngoài chuyện này. Roland không bao giờ nói chính anh ta là người đầu tiên gợi ý rằng phòng làm việc của Joe Pope có thể là một nơi đáng quan tâm. Lynn Mason muốn biết ai là người chịu trách nhiệm. “Hãy cho tôi một cái tên, Benny,” chị nói. Benny lảng tránh đề nghị của chị. “Không phải là một cá nhân nào cả, tôi không nghĩ thế,” anh ta nói. “Kiểu như tinh thần thời đại thì đúng hơn.” “ ‘Tinh thần thời đại’? Thế là thế nào, ‘tinh thần thời đại’ là thế nào, Benny?” “Chị biết đấy,” anh ta nói. “Không, tôi không biết,” Lynn phản bác. “Với tất cả sự tôn trọng, Benny, tôi nghĩ các chuyên viên mỹ thuật nên tránh sử dụng những từ hoa mỹ. Nếu anh có thể cho tôi một cái tên của người chịu trách nhiệm về chuyện này, tôi muốn anh nói ra.” “Tôi không có cái tên nào cho chị cả,” anh ta nói. “Chỉ là chuyện đồn qua đồn lại, rất nhiều người đều nói về chuyện đó. Đó là một trò đùa thôi, tôi cứ tưởng thế.” “Nghe có vẻ như anh có cả một rổ tên cho tôi thì phải,” Lynn trả lời. “Vâng, nhưng không có cái tên nào cụ thể cả,” Benny nói. “Thực lòng... tôi không biết đó là ý tưởng của ai, và tôi không biết ai làm chuyện này. Nhưng tôi có thể nói với mọi người rằng đó không phải là Tom.” “Tôi thề có Chúa là tôi không dính dáng gì trong vụ này,” Tom nói. Lynn không thèm đếm xỉa gì đến gã. “Lần sau,” Lynn nói, “mà anh còn nghe phong thanh thấy cái trò ‘tinh thần thời đại’ đó ở đây, Benny? Người đầu tiên tôi muốn anh đến nói chuyện là tôi. Nếu không, tôi sẽ tự mình nghĩ ra một cái tên, và tôi không nghĩ anh sẽ thích cái tên mà tôi nghĩ ra đâu. Hiểu chứ?” “Tôi hiểu rồi,” anh ta nói. Lúc đang đi ra, anh ta nghe thấy chị nói, “Lạy Chúa, lũ người này làm những trò vớ vẩn điên rồ hết sức.”
“Dù sao cũng tốt là tìm lại được chiếc laptop của các vị,” Mike Boroshansky nói.
“Joe,” chị nói. “Tôi xin lỗi về chuyện này.”
Joe vẫy tay như không có gì. “Chị định làm gì bây giờ?” anh ta hỏi.
“Hay là sa thải quách từng đứa chết tiệt bọn họ là xong,” chị nói.
Đến trưa ngày hôm đó, Benny nói với Roland, “Ông bạn ơi, tôi đã bảo với bác là đừng có vào đó nữa làm gì, đúng không? Chẳng phải tôi đã bảo anh ta không phải người mà bác cần tìm?” “Đúng là anh bảo rồi,” Roland nói. “Vậy thì tại sao bác lại phải vào trong đó?” “Trực ca đêm buồn chán lắm, Benny,” Roland nói như thanh minh. “Cậu đã bao giờ làm ca đêm chưa? Cậu làm bất kỳ việc gì có thể để giết thời gian. Tôi không hy vọng sẽ tìm thấy thứ gì. Nhưng tất cả nằm chềnh ềnh ra kia! Tôi còn biết phải làm gì nữa nào?” “Vâng, nhưng nếu như bác đứng ra ngoài chỗ đó ngay từ đầu,” Benny nói, “đã không có chuyện gì xảy ra rồi, và tôi đã không phải gặp rắc rối với Lynn.” “Làm sao mà tôi biết họ đang cài bẫy anh ta chứ, Benny?”
Chúng tôi tôn trọng thực tế là Benny không hề nêu bất kỳ cái tên nào. Kể ra cũng tốt khi biết rằng nếu một người trong chúng tôi có làm điều gì đó ngu ngốc, có lẽ anh ta cũng giữ kín điều đó cho riêng mình.
Cuối buổi chiều hôm đó chúng tôi nhìn thấy Joe Pope đi về hướng quầy cà phê, điều đó có nghĩa là về hướng chúng tôi - có mấy người chúng tôi đang ngồi đó tận hưởng thời gian giải lao - và chúng tôi thấy tò mò: anh ta sẽ gọi gì nhỉ? Anh chàng Joe Pope bí hiểm sẽ dùng gì để tăng cường sinh lực? Nhưng sau đó thì anh ta bước qua chỗ gọi đồ và vẫn đi tiếp. Anh ta dừng lại ngay giữa câu chuyện của chúng tôi, làm nó phải ngừng phắt lại, và chúng tôi nghĩ bụng, ôi, chết tiệt - đến rồi đây. Anh ta đã đến ngưỡng hết chịu nổi. Tim chúng tôi bắt đầu đập thình thịch trong lồng ngực. Chúng tôi cuống cuồng tự hỏi - chúng tôi nên bao biện đến mức nào nhỉ? Nên dối trá đến mức nào? Tập quán của chúng tôi là dối trá một cách trơ tráo với Joe Pope, thường là trong những chuyện liên quan đến đây là lỗi của ai, hoặc cái kia trục trặc ở khâu nào, và rồi sau khi anh ta đã đi khỏi và những cảm biến đạo đức của chúng tôi dịch chuyển lại hướng chính Bắc, chúng tôi thường cảm thấy một thoáng hối hận về sự dối trá của mình. Tất nhiên chẳng bao lâu anh ta sẽ lại quay lại và, vốn được sinh ra trong tội lỗi, hay quên và hết thuốc chữa, chúng tôi lại lươn lẹo lần nữa. Nhưng có thể lần này chúng tôi sẽ không lươn lẹo nữa. Có lẽ thực ra chúng tôi nợ anh ta một lời xin lỗi. Xét cho cùng thì thằng cha này đã bị đè nén quá mức - anh ta có đủ mọi lý do để ức chế. Và khi anh ta bắt đầu nói, bằng một giọng khẽ khàng rành rọt, nhìn thẳng vào mắt mỗi chúng tôi, lần lượt theo thứ tự, và trong khoảng thời gian dài như nhau - “Tôi đã cố gắng hết sức,” anh ta bắt đầu, “không để một số chuyện nhất định dây dưa đến mình, và để đối xử với mỗi người các bạn trên cơ sở cá nhân, một cách công bằng nhất có thể” - chúng tôi không thể tranh cãi với những gì anh ta nói và nghĩ bụng có lẽ anh ta thực sự xứng đáng với một lời xin lỗi, mặc dù hoàn toàn chẳng có gì chắc chắn là anh ta sẽ nhận được một lời như vậy. Chúng tôi đã bị Lynn nhiếc móc và bị Genevieve làm cho cảm thấy mình thật nhỏ nhen, cô ta bảo, như cô ta từng bảo mấy dịp khác, rằng cô ta vĩnh viễn không dính vào với chúng tôi nữa. “Tuy nhiên, sự công bằng của tôi đã đi đến giới hạn,” Joe tiếp tục, “khi các người biến Janine Gorjanc thành một trong những trò chơi của mình.”
“Janine Gorjanc?” Hank Neary nói, anh ta ngạc nhiên chẳng kém gì những người còn lại trong chúng tôi khi nghe thấy Joe nói đến tên chị. “Ai lại làm một chuyện như thế với Janine hả?”
Joe vẫn đứng yên đó với sự im lặng đầy ấn tượng khiến chúng tôi cảm thấy bứt rứt không để đâu cho hết. Ngay lúc đó thì trông anh ta chẳng có gì là hơi lùn mất vài phân cả. Anh ta không yêu cầu lời giải thích hay đưa ra lời đe dọa nào. Anh ta cũng không đứng đó để tìm kiếm sự đền bù cho những gì sai trái gây ra với mình. Anh ta chỉ nói, “Đừng có thế nữa. Đừng có quấy rầy chị ấy trong giờ ăn trưa của mình nữa. Đừng có đứng ở cửa nhà vệ sinh mà trố mắt ra. Hãy để cho người phụ nữ ấy được yên.”
Tom Mota đã tới chỗ Joe kể cho anh ta nghe chúng tôi làm gì ở quán McDonald. Tom Mota, trong bao nhiêu người! Chúng tôi không thể nào tin nổi. Sau đó chúng tôi nghe nói rằng gã đã tới cả chỗ Janine kể cho chị nghe nữa. Sau đó, chúng tôi phải nối đuôi nhau xếp hàng vào đó để mà xin lỗi. Amber Ludwig, Larry Novotny, Benny và Jim. Don Blattner nói gì đó với chị ở chỗ in tài liệu. Genevieve Latko-Devine thì gọi về nhà cho chị. Lòng vòng lại đến thứ Hai, và chúng tôi xin lỗi cả vào thứ Hai nữa.
“Đúng là kỳ quặc thật mà,” Janine thừa nhận với chúng tôi.
Chúng tôi nói với Janine rằng chị không việc gì phải giải thích bất kỳ điều gì với bất kỳ ai trong chúng tôi.
“Không, đúng thế mà,” chị khăng khăng. “Tôi biết là kỳ quặc. Nhưng đó là một trong những chỗ chơi của con bé trước kia. Con bé mới có chín tuổi, mọi người biết đấy. Nó có những chỗ chơi của mình. Tôi vẫn đến Toys ‘R’ Us, và Gymboree. Ở đó họ cũng nghĩ tôi bị điên. Những người ở McDonald thì nghĩ tôi chập mạch nặng. Nhưng đó cũng là những chỗ của tôi nữa. Chúng đã trở thành những chỗ của tôi. Tôi đi cùng với con bé mỗi khi nó đến những nơi này. Và tôi chưa biết phải làm như thế nào để từ bỏ chúng cả. Đằng nào tôi cũng sẽ tới đó mà, đúng không, nếu như con bé còn sống?”
Chúng tôi cảm thấy mình cực kỳ khốn nạn. Chúng tôi xin lỗi thêm một chút. Chúng tôi đã mang cuộc đời của Janine, và nỗi đau khổ của chị, ra làm trò cười, và chúng tôi trang trọng thề - thực ra là hầu hết chúng tôi - rằng sẽ không bao giờ có trò cười nào nữa.
Tom trèo lên những nấc thang mục nát, cẩn thận bám chắc lấy phần tay nắm hoen gỉ của cái cột gỗ. Tình trạng ọp ẹp của chiếc thang là một dấu hiệu về sự bỏ mặc mà tấm biển quảng cáo đã phải chịu đựng ở cái vị trí heo hút, hoang vắng của mình mãi tận mạn phía Tây, nơi những làn giao thông thu hẹp lại từ tám còn có bốn và khoảng cách giữa các đường rẽ ra kéo dài thành nhiều dặm. Nhưng sẽ thật là một sai lầm nếu quy tình trạng rách nát tồi tệ này của tấm biển quảng cáo dãi dầu mưa nắng này cho riêng nguyên nhân vị trí. Những tấm biển quảng cáo khác cũng ở mạn Tây này, đặc biệt là những tấm quảng cáo các casino trên thuyền, là những kết cấu bằng kim loại mới kiên cố hoàn toàn không có một vết sơn bong tróc, một số còn được chiếu sáng bằng đèn pha hai mươi tư giờ mỗi ngày. Chính thằng cha cung cấp dịch vụ khốn kiếp mới xứng đáng lãnh chịu phần lớn lời trách tội vì đã bỏ bẵng chuyện này, và khi gã trèo lên, Tom băn khoăn về điều bí hiểm tại sao vị trí này không được khai thác tiếp. Thế nào mà chẳng tìm được lũ khách tranh nhau mò đến. Việc tấm ảnh cô con gái lớp bốn của Janine Gorjanc được phóng to lên ngoại cỡ đã bị để mặc cho lay lắt sau khi thi thể thực sự của cô bé đã an nghỉ dưới lòng đất không chỉ là sự thờ ơ tàn nhẫn đối với nỗi thống khổ của con người. Đó còn là một hành động tồi tệ trong kinh doanh.
Bình minh còn chưa ló dạng khi gã cắm mũi chiếc Miata cổ lỗ của mình vào bãi trống ngoài đường chính nơi một vạt rừng nhỏ mọc lên cách đường cao tốc gần trăm mét. Hành trình trèo thang của gã diễn ra chậm chạp và chật vật vì cả mớ đồ gã mang trong ba lô, quan trọng là trong đó có cả một nửa phích đầy martini mà gã đã lắc qua loa với đá trước khi đóng thùng xe và đi theo sự dẫn đường của chiếc đèn pin. Lũ dế kêu rả rích trong bóng tối im lìm. Những chiến thuật sống sót đã dạy gã một mánh lới rất hữu hiệu: quấn băng dính vào phía cuối chiếc đèn pin cực mạnh nhưng gọn gàng cho phép gã giữ nó một cách dễ dàng bằng hàm răng cửa trong lúc gã trèo lên, soi sáng con đường phía trên đầu gã trong khi hai tay được rảnh rang, một tay gã cần để giữ chắc cái chổi lăn sơn. Cái này được gã đặt trước tiên lên khung giàn giáo ngay khi gã lên đến trên cùng. Gã đu người lên trên và lấy chiếc ba lô dã ngoại to tổ bố ra khỏi vai và đặt nó bên cạnh chiếc chổi lăn sơn. Lia đèn pin dọc theo chiều dài của khung giàn giáo, gã nhìn thấy cái thứ kiểu gì cũng phải ở đó: ba tấm ván gỗ xám xịt cho gã khoảng trống không lớn hơn những gì dành cho một người công nhân lau kính bên ngoài cửa sổ tầng sáu mươi hai phòng gã. Trước khi ánh hồng đầu tiên xuất hiện trên bầu trời, gã mở nắp phích tự rót cho mình một ly, màn phục vụ rượu của gã được hỗ trợ nhiều vô kể từ chiếc đèn Maglite trong miệng. Gã rút chiếc đèn ra và nhấp một ngụm.
Gã lấy đồ của mình ra - hai lọ sơn nhà màu trắng, một khay lăn sơn đáy sâu, hai đầu chổi lăn sơn, và một cây sào nối dài. Gã nhấm nháp từ nắp phích trong lúc pha và rót sơn ra, mùi sơn xộc lên chào đón gã. Ánh mặt trời le lói phớt qua người gã khi gã bước dọc theo khung giàn giáo, lăn chổi sơn lên xuống bề mặt tấm biển quảng cáo, thao tác thành thạo và cẩn thận để sơn phủ kín hình ảnh đang nhòe dần của cô bé. Nó đã ở đó vài tháng, dãi dầu qua mùa đông tồi tệ miền Trung Tây và những cơn mưa xuân đầu mùa, rúm ró nhiều chỗ, những vết bong bóng sơn nứt toác ra làm đôi. Giờ có cái sào dài, gã sơn kín được nhiều hơn những gì gã đã tưởng, nhưng gã vẫn còn khá nhiều chỗ phải sơn, thế là gã đặt chổi lăn sơn xuống và nốc nốt chỗ martini, rồi lấy một khẩu súng bắn đạn sơn từ trong ba lô. Gã rót một ly martini thứ hai, rồi nạp đạn vào khẩu súng. Từ vị trí của mình trên giàn giáo, gã chỉ có thể nhìn thấy khuôn mặt của cô bé ở một góc khá hẹp, khiến gã không biết chính xác phải ngắm như thế nào. Nhưng gã đã mang theo rất nhiều viên đạn sơn trắng mà gã đã lựa chọn cho hợp với màu sơn nhà, và vừa nhấm nháp ly martini thứ hai cũng là lúc bầu trời báo hiệu sự bắt đầu của một cuối tuần trống rỗng, dài dằng dặc khác, gã bước tiến bước lui dọc theo những tấm ván hết nạp đạn lại bắn, phủ kín hình ảnh của cô bé xấu số từng vết từng vết một, bởi vì những lời phàn nàn của gã với Jane Trimble đã chẳng đi đến đâu - và bởi vì trong câu chuyện buổi sáng trước đó, Janine đã nói rằng chị không thể chịu đựng nổi phải nhìn thấy nó thêm một ngày nào nữa.

