Và Thế Là Chúng Ta Tiêu - Chương 05

Những hoạt động ngoài giờ của Carl - Một lời thú nhận với Lynn - Cuộc gọi của Tom được trả lời nhanh chóng - Gấp đôi và đỏ - Đốn đời hết cỡ - Trò nhóm nhủng vớ vẩn - Khởi nguồn - Câu chuyện với Carl - Lynn ở cơ quan - Câu chuyện với Sandy - Cánh cửa mới của Deirdre - Để Robbie Stokes ngoài chuyện đó - Marcia có làm ơn gọi điện đi không? - Thôi ngay đi cho

Một hôm Carl Garbedian khiêng màn hình máy tính của anh ta lên đặt sang đầu kia của cái bàn. Anh ta không thích để nó ở đó lắm, vì vậy đến cuối ngày anh ta lại trả nó về chỗ cũ. Nhưng trong thời gian đó anh ta đã kịp nhận ra là cái bàn bụi bặm như thế nào, thế là sáng hôm sau anh ta mang đồ lau dọn từ nhà đến và dọn bụi cho cái bàn, cùng tủ ngăn kéo và giá sách của anh ta. Anh ta ở lại muộn và lau bụi cho đồ đạc các phòng làm việc từ chỗ mình xuống dọc hành lang. Marilynn lại làm việc muộn, tất nhiên rồi, và anh ta chẳng còn việc gì hay hơn để làm, và, thật ngạc nhiên, anh ta tìm thấy niềm vui trong công việc đó. Đêm tiếp theo anh ta lau dọn bàn và ngăn tủ tại những phòng làm việc ở các tầng khác cho đến khi Hank Neary, trong một đêm làm việc muộn cho cuốn tiểu thuyết thất bại của mình, từ nhà vệ sinh quay trở vào và nhìn thấy Carl trong phòng làm việc của mình, đang lau chùi chân ghế. “Cậu đang làm gì với cái ghế của tớ vậy, Carl?” anh ta hỏi.

Trước đó trong các cuộc họp triển khai công việc Carl đã dần có thói quen che chắn cho đôi mắt của anh ta bằng một tập giấy ghi chép. Anh ta vào trong phòng họp, thả toẹt tập giấy ghi chép lên mặt bàn, và hấp háy mắt dưới ánh sáng bất ngờ. “Lạy Chúa, chói mắt quá,” anh ta vừa nói, vừa giơ tay lên che chỗ của tập giấy ghi chép trước đó. Anh ta vừa nháy mắt và hấp háy, vừa cố làm quen dần, nhưng cuối cùng vẫn phải dùng lại tập giấy ghi chép. “Christ, ở đây chói quá. Chúng ta có thể tắt cái đèn đó đi được không?” Qua khóe những đôi mắt nhập nhèm và bối rối của mình, chúng tôi ngoảnh sang nhìn nhau. Cuối cùng Tom Mota hỏi anh ta, “Carl, ông bạn ơi, đèn tắt rồi còn gì.” Mà đúng thế thật - nhiều lúc, ánh nắng mặt trời từ cửa sổ rọi vào thuyết phục được chúng tôi không bật những bóng điện trên đầu lên. Ấy thế mà anh ta vẫn hấp háy mắt và lấp ló dưới tập giấy ghi chép trong suốt cả buổi họp.

Một lúc sau đó anh ta chạy tọt dọc hành lang. Anh ta chạy dọc hành lang lần thứ hai. Đến lần thứ ba thì như kiểu anh ta đang chạy vòng vòng hay gì đó. Một vài người chúng tôi đang đứng ở cửa phòng Benny Shassburger, túm tụm xung quanh tán gẫu với Benny đang ở giữa. Khi Carl chạy vòng trở lại, Tom quát lên với anh ta. “Carl! Cái quái quỷ gì vậy, anh bạn - cậu đang làm gì vậy hả?”

Carl dừng lại, lắc đầu thở không ra hơi với Tom. Sau đó, như một con mèo mà bạn không thể nào nói chuyện phải quấy được, anh ta lại lao vọt đi.

“Anh ta bị làm sao vậy nhỉ?” Benny hỏi.

Tom nhún vai. “Làm sao tôi biết được?”

Trong tuần đó, Carl đã bịt kín các cửa sổ phòng anh ta bằng giấy xi măng. Loại giấy đó, dù không hẳn là được phê chuẩn bởi ban giám đốc hoặc mụ quản lý văn phòng, đại loại cũng là thứ được chấp nhận trong văn phòng của chúng tôi, trên cơ sở là chúng tôi nên tận hưởng một môi trường sáng tạo và những trò quái đản của chúng tôi nên được nuông chiều, như thế chúng tôi có thể tiếp tục nghĩ ra những dòng tít thông minh và những thiết kế bắt mắt. Nhưng Carl vẫn bị chất vấn vì chuyện đó và anh ta giải thích rằng không hiểu tại sao anh ta lại phát sinh cái tật cực kỳ nhạy cảm với ánh sáng, và giơ một cặp kính râm mắt vuông mà vốn chỉ thấy ở những ông già bà lão ra như để làm bằng chứng, anh ta khẳng định là dạo này đi đâu anh ta cũng đeo, đôi khi ngay cả ở trong phòng làm việc. Bóng ma về đơn kiện đòi tiền bồi thường của một nhân viên liên quan đến chuyện xử lý đôi mắt nhạy cảm của Carl có vẻ như đã bắt đầu lởn vởn, thế là Lynn Mason đành chỉ thị với mụ quản lý văn phòng là cứ bảo Carl rằng anh ta có thể giữ đống giấy đó. Thế rồi, khi chị có hai phút để suy nghĩ, Lynn xuống phòng làm việc của Carl.

“Việc đột nhiên trở nên nhạy cảm với ánh sáng nghe có vẻ không được bình thường đâu,” chị nói, khi đang đứng ở cửa phòng Carl. “Có lẽ anh cần đi gặp một bác sĩ nhãn khoa mới được.”

“Ồ không.”

“Tôi không cố ý tọc mạch đâu, Carl, nhưng lần gần đây nhất anh gặp bác sĩ là khi nào?”

“Ồ, tôi không cần bác sĩ nào hết,” Carl nói.

Anh ta tiếp tục giải thích rằng, nếu không vì chuyện nhạy cảm với ánh sáng và thỉnh thoảng đau đầu như búa bổ, rồi mấy cơn hoa mắt chóng mặt và vã mồ hôi bất thường, thì phải nói là cả đời anh ta chưa bao giờ cảm thấy khỏe hơn lúc này. “Nó đã xua tan,” anh ta nói với chị, “tất cả những ý nghĩ của tôi về chuyện tự tử.”

Lynn quá choáng váng vì lời thú nhận thẳng thừng của Carl về chuyện tự tử nên đã quên mất việc dừng lại và hỏi, Nó là cái gì? Cái gì đã xua tan? Thay vào đó chị đi thẳng từ ngưỡng cửa vào phòng làm việc của Carl, khép hờ cánh cửa lại, và bảo anh ta, “Carl, anh đã có ý nghĩ tự tử à?”

“Ồ, vâng,” Carl nói. “Nhiều ấy chứ. Tôi đã nghiên cứu rồi, Lynn. Tôi biết... ừm, tôi thực sự nghi ngờ việc chị muốn nghe tất cả các chi tiết. Nhưng tôi ở đây để nói với chị, tôi đã từng rất sẵn sàng.”

Lynn lắng nghe anh ta như thỉnh thoảng chị vẫn có thể, như một người được trả tiền theo giờ để làm việc đó. Chị ngồi xuống một góc bàn của anh ta và trán chị nhíu lại vì lo lắng trong khi Carl kể lại cho chị nghe câu chuyện về những đêm dài của anh ta khi Marilynn làm việc muộn và anh ta chỉ có một mình, việc anh ta ghen tị như thế nào khi so sánh sự lựa chọn sự nghiệp của cô ta với của mình, và đột nhiên tất cả mọi hoạt động bỗng mất hết vẻ lung linh vốn có như thế nào. Và rồi anh ta nói một điều khiến chị cảm nhận được chiều sâu, chiều sâu không thể nào hiểu nổi về nỗi tuyệt vọng một dạo của anh ta.

“Đừng có phát hoảng khi tôi kể cho chị nghe chuyện này,” anh ta nói, “bởi vì tôi có thể hứa với chị là tất cả đã qua rồi, nhưng một trong những lý do - và tôi cảm thấy thật xấu hổ vì điều này - nhưng một trong những lý do tôi từng muốn tự tử là vì như thế cô ấy sẽ tìm thấy xác tôi.” Bất thình lình Carl òa khóc. “Vợ tôi,” anh ta nói. “Người vợ xinh đẹp của tôi! Cô ấy thật đáng yêu, thật tốt biết bao,” anh ta nói, khi cơn sướt mướt đã bị chế ngự. “Tôi không thể nói với chị là cô ấy tốt đến nhường nào, Lynn, và cô ấy yêu tôi nhiều biết bao. Mà chị biết đấy, cô ấy có công việc hết sức khó khăn đúng không? Cô ấy chăm sóc những người ốm rất nặng. Họ liên tục chết trên tay cô ấy. Nhưng cô ấy yêu quý họ, và cô ấy yêu tôi, vậy mà tôi lại muốn làm chuyện khủng khiếp này với cô ấy.”

Đến lúc này thì Lynn đã lại gần hơn và đặt tay chị lên vai Carl. Chị nhẹ nhàng xoa vai anh ta và tất cả những gì có thể được nghe thấy là tiếng thút thít khe khẽ của anh ta cùng tiếng sột soạt của sợi vải dưới tay chị.

“Tại sao tôi lại muốn làm như vậy?” anh ta hỏi. “Vì để được quan tâm à? Thật đáng xấu hổ làm sao. Tôi thật kinh khủng,” anh ta nói. “Một kẻ kinh khủng.” Chị tiếp tục an ủi anh ta và sau giây lát, anh ta đẩy lùi chiếc ghế xoay của mình lại, đúng lên, và ôm choàng lấy chị - anh ta cần ai đó để ôm. Lynn ôm lại không một chút lưỡng lự, và có vẻ như không hề đếm xỉa đến việc có ai đó đi qua nhìn thấy họ đang ôm nhau vì cánh cửa, xét cho cùng, vẫn đang chỉ khép hờ. Họ đứng ôm nhau trong phòng làm việc của anh ta.

Lynn nói, “Ôi, Carl,” vừa vỗ nhè nhẹ lên lưng anh ta, và đến lúc họ buông nhau ra, anh ta đã thôi khóc và bắt đầu lau nước mắt.

Họ nói chuyện thêm một chút, và đó là khi chị hỏi anh ta rằng có điều gì đã thay đổi khiến cho anh ta không còn cảm thấy giống như trước kia, và anh ta nói với chị rằng cuối cùng thì anh ta cũng dùng đến thuốc. Anh ta không nói đến việc anh ta đang uống thuốc của ai, nhưng chẳng quan trọng. Khi ra về, chắc hẳn chị mới nhận ra chị biết ít ỏi làm sao về cuộc sống riêng tư của những người làm việc cho mình, rằng thật không thể nào hiểu nổi họ bất chấp những nỗ lực nhỏ lúc này lúc kia, và có lẽ chị cũng cảm thấy thoáng chút khó chịu, chỉ một thoáng chút xíu, là có vẻ như Carl đã ôm chị hơi lâu đến nỗi bất bình thường, giống như anh ta đã ôm rất nhiều người chúng tôi trong những ngày bứt rứt và không thể dự báo trước ấy.

Khi Tom Mota nhìn thấy những ô cửa sổ bịt kín của Carl, gã biết cái ngày đó đã đến và đã qua, cái ngày mà lẽ ra gã phải nói điều gì đó với ai đó về những gì gã biết. Gã không muốn nói bất kỳ điều gì. Thứ nhất, việc của người khác đâu phải là việc của gã. Thứ hai, Carl đã tin tưởng tâm sự với gã, và Tom hoàn toàn không định phản bội lại niềm tin đó. Và còn điều thứ ba nữa chứ, một điều nhớp nháp và khó chịu: một nỗi căm hận quen thuộc, dai dẳng, không thể nuốt trôi. Carl đã kể với Tom rằng anh ta không muốn vợ mình biết rằng anh ta bị trầm cảm và anh ta không muốn cô ta biết rằng cô ta đã đúng. Tom cũng đã từng có một người vợ lúc nào cũng đúng, và vì thế gã có thể hiểu khát khao của Carl được tước khỏi người yêu quý anh ta nhất cái quyền chính đáng biết là mình đúng. Tom đang đứng bên ngoài phòng làm việc của Carl đăm đăm nhìn vào những ô cửa sổ bịt kín thì một tiếng hét từ bên trong vọng ra.

Đó thực sự là một tiếng gầm đau đớn bùng lên thành tiếng nấc nghẹn. Giá kể không phải đang là giờ ăn trưa của một ngày chậm rề rề, thì âm thanh khủng khiếp đó đã khiến mọi người đổ hết ra hành lang.

Tom cứ đinh ninh là phòng làm việc của Carl không có ai. Từ chỗ đang đứng, gã không nhìn thấy ai ở trong. “Carl?” gã vừa nói vừa bước vào trong.

Carl đang nằm sõng sượt trên mặt thảm cứng quèo sau bàn làm việc, túm lấy tóc của mình. Hai nắm tay đầy tóc, gần như bứt chúng khỏi da đầu, và thậm chí trong ánh sáng lờ mờ, Tom vẫn nhận ra khuôn mặt của anh chàng kia đang méo mó và đỏ bừng như thế nào. Tom đến gần mà Carl vẫn không hề mở mắt ra.

Tom quay về phòng làm việc của gã, nhấc điện thoại lên, và trước khi áp nó lên tai, trong khi tiếng tín hiệu đường dây o o trong không khí, gã lắc đầu và lầm bầm, “Mẹ kiếp.”

Gã nhắn lại tên và số điện thoại của mình cho vợ Carl, cô ta làm việc ở khoa ung thư của bệnh viện Northwestern Memorial ngay bên cạnh. Sau đó gã nhớ ra là trước khi bị phân tâm bởi Carl, gã đang mang công việc xuống chỗ Joe Pope, thế là gã lại đứng lên, nhưng trước khi gã kịp làm tới ngưỡng cửa phòng mình thì điện thoại đổ chuông.

“Mẹ khỉ,” gã nói với Marilynn, “cả đời tôi chưa bao giờ được một bác sĩ nào gọi lại nhanh đến thế cả.”

“Tôi lo cho Carl,” cô ta giải thích.

“Vậy nếu như tôi chỉ là một bệnh nhân thông thường,” Tom băn khoăn thành tiếng, “cô sẽ để tôi phải chờ bao lâu?”

“Làm ơn cho tôi biết có chuyện gì vậy,” cô ta nói.

Gã giải thích tất cả những gì gã biết - cái hôm gã vào phòng làm việc của Carl cùng cuốn sách, lời thú nhận của Carl rằng anh ta đang uống thuốc của Janine, cái lọ đựng thuốc cho ba tháng, tất tần tật. Gã kể với cô ta rằng Hank đã bắt gặp anh ta đang lau chùi cái ghế, rằng anh ta đã che mắt mình bằng một tập giấy ghi chép trong các cuộc họp, rằng anh ta đã chạy cả gần chục vòng quanh tầng sáu mươi, và một lần mới đây thôi, gã bắt gặp Carl ở bàn làm việc của anh ta với vẻ mặt trầm ngâm, gần như nhà khoa học, đang đăm đăm nhìn một bàn tay của mình, chậm rãi lật qua lật lại và đăm đăm nhìn bàn tay như thể nó là một thứ quý hiếm hoặc một vật xa lạ. Sau đó Tom nói, “Anh ấy đang nằm trên sàn phòng làm việc của mình, anh ấy đã bịt kín tất cả cửa sổ bằng giấy xi măng rồi. Tôi nghĩ anh ấy cần được chăm sóc y tế.”

Chắc chắn là Marilynn bác sĩ nhất ở chỗ cô ta ngay lập tức tra tấn gã bằng những điều cụ thể mà không bỏ phí chút thời gian nào. Loại thuốc đó là gì? Anh ta đã uống nó được bao lâu rồi? Tom không có quá nhiều câu trả lời. Những câu hỏi mà gã không ưa nhất đến sau cùng, liên hồi kỳ trận, nên gã không có cơ hội để trả lời chúng - chúng nghe có vẻ là những câu hỏi chỉ để hỏi và mang tính buộc tội hơn. “Anh biết chuyện này bao lâu rồi? Tại sao anh không nói sớm hơn chứ?”

“Cô muốn biết tại sao tôi không nói cho cô biết sớm hơn à?” gã nói. “Bởi vì tôi căm ghét vợ tôi, đó là lý do tại sao đấy.”

Marilynn ngỡ ngàng; gã có thể dám chắc điều đó ngay cả qua điện thoại.

“Vì anh căm ghét vợ anh à?” cô ta nói. “Trả lời cái kiểu gì vậy?”

Tom, lúc nào cũng là một nhà logic học, đáp lại, “Bởi vì cô ta là đồ chó cái khốn kiếp - và nếu cô mà là một bác sĩ nam, tôi thậm chí còn gọi cô ta thậm tệ hơn nữa kìa.”

Có thể hiểu là Marilynn không biết phải phản ứng lại như thế nào trước câu trả lời đó, vì sau đó là một khoảng im lặng kéo dài.

“Nghe này,” cuối cùng Tom lên tiếng, “tôi không tự hào về điều đó, nhưng khi anh ấy nói anh ấy làm chuyện này mà không cho cô biết bởi vì anh ấy ghét mỗi khi cô đúng, tôi thấy thông cảm, bởi vì đồ chó cái là con vợ cũ của tôi cũng là một kẻ lúc nào cũng đúng, phải nói phần lớn thời gian là như thế mới chó má chứ - trừ việc cô ta đưa LŨ TRẺ tới cái thành phố PHOENIX chó chết đó và gọi một thằng PHI CÔNG CHÓ CHẾT CHO CÁI HÃNG UNITED CHÓ CHẾT ẤY LÀ BỐ BOB, CỨ NHƯ THỂ CHÚNG CÓ HAI BỐ VẬY, TRONG KHI TÔI LÀ ÔNG BỐ CHÓ CHẾT DUY NHẤT CỦA CHÚNG! ĐÓ LÀ LÝ DO TẠI SAO ĐẤY! CỨ ĐI MÀ KIỆN TÔI ĐI!”

Gã gác máy. Gã trấn tĩnh lại. Cô ta gọi lại.

“Tôi chỉ cần biết,” cô ta nói, “là anh có nghĩ rằng anh ấy có thể tự tỉnh lại được không, hay tôi cần phải cho người đến.”

“Kiểu như để khống chế cậu ấy à?”

“Anh ấy không về nhà hai ngày nay rồi,” cô ta bảo gã. “Tôi gọi mãi, gọi mãi. Tôi không biết anh ấy đang nghĩ gì nữa.”

“Cậu ấy không cần được khống chế,” Tom nói. “Cậu ấy cần một người đỡ cậu ấy lên thôi.”

Tom đi xuống phòng làm việc của Carl và hỏi xem liệu anh ta có phiền đi cùng gã sang bệnh viện bên cạnh không. Và khi Carl không nói gì, Tom đỡ anh ta đứng lên rồi dìu anh ta đi.

Anh ta được chẩn đoán là bị ngộ độc. Khi chúng tôi đến thăm, môi anh ta đang nứt toác và da anh ta đỏ bấy lên. Lần gần đây nhất trước đó tất cả chúng tôi tụ tập cùng nhau trong một bệnh viện là để thăm Brizz. “Hy vọng cậu không có kết cục giống lão ấy, Carl,” Jim Jackers nói.

“Jim,” Marcia nói. “Nếu anh định nói những câu đùa vô duyên, ít nhất cũng nghĩ câu nào buồn cười một tí.” Cô ta quay sang Carl. “Đừng để ý đến thằng ngốc ấy,” cô ta bảo với anh ta. “Anh cảm thấy thế nào rồi?” Carl có mấy cái gối trắng kê phía sau còn người thì nối với một dây truyền tĩnh mạch.

“Mọi thứ đều trông như gấp đôi,” anh ta trả lời, “và màu đỏ.”

Chúng tôi thấy việc đáp lại câu đó thực là khó khăn. Mọi thứ đều trông như gấp đôi và có màu đỏ ấy à? Ồ, không sao, sẽ hết mà, Carl. Đó chỉ là một tác dụng phụ tạm thời của tổn thương não vĩnh viễn thôi.

“Carl,” Benny nói, “chẳng bao lâu nữa anh sẽ ổn định trở lại thôi.”

“Tôi sẽ chơi được piano chứ?” Carl mệt mỏi hỏi.

Cũng là do ảnh hưởng của việc thời gian vừa rồi anh ta hành động kỳ quặc như thế nào, và một số câu nói năng của anh ta lạ lùng ra sao, thành thử câu đùa cũ rích trở nên không ăn nhập, và có người trả lời với tất cả sự chân thành, “Ồ, tất nhiên rồi, Carl. Tất nhiên là anh sẽ lại chơi được piano mà.”

“Tôi nói đùa thôi,” Carl vừa nói vừa thờ ơ giơ hai bàn tay của anh ta lên - có thể với ngụ ý rằng đôi bàn tay đó chưa bao giờ chơi piano. “Này, Janine có ở đây không?” anh ta hỏi.

Lúc này thì mọi người đều đã biết là Carl ăn trộm thuốc của Janine.

“Ngay lúc này thì chị ấy không có ở đây, Carl,” Genevieve nói, cô đang đứng bên kia giường đối diện với Marcia. “Nhưng chị ấy muốn tôi nói với anh rằng chị ấy gửi cho anh lời chúc tốt đẹp nhất.”

Thực ra, Janine đang ở văn phòng, cố gắng kiểm kê xem Carl đã động đến bao nhiêu lọ thuốc. Có vẻ như liều lượng cho ba tháng của bất kỳ loại thuốc nào anh ta lấy lúc đầu cũng đã không đủ cho Carl, và anh ta đã không thực hiện đúng hướng dẫn trên nhãn lọ, và trong vài tuần liền anh ta đã quay trở lại bàn làm việc của Janine vào ban đêm, lấy thêm các loại thuốc khác, rồi tiến hành một cuộc thí nghiệm khinh suất và tùy tiện trên chính cơ thể mình.

Như bạn vẫn chứng kiến một đứa trẻ vừa mới đập đầu dừng sững lại trước khi khuôn mặt của nó từ từ biến thành một cái mặt nạ méo xịu vì đau, chúng tôi nhìn Carl tiếp nhận cái tin rằng Janine không đi cùng chúng tôi, và cố gắng không òa khóc.

“Carl, anh có muốn chúng tôi lại đến nữa không?” Genevieve dịu dàng hỏi. Khi cô ghé sát xuống anh ta, tóc cô tuột ra khỏi vành tai và một lọn tóc buông xuống nên cô lại vén nó lên ra sau tai với vẻ duyên dáng hoàn toàn tự nhiên mà cô sở hữu khi hằng ngày phải xoay xở với mái tóc kỳ dị của mình. “Carl,” cô nói, “chúng tôi có nên quay lại không?”

“Tôi chỉ muốn nói với chị ấy một điều,” Carl nói, và cắn môi trên của mình.

“Anh có muốn tôi nói lại với chị ấy không?” cô hỏi.

“Tôi muốn hát cho chị ấy nghe một bài.”

“Anh muốn hát cho chị ấy nghe một bài à?” Genevieve nói.

Ra đến ngoài hành lang chúng tôi thông báo cho bác sĩ của Carl rằng anh ta đã nói và làm một số điều kỳ quặc suốt mấy tuần liền. “Tôi không nghi ngờ,” tay bác sĩ nói. “Anh ta dùng các loại thuốc đó một cách vô tội vạ với liều lượng cao không thể nào tin nổi.” Ông ta quay lại để trấn an Marilynn rằng họ sẽ khử hết độc cho Carl, và rằng ông ta không thấy có tổn thương vĩnh viễn nào. Sau khi Carl đã được giải độc, họ sẽ cho anh ta dùng đúng thuốc, đúng liều lượng, và anh ta sẽ quay trở lại với bản ngã tốt đẹp hơn của mình.

Chúng tôi nghĩ nói thế chẳng khác gì nói Carl sẽ lại chơi được đàn piano. Vấn đề là anh ta đã bao giờ có bản ngã tốt đẹp hơn không chứ?

Marilynn, cũng mặc áo bờ lu và đeo thẻ bác sĩ - cô ta là một phụ nữ quyến rũ với mái tóc vàng cắt ngắn - cảm ơn tay bác sĩ bằng tên riêng. Ông ta mỉm cười và bóp nhẹ vai cô ta.

Khi ông ta đã đi khỏi, Marilynn quay sang Tom Mota và nói, “Cảm ơn vì sự giúp đỡ của anh.”

“Tôi sẽ không xin lỗi vì đã không giúp sớm hơn đâu,” gã nói. “Và tôi cũng sẽ không xin lỗi vì đã quát cô qua điện thoại.” Trông gã như một đứa trẻ con khi nói câu đó và gã nhất định không chịu nhìn thẳng vào mắt cô ta khi nói chuyện với cô ta. “Tôi không thể xin lỗi về chuyện mà tôi không hề cảm thấy ân hận.”

“Tôi đâu có yêu cầu anh xin lỗi,” Marilynn nói, cô ta đủ cao để nhìn xuống gã. “Tôi chỉ muốn cảm ơn anh thôi mà.” Cô ta bắt đầu bước đi.

“Cô có phiền không nếu tôi hỏi một câu?” Tom nói. Cô ta quay lại. Tom bước về phía cô ta và tiến, theo chúng tôi nghĩ, lại gần, nghênh cái đầu cạo trọc của gã lên giống như gã vẫn thường làm mỗi khi ức chế. Gã đang mặc một chiếc áo choàng dài màu nâu nhạt, thứ mà chắc hẳn gã đã tưởng sẽ làm cho gã trông cao hơn. Cái đai lưng để lỏng đang treo lủng lẳng. “Chỉ là vì tò mò thôi,” gã nói, và gã nở cái điệu cười khẩy kinh khủng đó. Thật là sởn cả gai ốc với cái kiểu gã nhất định chỉ nhìn chằm chằm vào cổ cô ta. “Tại sao lại có chuyện anh ấy thấy cần phải tự nhồi thuốc cho mình đến chết? Cô có câu trả lời cho điều đó, với tư cách là một bác sĩ không? Một người làm gì mà khiến cho người kia đến nước tự đầu độc mình thế hả?” Marilynn choáng váng không nói được gì. “Chỉ là tò mò vớ vẩn thôi,” gã vừa nói, vừa nhún vai. Cuối cùng gã nhìn vào mắt cô ta.

Chúng tôi không thể nào tin nổi gã lại vô duyên đến thế. Gã đã đốn đời đến thế là cùng.

“Anh là đồ... cực kỳ thô thiển,” cuối cùng cô ta nói, môi run bần bật, “đúng lúc chồng tôi đang ốm thế này...”

“Ồ, thế thì biến mẹ cô đi cho tôi nhờ,” gã nói và quay ngoắt người đi, xua cô ta bằng cả hai tay.

“... trong khi tất cả những gì tôi làm...” Cô ta cố gắng để không sụp xuống. “... chỉ là giúp anh ấy. Tôi đã cố giúp anh ấy,” cô ta nói.

“Ê, tôi chỉ đang cố tìm hiểu,” gã nói, quay người lại và chỉ tay vào cô ta, “tại sao cô lại ghét chúng tôi. Và tại sao chúng tôi lại ghét cô.”

Chúng tôi vào trong để nói lời tạm biệt lần cuối với Carl - tất cả mọi người trừ Tom. Lynn Mason đến. Thật đáng ngạc nhiên. “Tôi không nghĩ chị ưa bệnh viện,” Benny nói, ám chỉ nỗi ám ảnh của chị.

“Tôi không ưa chúng khi tôi là đối tượng được mổ xẻ,” Lynn đáp lại. “Còn khi là người khác, tôi vẫn đến bệnh viện được chứ gì đâu.” Chị quay sang người đàn ông nằm trên giường. “Carl, chuyện quái quỷ gì vậy? Chính xác là chuyện quái quỷ gì chứ?”

Những lời chị nói nghe như trách móc nhưng giọng chị lại mang sắc thái gặng hỏi nhẹ nhàng.

“Tôi đã làm hỏng bét,” Carl nói.

Anh ta có vẻ trở nên tỉnh táo hơn trước sự có mặt của chị. Đang là giai đoạn nhạy cảm, trong bối cảnh cắt giảm biên chế đang xảy ra khắp xung quanh chúng tôi, nhưng dường như công việc tạm thời được gác qua một bên, và trong mười phút ở đó chúng tôi lại là một nhóm hoạt động tử tế đâu ra đấy. Có người thậm chí còn nói một câu theo hướng đó - Dan Wisdom, họa sĩ vẽ cá, người đã đứng dựa vào tường để tránh vướng đường mọi người. Anh ta bảo Carl cần sớm bình phục trở lại bởi vì anh ta là một thành viên cốt yếu của nhóm. Lynn ngoảnh sang nhìn anh ta và lắc đầu.

“Không, xin đừng có mà lôi những chuyện nhóm nhủng vớ vẩn ấy ra ngay lúc này,” chị nói. “Hãy để những chuyện nhóm nhủng vớ vẩn ấy ở văn phòng và hãy nói về thực tế rằng các anh các chị, nếu các anh các chị thấy cần gì đó - bất kỳ điều gì cũng được, tôi không quan tâm - lạy Chúa, hãy đến gặp tôi trước khi các anh chị làm một chuyện như thế này. Carl, vì Chúa.”

“Tôi đã làm hỏng bét,” anh ta lặp lại.

“Anh sẽ khá hơn chứ?”

“Sẽ cố.”

“Tôi mua cho anh mấy bông hoa ẻo lả này đây,” chị nói. Thực ra đó là một bó hoa nhỏ nhắn xinh xinh. Tất cả chúng tôi đều nghĩ bụng, Bỏ mẹ! Bọn mình quên hoa rồi! Lynn quay sang Genevieve. “Cửa hàng hoa nội bộ trong bệnh viện, và đây là tất cả những gì họ có.”

Sau khi chị đi khỏi, chúng tôi hỏi Dan là anh ta có tự ái không với cách chị đáp lại câu nói vô thưởng vô phạt của anh ta về nhóm.

“Các người đùa tôi à?” anh ta nói. “Tôi lại thấy như thế quá là ấn tượng.”

Sáu tháng sau, Carl đã bình phục khỏi vụ ngộ độc và giờ đây đang thực hiện chế độ dùng thuốc chống trầm cảm được kê riêng cho anh ta. Không ai trong chúng tôi có thể nói rằng chúng tôi đã nhận thấy tí thay đổi đáng kể nào. Có lẽ chỉ riêng việc nhìn thấy anh ta ổn định cũng đã là một thắng lợi rồi. Anh ta không còn lau dọn phòng làm việc của những người khác mỗi khi nghỉ ngơi, hoặc chạy đi chạy lại dọc hành lang nữa. Nhưng mặt khác, anh ta vẫn mặc những chiếc quần jean xanh kệch cỡm, đi giày xấu điên và dành cả giờ ăn trưa sau cánh cửa phòng đóng kín vẫn ăn một món ấy.

“Xin lỗi đã quấy rầy, Carl,” Amber nói. Vài người chúng tôi đã đến cùng với cô ta, và giờ thì chúng tôi đang đứng sau cô ta ở cửa phòng Carl. Chúng tôi đã bầu Amber là người phát ngôn của chúng tôi.

“Không sao mà,” anh ta nói. “Có chuyện gì vậy?”

Amber bước một bước vào trong phòng. Cô ta bấu lấy một cái lưng ghế và ngập ngừng. Cô ta ngoảnh lại nhìn chúng tôi. Chúng tôi mới bảo, “Nói đi. Nói đi!”

Cuối cùng cô ta bảo với Carl rằng Karen Woo đã thông báo với mọi người rằng anh ta chính là kẻ khởi nguồn.

Carl lấy khăn ăn lau miệng. Anh ta nhún vai. “Khởi nguồn cái gì cơ?” anh ta đáp lại.

Vào cái ngày Lynn Mason có lịch mổ, chị lù lù xuất hiện ở văn phòng.

Karen nhìn thấy chị đầu tiên. Karen bao giờ cũng là người đầu tiên biết tất cả mọi chuyện. Chúng tôi trông đợi cô ta biết mọi chuyện đầu tiên, cũng như chúng tôi chắc mẩm Jim Jackers là người cuối cùng biết điều gì đó. Lần này cũng không có gì khác - Lynn Mason đang có mặt ở văn phòng, và Karen là người đầu tiên trông thấy chị. Cô ta đã tình cờ chạm trán chị trong nhà vệ sinh nữ!

Genevieve là người tiếp theo. Trên đường tới phòng của Marissa Lopchek thuộc bộ phận Nhân sự, cô nhìn thấy Lynn đang đứng ở cửa sổ Phòng Michigan. “Thoạt đầu tôi không nghĩ đó là chị,” cô nói, “vì làm sao mà có thể là chị được? Chị ấy phải ở trong phòng mổ cơ mà. Nhưng khi tôi ở chỗ Marissa quay về, chị ấy vẫn đứng bên cửa sổ. Chị ấy đã ở đó được, tôi không biết nữa, phải đến hai mươi phút rồi ấy chứ? Chắc hẳn chị ấy cảm thấy tôi đang nhìn hay gì đó bởi vì chị ấy quay lại, và đúng lúc chị ấy quay lại tôi bắt đầu bước thật nhanh vì tôi không muốn chị ấy bắt gặp tôi đang nhìn, nhưng dù sao chị ấy vẫn nhìn thấy tôi và chào, nhưng lúc đó tôi đã đi được nửa hành lang rồi, thế là tôi đành phải quay lại cả đoạn dài tới ngưỡng cửa để chào lại bởi vì tôi không muốn mình tỏ ra bất lịch sự, nhưng đến lúc đó thì chị ấy đã quay trở lại cửa sổ rồi - ôi trời, đúng thật là khó xử. Chị ấy đang làm gì ở đây nhỉ?” cô hỏi.

Dan Wisdom nhìn thấy Lynn đang dọn dẹp phòng làm việc của chị. Chị và mụ quản lý văn phòng đang thu dọn đồ vào thùng trong đó. Chúng tôi hỏi anh ta xem là những đồ gì và anh ta bắt đầu liệt kê chúng: những tập ảnh sản phẩm, máy tính lỗi kiểu, những tạp chí quảng cáo cũ rích, những chai soda uống dở... Đã là một thành viên quản trị thì bạn có đặc quyền được để phòng làm việc của mình bừa bộn thế nào tùy thích, và tất cả chúng tôi đều trở nên quen với việc gạt đồ đạc xuống sàn nhà mỗi khi chúng tôi vào phòng Lynn để họp. “Mọi người sẽ không còn nhận ra được đâu,” Dan nói. “Một trong những nhân viên lao công lên phòng với một chiếc xe đẩy. Ông ta chở xuống... tôi thậm chí còn không thể tính nổi là bao nhiêu hộp toàn đồ giẻ rách cũ.” Chúng tôi hỏi anh ta tại sao chị lại đi dọn dẹp phòng. “Tôi hoàn toàn không biết tại sao,” anh ta nói. “Tôi cứ đinh ninh lẽ ra chị đang ở trong phòng mổ chứ.”

Benny cũng đã trông thấy chị. Một số góc nhất định của không gian văn phòng đã bị bỏ không một thời gian, những chỗ làm việc bị bỏ lại của những kẻ đã đi tàu suốt kiểu Tây Ban Nha dọc hành lang. Benny tìm thấy Lynn ở một chiếc bàn tại một trong những chỗ vắng vẻ hơn trong số các ngăn làm việc trước kia từng được sử dụng của chúng tôi.

“Mọi người biết cái chỗ,” anh ta hỏi chúng tôi, “trên tầng năm mươi chín chứ?”

Chúng tôi biết nằm lòng là khác: tất cả những vách ngăn đều trơ trọi, không có tiếng radio đang bật, những máy in đã ngắt mạng, và hy vọng duy nhất về sự hồi sinh của công ty là thực tế rằng chưa có ai tắt nốt những bóng điện trên đầu - cả chúng tôi cũng trở thành những nạn nhân của thời đại dot-com. Không ai trong chúng tôi thích dưới đó cả; nó gợi nhớ quá trần trụi về thời đại mà chúng tôi đang sống. Nhưng nếu bạn cần nơi nào đó mà bạn có thể nghe thấy chính mình đang suy nghĩ và ít có khả năng bị quấy rầy, chẳng còn chỗ nào tốt hơn là cái khu vực bỏ hoang đó của tầng năm mươi chín.

“Chị ấy ngồi trên mặt của một trong những chiếc bàn trong ngăn đó,” Benny nói, “hai chân buông thõng xuống. Thật buồn cười khi nhìn thấy chị ấy như thế. Chị ấy làm gì mà lại đi ngồi trong một cái ngăn chứ? Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy người ở trong đó đến nỗi suýt nữa thì tôi giật bắn mình. Nhưng sau nhìn kỹ lại thì hóa ra lại là chị ấy? Lạ lùng hết sức. Lẽ ra tôi đã phải nói gì đó, nhưng trời ạ, chị ấy hoàn toàn đờ đẫn. Chị ấy như đang phê lòi. Chắc chắn chị ấy phải nghe thấy tôi, nhưng chị ấy không ngẩng đầu lên. Vì vậy mọi người biết tôi làm gì rồi đấy. Tôi tếch ngay một mạch ra khỏi chỗ đó.”

Marcia Dwyer tìm thấy chị ở một góc in tài liệu. Chị đang đứng dựa vào tường, bên cạnh cái thùng rác và những chồng hộp đựng giấy photocopy. Marcia đến để photo một thứ cho những người còn lại trong chúng tôi, một danh sách những sự thật thú vị về ung thư vú được tìm thấy trên Internet. Cô ta chào Lynn, và câu chào có vẻ như đã lôi người phụ nữ kia từ dưới nước lên.

“Cái gì cơ?” Lynn hỏi.

“Ồ,” Marcia nói, “tôi chỉ bảo xin chào thôi mà.”

“À. Xin chào.”

Marcia bước về phía máy photocopy. Lynn đang đứng ngay đó dựa vào tường. “À, chị cần phải dùng cái này à?” Marcia bất ngờ hỏi.

Lynn lắc đầu.

“À. Được rồi.”

Cô ta photo những bản copy của mình. “Tạm biệt,” Marcia nói, sau khi cô ta đã xong việc.

Lynn ngẩng lên. “Xong hết rồi à?”

“Vâng.”

“Được rồi.”

“Tôi không nghĩ là cả đời mình từng bao giờ có một cuộc trao đổi gượng gạo hơn thế,” Marcia nói với chúng tôi. Chúng tôi đang nói về những màn chạm trán này trong phòng làm việc của Marcia. “Chị ấy làm gì mà cứ đứng dựa vào tường như thế nhỉ?”

“Có lẽ tất cả những chuyện này xảy ra hôm qua,” một người dè dặt.

Điều này thực ra cũng là có cơ sở chứ không hẳn là vô lý hoàn toàn. Có những ngày, thời gian ở đây trôi đi quá chậm chạp, có những ngày lại quá nhanh, đến nỗi mà những chuyện xảy ra trong buổi sáng có cảm giác như đã cách đây hàng niên kỷ trong khi những chuyện diễn ra cả sáu tháng trước đó vẫn còn tươi nguyên trong tâm trí chúng tôi như thể mới trải qua chưa được một tiếng đồng hồ. Nên việc có những lúc chúng tôi nhầm lẫn về thời gian cũng là hoàn toàn tự nhiên.

“Không, mới sáng nay thôi mà,” Karen cam đoan với chúng tôi. “Tin tôi đi. Tôi nhìn thấy chị mà. Lynn đang ở công ty.”

“Có thể điều đã xảy ra,” Amber gợi ý, “là chị ấy ghé qua văn phòng để giải quyết nốt công việc phút chót nào đó, và sau đó chị ấy đi bộ qua bên bệnh viện. Vì thế chị ấy không thể đang ở công ty được. Chị ấy chỉ tiện đường ghé vào thôi.”

“Dọn dẹp phòng làm việc?” Larry nói. “Đứng trong Phòng Michigan cả nửa tiếng đồng hồ? Thế mà là công việc phút chót à?”

“Biết đâu.”

“Hoặc biết đâu,” Larry nói, “chưa bao giờ có ca mổ nào hết.”

“Ý anh là sao, chưa bao giờ có ca mổ nào hết? Tất nhiên là có mổ chứ.”

“Bởi vì,” Larry tiếp tục, “chị ấy không bị ung thư.”

“Làm sao anh có thể nói thế được, Larry? Chắc chắn là chị ấy bị ung thư mà.”

“Làm sao em biết được đó không phải chỉ là một tin đồn, Amber?”

“Bởi vì em biết.”

“Dù sao đi nữa,” Karen nói, “theo lịch thì ca mổ của chị ấy là lúc chín giờ. Chị ấy không thể kịp hồi phục trong khoảng thời gian đó được, nên chắc chắn là chị ấy đã bỏ lỡ nó.”

“Nó dự kiến diễn ra lúc chín giờ à?” Genevieve nói. “Vậy mà tôi tưởng không ai biết nó được sắp xếp lúc nào. Cậu lấy cái thông tin chín giờ ấy ở đâu ra vậy, Karen?”

“Bao giờ tôi cũng lấy những thông tin của mình từ nguồn đầu tiên.”

Chúng tôi chẳng có nhiều việc gì khác mà làm, các bạn biết rồi đấy. Chúng tôi làm quảng cáo miễn phí cho cái vụ gây quỹ, chắc chắn rồi - nhưng chúng đâu có là gì nếu đem so với khối lượng công việc của chúng tôi dạo trước? Chúng tôi đã đạt được tiến triển với chúng rồi; chẳng mấy chốc nữa chúng sẽ được hoàn thành. Dường như vấn đề cấp thiết hơn cả buổi sáng hôm đó là tìm hiểu tại sao Lynn lại quyết định đến chỗ làm thay vì đi giải quyết một căn bệnh đe dọa đến tính mạng. Và thế là khi Karen cho chúng tôi biết nguồn tin của cô ta là ai, lẽ tự nhiên là chúng tôi bắt tay vào tìm kiếm những câu trả lời.

“Tôi không phải là khởi nguồn của thông tin đó,” Carl nói trước món penne alla vodka của anh ta. Anh ta chối phắt chuyện biết bất kỳ điều gì liên quan đến việc Lynn Mason đi mổ lúc chín giờ. Mà giả như có biết chăng nữa, anh ta cũng không nói gì hết - nhất là lại đi nói với Karen Woo.

“Nhưng Lynn có nhận được chẩn đoán là bị ung thư, đúng không?” Amber nói, đứng trong phòng làm việc của anh ta.

“Theo như tôi biết thì đúng là như vậy,” anh ta nói. “Nhưng tôi không phải là khởi nguồn của cái thông tin đó, và tôi không biết tại sao Karen lại nói rằng đó là tôi - trừ phi là bởi vì Marilynn là bác sĩ chuyên khoa ung thư tại bệnh viện Northwestern. Nhưng điều mà Karen không biết là tôi dọn ra ngoài sáu tuần nay rồi, mà hơn nữa, Marilynn chẳng đời nào lại đi nói gì với tôi - đừng nói gì đến chuyện Lynn là một bệnh nhân.”

Đó là lần đầu tiên chúng tôi nghe nói đến vụ ly thân của Carl và Marilynn. Chúng tôi không gặng hỏi thêm bởi vì chúng tôi không muốn tọc mạch. Chúng tôi hỏi một cách chung chung nhất xem anh ta đang xoay xở thế nào, và anh ta trả lời một cách đúng kiểu lâm sàng rằng đó là quyết định tốt nhất cho cả hai bên. Từ đó chúng tôi suy ra rằng có lẽ Carl không phải là người chủ động trong chuyện này.

“Tôi không có ý chuyển đề tài,” Amber nói.

“Xin hãy làm ơn chuyển đi,” Carl nói.

“Nhưng vậy ra anh không phải là nguồn khởi đầu.”

“Nguồn khởi đầu của cái gì mới được chứ?” anh ta đáp lại, lần này thì hơi cáu kỉnh hơn một chút.

“Về việc chị ấy bị ung thư.”

Carl lắc đầu. “Lần đầu tiên tôi nghe chuyện đó là từ Sandy Green,” anh ta nói.

Một số người chúng tôi nghĩ Sandy Green ở bộ phận trả lương là Chúa Jesus giáng thế lần hai, những người khác thì coi đó là quỷ dữ hóa thân - tất cả tùy thuộc vào số tiền bạn được trả. Phòng làm việc của cô ta là một cái bẫy lửa chật cứng những tài liệu bị đình lại. Sandy có mái tóc màu xám và đeo một trong những loại bao ngón tay nhựa có gân giúp thao tác nhanh hơn trong cái nghề của cô ta. Nằm khuất khỏi một hành lang heo hút ở tít phía cuối tầng sáu mươi mốt, phòng làm việc không cửa sổ của cô ta được gọi là Hang Dơi vì khung cảnh tối tăm và vị trí hẻo lánh của nó. “Tôi nói chuyện với Carl cách đây mấy hôm trong khoảng năm phút về việc trích lương ra để đóng bảo hiểm,” Sandy nói. “Tôi vô cùng nghi ngờ rằng trong năm phút ấy tôi lại nói được gì đó với anh ta về bệnh ung thư của Lynn.”

“Được rồi,” Genevieve nói, “nhưng điều chúng tôi đang cố xác định là liệu có đúng là Lynn bị ung thư không, và không biết chị có tình cờ đúng là người biết chắc điều đó không.”

Sandy có vẻ thực sự bối rối - rồi đột nhiên mặt cô ta giãn ra và cô ta giơ ngón tay nhựa của mình lên không trung và lắc lắc ba lần. “Giờ thì tôi nhớ ra rồi,” cô ta nói. “Tôi có nói gì đó với anh ta đại loại như, ‘Tôi sẽ báo cáo chuyện này với Lynn,’ và anh ta nói, ‘Được rồi, tôi sẽ nói chuyện với Lynn về điều đó,’ rồi tôi bảo, ‘Nhưng tốt hơn là anh nên làm ngay hôm nay đi, vì…’ Nhưng tôi không nói gì thêm cả. Tôi chờ cho anh ta nói gì đó. Và quả thế thật, anh ta nói, ‘À, đúng rồi, tôi sẽ làm ngay hôm nay, đúng rồi.’ Và thế là tôi bảo, ‘Tội nghiệp Lynn,’ và anh ta nói, ‘Ừ, đúng là quá tệ thật.’ Vậy là anh ta đã biết rồi. Anh ta lấy thông tin của mình từ ai đó khác.”

“Nhưng cô lấy thông tin của mình bằng cách nào?” Genevieve hỏi.

“Tôi lấy thông tin của tôi bằng cách nào ấy à?”

“Đúng, đó là điều chúng tôi đang cố tìm ra.”

Sandy chống khuỷu tay lên bàn làm việc, và đặt má vào lòng bàn tay, im lặng bao trùm trong lúc cô ta đang cố nhớ lại. “Chờ chút,” cô ta nói. Cô ta nhấc điện thoại lên. “Deirdre, có phải cậu là người nói cho tớ biết về bệnh ung thư của Lynn không nhỉ? Hay Michelle kể cho hai đứa mình, tớ không sao nhớ được. Cậu có chắc không? Được rồi, bồ ạ.” Một khoảng im lặng kéo dài, Sandy làm chúng tôi giật mình với một tiếng cười khúc khích khoái trá. “Lần sau để gương của cậu ở nhà đi, bồ ạ! Được rồi, tạm biệt.” Cô ta gác máy và quay sang chúng tôi. “Deirdre nói với tôi là cô ấy đã kể cho tôi.”

Deirdre cho chúng tôi biết rằng cô ta có thông tin về bệnh ung thư của Lynn từ chuyên viên khách hàng Robbie Stokes. “A, tốt rồi,” Deirdre nói, “cánh cửa mới của tôi đây rồi.”

Đến đây, mấy tay thợ xây bước vào khiêng theo cánh cửa mới của cô ta và mọi người bước ra tránh đường cho họ.

Phòng làm việc của Robbie Stokes không có ai. Anh ta ở trong Phòng Quản lý Khách hàng, và, thật lạ lùng đối với một người phụ trách quan hệ khách hàng, anh ta treo một thứ phi Monet trên tường: một tấm biển hãng bia rượu Yuengling bằng đèn neon, mô phỏng một cửa sổ quầy bar. Nó kêu ù ù và nhấp nháy trong sự im lặng đến tê tái.

Ai đó từ bên trong một ngăn làm việc hét tướng lên, “Hãy mang thế giới đến cho tôi!”

Trên đường đi ra khỏi tòa nhà, Amber và Larry xô phải Robbie. “Tớ nghe nói các cậu đang tìm tớ,” anh ta nói. “Tớ không bắt đầu cái tin đồn đó. Tớ nghe tin đồn đó từ Doug Dion.”

Larry trấn an Robbie rằng chẳng có ai đang nói rằng anh ta bắt đầu chuyện gì cả. Chúng tôi chỉ đang cố tìm hiểu đến ngọn nguồn câu chuyện.

“Hừm, làm ơn hộ tớ một việc,” Robbie nói, “đừng có nói là tớ bắt đầu nó, được chứ? Bởi vì tớ không muốn chuyện này đẩy tớ vào rắc rối với Lynn.”

Amber bảo đảm với anh ta là chúng tôi rất kín đáo.

“Không, hãy cứ loại hẳn tớ khỏi chuyện này đi,” anh ta nằng nặc. “Thậm chí đừng có đả động gì đến cái tên Robbie Stokes hết.”

Một số người trong chúng tôi quay lại phòng làm việc của Marcia và giải thích những gì chúng tôi nghĩ cô ta cần làm.

“Cái đầu óc chết,” cô ta nói, “tiệt của các người có bị làm sao không vậy hả?”

Benny tình cờ lượn qua.

“Benny,” Marcia gọi, “vào đây mà nghe những kẻ dã man này muốn tôi làm gì này.”

Dan Wisdom, họa sĩ vẽ cá, xuất hiện và khăng khăng đòi nói chen vào. Anh ta bảo là vừa gặp Chris Yop ở một trạm in nên đã bảo với Yop là Lynn Mason thực ra đang ở trong văn phòng ngày hôm đó.

“Bọn tôi đang đứng ngay đó,” Dan nói, “và phải có đến năm chục tờ lý lịch xin việc đang tuồn ra trên thứ giấy in dày cộp, các cậu biết rồi đấy, loại cực xịn ấy, tớ bèn bảo anh ta rằng hóa ra rốt cuộc Lynn không hề ở trong phòng mổ. Và ngay lập tức anh ta bảo chứ, ‘Nhưng tôi vẫn lượn hành lang suốt thời gian này mà!’ Lẽ ra các cậu phải nhìn thấy mặt anh ta mới được. Thế là tôi hỏi anh ta, ‘Anh cũng không sợ bảo vệ bắt gặp à?’ Và anh ta mới bảo, ‘Bảo vệ ấy à? Bảo vệ là chuyện đùa. Bảo vệ có bao giờ lên đây đâu.’ Anh ta nói cũng đúng thật.”

Tất cả chúng tôi đều đồng ý là anh ta nói đúng thật.

“Nhưng giờ khi anh ta biết Lynn đang ở đây rồi thì sao? Lẽ ra các cậu phải thấy là anh ta hoảng sợ như thế nào khi rời khỏi chỗ trạm in. Nhớn nhác kiểm tra cả hai đầu hành lang như thể anh ta đang bắt chước một bộ phim trinh thám ấy. Đó là điều buồn cười nhất mà tôi từng nhìn thấy đấy.”

“Cậu đã bao giờ xem phim Top Secret, có Val Kilmer chưa?” Don Blattner hỏi. “Thế mới là buồn cười.”

“Hank,” Marcia gọi với ra. Cô ta đẩy người ra bên cạnh bàn làm việc của mình trên chiếc ghế từng có thời thuộc về Tom Mota, để nhìn rõ hơn ra hành lang. “Hank!”

Hank quay ngược trở lại để đứng ngay bên ngoài phòng làm việc của Marcia. Anh ta dựng ngay ngắn lại cặp kính to đùng của mình, một tật anh ta vẫn làm khi hồi hộp, và chúng lại tụt xuống ngay trên mũi anh ta.

“Hãy nghe những gì mấy kẻ dở hơi này muốn tôi làm, Hank,” cô ta nói. “Họ muốn tôi gọi tới bệnh viện, đúng thế đấy - hãy nghe chuyện này mà xem - và giả vờ rằng tôi là Lynn, rồi nói, ‘Ôi, tôi hơi nhầm lẫn một chút - đại loại thế - vân vân và vân vân - và tôi đang băn khoăn không nhớ có phải lịch mổ của tôi là hôm nay không nhỉ?’ Vâng, tôi được yêu cầu gọi điện đóng giả sếp của mình trong khi, xin thứ lỗi, chúng ta đang không chỉ trải qua đợt cắt giảm biên chế - và tôi tình cờ lại cầm nhầm ghế - mà đây còn là chuyện về một người phụ nữ có thể đang bị ốm thật. Thế mà họ muốn tôi đi gọi điện và nói, ‘Ôi, chị có thể cho tôi biết, không biết tôi có bị ung thư không ấy nhỉ’?”

“Đó nghe có vẻ là một ý tưởng tồi,” Hank nói.

Chúng tôi cố gắng giải thích với anh ta tại sao đó thực sự lại là lựa chọn duy nhất của chúng tôi, nếu như chúng tôi có bao giờ đó biết được một cách chắc chắn tuyệt đối bằng cách này hay cách khác.

“Trong những hoàn cảnh bình thường,” lên tiếng là Amber, người vừa mới cùng Larry trở về văn phòng và đang ăn một đĩa salad Cobb đặt trên lòng, “tôi cũng sẽ không nghĩ đó là một ý tưởng hay ho gì. Nhưng nếu như sáng nay chị ấy có lịch mổ mà chị ấy lại không đi, mọi người không nghĩ là chúng ta nên lo lắng về chị ấy sao?”

“Hừm, nếu vậy cậu đi mà gọi điện,” Marcia nói.

“Tôi không nghĩ...” Hank nói.

“Tôi không định...” Amber nói.

“Cách đó không bao giờ...” Don nói.

“... đỡ phải ngồi đây mà đoán già đoán non,” Larry nói. “Và cậu sẽ giúp mọi người được...”

“THÔI ĐI,” Joe Pope nói.

Anh ta đang đứng ngay sau Hank trên ngưỡng cửa phòng Marcia mà không ai nhận ra. Mọi người đều quay lại và một số người đứng lên khi anh ta bước vào đứng ngay bên trong phòng làm việc và cả căn phòng lạnh ngắt. “Tôi có thể nghe thấy các người từ bên trong thang máy,” anh ta nói. Có một vẻ kìm nén trong giọng nói của anh ta và trán anh ta nhíu lại đầy đe dọa với vẻ khinh bỉ. “Còn bây giờ thì làm ơn,” anh ta nói. “Hãy thôi đi cho.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3