Tiền Không Mua Được Gì? - Chương 04
4
THỊ TRƯỜNG SỐNG VÀ CHẾT
Michael Rice, 48 tuổi, là trợ lý giám đốc một cửa hàng Walmart ở Tilton, bang New Hampshire. Một hôm, khi ông đang giúp khách mang một chiếc ti vi lên ô tô thì bị đột quỵ. Một tuần sau ông qua đời. Công ty bảo hiểm nhân thọ bồi thường cho cái chết của ông 300.000 dollar. Nhưng số tiền ấy lại không thuộc về vợ và hai con ông. Nó thuộc về Walmart – công ty đã mua bảo hiểm tính mạng cho Rice và đưa tên công ty vào mục người thụ hưởng [189].
Khi người vợ góa của ông là Vicki Rice biết số tiền Walmart được hưởng, bà hết sức tức giận. Tại sao công ty lại được hưởng lợi từ cái chết của chồng bà? Ông đã làm việc vất vả vì công ty, đôi khi tới 80 giờ một tuần. “Họ bóc lột Mike”, bà nói, “rồi họ bỏ đi với 300.000 dollar sao? Thật vô đạo đức” [190].
Theo bà Rice, cả hai vợ chồng bà đều không biết Walmart đã mua bảo hiểm tính mạng cho ông chồng. Khi biết điều đó, bà đã kiện Walmart ra tòa án liên bang, cho rằng tiền bồi thường phải thuộc về gia đình bà chứ không phải công ty. Luật sư của bà lập luận rằng các công ty không nên kiếm lời từ cái chết của nhân viên. “Thật vô cùng tồi tệ khi một công ty khổng lồ như Walmart lại đánh cược vào tính mạng của nhân viên”[191].
Một phát ngôn viên của Walmart cho biết công ty này mua bảo hiểm tính mạng cho hàng trăm nghìn nhân viên của họ - không chỉ cho trợ lý giám đốc mà còn cho cả công nhân bảo dưỡng bình thường. Nhưng ông phủ nhận việc Walmart kiếm lời từ cái chết của nhân viên. “Quan điểm của chúng tôi là không phải chúng tôi kiếm lời từ cái chết của nhân viên”, ông ta nói. “Chúng tôi đã đầu tư rất nhiều vào nhân viên” và sẽ chẳng được lợi gì “nếu họ vẫn sống”. Với trường hợp Michael Rice, phát ngôn viên của Walmart cho rằng số tiền đền bù bảo hiểm không phải một khoản từ trên trời rơi xuống mà là để bù đắp cho chi phí đào tạo Rice cũng như tìm người thay thế ông. “Ông ấy đã được đào tạo không ít và có những kinh nghiệm mà chúng tôi không thể kiếm được ở người khác nếu không bỏ chi phí”[192].
BẢO HIỂM CHO NHÂN VIÊN TẠP VỤ
Đã từ lâu, các công ty thường mua bảo hiểm tính mạng cho tổng giám đốc điều hành và các nhân sự quản lý cao cấp để bù đắp lại chi phí rất lớn công ty phải bỏ ra để thay thế họ nếu họ qua đời. Trong ngành kinh doanh bảo hiểm, việc các công ty có “quyền lợi được bảo hiểm” từ tổng giám đốc điều hành đã được pháp luật công nhận. Nhưng mua bảo hiểm tính mạng cho nhân viên bình thường là hiện tượng khá mới. Loại bảo hiểm này được gọi là “bảo hiểm tạp vụ” hay “bảo hiểm cho nông dân đã qua đời”. Cho đến gần đây thì nó vẫn là trái pháp luật ở hầu hết các bang. Người ta cho rằng các công ty không có “quyền lợi được bảo hiểm” từ nhân viên bình thường. Nhưng trong suốt thập niên 1980, ngành bảo hiểm đã vận động hành lang thành công ở hầu hết các bang để nới lỏng luật bảo hiểm, cho phép các công ty được mua bảo hiểm tính mạng cho mọi nhân viên, từ tổng giám đốc điều hành đến nhân viên văn thư [193].
Đến thập niên 1990, các công ty lớn đã đầu tư hàng triệu dollar vào hợp đồng bảo hiểm tính mạng do công ty hưởng lợi (COLI), tạo ra một ngành kinh doanh cái chết trong tương lai trị giá hàng tỷ dollar. Trong số các công ty mua bảo hiểm tính mạng cho nhân viên có AT&T, Dow Chemical, Nestle USA, Pitney Bowes, Procter & Gamble, Walmart, Walt Disney và chuỗi siêu thị Winn-Dixie. Các công ty tham gia hoạt động đầu tư kỳ quái này được ưu đãi thuế. Theo hợp đồng bảo hiểm tính mạng toàn bộ truyền thống, tiền bồi thường khi tử vong sẽ được miễn thuế. Thu nhập hàng năm từ việc đầu tư vào hợp đồng cũng vậy [194].
Rất ít người lao động biết rằng công ty đã mua tính mạng của họ. Phần lớn luật ở các bang không yêu cầu công ty phải thông báo cho nhân viên biết họ đã được mua bảo hiểm tính mạng hay xin phép họ làm việc đó. Và phần lớn hợp đồng COLI vẫn có hiệu lực sau khi nhân viên nghỉ việc, về hưu hay bị sa thải. Vì vậy, các công ty vẫn được tiền bồi thường tính mạng khi nhân viên của họ qua đời vài năm sau khi nghỉ việc. Các công ty theo dõi tình hình sống chết của cựu nhân viên thông qua văn phòng Bảo hiểm xã hội. Ở một số bang, các công ty thậm chí còn được mua bảo hiểm tính mạng cho con cái, bạn đời nhân viên của họ và nhận tiền bồi thường [195].
“Bảo hiểm tạp vụ” đặc biệt phổ biến ở các ngân hàng lớn, trong đó có Bank of America và JPMorgan Chase. Vào cuối thập niên 1990, một số ngân hàng còn có ý tưởng xa hơn, họ mua bảo hiểm tính mạng cho cả người gửi tiền và chủ thẻ tín dụng [196].
Ngành công nghiệp “bảo hiểm tạp vụ” phát triển nhảy vọt và được công chúng biết tới qua một loạt các bài báo đăng trên tạp chí Wall Street Journal vào năm 2002. Tạp chí đã kể câu chuyện một người qua đời do bệnh AIDS ở tuổi 29 vào năm 1992, đem lại 339.000 dollar tiền bồi thường cho công ty sở hữu cửa hàng băng đĩa nhạc mà anh ta từng làm việc trong một thời gian ngắn. Gia đình anh không nhận được gì. Một bài báo khác kể về một nhân viên 20 tuổi, làm việc trong cửa hàng tiện lợi ở Texas, và bị bắn chết trong một vụ cướp ở cửa hàng. Công ty sở hữu cửa hàng đã đưa 60.000 dollar cho người vợ góa và con của anh chàng trẻ tuổi kia để họ không đi kiện cáo. Nhưng công ty ấy không nói với ai rằng họ đã được nhận 250.000 tiền bồi thường tính mạng. Loạt bài báo còn viết về sự thực tồi tệ nhưng ít người biết tới là “sau vụ tấn công khủng bố 11/9, một phần số tiền bảo hiểm tính mạng của các nạn nhân đã không thuộc về gia đình họ mà lại thuộc về các công ty” [197].
Đầu những năm 2000, hợp đồng bảo hiểm COLI được mua cho tính mạng hàng triệu người lao động và chiếm 25 đến 30% doanh thu toàn bộ ngành bảo hiểm nhân thọ. Năm 2006, Quốc hội tìm cách hạn chế bảo hiểm tạp vụ với một đạo luật yêu cầu phải có sự đồng ý của người lao động thì công ty mới được mua bảo hiểm, và họ chỉ được mua bảo hiểm COLI tối đa cho một phần ba số nhân viên và phải là những người được trả lương cao nhất công ty. Nhưng thực tế vẫn không thay đổi. Năm 2008, riêng các ngân hàng ở Mỹ đã mua bảo hiểm cho nhân viên hết 122 tỷ dollar. Loại hợp đồng bảo hiểm này đã lan rộng khắp các công ty ở Mỹ, bắt đầu làm thay đổi ý nghĩa, mục đích của bảo hiểm tính mạng. Chuỗi bài báo trên The Wall Street Journal kết luận: “Nó tạo thành một câu chuyện ít người biết đến về việc bảo hiểm tính mạng đã biến đổi từ một hệ thống lưới an toàn dành cho thân nhân người quá cố thành một chiến lược tài chính của các doanh nghiệp” [198].
Các công ty có nên kiếm lời từ cái chết của nhân viên? Ngay cả một số người làm trong ngành bảo hiểm cũng thấy khó chịu với thực tế này. John H. Biggs, cựu chủ tịch, cựu giám đốc điều hành TIAA-CREF, một công ty cung cấp dịch vụ lương hưu và tài chính hàng đầu, đã gọi đây là “hình thức bảo hiểm luôn khiến tôi thấy ghê sợ” [199]. Nhưng đích xác thì nó có gì không ổn?
Lý do phản đối rõ ràng nhất có liên quan đến thực tế: cho phép các công ty hưởng lợi từ cái chết của nhân viên sẽ chẳng có ích gì trong việc bảo vệ an toàn cho công ty. Ngược lại, một công ty kiếm được hàng triệu dollar từ cái chết của nhân viên sẽ có động lực xấu để không đầu tư vào các biện pháp bảo vệ sức khỏe và an toàn. Tất nhiên, không một công ty nào có trách nhiệm lại công khai làm như vậy. Cố tình khiến nhân viên tử vong là tội ác. Cho phép các công ty mua bảo hiểm tính mạng cho nhân viên không có nghĩa là trao cho họ giấy phép giết người.
Nhưng tôi nghĩ những người thấy “bảo hiểm tạp vụ” là “ghê sợ” muốn đề cập đến yếu tố đạo đức chứ không chỉ là rủi ro mà những công ty vô liêm sỉ gây ra ở nơi làm việc thông qua những rủi ro chết người hay cố tình lờ đi mối nguy hiểm. Vậy yếu tố đạo đức ở đây là gì, và nó có thuyết phục không?
Có lẽ nó có liên quan đến việc thiếu sự đồng thuận. Bạn sẽ cảm thấy thế nào khi biết rằng công ty của bạn đã mua bảo hiểm tính mạng cho bạn mà bạn không hề biết hoặc không cho phép họ? Có thể bạn sẽ thấy mình đang bị lạm dụng. Nhưng bạn có lý do để phàn nàn không? Nếu cái hợp đồng kia không gây tổn hại gì đến bạn thì tại sao công ty lại có nghĩa vụ đạo đức là phải thông báo với bạn hoặc xin bạn đồng ý?
Nói cho cùng, “bảo hiểm tạp vụ” là một thỏa thuận tự nguyện giữa hai bên – công ty mua bảo hiểm (và trở thành người thụ hưởng) và công ty bán bảo hiểm. Người lao động không phải bên nào trong thỏa thuận. Một phát ngôn viên của KeyCorp, một công ty dịch vụ tài chính đã nói thẳng tuột như sau: “Người lao động không trả phí bảo hiểm nên chẳng có lý do gì phải thảo luận chi tiết hợp đồng bảo hiểm với họ” [200].
Một vài bang không nghĩ như vậy và yêu cầu các công ty phải có được sự đồng ý của nhân viên trước khi mua bảo hiểm cho họ. Khi các công ty hỏi ý kiến nhân viên, họ thường hứa hẹn một số tiền đền bù nhỏ để tăng phần thuyết phục. Walmart, công ty được nhận khoảng 350.000 dollar cho mỗi nhân viên của họ vào thập niên 1990 đã đề nghị trả 5.000 dollar tiền bồi thường tính mạng cho những người đồng ý mua bảo hiểm. Phần lớn người lao động đều đồng ý mà không biết con số 5.000 dollar gia đình họ sẽ nhận được chênh lệch rất lớn với hàng trăm nghìn dollar mà công ty sẽ nhận được khi họ qua đời [201].
Nhưng lý do đạo đức khiến nhiều người phản đối “bảo hiểm tạp vụ” không chỉ là thiếu sự đồng ý của người được mua bảo hiểm. Kể cả khi người lao động đồng ý cho phép công ty mua bảo hiểm tính mạng cho họ thì vẫn có điều gì đó không ổn về mặt đạo đức. Một phần là thái độ của công ty đối với người lao động thể hiện trong hợp đồng bảo hiểm. Tạo ra tình thế trong đó người lao động lúc chết có giá trị hơn lúc sống là hành động coi họ như đồ vật; biến họ thành hàng hóa để giao dịch trong hợp đồng tương lai chứ không phải những người lao động mà giá trị của họ đối với công ty nằm ở công việc họ làm. Một lập luận phản đối khác cho rằng hợp đồng COLI đã bóp méo mục đích của bảo hiểm tính mạng, từ một biện pháp đảm bảo an toàn tài chính cho gia đình trở thành công cụ để các doanh nghiệp được ưu đãi thuế [202]. Khó mà hiểu được tại sao hệ thống thuế lại khuyến khích các công ty đầu tư hàng tỷ dollar vào tính mạng của người lao động thay vì đầu tư vào sản xuất hàng hóa, dịch vụ.
BẢO HIỂM BÁNH THÁNH: ĐÁNH CƯỢC VÀO MẠNG SỐNG
Chúng ta có thể tìm hiểu những lập luận phản đối nói trên bằng cách xem xét một cách sử dụng hợp đồng bảo hiểm tính mạng cũng rất gây tranh cãi về đạo đức, xuất hiện vào những năm 1980 và 1990, bắt nguồn từ bệnh AIDS. Nó được gọi là công nghiệp bảo hiểm bánh thánh, là một thị trường các hợp đồng bảo hiểm tính mạng cho người bị AIDS và người bị chẩn đoán là đang mắc bệnh giai đoạn cuối. Thị trường hoạt động như sau: Giả sử một người có hợp đồng bảo hiểm tính mạng trị giá 100.000 dollar, và anh ta được bác sỹ cho biết anh ta chỉ còn sống được thêm một năm. Và giả sử hiện tại anh ta cần tiền để chữa bệnh, hoặc đơn giản là để có cuộc sống sung sướng hơn trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại. Một nhà đầu tư đề xuất mua lại hợp đồng bảo hiểm của người bệnh với mức giá chiết khấu thấp hơn giá trị hợp đồng, ví dụ 50.000 dollar, và anh ta sẽ chịu trách nhiệm nộp phí bảo hiểm. Khi người chủ hợp đồng ban đầu qua đời, nhà đầu tư sẽ được hưởng 100.000 dollar [203].
Có vẻ như đây là một giao dịch có lợi. Người chủ hợp đồng sắp qua đời được hưởng số tiền mà anh ta đang cần, còn nhà đầu tư kiếm được lợi nhuận kha khá – với điều kiện chủ hợp đồng qua đời đúng như dự kiến. Nhưng vẫn có rủi ro: mặc dù vụ đầu tư bảo hiểm bánh thánh đảm bảo người đầu tư sẽ nhận được tiền khi chủ hợp đồng chết (trong ví dụ này là 100.000 dollar), nhưng tỷ suất sinh lợi lại phụ thuộc chủ hợp đồng sẽ sống được bao lâu. Nếu anh ta chết sau một năm, đúng như dự đoán, thì nhà đầu tư trả 50.000 dollar để mua hợp đồng trị giá 100.000 dollar có thể nói là đã trúng lớn – tỷ suất sinh lợi là 100% trong một năm (nhưng phải trừ đi phí bảo hiểm phải nộp và phí môi giới phải trả cho người thu xếp vụ mua bán). Nếu anh ta sống thêm được hai năm, nhà đầu tư phải đợi lâu gấp đôi để kiếm được cùng số tiền đó, và tỷ suất sinh lợi mỗi năm giảm đi một nửa (đấy là chưa tính phí bảo hiểm phải nộp thêm làm cho tỷ suất sinh lợi còn giảm nữa). Nếu người bệnh hồi phục một cách thần kỳ và sống rất nhiều năm nữa thì nhà đầu tư sẽ chẳng thu được gì.
Đương nhiên là vụ đầu tư nào cũng có rủi ro. Nhưng với hợp đồng bánh thánh, rủi ro tài chính gây ra một vấn đề đạo đức, cái không có ở hầu hết các vụ đầu tư khác: nhà đầu tư phải hy vọng người chủ hợp đồng sẽ chết sớm. Người chủ hợp đồng sống càng lâu, tỷ suất sinh lợi của nhà đầu tư càng giảm.
Không nói chúng ta cũng biết ngành kinh doanh hợp đồng bánh thánh đã phải chịu đựng như thế nào để mọi người không còn chú ý đến khía cạnh tồi tệ trong nghề của họ nữa. Những người môi giới hợp đồng bánh thánh mô tả nhiệm vụ của họ là đem lại cho những người bệnh giai đoạn cuối một số tiền để sống những ngày cuối đời một cách tương đối thoải mái, đàng hoàng. (Hợp đồng bánh thánh, nguyên bản là “viatical” – con đường, từ Latin của “voyage”, chỉ khoản tiền và những vật dụng cần thiết mà chính quyền La Mã cấp cho quan chức của họ khi đi công tác [204]). Nhưng không ai chối bỏ được một điều là nhà đầu tư kiếm được lợi nhuận khi người được bảo hiểm qua đời đúng lúc. “Đã từng có những khoản lợi nhuận khổng lồ, và đã từng có những câu chuyện tệ hại khi người ta sống lâu hơn”, William Scott Page, chủ tịch một công ty bảo hiểm bánh thánh ở thành phố Fort Lauderdale kể. “Hợp đồng bánh thánh có cái thú vị riêng. Không có môn khoa học nào dự đoán chính xác được thời điểm một người sẽ chết” [205].
Một vài “câu chuyện tệ hại” nói trên đã dẫn đến kiện tụng, trong đó những nhà đầu tư tức giận đã kiện người môi giới vì đã bán cho họ những hợp đồng bảo hiểm tính mạng không “đáo hạn” sớm như mong muốn. Việc tìm ra thuốc chống virus HIV vào giữa thập niên 1990 đã kéo dài cuộc sống của hàng chục nghìn người bị AIDS và làm đảo lộn các phép toán của ngành kinh doanh bảo hiểm bánh thánh. Tổng giám đốc một công ty kinh doanh bảo hiểm bánh thánh đã giải thích mặt trái của những loại thuốc giúp kéo dài sự sống: “Một người đang được kỳ vọng sống thêm 12 tháng hóa ra lại sống thêm 24 tháng thực sự sẽ tước đi lợi nhuận của bạn”. Năm 1996, thành tựu đột phá với liệu pháp kháng retrovirus (ARV) đã khiến giá cổ phiếu công ty Dignity Partners, Inc. – một công ty kinh doanh bảo hiểm bánh thánh ở San Francisco – rơi tự do từ 14,5 dollar xuống còn 1,38 dollar. Và công ty này đã phải đóng cửa nhanh chóng [206].
Năm 1998, báo New York Times đăng câu chuyện về một nhà đầu tư giận dữ ở Michigan. Năm năm trước, anh ta mua hợp đồng bảo hiểm tính mạng của Kendall Morrison, một người New York bị mắc bệnh AIDS, và vào thời điểm đó, bệnh của Morrison đã diễn biến rất xấu. Nhưng nhờ loại thuốc mới, sức khỏe Morrison đã ổn định trở lại và khiến nhà đầu tư vô cùng thất vọng. Morrison nói: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy có ai lại muốn tôi chết đến thế. Họ liên tục gọi điện và chuyển phát nhanh thư hỏi thăm đến cho tôi. Như thể họ muốn hỏi: ‘Thế ra anh vẫn sống à?’” [207]
Khi bệnh AIDS không còn bị coi là án tử hình thì các công ty kinh doanh hợp đồng bánh thánh phải tìm cách đa dạng hóa hoạt động với các hợp đồng bảo hiểm tính mạng cho người bị ung thư và các bệnh giai đoạn cuối khác. Không nản chí trước sự suy giảm của thị trường hợp đồng bánh thánh bệnh AIDS, William Kelley, tổng giám đốc Hiệp hội Bảo hiểm bánh thánh Mỹ vẫn lạc quan về thị trường hợp đồng cái chết tương lai: “So với số người bị AIDS thì số người bị ung thư, bệnh tim mạch nặng và các bệnh giai đoạn cuối khác vẫn đông hơn nhiều” [208].
Không như bảo hiểm tạp vụ, bảo hiểm bánh thánh phục vụ một mục đích xã hội rõ ràng - đó là đem lại nguồn tài chính trong những ngày cuối đời của người bị bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối. Hơn nữa, người được bảo hiểm đã đồng ý mua bảo hiểm từ đầu (mặc dù trong một số trường hợp, có thể người mắc bệnh hiểm nghèo không đủ quyền lực để đàm phán một mức giá hợp lý cho hợp đồng bảo hiểm của họ). Vấn đề đạo đức của hợp đồng bánh thánh không phải ở chỗ thiếu sự đồng thuận của người được bảo hiểm. Mà là ở chỗ nó là công cụ đánh cược vào cái chết của người mua bảo hiểm, và nó đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư khi những người này qua đời đúng thời điểm dự kiến.
Có người sẽ nói là hợp đồng bánh thánh không phải công cụ duy nhất đầu tư vào cái chết. Ngành bảo hiểm nhân thọ cũng biến sự sống chết của chúng ta thành hàng hóa. Nhưng vẫn có sự khác biệt: Với bảo hiểm tính mạng, công ty bán bảo hiểm cho tôi đang đánh cược vào sự sống chứ không phải cái chết của tôi. Tôi càng sống lâu, công ty bảo hiểm càng kiếm được nhiều tiền. Còn với hợp đồng bánh thánh, quyền lợi tài chính lại đi theo hướng ngược lại. Theo quan điểm của công ty bảo hiểm, tôi càng chết sớm càng tốt [209].
Tại sao tôi phải quan tâm chuyện đâu đó có một nhà đầu tư đang mong tôi chết? Có lẽ tôi không cần quan tâm, với điều kiện anh ta không làm gì để biến hy vọng thành hiện thực hay thường xuyên gọi điện cho tôi hỏi thăm sức khỏe. Chuyện này có thể chỉ đáng kinh sợ chứ không đáng phản đối về mặt đạo đức. Hoặc có thể vấn đề đạo đức không nằm ở chỗ nó có gây tổn thương cho cơ thể tôi hay không, mà là nó sẽ làm xói mòn phẩm cách của nhà đầu tư. Bạn có muốn kiếm tiền bằng cách đặt cược rằng một người sẽ chết sớm?
Tôi ngờ rằng ngay cả những người nhiệt tình ủng hộ thị trường tự do cũng ngần ngại, không dám hoàn toàn thừa nhận rằng đánh cược vào cái chết của người khác cũng là một ngành kinh doanh. Hãy xem: Nếu ngành bảo hiểm bánh thánh không khác gì bảo hiểm tính mạng về mặt đạo đức thì tại sao họ không có quyền vận động hành lang vì quyền lợi của họ? Nếu ngành bảo hiểm tính mạng có quyền vận động hành lang cho những chính sách nhằm kéo dài cuộc sống của người khác (ví dụ bắt buộc đeo dây bảo hiểm khi đi ô tô hay cấm hút thuốc) thì tại sao ngành bảo hiểm bánh thánh không có quyền vận động cho những chính sách thúc đẩy cái chết (ví dụ, giảm chi ngân sách cho nghiên cứu bệnh AIDS hoặc ung thư). Theo như tôi biết thì ngành bảo hiểm bánh thánh chưa vận động hành lang. Nhưng nếu về mặt đạo đức, mọi người được phép đầu tư vào khả năng những người bị AIDS hoặc ung thư sẽ chết sớm thì hẳn họ cũng được phép vận động cho những chính sách thúc đẩy con người chết sớm.
Có một nhà đầu tư bảo hiểm bánh thánh tên là Warren Chisum, ông đồng thời là nghị sỹ bảo thủ bang Texas và “một tín đồ phản đối đồng tính nổi tiếng”. Ông đã lãnh đạo thành công nỗ lực vận động quy định truy tố hình sự với hành vi quan hệ tình dục đồng tính nam ở bang Texas; ông phản đối giáo dục giới tính; và bỏ phiếu chống các chương trình hỗ trợ bệnh nhân AIDS. Năm 1994, Chisum tự hào tuyên bố ông đã bỏ 200.000 dollar để mua hợp đồng bảo hiểm tính mạng của sáu bệnh nhân AIDS. Ông tuyên bố với báo Houston Post: “Tôi đánh cược rằng tôi sẽ lãi ít nhất 17%, có thể còn cao hơn nhiều. Nếu họ chết trong vòng một tháng thì anh biết đấy, [vụ đầu tư này] sẽ thực sự tuyệt vời” [210].
Một số người buộc tội Chisum vì đã bỏ phiếu cho những chính sách giúp ông thu được lợi ích cho bản thân. Nhưng lời buộc tội này không đúng; ông kiếm được tiền vì ông tin vào việc người ta chết chứ không phải ngược lại. Đây không phải trường hợp xung đột lợi ích điển hình. Thực tế, nó còn tệ hơn – một dạng chiến lược đầu tư có trách nhiệm với xã hội nhưng đã bị bóp méo đạo đức. Niềm vui thô thiển của Chisum trước khía cạnh đáng sợ của hợp đồng bánh thánh là ngoại lệ. Rất ít người đầu tư vào hợp đồng bánh thánh vì lý do thù địch. Hầu hết mọi người đều muốn bệnh nhân AIDS được mạnh khỏe, sống lâu, trừ những bệnh nhân nằm trong danh mục đầu tư.
Các nhà đầu tư vào bảo hiểm bánh thánh không phải những người duy nhất kiếm sống trên cái chết của người khác. Nhân viên điều tra cái chết bất thường, người làm dịch vụ tang lễ, phu đào huyệt đều như vậy, và chưa ai phê phán họ là vô đạo đức cả. Vài năm trước, báo New York Times đưa tin về Mike Thomas, một anh chàng 34 tuổi người Detroit, làm nghề “thu nhặt thi hài” cho nhà xác địa phương. Nhiệm vụ của anh là thu nhặt, vận chuyển thi hài những người đã qua đời về nhà xác. Anh được trả thù lao theo đầu người chết, có thể nói như vậy – cứ mỗi thi hài anh được trả 14 dollar. Nhờ tỷ lệ giết người ở Detroit khá cao mà anh kiếm được khoảng 14.000 dollar mỗi năm từ công việc đáng sợ này. Nhưng khi bạo lực giảm, Thomas phải đối mặt với một thời kỳ khó khăn. “Tôi biết điều này nghe có vẻ kỳ quái”, anh nói. “Tôi phải đợi có ai đó chết. Mong chờ có người chết. Nhưng đúng là thế. Đấy là cách tôi kiếm tiền nuôi con” [211].
Trả thù lao cho người thu nhặt thi hài theo đầu người chết có vẻ kinh tế, nhưng cũng làm phát sinh chi phí đạo đức. Việc một người kiếm được tiền trên cái chết của đồng loại có vẻ sẽ làm mất đi nhận thức về đạo đức của anh ta – và cả của chúng ta nữa. Về khía cạnh này, nghề thu nhặt thi hài cũng giống nghề kinh doanh hợp đồng bảo hiểm bánh thánh, nhưng có một điểm khác biệt cũng liên quan đến đạo đức: người thu nhặt thi hài sống nhờ cái chết của đồng loại, nhưng anh ta không cần phải hy vọng một người cụ thể sẽ chết sớm, mà ai chết lúc nào cũng được.
CÁ CƯỢC NGƯỜI CHẾT
Một hình thức giống bảo hiểm bánh thánh hơn nữa là cá cược người chết – trò cá cược kinh dị đã trở nên phổ biến trên mạng Internet vào những năm 1990, thời kỳ bảo hiểm bánh thánh cất cánh mạnh mẽ. Cá cược người chết là hình thức cá cược trên mạng tương đương với kiểu cá cược truyền thống xem đội nào vô địch giải bóng bầu dục Mỹ Super Bowl. Nhưng thay vì chọn đội nào vô địch, người chơi cá cược xem nhân vật nổi tiếng nào sẽ chết trong năm [212].
Rất nhiều trang web cung cấp các hình thức khác nhau của trò chơi kinh dị này với tên khác nhau như: Cá cược ma quỷ, Cá cược chết chóc, Cá cược người nổi tiếng chết. Một trong những trang web nổi tiếng nhất là Stiffs.com, với vụ cá cược đầu tiên được tổ chức vào năm 1993 và bắt đầu lên mạng vào năm 1996. Với mức phí gia nhập 15 dollar, người chơi sẽ đưa ra danh sách một loạt người nổi tiếng mà họ cho rằng sẽ chết vào cuối năm. Người nào đoán đúng nhiều nhất sẽ thắng giải 3.000 dollar, người về nhì được 500 dollar. Trang Stiffs.com thu hút hơn 1.000 người chơi mỗi năm [213].
Người chơi nghiêm túc sẽ không đưa ra lựa chọn cẩu thả. Họ lục lọi từng trang tạp chí giải trí và tờ tin tức để tìm tin tức về các nhân vật nổi tiếng đang đau ốm. Hiện tại, những nhân vật thường được đặt cược là nữ diễn viên Zsa Zsa Gabor (94 tuổi), mục sư Billy Graham (93 tuổi) và nhà cựu lãnh đạo Cuba Fidel Castro (85 tuổi). Các lựa chọn phổ biến khác là diễn viên Kirk Douglas, cựu thủ tướng Anh Margaret Thatcher, cựu đệ nhất phu nhân Mỹ Nancy Reagan, cựu vận động viên quyền Anh Muhammad Ali, thẩm phán Tòa án tối cao Ruth Bader Ginsburg, nhà vật lý Stephen Hawking, ca sỹ Aretha Franklin và cựu thủ tướng Israel Ariel Sharon. Do những nhân vật cao tuổi, sức khỏe kém chiếm đa số trong danh sách, một số trang cá cược còn thưởng thêm điểm cho ai đoán đúng những nhân vật yểu mệnh như Công nương Diana, John Denver hoặc những người qua đời sớm khác [214].
Cá cược người chết có trước Internet. Trò chơi này được cho là phổ biến trong giới kinh doanh chứng khoán ở Wall Street hàng chục năm nay. Phim Cá cược chết chóc (Dead Pool) (1998) là tập phim gần đây nhất trong chuỗi phim Dirty Harry do Clint Eastwood thủ vai chính. Nội dung phim liên quan đến một vụ cá cược người chết dẫn đến những vụ giết người bí ẩn nhằm vào những người nổi tiếng có trong danh sách. Nhưng Internet cùng với cơn sốt thị trường hồi thập niên 1990 đã đưa trò cá cược này lên tầm vóc mới [215].
Đánh cược vào thời điểm người nổi tiếng chết là một trò giải trí. Không ai sống bằng tiền thắng cược. Nhưng chúng ta vẫn thấy cá cược người chết có những vấn đề đạo đức giống bảo hiểm bánh thánh và bảo hiểm tạp vụ nếu không tính đến câu chuyện như trong phim Dirty Harry là người tham gia cá cược gian lận, tìm cách giết những người có trong danh sách chết. Đánh cược vào tính mạng của một người và kiếm được tiền khi người đó chết có gì sai trái? Có, có cái gì đó không ổn. Nhưng nếu người cá cược không làm gì khiến người khác chết nhanh hơn thì sao phải phàn nàn? Liệu Zsa Zsa Gabor hay Muhammad Ali có bị ảnh hưởng gì không khi những người họ chưa bao giờ gặp lại đánh cược vào cái chết của họ không? Có thể họ sẽ thấy bị xúc phạm khi tên họ đứng đầu danh sách người chết. Nhưng tôi nghĩ tính phô trương của trò cá cược chủ yếu nằm ở thái độ đối với cái chết mà trò chơi này khuyến khích.
Thái độ này là một hỗn hợp độc hại của tính phù phiếm và sự ám ảnh – con người chơi đùa với cái chết trong khi không tránh được nó. Những người chơi cá cược người chết không đơn giản là đặt cược mà họ còn đang chia sẻ với nhau một thứ văn hóa. Họ dành thời gian, công sức để nghiên cứu tuổi thọ kỳ vọng của những người họ đang đặt cược. Họ bị ám ảnh một cách không chính đáng về cái chết của những người nổi tiếng. Các trang web cá cược người chết đầy tin tức về tình trạng bệnh tật của người nổi tiếng lại càng khuyến khích thú vui này. Thậm chí bạn có thể đăng ký dịch vụ “báo tin có người nổi tiếng chết” để được gửi thư điện tử hoặc tin nhắn mỗi khi có nhân vật nổi tiếng qua đời. Tham gia cá cược người chết “thực sự sẽ thay đổi cách bạn xem truyền hình và theo dõi tin tức” – lời Kelly Bakst, người quản lý trang web Stiffs.com [216].
Cũng như bảo hiểm bánh thánh, cá cược người chết khiến chúng ta lo ngại vì nó buôn bán bệnh tật con người.
Nhưng cá cược người chết lại khác bảo hiểm bánh thánh ở chỗ nó không phục vụ mục tiêu tốt đẹp cho xã hội. Nó hoàn toàn là một hình thức đánh bạc, một cách kiếm lợi và giải trí. Mặc dù đáng ghê sợ, nhưng cá cược người chết vẫn không phải vấn đề đạo đức tệ hại nhất thời nay. Trong thang bậc tội lỗi thì nó được xếp vào loại nhỏ. Nhưng nó rất thú vị vì trong một số ít trường hợp, nó cho thấy bảo hiểm làm xói mòn đạo đức như thế nào trong kỷ nguyên định hướng thị trường.
Bảo hiểm tính mạng luôn bao hàm hai thứ trong một: vừa là công cụ gộp rủi ro lại để bảo đảm an toàn cho mọi người, vừa là công cụ cá cược tàn nhẫn vào cái chết. Hai khía cạnh này tồn tại cùng nhau nhưng không dễ dàng. Nếu không có các chuẩn mực đạo đức và quy định pháp lý thì khía cạnh cá cược sẽ luôn đe dọa lấn át mục tiêu xã hội ban đầu của bảo hiểm tính mạng. Khi mục tiêu xã hội bị mất đi hoặc trở nên mờ nhạt, ranh giới mong manh giữa bảo hiểm, đầu tư và cá cược sẽ bị xóa nhòa. Bảo hiểm tính mạng đã thay đổi, từ một cơ chế bảo đảm an toàn cho thân nhân một người sang một công cụ tài chính, và cuối cùng là công cụ đánh cược vào cái chết. Nó không còn phục vụ mục đích tốt đẹp nào ngoài đem lại niềm vui và tiền bạc cho người tham gia cuộc chơi. Cho dù có vẻ tầm thường, đứng ngoài lề, nhưng cá cược người chết thực sự là người anh em sinh đôi đen tối của bảo hiểm tính mạng - công cụ cá cược không đem lại điều gì tốt đẹp cho xã hội.
Sự xuất hiện của bảo hiểm tạp vụ, bảo hiểm bánh thánh và cá cược người chết vào những năm 1980 và 1990 có thể được coi là tập phim về thương mại hóa cuộc sống và cái chết ở cuối thế kỷ 20. Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 còn chứng kiến xu hướng này tiến xa hơn. Nhưng trước khi kể câu chuyện ở thời hiện tại, chúng ta cần nhìn lại quá khứ để nhắc nhở mình rằng bảo hiểm tính mạng đã gây ra những bất ổn về đạo đức như thế nào ngay từ đầu.
LƯỢC SỬ ĐẠO ĐỨC CỦA BẢO HIỂM TÍNH MẠNG
Chúng ta thường nghĩ bảo hiểm và cá cược chỉ là hai cách khác nhau để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là biện pháp giảm thiểu rủi ro, còn cá cược là tận dụng rủi ro. Bảo hiểm thể hiện tính thận trọng, còn cá cược là đầu cơ. Nhưng ranh giới giữa chúng luôn dao động [217].
Trong lịch sử, sự gần gũi giữa bảo hiểm tính mạng và đánh cược vào chính nó đã khiến nhiều người coi bảo hiểm tính mạng là đáng ghê sợ. Bảo hiểm tính mạng không chỉ tạo động lực cho các vụ giết người mà nó còn đưa ra mức giá thị trường sai cho tính mạng con người. Trong nhiều thế kỷ, bảo hiểm tính mạng bị cấm ở hầu hết các nước châu Âu. Một luật gia Pháp thế kỷ 18 đã viết: “Tính mạng con người không thể là đối tượng của hợp đồng mua bán, và thật đáng hổ thẹn khi cái chết lại trở thành thứ có thể đầu cơ”. Trước thời điểm giữa thế kỷ 19, nhiều nước châu Âu từng không có công ty bảo hiểm nhân thọ nào. Ở Nhật, mãi đến năm 1881 mới xuất hiện công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên. Vì không được coi là chính thống về đạo đức nên “ở hầu hết các nước, bảo hiểm nhân thọ không hề phát triển cho đến tận giữa hoặc cuối thế kỷ 19” [218].
Nước Anh là ngoại lệ. Bắt đầu là cuối thế kỷ 17, các chủ tàu, nhà môi giới, nhà bảo lãnh bảo hiểm thường tập hợp ở quán cà phê Lloyd’s ở Anh, một trung tâm bảo hiểm hàng hải. Có người đến mua bảo hiểm để được đảm bảo tàu và hàng của mình sẽ quay về an toàn. Người khác lại đến để đánh cược vào tính mạng, vào những sự kiện mà họ không liên quan gì trừ việc họ muốn cá cược. Nhiều người mua “bảo hiểm ngược” cho những con tàu mà họ không sở hữu, hy vọng kiếm được tiền nếu tàu bị chìm ngoài biển cả. Ngành bảo hiểm trộn lẫn với cá cược, trong đó người bảo lãnh đồng thời đóng vai nhà cái [219].
Luật pháp Anh không có quy định hạn chế với cả bảo hiểm và cá cược, hai thứ ít nhiều khó tách biệt. Vào thế kỷ 18, các “chủ hợp đồng” bảo hiểm từng đánh cược vào kết quả ai trúng cử, quốc hội giải tán hay không, vị quý tộc Anh nào sẽ bị giết, Napoleon sẽ chết hay bị bắt, nữ hoàng sống được bao lâu trong những tháng trước đại lễ kỷ niệm ngày lên ngôi.[220] Những chủ đề phổ biến khác trong cá cược, cái được gọi là khía cạnh thể thao của bảo hiểm, là kết quả những cuộc bao vây và chiến dịch quân sự, “tính mạng được bảo hiểm kỹ càng” của Robert Walpole [221], hay liệu vua George II có còn sống trở về sau cuộc chinh phạt không. Khi vua Pháp là Louis XIV đổ bệnh vào tháng 8/1715, đại sứ Anh ở Pháp cá cược rằng Thái Dương vương (biệt danh của vua Louis XIV) sẽ không sống được qua tháng 9. (Và vị đại sứ đã thắng cược). “Những người của công chúng thường là chủ đề để đem ra cá cược”, tức là một dạng sơ khởi của cá cược người chết trên mạng ngày nay [222].
Có một vụ cá cược bảo hiểm tính mạng đặc biệt tàn nhẫn liên quan đến 800 người tị nạn người Đức. Họ đến Anh vào năm 1765 và đã bị bỏ rơi, không lương thực, không chốn dung thân ở ngoại ô London. Những kẻ đầu cơ và nhà cái ở Lloyd’s đã đánh cược với nhau về số người sẽ chết sau một tuần [223].
Phần lớn mọi người sẽ thấy vụ cá cược này thật kinh khủng. Nhưng theo quan điểm của lập luận thị trường thì không có gì cho thấy nó đáng phản đối. Vì người đánh cược không phải chịu trách nhiệm về tình trạng tuyệt vọng của nhóm người nhập cư nên có gì sai khi họ cá cược với nhau bao giờ nhóm người nhập cư sẽ chết? Cả hai phía tham gia cá cược đều có lợi; nếu không thì như lập luận kinh tế đã chứng minh, họ sẽ không bao giờ tham gia cá cược. Có lẽ nhóm người nhập cư không biết gì về vụ cá cược, và họ cũng chẳng bị ảnh hưởng gì bởi kết quả đánh cá. Ít nhất, đây cũng là logic kinh tế của thị trường bảo hiểm nhân thọ tự do.
Nếu phản đối cá cược người chết thì lý do phải nằm ngoài logic thị trường, ở thái độ vô nhân đạo mà vụ cá cược thể hiện. Với bản thân người tham gia cá cược, sự bàng quan trước cái chết hay đau đớn là dấu hiệu của cái xấu. Với cả xã hội, thái độ ấy cộng với hệ thống khuyến khích nó thể hiện tính thô lỗ, mục nát. Như chúng ta đã thấy trong nhiều ví dụ khác về thương mại hóa, bản thân việc các chuẩn mực xã hội bị xói mòn hoặc bị lấn át có thể không phải là lý do chính đáng để phản đối thị trường. Nhưng việc đánh cược vào tính mạng của người lạ không đem lại điều gì tốt đẹp cho xã hội ngoài tiền và thú vui giải trí nên chính đặc điểm xấu của cá cược đã là lý do chính đáng để kiểm soát chặt chẽ nó.
Tình trạng cá cược người chết diễn ra phổ biến ở Anh đã làm xã hội dấy lên sự phản đối hành vi xấu. Và còn một nguyên nhân nữa khiến chúng ta phải hạn chế nó. Bảo hiểm nhân thọ ngày càng được coi là một giải pháp khôn ngoan dành cho trụ cột gia đình để bảo vệ người thân khỏi cảnh nghèo túng, nhưng giá trị đạo đức của nó đã bị xói mòn vì nó có liên quan đến cá cược. Để bảo hiểm nhân thọ có thể trở thành một ngành kinh doanh chính đáng, cần phải tách nó khỏi hoạt động đầu cơ tài chính.
Cuối cùng nước Anh cũng làm được điều ấy với Đạo luật Bảo hiểm có hiệu lực năm 1774 (còn được gọi là Đạo luật Cá cược). Luật cấm cá cược vào tính mạng của người lạ và hạn chế bảo hiểm tính mạng chỉ áp dụng cho những người có “quyền lợi được bảo hiểm” từ người được bảo hiểm tính mạng. Vì thị trường bảo hiểm nhân thọ tự do đã dẫn tới “những trò cá cược độc hại” nên quốc hội quyết định cấm mọi hình thức bảo hiểm tính mạng, “trừ trường hợp người mua bảo hiểm có quyền lợi liên quan đến việc sống chết của người được bảo hiểm”. Nói một cách đơn giản, như nhà sử học Geoffrey Clark, “Đạo luật Cá cược đã đưa ra giới hạn những trường hợp nào có thể coi tính mạng con người như hàng hóa” [224].
Ở Mỹ, bảo hiểm tính mạng được chấp nhận một cách chậm chạp. Nó chỉ được phát triển từ cuối thế kỷ 19. Mặc dù từ thế kỷ 18, đã có vài công ty bảo hiểm ra đời, nhưng chủ yếu họ chỉ bán bảo hiểm hàng hải. Bảo hiểm tính mạng “bị phản đối dữ dội về mặt văn hóa”. Như Viviana Zeilizer viết: “Biến cái chết trở thành hàng hóa trên thị trường là hành vi làm tổn hại đến hệ giá trị đang bảo vệ sự thiêng liêng cũng như tính quý giá, không thể so sánh của tính mạng con người” [225].
Đến thập niên 1850, bảo hiểm tính mạng bắt đầu phát triển, nhưng chỉ nhấn mạnh vào mục đích bảo vệ và lờ đi khía cạnh thương mại: “Cho đến tận cuối thế kỷ 19, ngành bảo hiểm tính mạng vẫn tránh sử dụng các thuật ngữ kinh tế, thay vào đó, họ phủ quanh mình các biểu tượng tôn giáo và quảng cáo về các giá trị đạo đức mà bảo hiểm mang lại hơn là lợi ích bằng tiền. Bảo hiểm tính mạng được tiếp thị dưới hình thức một công cụ thể hiện tính vị tha, quên mình chứ không phải một khoản đầu tư sinh lợi nhuận” [226].
Cuối cùng, nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm tính mạng cũng bớt ngần ngại khi chào bán bảo hiểm như một công cụ đầu tư. Khi ngành bảo hiểm tính mạng phát triển lên thì ý nghĩa, mục đích của nó cũng thay đổi. Từng được thận trọng quảng cáo là một cơ chế tốt nhằm bảo vệ những người vợ góa và con cái, nhưng giờ đây bảo hiểm tính mạng đã trở thành công cụ tiết kiệm và đầu tư, một cách kiếm tiền bình thường. Khái niệm “quyền lợi được bảo hiểm” đã mở rộng, không chỉ cho người thân trong gia đình và người phụ thuộc mà còn bao gồm cả đối tác kinh doanh và nhân sự chủ chốt trong công ty. Các công ty có thể mua bảo hiểm cho ban điều hành (chứ không phải cho nhân viên văn thư, tạp vụ). Đến cuối thế kỷ 19, việc thương mại hóa bảo hiểm nhân thọ “đã làm gia tăng hiện tượng mua bảo hiểm thuần túy vì mục đích kinh doanh”, quyền lợi được bảo hiểm được áp dụng mở rộng cho cả “người lạ không có liên quan gì đến người được bảo hiểm ngoài lợi ích kinh tế” [227].
Nhưng nỗi lo ngại về đạo đức khi thương mại hóa cái chết vẫn phảng phất. Zelizer đã chỉ ra một dấu hiệu cho thấy nỗi lo ngại ấy: sự cần thiết phải có các nhân viên đại lý bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm đã sớm biết rằng mọi người không tự cảm thấy cần mua bảo hiểm. Ngay cả khi xã hội chấp nhận bảo hiểm tính mạng thì cũng “không thể đưa cái chết vào các giao dịch thương mại bình thường được”. Nên cần có nhân viên đại lý bảo hiểm để tìm kiếm khách hàng, giúp họ vượt qua được bản tính ngần ngại và thuyết phục họ về tính ưu việt của sản phẩm bảo hiểm [228].
Điểm bất thường của giao dịch thương mại liên quan đến cái chết còn giải thích tại sao nhân viên bán bảo hiểm ít được tôn trọng. Không đơn giản vì công việc của họ gắn với cái chết. Bác sỹ, thầy tu cũng vậy, nhưng họ không bị suy đồi đạo đức. Nhân viên đại lý bảo hiểm trở thành người xấu vì anh ta “bán cái chết, kiếm sống trên bi kịch tồi tệ nhất của người khác”. Nghề bán bảo hiểm vẫn bị mang tiếng xấu đến tận thế kỷ 20. Mặc dù rất nỗ lực chuyên nghiệp hóa công việc, nhưng các đại lý bảo hiểm vẫn không làm cho xã hội mất đi ấn tượng xấu rằng họ coi “cái chết là đối tượng mua bán” [229].
Quy định về quyền lợi được bảo hiểm khiến bảo hiểm nhân thọ chỉ được áp dụng cho những người có quyền lợi gắn bó với tính mạng người được bảo hiểm từ trước, có thể là người thân hoặc lợi ích tài chính. Như vậy mới tách biệt được bảo hiểm ra khỏi cá cược – không ai được phép cá cược vào tính mạng người lạ đơn thuần chỉ để kiếm tiền nữa. Nhưng sự tách biệt này không rõ ràng như ta tưởng. Nguyên nhân: các thẩm phán đã phán quyết rằng khi bạn có hợp đồng bảo hiểm tính mạng (với cơ sở là quyền lợi được bảo hiểm), bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn muốn với hợp đồng, kể cả bán cho người khác. Quan điểm “chuyển nhượng” này – như người ta thường gọi – có nghĩa là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một tài sản giống như các tài sản khác [230].
Năm 1911, Tòa án Tối cao Mỹ xác nhận quyền bán, hay thường gọi là “chuyển nhượng” hợp đồng bảo hiểm tính mạng. Trong biên bản tại tòa, Thẩm phán Oliver Wendell Holmes, Jr. có nhận thấy vấn đề là ở chỗ: cho phép mọi người được bán hợp đồng bảo hiểm tính mạng của mình cho bên thứ ba sẽ vi phạm quy định về quyền lợi được bảo hiểm. Nhà đầu cơ sẽ có cơ hội tái tham gia thị trường: “Nếu hợp đồng bảo hiểm tính mạng của một người không đem lại cho người được bảo hiểm hưởng quyền lợi gì thì hợp đồng đó thuần túy là công cụ cá cược, khiến người được bảo hiểm gặp bất lợi tồi tệ khi chết”[231].
Đây chính là vấn đề bảo hiểm bánh thánh gặp phải vài thập niên trước. Hãy nhớ lại hợp đồng bảo hiểm của Kendall Morrison – bệnh nhân AIDS người New York – được bán cho bên thứ ba. Với nhà đầu tư, hợp đồng thuần túy là công cụ cá cược Morrison sẽ sống bao lâu. Khi Morrison không qua đời đúng như dự kiến, nhà đầu tư nhận thấy mình đã rơi vào tình huống “gặp bất lợi tồi tệ khi [người được bảo hiểm] chết”. Những cú điện thoại gọi đến, những lá thư hỏi han được chuyển phát nhanh chính là vì lý do ấy.
Holmes thừa nhận rằng bắt buộc [người thụ hưởng] phải có quyền lợi được bảo hiểm hoàn toàn là để tránh biến bảo hiểm tính mạng thành cá cược vào người chết, “một trò cá cược độc hại”. Nhưng theo ông, lý do này chưa đủ để ngăn chặn sự hình thành thị trường thứ cấp trong lĩnh vực bảo hiểm tính mạng với sự tham gia của các nhà đầu cơ. Và ông kết luận: “Ngày nay, bảo hiểm tính mạng đã trở thành một trong những hình thức đầu tư và tự bắt buộc tiết kiệm phổ biến nhất. “Do đó, trong chừng mực an toàn được phép, cũng nên cho rằng hợp đồng bảo hiểm có những đặc điểm của một tài sản thông thường” [232].
Một thế kỷ sau, tình thế mà Holmes gặp phải còn khó xử hơn. Ranh giới giữa bảo hiểm, đầu tư và đánh bạc đã biến mất. Bảo hiểm tạp vụ, bảo hiểm bánh thánh và cá cược người chết xuất hiện đầu những năm 1990 mới chỉ là khởi đầu. Ngày nay, thị trường sống và chết đã đi quá xa mục tiêu xã hội và những chuẩn mực đạo đức từng chi phối nó.
THỊ TRƯỜNG HỢP ĐỒNG KHỦNG BỐ TƯƠNG LAI
Giả sử có một vụ cá cược không chỉ nhằm mục đích giải trí. Hãy tưởng tượng có một trang web cho phép bạn đánh cược không phải vào tính mạng của một ngôi sao điện ảnh mà vào việc liệu một nguyên thủ quốc gia sẽ bị ám sát hay lật đổ, hoặc vụ khủng bố tiếp theo sẽ xảy ra ở đâu. Và giả sử vụ kết quả của vụ đánh cược này sẽ là thông tin quý giá, giúp chính phủ bảo vệ an ninh quốc gia. Năm 2003, một cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ đã đề xuất xây dựng website cá cược chuyện này. Lầu Năm góc gọi nó là Thị trường phân tích chính sách; còn các phương tiện thông tin đại chúng thì đặt tên là “thị trường hợp đồng khủng bố tương lai” [233].
Trang web là sản phẩm của DARPA (Cục Dự án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến), là cơ quan chịu trách nhiệm phát triển các công nghệ mới, phục vụ chiến tranh và thu thập thông tin tình báo. Ý tưởng của họ là để các nhà đầu tư mua bán hợp đồng về các kịch bản khác nhau có thể diễn ra trong tương lai, ban đầu chỉ liên quan đến vùng Trung Đông. Các kịch bản mẫu ban đầu bao gồm: Liệu nhà lãnh đạo Palestine Yasser Arafat có bị ám sát không?
Liệu vua Abdullah II của Jordan có bị lật đổ không? Liệu Israel có trở thành mục tiêu khủng bố bằng vũ khí hóa học không? Một tình huống khác không liên quan đến Trung Đông: Liệu Bắc Triều Tiên có tấn công bằng vũ khí hạt nhân không? [234]
Vì những người tham gia thị trường phải trả giá cho dự báo bằng tiền của chính mình nên những người sẵn lòng đặt cược cao hẳn là người có thông tin chính xác nhất. Nếu thị trường hợp đồng tương lai giúp ta đoán được chính xác giá những thứ như dầu mỏ, cổ phiếu, đậu tương thì tại sao không sử dụng năng lực của nó để dự báo vụ khủng bố tiếp theo?
Tin về trang web cá cược đã làm dấy lên sự bất bình ở Quốc hội. Cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đều lên án nó, và Bộ Quốc phòng nhanh chóng hủy bỏ dự án. Cơn bão phản đối nổi lên một phần vì họ không tin nó sẽ hoạt động hiệu quả, nhưng chủ yếu là vì họ lo ngại về vấn đề đạo đức khi chính phủ lại đỡ đầu vụ cá cược về thảm họa trong tương lai. Làm sao chính phủ Mỹ có thể mời gọi mọi người cá cược và kiếm tiền trên khủng bố và chết chóc được cơ chứ? [235]
“Bạn có thể tưởng tượng nếu một nước khác cũng thiết lập cơ chế cá cược để mọi người tham gia... và đánh cược một chính trị gia của Mỹ sẽ bị ám sát thì sao?”, Thượng nghị sỹ Byron Dorgon (đảng Dân chủ, bang North Dakota) đặt câu hỏi. Thượng nghị sỹ Ron Wyden (đảng Dân chủ, bang Oregon) cũng nhất trí với Dorgan, yêu cầu rút lại kế hoạch, cho là nó “không phù hợp”. Ông nói: “Ý tưởng xây dựng một sàn cá cược những vụ việc đáng sợ, những vụ tấn công thuộc sở hữu liên bang thật kỳ quái, vô lý”. Thủ lĩnh phe đa số ở Thượng viện Tom Daschle (đảng Dân chủ, bang South Dakota) cho rằng chương trình này là “vô trách nhiệm và tàn nhẫn”, và ông nói thêm: “Tôi không thể tin rằng có ai đó lại nghiêm túc đề xuất việc chúng ta sẽ mua bán người chết”. Thượng nghị sỹ Barbara Boxer (đảng Dân chủ, bang Califoria) thì phát biểu: “Có cái gì đó thật bệnh hoạn trong ý tưởng ấy” [236].
Lầu Năm góc không trả lời trước những lập luận phản đối về đạo đức mà họ đưa ra tuyên bố về những nguyên tắc cơ bản của dự án. Họ cho rằng giao dịch hợp đồng tương lai rất có ích không chỉ trong dự báo giá cả hàng hóa mà còn trong cả dự báo kết quả bầu cử hay doanh thu bán vé của các bộ phim Hollywood: “Nghiên cứu đã chỉ ra rằng giữa hàng loạt thông tin tản mát hay thậm chí bị che giấu, thị trường vẫn biết chọn lọc thông tin một cách cực kỳ hiệu quả và đúng thời điểm. Thị trường hợp đồng tương lai đã chứng minh nó rất giỏi dự báo những thứ như kết quả bầu cử, và nó thường dự đoán đúng hơn cả các chuyên gia” [237].
Nhiều học giả cũng nghĩ như vậy, chủ yếu là các nhà kinh tế học. Một học giả từng viết: thật “đáng buồn khi thấy chiến dịch quan hệ công chúng kém cỏi đã phá hỏng một công cụ quan trọng tiềm năng trong phân tích thông tin tình báo”. Cơn bão phản đối đã khiến mọi người không thể đánh giá đúng mức những ưu điểm của nó. Hai nhà kinh tế học thuộc Đại học Stanford viết trên báo Washington Post: “Thị trường tài chính cũng là một cơ chế chọn lọc thông tin tài ba đến khó tin, và nó thường dự báo chính xác hơn so với các phương pháp truyền thống”. Họ viện dẫn đến Thị trường điện tử Iowa, một thị trường hợp đồng tương lai trên mạng, từng dự báo kết quả của những cuộc bầu cử tổng thống còn đúng hơn cả những cuộc trưng cầu. Một ví dụ khác là thị trường hợp đồng tương lai đối với nước cam. “Thị trường hợp đồng tương lai nước cam cô đặc dự báo thời tiết Florida còn chính xác hơn cả Cơ quan Khí tượng quốc gia” [238].
Một ưu điểm của thị trường dự báo so với phương pháp tình báo truyền thống là thông tin nó thu được không bị sự quan liêu và áp lực chính trị bóp méo. Các chuyên gia cấp trung có thông tin trong tay sẽ đi thẳng đến thị trường và đặt tiền vào kết cục mà họ tin tưởng. Nhờ vậy, thị trường sẽ đem lại những thông tin mà theo truyền thống sẽ bị các chuyên gia cấp cao che giấu, không bao giờ được lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật. Chúng ta hãy nhớ lại trước cuộc chiến tranh Iraq, áp lực đã khiến CIA phải đi đến kết luận rằng Saddam Hussein sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt. Một trang web cá cược độc lập cho thấy mọi người nghi ngờ điều này hơn Giám đốc CIA George Tenet, người từng tuyên bố chứng minh sự tồn tại của vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq là “chuyện đơn giản”[239].
Nhưng sự hình thành trang web hợp đồng khủng bố tương lai cho thấy một nhận định lớn hơn về sức mạnh của thị trường. Trong bối cảnh tư tưởng ủng hộ vai trò của thị trường đang lên cao, những người bảo vệ dự án thị trường hợp đồng khủng bố tương lai đã đưa ra lập luận mới về niềm tin vào thị trường, vào đúng kỷ nguyên của ngành tài chính: Thị trường không chỉ là cơ chế sản xuất, phân bổ hàng hóa hiệu quả nhất, nó còn là công cụ tốt nhất trong việc tổng hợp thông tin và dự báo tương lai. Ưu điểm của thị trường tương lai mà DARPA phác thảo ra là nó sẽ “kêu gọi, kích thích, đánh thức một cộng đồng tình báo khó tính góp phần vào năng lực dự báo của thị trường tự do”. Nó sẽ cho chúng ta cơ hội thấy “cái mà các học giả theo lý thuyết quyết định đã biết hàng chục năm nay: Có thể đo xác suất một sự kiện xảy ra thông qua số tiền cá cược mà mọi người sẵn lòng đặt vào sự kiện ấy” [240].
Ý tưởng cho rằng thị trường tự do không chỉ hiệu quả mà còn sáng suốt đã khiến mọi người phải chú ý. Không phải mọi nhà kinh tế học đều nhất trí như vậy. Một số người cho rằng thị trường hợp đồng tương lai có thể dự đoán tốt giá lúa mì, nhưng sẽ khó mà đoán được những sự kiện ít khi xảy ra, ví dụ như một vụ tấn công khủng bố. Một số người khác thì duy trì quan điểm với việc thu thập thông tin tình báo, thị trường của các chuyên gia sẽ hoạt động hiệu quả hơn là thị trường dành cho mọi thành phần xã hội. Kế hoạch của DARPA còn bị chất vấn về những vấn đề cụ thể hơn: Liệu thị trường có mở cửa cho cả giới khủng bố, những người có thể thực hiện “giao dịch nội gián” để kiếm lợi nhuận từ một vụ tấn công, hoặc che đậy kế hoạch của mình bằng cách bán “non” một hợp đồng khủng bố tương lai? Và liệu mọi người có thực sự đánh cược vào khả năng vua Jordan sẽ bị ám sát không nếu họ biết chính phủ sẽ sử dụng thông tin trên thị trường để ngăn chặn vụ ám sát và làm mất cơ hội thắng cược của họ? [241]
Bỏ qua tính khả thi, vậy những lập luận phản đối về mặt đạo đức – thật đáng sợ khi có một chương trình cá cược vào cái chết và thảm họa do chính phủ đỡ đầu – thì sao? Giả sử có thể khắc phục được những khó khăn khi áp dụng nó trong thực tế, và có thể thiết kế một thị trường hợp đồng khủng bố tương lai sao cho nó làm việc hiệu quả hơn các cơ quan tình báo truyền thống trong việc dự báo các vụ ám sát hoặc tấn công khủng bố. Khi đó, sự vô đạo đức khi đánh cược và kiếm tiền dựa trên cái chết và thảm họa có phải lý do thích hợp để phản đối thị trường dự báo không?
Nếu chính phủ định đỡ đầu cho một sàn cá cược xem nhân vật nổi tiếng nào sẽ chết thì câu trả lời sẽ rất rõ ràng: vì sàn cá cược này không có lợi gì cho xã hội nên chẳng có lời nào có thể biện minh cho việc khuyến khích thái độ bàng quan tàn nhẫn, hoặc tệ hơn, thú vui đáng sợ khi giải trí trên cái chết và vận xui của người khác. Để cho cá nhân tổ chức cá cược người chết đã là tệ hại rồi. Cá cược người chết bừa bãi là hành động làm mất dần đi lòng cảm thông và thái độ đúng mực; và chính phủ nên ngăn chặn chứ không phải khuyến khích nó.
Thị trường hợp đồng khủng bố tương lai trở nên phức tạp về mặt đạo đức vì không như cá cược người chết, nó có mục đích tốt. Nếu hoạt động hiệu quả, nó sẽ mang lại những thông tin tình báo giá trị. Khi đó, nó sẽ tương tự như hợp đồng bánh thánh. Tình thế khó xử về đạo đức cả hai gặp phải cũng giống nhau: Liệu chúng ta có nên thúc đẩy kết cục đáng mong muốn – ví dụ: cung cấp nguồn tài chính cho người sắp chết để thuốc men chạy chữa, ngăn chặn một vụ tấn công khủng bố – với cái giá về mặt đạo đức là khiến cho các nhà đầu tư có cơ hội kiếm tiền trên cái chết, vận xui của người khác? Một số người sẽ nói: “Có chứ, dĩ nhiên”. Còn đây là câu trả lời của một nhà kinh tế học, người tham gia đưa ra ý tưởng cho dự án của DARPA: “Con người dối trá, lừa lọc, trộm cắp, giết chóc dưới danh nghĩa tình báo. So với những thứ kiểu như vậy thì đề xuất của chúng tôi là quá hiền lành. Đơn giản là chúng tôi sẽ lấy tiền của một số người và đưa cho một số người khác, tùy ai trong số họ đúng” [242].
Nhưng câu trả lời này dễ dãi quá. Nó đã lờ đi chuyện thị trường lấn át các chuẩn mực. Khi các thượng nghị sỹ, các cây bút xã luận lên án thị trường hợp đồng thị trường khủng bố tương lai là “tàn nhẫn”, “đáng ghê sợ”, “lố bịch”, họ muốn nhắc đến tính vô đạo đức khi để cho con người mua quyền lợi trên cái chết của một người rồi hy vọng người ta chết sớm để kiếm được tiền. Mặc dù nó đã tồn tại ở một số nơi trong xã hội hiện nay, nhưng để cho chính phủ đỡ đầu một cơ chế, cho phép nó diễn ra bình thường thì lại là hành động gây xói mòn đạo đức.
Có lẽ trong những tình huống ngặt nghèo thì đáng phải trả giá đạo đức. Lập luận phản đối liên quan đến tham nhũng không phải lúc nào cũng vững chắc. Nhưng chúng hướng chúng ta phải lưu ý đến yếu tố đạo đức mà những người ủng hộ thị trường thường bỏ quên. Nếu chúng ta bị thuyết phục rằng thị trường hợp đồng khủng bố tương lai là cách duy nhất hoặc cách tốt nhất để bảo vệ đất nước trước những vụ tấn công khủng bố thì chúng ta hẳn sẽ quyết định chung sống với tình huống nhạy cảm về đạo đức mà thị trường mang lại. Nhưng như vậy là nhượng bộ với ma quỷ, và quan trọng là phải sống được sau khi trải qua cái “đáng ghê sợ”.
Khi thị trường cái chết trở nên quen thuộc thì để giữ được thái độ đúng mực về đạo đức là không dễ. Quan trọng là phải ghi nhớ khi nào bảo hiểm tính mạng trở thành một công cụ đầu cơ, giống như hồi thế kỷ 18.
Ngày nay, đánh cược vào tính mạng của người lạ không còn là một cuộc chơi đơn lẻ mà đã là một ngành kinh doanh lớn.
TÍNH MẠNG NGƯỜI LẠ
Thuốc kéo dài cuộc sống cho bệnh nhân AIDS là may mắn của ngành y tế, nhưng lại là lời nguyền đối với ngành bảo hiểm bánh thánh. Nhà đầu tư nhận thấy họ bị mắc kẹt trong tình trạng phải nộp phí cho những hợp đồng bảo hiểm không kết thúc đúng thời hạn họ mong muốn. Nếu ngành bảo hiểm bánh thánh muốn tiếp tục tồn tại thì các nhà môi giới phải tìm ra bệnh chắc chắn gây tử vong hơn để đầu tư. Sau khi tìm hiểu các bệnh nhân ung thư và một số bệnh giai đoạn cuối khác, họ đi đến một ý tưởng bạo dạn hơn: Tại sao lại chỉ giới hạn đầu tư vào tính mạng những người bị bệnh? Tạo sao không mua hợp đồng bảo hiểm của những người cao tuổi khỏe mạnh nhưng sẵn lòng bán hợp đồng để lấy tiền?
Alan Buerger là nhân vật tiên phong trong ngành kinh doanh mới. Vào đầu thập niên 1990, ông chuyên bán bảo hiểm tạp vụ cho các doanh nghiệp. Khi Quốc hội xóa bỏ chính sách ưu đãi thuế cho bảo hiểm tạp vụ, Buerger xem xét chuyển sang kinh doanh bảo hiểm bánh thánh. Nhưng rồi ông nhận thấy những người cao tuổi khỏe mạnh, giàu có mới là thị trường lớn hơn, hứa hẹn hơn. “Tôi cảm thấy như bị sét đánh vậy”, Bueger kể với tờ Wall Street Journal [243].
Năm 2000, ông bắt đầu mua lại hợp đồng bảo hiểm tính mạng của những người từ 65 tuổi trở lên và bán cho giới đầu tư. Hoạt động kinh doanh của ông giống bảo hiểm bánh thánh, trừ chỗ tuổi thọ kỳ vọng của người được bảo hiểm càng cao thì giá trị hợp đồng càng lớn, thường phải 1 triệu dollar trở lên. Nhà đầu tư mua lại hợp đồng bảo hiểm của những người không cần nó nữa, đóng phí và nhận trợ cấp tử vong khi người được bảo hiểm qua đời. Để tránh tiếng xấu vốn đã gắn với bảo hiểm bánh thánh, họ tự gọi công việc của mình là “mua đứt hợp đồng bảo hiểm tính mạng”. Công ty của Buerger – Coventry First – là một trong những công ty thành công nhất trong ngành [244].
Ngành mua đứt hợp đồng bảo hiểm tính mạng tự cho rằng họ là “một thị trường tự do trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ”. Trước kia, những người không muốn hoặc không cần đến hợp đồng bảo hiểm tính mạng nữa không có lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ mặc cho hợp đồng tự kết thúc, hoặc đôi khi họ thanh lý hợp đồng cho công ty bảo hiểm và nhận được số tiền đền bù không đáng kể. Giờ dây, họ có thể kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách bán hợp đồng bảo hiểm của mình cho giới đầu tư [245].
Nghe có vẻ như đây là một thỏa thuận có lợi cho cả hai. Người được bảo hiểm được trả mức giá tương xứng cho hợp đồng mà họ không cần nữa, còn nhà đầu tư kiếm được lợi nhuận khi hợp đồng đáo hạn. Nhưng thị trường thứ cấp trong lĩnh vực bảo hiểm tính mạng đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn và một loạt các vụ kiện tụng.
Mâu thuẫn thứ nhất xuất hiện trong lý thuyết kinh tế học bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm không thích “hợp đồng bảo hiểm được mua đứt”. Khi đưa ra phí bảo hiểm, họ giả định rằng có một số người nhất định sẽ từ bỏ hợp đồng trước khi qua đời. Người được bảo hiểm thường ngừng nộp phí, bỏ mặc cho hợp đồng tự kết thúc khi con cái họ trưởng thành, bạn đời của họ được đảm bảo cuộc sống. Thực tế là công ty bảo hiểm không phải chi trả tiền đền bù cho 40% hợp đồng bảo hiểm. Nhưng khi có ngày càng nhiều người bán hợp đồng bảo hiểm tính mạng của họ cho giới đầu tư thì sẽ có ngày càng ít hợp đồng được bỏ ngang giữa chừng, và công ty bảo hiểm sẽ phải bỏ ra nhiều tiền đền bù hơn (cho nhà đầu tư, người vẫn đóng phí bảo hiểm đến khi kết thúc hợp đồng và cuối cùng sẽ nhận được tiền đền bù) [246].
Mâu thuẫn thứ hai liên quan đến tính bất ổn về mặt đạo đức của việc cá cược vào tính mạng con người. Với nghề mua đứt hợp đồng bảo hiểm tính mạng, cũng giống như bảo hiểm bánh thánh, tỷ lệ sinh lời của một vụ đầu tư phụ thuộc vào thời điểm người được bảo hiểm qua đời. Năm 2010, tờ Wall Street Journal đưa tin: Life Partners Holdings, một công ty chuyên mua đứt hợp đồng bảo hiểm tính mạng đã mắc sai lầm hệ thống là ước tính quá thấp tuổi thọ kỳ vọng của người được bảo hiểm trong các hợp đồng mà họ bán cho nhà đầu tư. Ví dụ, họ bán cho nhà đầu tư hợp đồng bảo hiểm tính mạng của một chủ trang trại chăn nuôi 79 tuổi ở bang Idaho với giá 2 triệu dollar, giả định ông này chỉ sống được từ hai đến bốn năm nữa. Nhưng hơn năm năm sau, ở tuổi 84, ông vẫn rất mạnh khỏe, vẫn tập chạy trên máy chạy bộ, nâng tạ, chẻ củi. “Tôi vẫn khỏe như trâu”, ông cho biết. “Sẽ có vô số nhà đầu tư phải thất vọng” [247].
Wall Street Journal phát hiện ra rằng ông chủ trang trại khỏe mạnh không phải người duy nhất khiến nhà đầu tư thất vọng. Trong 95% số hợp đồng mà Life Partners làm trung gian mua bán, người được bảo hiểm sống lâu hơn ước tính của công ty. Tỷ lệ tử vong cao quá mức do một bác sỹ ở Reno, bang Nevada – người được Life Partners thuê làm việc này – đưa ra. Ngay sau khi bài báo xuất hiện, Life Partners đã bị Ủy ban chứng khoán bang Texas và Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch liên bang điều tra vì ước tính tuổi thọ không rõ ràng [248].
Một công ty kinh doanh hợp đồng bảo hiểm tính mạng được mua đứt khác ở Texas đã bị chính quyền bang buộc phải đóng cửa vào năm 2010 vì đã định hướng sai cho nhà đầu tư về tuổi thọ kỳ vọng. Họ nói với Sharon Brady, cán bộ tư pháp đã nghỉ hưu ở Fort Worth rằng nếu đầu tư vào tính mạng của những người cao tuổi thì tỷ lệ sinh lời mỗi năm của bà là 16%. “Họ lấy ra một cuốn sách và cho tôi xem ảnh và tuổi của một số người. Một bác sỹ giải thích với tôi mấy người ấy bị bệnh gì, họ sẽ sống được bao lâu nữa”, Brady kể. “Không nên mong có người chết, nhưng nếu có thì anh sẽ kiếm được tiền. Tức là anh thực sự đang cá cược khi nào người ta chết”.
Brady nói bà “cảm thấy chuyện này hơi kỳ lạ. Anh thu được lợi nhuận rất cao trên số tiền đầu tư ban đầu”. Một tình huống không ổn, nhưng rất hấp dẫn về mặt tài chính”. Brady và chồng đầu tư 50.000 dollar chỉ để về sau họ biết rằng con số người chết ước tính phải nói là quá đẹp, không thể có thật. “Thực tế là họ sống lâu gấp đôi thời gian mà tay bác sỹ kia nói” [249].
Một đặc điểm nữa còn gây tranh cãi nhiều hơn là cách thức tìm hợp đồng bảo hiểm để bán. Vào giữa những năm 2000, thị trường bảo hiểm nhân thọ tính mạng đã phát triển lên quy mô lớn. Các quỹ phòng ngừa và các định chế tài chính khác như Credit Suisse hay Deutsche Bank đã chi hàng tỷ dollar để mua các hợp đồng bảo hiểm tính mạng của người giàu cao tuổi. Khi cầu hợp đồng tăng lên, một vài nhà môi giới bắt đầu trả tiền cho những người cao tuổi chưa có bảo hiểm để họ mua bảo hiểm tính mạng với giá trị cao rồi bán lại hợp đồng bảo hiểm cho giới đầu cơ. Chúng được gọi là những hợp đồng bảo hiểm phục vụ đầu cơ [250].
Năm 2006, báo New York Times ước tính quy mô thị trường các hợp đồng bảo hiểm phục vụ đầu cơ lên tới 13 tỷ dollar một năm. Tờ báo cũng mô tả các nhà môi giới điên cuồng tìm kiếm hợp đồng mới như thế nào: “Các vụ mua bán hợp đồng đem lại lợi nhuận cao đến mức giới đầu tư đeo đuổi người cao tuổi bằng mọi giá. Ở Florida, các nhà đầu tư còn tài trợ tiền mời những người cao tuổi lên du thuyền để kiểm tra thể lực và mua bảo hiểm tính mạng ngay tại đó” [251].
Ở Minnesota, một cụ ông 82 tuổi đã mua bảo hiểm tính mạng với tổng giá trị là 120 triệu dollar từ bảy công ty bảo hiểm khác nhau rồi bán cho giới đầu cơ với lợi nhuận cao. Các công ty bảo hiểm đều kêu trời, phàn nàn rằng việc sử dụng bảo hiểm thuần túy với mục đích đầu cơ là đi ngược với mục tiêu cơ bản của bảo hiểm tính mạng - giúp gia đình người được bảo hiểm tránh được sụp đổ tài chính – và hợp đồng bảo hiểm phục vụ đầu cơ sẽ làm tăng chi phí bảo hiểm của những khách hàng bảo hiểm đích thực [252].
Một vài hợp đồng bảo hiểm phục vụ đầu cơ đã dẫn đến kiện tụng. Trong một số vụ, công ty bảo hiểm từ chối chi trả tiền đền bù tử vong vì cho rằng nhà đầu cơ không có quyền lợi được bảo hiểm. Về phần mình, công ty kinh doanh hợp đồng bảo hiểm được mua đứt cho rằng rất nhiều công ty bảo hiểm, trong đó có người khổng lồ AIG rất ưa thích hợp đồng bảo hiểm phục vụ đầu cơ vì nó đem lại mức phí cao, nhưng đến lúc phải trả tiền thì lại kêu ca phàn nàn. Một số vụ kiện khác lại là người được bảo hiểm kiện nhà môi giới ra tòa vì nhà môi giới đã bán lại hợp đồng bảo hiểm của họ [253].
Một trong những khách hàng của hợp đồng phục vụ đầu cơ cảm thấy bất mãn là người dẫn chương trình trò chuyện trên truyền hình Larry King. Ông đã mua hai hợp đồng bảo hiểm tính mạng cho mình với tổng giá trị 15 triệu dollar và bán ngay sau đó. Ông được trả 1,4 triệu dollar, nhưng ở tòa, ông buộc tội đại lý bảo hiểm đã nói không đúng sự thật với ông về tiền hoa hồng, phí bảo hiểm và thuế. Larry King cũng cho biết ông không thể tìm ra hiện ai là người được hưởng tiền đền bù khi ông qua đời. “Chúng tôi không biết người đang giữ hợp đồng bảo hiểm là một quỹ phòng ngừa ở Wall Street hay một tay trùm Mafia” – lời luật sư của ông [254].
Cuộc chiến giữa các công ty bảo hiểm và những người chuyên mua đứt hợp đồng bảo hiểm còn diễn ra ở cơ quan lập pháp khắp các bang trên cả nước. Năm 2007, Goldman Sachs, Credit Suisse, UBS, Bear Stearns và nhiều ngân hàng khác đã thành lập Hiệp hội Thị trường bảo hiểm tính mạng để thúc đẩy thị trường hợp đồng bảo hiểm được mua đứt và vận động hành lang chống lại những nỗ lực hạn chế ngành kinh doanh này. Nhiệm vụ của hiệp hội là: tạo ra “giải pháp mới dựa vào thị trường” cho “thị trường liên quan đến tuổi thọ và tử vong” [255]. Đây là cách gọi lịch sự cho thị trường cá cược người chết mà thôi.
Năm 2009, phần lớn các bang đều thông qua luật cấm hợp đồng bảo hiểm phục vụ đầu cơ hay “hợp đồng bảo hiểm nhân thọ do người lạ khởi xướng” (STOLI) – như thuật ngữ trong luật. Nhưng các bang đều cho phép nhà môi giới tiếp tục mua bán hợp đồng bảo hiểm tính mạng của người ốm hoặc người già, những người tự nguyện mua bảo hiểm chứ không phải mua để phục vụ giới đầu cơ. Để chặn trước các quy định hạn chế mạnh hơn, ngành kinh doanh hợp đồng bảo hiểm được mua đứt đã đưa ra nguyên tắc phân biệt giữa “hợp đồng bảo hiểm tính mạng thuộc sở hữu người lạ” (cái mà luật cho phép) với “hợp đồng bảo hiểm tính mạng do người lạ khởi xướng” (cái mà luật cấm) [256].
Xét về mặt đạo đức thì chúng không khác nhau lắm. Việc nhà đầu cơ thuyết phục người cao tuổi mua bảo hiểm nhân thọ rồi bán đi để kiếm lợi nhuận nhanh chóng có vẻ đặc biệt tệ hại. Rõ ràng nó đi ngược lại mục đích chính của bảo hiểm tính mạng là bảo vệ gia đình và công ty khỏi bị sụp đổ tài chính khi người trụ cột gia đình hoặc lãnh đạo cao cấp của công ty qua đời. Nhưng mọi giao dịch kinh doanh hợp đồng bảo hiểm tính mạng được mua đứt đều tệ hại như vậy cả. Đầu cơ vào tính mạng người khác là hành vi đáng nghi vấn về đạo đức, bất kể ai khởi xướng việc mua bảo hiểm.
Trong phiên điều trần về bảo hiểm ở bang Florida, Doug Head, phát ngôn viên của ngành kinh doanh mua đứt hợp đồng bảo hiểm đã lập luận rằng cho phép mọi người bán hợp đồng bảo hiểm tính mạng cho giới đầu cơ là hành động “thể hiện quyền tài sản và cho thấy ưu thế của kinh tế thị trường tự do cạnh tranh”. Khi một người có quyền lợi hợp pháp cần được bảo hiểm ký hợp đồng bảo hiểm, anh ta có quyền bán lại hợp đồng cho người trả giá cao nhất. “Công cụ ‘Hợp đồng bảo hiểm tính mạng thuộc sở hữu người lạ’ là kết quả tự nhiên của việc người chủ sở hữu hợp đồng bán hợp đồng trên thị trường mở - hành vi thể hiện quyền tài sản cơ bản của họ”. Head khẳng định hợp đồng bảo hiểm tính mạng do người lạ khởi xướng lại khác. Chúng không hợp pháp vì nhà đầu cơ, người khởi xướng ra việc ký hợp đồng, không hề có quyền lợi cần được bảo hiểm [257].
Lập luận của Head không thuyết phục. Trong cả hai trường hợp, nhà đầu cơ, người cuối cùng nắm trong tay hợp đồng bảo hiểm, đều không có quyền lợi được cần bảo hiểm từ việc người được bảo hiểm qua đời, dẫn tới công ty bảo hiểm phải chi trả tiền đền bù. Trong cả hai trường hợp, nhà đầu cơ đều có lợi nhuận khi một người họ không quen biết qua đời. Nếu như Head nói, tôi có quyền mua bán hợp đồng bảo hiểm tính mạng của chính bản thân tôi thì việc tôi thực hiện quyền ấy theo ý mình hay gợi ý của người khác có gì khác nhau? Giá trị của việc bán đứt hợp đồng bảo hiểm tính mạng là ở chỗ nó “đem lại giá trị bằng tiền mặt” từ hợp đồng bảo hiểm mà tôi đang sở hữu. Còn giá trị của hợp đồng bảo hiểm phục vụ nhà đầu cơ là ở chỗ nó “đem lại giá trị bằng tiền mặt” từ những năm cuối đời của tôi. Dù là cách nào đi nữa thì vẫn sẽ có một người tôi không quen biết được hưởng lợi khi tôi chết, còn tôi kiếm được ít tiền khi tự đặt mình vào tình thế đó.
TRÁI PHIẾU CÁI CHẾT
Thị trường cá cược vào người chết chỉ còn một bước nữa là lên đến đỉnh cao – được Wall Street biến thành công cụ tài chính. Năm 2009, báo New York Times đưa tin các ngân hàng đầu tư ở Wall Street có kế hoạch mua lại hợp đồng bảo hiểm đã được mua đứt, “gói” chúng lại thành trái phiếu và bán cho các quỹ hưu trí và các nhà đầu tư lớn khác. Thu nhập mà trái phiếu mang lại đến từ số tiền đền bù khi các hợp đồng bảo hiểm gốc đáo hạn, tức là người được bảo hiểm qua đời. Những gì Wall Street làm với cái chết giống như những gì nó đã làm với các khoản vay mua nhà suốt mấy chục năm qua [258].
Theo báo New York Times, “Goldman Sachs đã xây dựng chỉ số thể hiện khả năng có thể mua bán của các hợp đồng bảo hiểm đã được mua đứt, dựa vào đó, nhà đầu tư có thể đánh cược liệu một người sẽ sống lâu hơn hay qua đời trước thời điểm dự kiến trong hợp đồng”. Còn Credit Suisse thì tạo ra “một dây chuyền lắp ráp hợp đồng để mua số lượng lớn các hợp đồng bảo hiểm tính mạng, gói chúng lại và bán đi – giống như các công ty ở Wall Street đã làm với những khoản vay dưới chuẩn”. Với số hợp đồng bảo hiểm tính mạng hiện có ở Mỹ trị giá tổng cộng 26 nghìn tỷ dollar, thị trường trái phiếu cái chết đem lại hy vọng về một loại sản phẩm tài chính mới, giúp bù đắp lại phần thu nhập mất đi sau khi thị trường các khoản vay được chứng khoán hóa sụp đổ [259].
Mặc dù còn phải thuyết phục thêm một số tổ chức xếp hạng công cụ tài chính nữa, nhưng ít nhất mọi người cũng đã tin rằng có thể tạo ra một trái phiếu từ các hợp đồng bảo hiểm đã được mua đứt với rủi ro tối thiểu. Tương tự như chứng khoán từ các khoản vay được hình thành từ nhiều khoản vay ở nhiều vùng trên khắp cả nước, trái phiếu hình thành từ các hợp đồng bảo hiểm đã được mua đứt là một gói gồm hợp đồng bảo hiểm của nhiều người “với đủ loại bệnh khác nhau – bạch cầu, ung thư phổi, tim, ung thư vú, đái tháo đường, Alzheimer”. Một trái phiếu dựa trên danh mục đủ loại bệnh như vậy sẽ cho phép nhà đầu tư yên tâm vì nếu con người có tìm ra thuốc chữa một bệnh thì cũng không thể làm cho trái phiếu giảm giá [260].
AIG, người khổng lồ trong lĩnh vực bảo hiểm, từng thực hiện những giao dịch phức tạp, góp phần gây ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 cũng bày tỏ sự quan tâm đến loại chứng khoán mới này. Là công ty bảo hiểm, AIG luôn phản đối việc bán đứt hợp đồng bảo hiểm và đã từng ra tòa đấu tranh. Nhưng họ cũng thầm lặng mua lại số hợp đồng trị giá 18 tỷ dollar trong tổng giá trị 45 tỷ dollar hiện có trên thị trường, và họ hy vọng sẽ gói chúng lại thành các loại giấy tờ có giá và bán chúng dưới dạng trái phiếu [261].
Vậy thì trái phiếu cái chết là tốt hay xấu về mặt đạo đức? Xét trên góc độ nào đó thì nó cũng giống như hành vi cá cược vào người chết nằm ẩn sau nó. Nếu chúng ta nên phản đối hành vi cá cược vào tính mạng con người và kiếm tiền trên cái chết của người khác với lý do đạo đức, thì trái phiếu cái chết cũng tệ hại không kém với những hình thức đa dạng mà chúng ta đã xem xét: bảo hiểm tạp vụ, bảo hiểm bánh thánh, cá cược người chết và tất cả những vụ mua bán bảo hiểm thuần túy vì lý do đầu cơ. Có thể có ý kiến cho rằng việc không rõ một trái phiếu chứa trong nó bảo hiểm của những ai và là loại bảo hiểm gì sẽ làm giảm bớt hiệu ứng xói mòn đạo đức đi một mức độ nhất định. Một khi các hợp đồng bảo hiểm đã được sắp xếp thành các gói hợp đồng có giá trị khổng lồ, sau đó được cắt thành các gói nhỏ hơn và bán cho các quỹ hưu trí hay quỹ tài chính của các trường đại học thì không nhà đầu tư nào có lợi ích gắn liền với cái chết của một người nhất định nữa. Phải thừa nhận là giá hợp đồng trái phiếu cái chết sẽ giảm nếu chính sách y tế, tiêu chuẩn môi trường của nhà nước hoặc thói quen ăn uống, tập luyện của người dân giúp họ cải thiện được sức khỏe và sống lâu hơn. Nhưng đánh cược vào điều này có vẻ không tệ hại như đếm ngược những ngày cuối đời còn lại của bệnh nhân AIDS người New York hay một chủ trang trại già ở Idaho. Hay là chúng đều tệ hại như nhau?
Đôi khi chúng ta quyết định sẽ chung sống với một thị trường đã bị xói mòn về đạo đức vì nó cũng đem lại điều tốt đẹp cho xã hội. Bảo hiểm tính mạng là một trong những thỏa hiệp ấy. Để bảo vệ gia đình, công ty của người được bảo hiểm khỏi bị sụp đổ tài chính khi người đó qua đời, sau hai thế kỷ, xã hội đã miễn cưỡng đi đến kết luận rằng những người có quyền lợi được bảo hiểm liên quan đến tính mạng một người được phép cá cược vào cái chết. Nhưng khó mà cưỡng lại được sức hấp dẫn của đầu cơ.
Thị trường sống và chết khổng lồ ngày nay đã chứng tỏ rằng nỗ lực lớn lao để tách bảo hiểm khỏi cá cược đã không thành công. Khi Wall Street tăng tốc mua bán trái phiếu cái chết thì cũng là lúc chúng ta quay lại thế giới không bị ràng buộc về đạo đức trong quán cà phê Lloyd’s ở London, nhưng giờ đây quy mô của thị trường đã lớn hơn nhiều, khiến cho việc cá cược vào cái chết, vận xui của người lạ có vẻ kỳ quặc.