Thế Giới Cong - Chương 08
8. Xung đột giữa các tầng lớp xã hội và vấn đề chính trị của toàn cầu hóa
Trong số tất cả những bất ổn mà thị trường tài chính toàn cầu đang phải đối mặt - từ Trung Quốc tới hệ thống ngân hàng mong manh dễ vỡ, hay sự suy giảm quyền lực của các ngân hàng trung ương - thay đổi chính trị vẫn là điều khó dự đoán nhất. Toàn cầu hóa và các thị trường vốn tự do hóa xuất hiện chính là kết quả của hệ thống chính trị, đồng thời là biện pháp nhằm ứng phó với tình trạng nền kinh tế đình trệ trong những năm 1970. Cho dù toàn cầu hóa có tồn tại trong thế kỷ XXI hay không thì câu hỏi đặt ra vẫn là: trước những lợi ích to lớn mà toàn cầu hóa mang lại, liệu về mặt chính trị những người bỏ phiếu có chấp nhận những thiếu sót của quá trình này hay không. Dường như sự chấp nhận đó ngày càng khó xảy ra.
Nguồn vốn toàn cầu khổng lồ ngày nay tiếp tục đo lường những rủi ro chính trị. Vì vốn doanh nghiệp vô cùng linh động và luôn tìm hướng phát triển, nguồn vốn này sẽ ngay lập tức tìm cơ hội đầu tư ở nước ngoài khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên về một sự thay đổi tiêu cực thậm chí chỉ mang tính tiềm tàng, để lại phía sau những hậu quả nặng nề sau cơn bất ổn tài chính. Những dấu hiệu về sự thay đổi tiêu cực này bao gồm các dấu hiệu về một sự xung đột giữa các tầng lớp xã hội (các chính trị gia khiến một nhóm thu nhập này cạnh tranh với một nhóm thu nhập khác) và sự can thiệp quá mức của chính phủ, bao gồm chế độ bảo hộ nền công nghiệp trong nước cũng như những thay đổi điều tiết và tài khóa dự kiến khác. Ban đầu mỗi thay đổi đều mang những ý định tốt đẹp nhưng cuối cùng lại trở nên phản tác dụng. Ngày nay thế giới rõ ràng là cong bởi vì thế giới chính trị và thế giới thị trường tài chính ngày càng không hiểu nhau. Đặc biệt là Mỹ, nơi mà những thay đổi chính trị lớn nhưng không phù hợp với các thị trường vốn tự do hóa và tự do mậu dịch dường như đang được xem xét lại.
Những gì tôi sẽ tiếp tục trình bày là một lý thuyết nghe có vẻ khá lạ về vấn đề chính trị đối với toàn cầu hóa. Tôi cho rằng một phần tư thế kỷ qua đã chứng kiến một sự đồng thuận chính trị tương đối hoàn hảo giữa hai đảng phái đều ủng hộ tự do mậu dịch và các thị trường tài chính tự do hóa. Tại Mỹ trong giai đoạn này, toàn cầu hóa không phải là hiện tượng thuộc về riêng Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ. Thực tế, không có nhiều khác biệt trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế giữa Bill Clinton (Đảng Dân chủ) hay Ronald Reagan (Đảng Cộng hòa).
Thậm chí với vai trò Tổng thống, Bill Clinton đã đưa ra nhiều chính sách kinh doanh tự do hơn cả Ronald Reagan. Clinton trở thành người ủng hộ mạnh mẽ nhất quá trình toàn cầu hóa và các thị trường tài chính tự do. Ông là người dẫn đầu trong một phần tư thế kỷ phồn vinh với tỷ lệ xóa đói giảm nghèo trên toàn cầu đến kinh ngạc. Cả Reagan và Clinton đều nhận thức rõ ràng rằng toàn cầu hóa còn nhiều thiếu sót, nhưng là công cụ không thể thiếu nhằm giải quyết tình hình kinh tế bị bóp nghẹt những năm 1970. Bill Clinton trưởng thành trong những năm 1970, chính vì thế ông đặc biệt nhận thức rõ về hiện thực nền kinh tế giai đoạn đó. Reagan sinh năm 1911 nên ông trưởng thành trong cuộc Đại Suy thoái. Bởi vậy, về một khía cạnh nào đó, một khi nhậm chức tại Nhà Trắng cả hai đều hiểu tính cấp bách và khả năng có thể kiểm soát làn sóng toàn cầu hóa dữ dội đang diễn ra. Ngày nay câu hỏi đặt ra là: điều gì xảy ra khi những người tham gia thị trường tài chính trên toàn cầu nhận thức rõ ràng rằng thời kỳ đồng thuận chính sách quan trọng này lại có nguy cơ kết thúc?
Ngày nay cả hai đảng chính trị tại Mỹ đều đang nhanh chóng rút lại các chính sách ủng hộ toàn cầu hóa mà Bill Clinton đã mạnh mẽ hưởng ứng. Rõ ràng một phần sự bất ổn thị trường tài chính và sự suy yếu của đồng đô la trong thời gian gần đây có nguyên nhân không chỉ bởi sự bất ổn có liên quan tới tín dụng dưới chuẩn, mà còn do sự bất ổn trong phương hướng chính trị của nước Mỹ. Các chính trị gia nước Mỹ thậm chí còn làm tăng thêm những quan ngại này khi tham gia ngày càng sâu rộng vào các cuộc tấn công của những người theo chủ nghĩa dân túy đối với việc hình thành vốn, sự chủ động của doanh nghiệp và quá trình tạo ra của cải.
Vấn đề của việc chính trị hóa toàn cầu hóa là: cho tới giờ các thị trường tài chính thế giới định mức giá khá cao cho các tài sản tài chính ở Hoa Kỳ, bao gồm cả giá chứng khoán, bởi vì quan niệm thị trường có xu hướng giá lên cho rằng mô hình tự do mậu dịch, các thị trường vốn tự do hóa mà Clinton và Reagan ủng hộ cũng như sự tăng trưởng mạnh mẽ dài hạn sẽ gần như không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ yếu tố nào. Hiện tại đang xuất hiện một hệ thống chính trị mới với những quy tắc mới, với những chính sách thay đổi và ít kiên nhẫn hơn đối với tự do hóa nguồn vốn và thương mại một cách tự do. Ngay lập tức câu hỏi đặt ra là: bản chất đang thay đổi của môi trường chính trị trong những năm tới sẽ được các thị trường định giá lại như thế nào? Và liệu có xảy ra một sự suy giảm giá trị tài sản tài chính mạnh mẽ trong điều kiện thị trường hoảng loạn hay không? Khi diễn ra những thay đổi chính trị kém khôn ngoan, các thị trường tài chính sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ rõ ràng. Ngày nay, xét về mặt chính trị, mọi người ngày càng tin rằng thế giới tài chính đang bị cuốn vào vùng nước xoáy chính trị nguy hiểm chưa được thăm dò.
Tôi biết rằng liên hệ Clinton và Reagan trong một thảo luận về kinh tế toàn cầu nghe có vẻ kỳ quặc, tuy nhiên điều này không hẳn vô lý như chúng ta nghĩ. Trong một vài thập kỷ qua, cả hai Tổng thống đều là thành viên của một nhóm “diễn viên” lớn biểu diễn trên sân khấu toàn cầu về vấn đề đổi mới tài chính và kinh tế toàn cầu hóa. Những người chủ trương đổi mới khác bao gồm Narasimha Rao ở Ấn Độ, Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc, Jacques Delors ở châu Âu, Margaret Thatcher ở Anh, Roger Douglas ở New Zealand và Fernando Henrique Cardoso ở Brazil. Một số nhà phân tích cho rằng cựu Thủ tướng thuộc Đảng Xã hội Pháp Lionel Jospin cũng là một trong những thành viên của nhóm chính khách đàn anh này.
Tất cả các nhà lãnh đạo này được hưởng lợi trong bối cảnh mức độ lạm phát toàn cầu sụt giảm và sự xuất hiện của siêu lực máy tính mới và rẻ. Trước những áp lực chính trị, tất cả đều trông cậy vào toàn cầu hóa, các nhà doanh nghiệp và các thị trường vốn toàn cầu sẽ giúp loại bỏ các chính sách ngăn cản quá trình tạo ra của cải những năm 1970 (đối với Trung Quốc và Ấn Độ, điều này nghĩa là loại bỏ những ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế tập trung).
Với vai trò là các nhà hoạch định chính sách, Reagan và Clinton không phải là sự kết hợp hoàn hảo. Hai nguyên Tổng thống được biết đến nhờ những thành công kinh tế đạt được do sự ủng hộ mạnh mẽ các thị trường thương mại và vốn tự do hóa của hai ông.
Vì những lợi ích công khai đem lại, tôi phải công nhận rằng ban đầu tôi không tin Reagan có khả năng tạo nên những thành quả lịch sử như vậy, mặc dù bản thân tôi bấy giờ nắm giữ một vị trí quan trọng khi mọi việc bắt đầu diễn ra. Thực sự tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh một Ronald Reagan cao lớn hơn tưởng tượng, gò má hồng hào vào cuối năm 1979 đi qua cửa khu khách sạn Airport Marriott tại Los Angeles. Ông mặc một chiếc áo khoác thể thao được ghép bởi nhiều mảnh có màu sáng, sặc sỡ và một chiếc áo thun chui đầu tương phản cả về màu sắc và họa tiết. Người ta khó có thể hình dung rằng con người nguyên là Thống đốc bang California 68 tuổi này đang chạy đua tranh chức ứng viên Tổng thống Đảng Cộng hòa.
Mặc dù tôi vốn là một đảng viên Đảng Dân chủ được đăng ký (mọi người sống trong khu vực nhà tôi, thuộc tầng lớp hạ-trung lưu ở thành phố Baltimore đều là thành viên Đảng Dân chủ), tôi có mặt tại đó để cố vấn cho Reagan bởi vì tôi là trợ lý của Nghị sĩ Cộng hòa Jack Kemp thuộc bang New York. Trong cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 1980, Nghị sĩ khu vực Buffalo đóng vai trò là người chỉ đạo nhóm hoạch định chính sách đối nội trong cuộc vận động của Reagan. Tôi là chánh văn phòng nhóm làm việc của Kemp. Chúng tôi có mặt tại Los Angeles để bàn về vấn đề kinh tế - cụ thể là dành trọn ba ngày để thảo luận các vấn đề chính sách với Reagan, người tôi chưa từng gặp trước đó và khoảng bảy hay tám cố vấn thân cận nhất của ông. Mục đích của buổi thảo luận là vạch ra một kế hoạch phục hồi quốc gia.
Mặc dù khi đó tôi mới chỉ có 26 tuổi nhưng tôi đủ kinh nghiệm để nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng tiềm tàng của cuộc họp đó. Tôi cũng chưa từng nghĩ rằng ba ngày này sẽ góp phần toàn cầu hóa nền kinh tế Hoa Kỳ. Nhưng thực sự điều đó đã xảy ra. Tất nhiên tôi cũng không hề nghĩ rằng sau này một tổng thống Đảng Dân chủ, Bill Clinton, sẽ đưa những chính sách này lên tầm cao mới mà có thể tôi không bao giờ tưởng tượng tới.
Nhân vật tham dự đáng chú ý nhất là John P. Sears ở độ tuổi 40, mái tóc bạc trắng và hút thuốc liên tục, người lãnh đạo cuộc vận động của Reagan. Bạn bè thường thân mật gọi ông là John P. Satan (do những chiến lược tài tình đến kỳ quái mà ông đề ra nhằm đối phó với các đối thủ chính trị). Tôi ngưỡng mộ Sears vì khả năng hoạch định chiến lược vô cùng tài giỏi của ông - những chiến lược luôn phù hợp với những mục tiêu chính trị thường không tuân theo quy tắc thông thường và không thể dự đoán trước. Ông khiến tôi gợi nhớ tới Erwin Rommel, viên tướng Đức Quốc xã trên chiến trường Bắc Phi trong thế chiến II, với kiểu cầm thuốc bằng ba ngón tay trông giống như một khẩu tiểu thần công nhắm thẳng vào vị thống đốc[80]. Mỗi khi Sears lên tiếng, bầu không khí trở nên căng thẳng. Và căng thẳng hơn nữa khi Sears trao đổi với Reagan (một vài tháng sau đó Sears bị loại khỏi cuộc vận động). Tuy nhiên một trong số những đóng góp của Sears trở thành một đóng góp lịch sử.
Những ngày đầu tại các cuộc họp ở Los Angeles, ông đã liên tục yêu cầu cuộc vận động thúc đẩy vấn đề được gọi là “Hiệp ước Bắc Mỹ” (North American Accord). Đây là kế hoạch nhằm cho phép thương mại tự do qua biên giới với Mexico và Canada. Reagan thấy ý tưởng khá thú vị. Ông đã đề cập tới kế hoạch này trong tuyên bố tranh cử Tổng thống năm 1979 và trong Thông điệp Liên bang[81] đầu tiên. Tất nhiên Hiệp ước Bắc Mỹ là hạt giống khởi đầu cho Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ, hay còn gọi là NAFTA. NAFTA trở thành sợi dây nối kết chung nhờ Tổng thống Clinton, người mà sau đó đã ủng hộ hiệp định này mạnh mẽ. Điều này đã hình thành nên một khu vực tự do mậu dịch giữa Mỹ, Mexico và Canada, và tạo nên một trong những bước tiến lớn của quá trình toàn cầu hóa.
Các cuộc họp này của Reagan diễn ra vào cuối thời kỳ mà tôi xin được gọi là “thập kỷ khủng khiếp” - những năm 1970. Mọi vấn đề trong khoảng thời gian này - từ nền kinh tế, chính sách ngoại giao, âm nhạc và thậm chí cả thời trang - đều khủng khiếp. Cần nhớ rằng giai đoạn này diễn ra ngay sau cái kết tủi nhục của cuộc chiến tranh Việt Nam và chưa đầy một thập kỷ sau khi Tổng thống Richard Nixon với hàng loạt các vụ bê bối buộc phải từ chức. Cái cảm giác rằng vụ ám sát Tổng thống Kennedy năm 1963 đã phá hoại sự trong sạch cũng như những hứa hẹn của quốc gia này vẫn còn tồn tại.
Một lý do giải thích tại sao thế giới cong là nhóm những người bỏ phiếu chính ngày nay tại Mỹ không nhớ những khó khăn của thời kỳ này. Ngày nay họ thậm chí không thể hình dung một nền kinh tế mà vẫn còn tình trạng thất nghiệp với lạm phát và lãi suất đều thấp. Chính vì thế, những mặt bất lợi của toàn cầu hóa thường được xem xét và đánh giá không cân xứng với những lợi ích to lớn mà toàn cầu hóa mang lại, đã giúp nền kinh tế Mỹ tự cứu mình ra khỏi thời kỳ kinh tế gặp nhiều khó khăn những năm 1970.
Trong những năm 1970, một nhóm có tên “Câu lạc bộ Rome” bao gồm những nhà kinh tế học hàng đầu trên thế giới đã giả thuyết rằng nền kinh tế thế giới bị vây hãm đang chạm tới các giới hạn tăng trưởng. Hay nói cách khác nền kinh tế đã đạt tới khả năng tạo công ăn việc làm tối đa.
Trước đó một vài năm, thành phố New York chỉ vừa thoát khỏi tình trạng phá sản. Những căn hộ thuộc các tòa nhà dân cư sang trọng khu Tây được biết đến với cái tên Dakota, nơi mà John Lennon sống khi bị ám sát, ngày nay mỗi căn hộ đó có giá lên tới 10 thậm chí 20 triệu đô la. Tuy nhiên thời đó chỉ mất 100.000 đô la là có thể sở hữu một căn hộ.
Hai đợt cắt giảm nguồn cung dầu tại Trung Đông đã buộc Mỹ phải sử dụng các mặt hàng gas. Một chính sách quyết liệt của Cục Dự trữ Liên bang đã gây ra mức lãi suất thế chấp tăng tới 20%, lạm phát hai con số và mức thất nghiệp tăng kỷ lục tới 10% (so với mức 5% đầu năm 2008 và lãi suất thế chấp dưới 6%).
Trong kỷ nguyên hậu chiến tranh Việt Nam và vụ Watergate, mọi người mất lòng tin vào chính phủ, bởi vì các nhà hoạch định chính sách của chính phủ hầu như mất khả năng kiểm soát mức kỳ vọng lạm phát. Vào năm 1972, chỉ số Dow Jones đạt mức 1.000 nhưng cuối thập kỷ dừng lại ở con số chỉ gần 800. Sự sụt giảm này không đơn thuần là mức thua lỗ 20% mà còn gây ra mức lợi nhuận âm hàng năm trong nhiều năm liên tiếp. Điều này cho thấy một thị trường xuống giá tồi tệ nhất và kéo dài nhất trong vòng nửa thập kỷ qua.
Khi thị trường cổ phiếu giảm giá, thị trường trái phiếu thường sẽ tăng trưởng. Vào cuối những năm 1970, một điều ngạc nhiên là cả hai thị trường đồng thời sụt giảm do kỳ vọng lạm phát tiếp tục tăng cao. Một cuộc khủng hoảng quỹ hưu trí nhà nước và doanh nghiệp cũng dường như xảy ra đến nơi. Trong suốt giai đoạn này, các công ty của Mỹ bị chế nhạo là những con khủng long.
Tại Mỹ, thông qua việc “tăng dần nấc thuế do lạm phát”, lạm phát buộc các gia đình thuộc tầng lớp trung lưu cũng phải chịu mức thuế cá nhân mà trước kia chỉ áp dụng với tầng lớp siêu giàu. Vì thế chúng tôi kêu gọi Reagan, nếu ông trở thành tổng thống, rằng cần giảm mức thuế bóp nghẹt cuộc sống người dân này ngay lập tức. Ông đã giảm tất cả các mức thuế suất, bao gồm cả phần thuế suất biên cao nhất, đang ở mức 70% thu nhập cá nhân. Ngày nay rất ít các chính trị gia Washington ở cả hai đảng, ngoại trừ những người gay gắt nhất về ý thức hệ, đồng ý áp dụng lại mức thuế cao nhất 70% đó. Đó là mức thuế bóp nghẹt người trả thuế thuộc tầng lớp trung lưu về mặt tài chính. Những người duy nhất được hưởng lợi chính là các doanh nghiệp chuyên thiết kế ra các biện pháp tránh thuế sáng tạo.
Sử gia người Anh Paul Johnson đã kết luận, những năm 1970 chính là “nỗ lực tự sát của Hoa Kỳ”. Những gì tôi nhớ là một tinh thần dân tộc nhanh chóng đánh mất mục đích. Nhưng như tôi sẽ trình bày tiếp dưới đây, những năm 1980 và 1990 là thời kỳ phục hưng lòng tin và sự lạc quan về tương lai của người Mỹ. Tất cả những điều đó đặt ra hai câu hỏi quan trọng về tình hình hôm nay: liệu Mỹ và thế giới có phải đang từng bước quay trở lại thời kỳ kinh tế khủng hoảng như những năm 1970? Và liệu những người bỏ phiếu ngày nay thậm chí biết tới cụm từ “những năm 70” hay không?
Trong số tất cả các chuyên gia trải qua thời kỳ này, Alan Greenspan là người hiểu rõ nhất ý nghĩa mô hình mới những năm 1980, cái đã bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế Mỹ dưới thời Reagan. Mô hình thay đổi này một lần nữa được thực hiện vô cùng mạnh mẽ một thập kỷ sau đó vào thời Clinton.
Trong gần hai thập kỷ từ 1990, tôi và một đối tác kinh doanh là ông Manley Johnson thường xuyên ăn sáng cùng Greenspan tại phòng ăn riêng của Chủ tịch, một căn phòng nhìn ra khu mua sắm Washington (Washington’s Mall) rất đẹp. Greenspan không bao giờ nói bất kỳ thông tin hữu ích nào về mục tiêu chính sách tiền tệ của ông. Lúc nào ông cũng nói vòng vo nên không bao giờ để lộ các kế hoạch của ông quá sớm. Các buổi thảo luận của chúng tôi luôn diễn ra rất thú vị.
Vào đầu những năm 1990, trong một bữa ăn sáng cùng Chủ tịch, tôi có hỏi ông đánh giá như thế nào về những đóng góp của Reagan với vai trò là một nhà hoạch định chính sách kinh tế. Câu trả lời của Greenspan thể hiện cách nhìn rất đặc biệt. Ông nói rằng giây phút ông biết một sự thay đổi mô hình chắc chắn đã diễn ra là khi Reagan làm những việc rất bất thường và vô cùng mạo hiểm. Vào năm 1982, ông đã sa thải các thành viên công đoàn kiểm soát giao thông hàng không (PATCO - Tổ chức những nhà kiểm soát giao thông hàng không chuyên nghiệp). Họ đã đình công nhằm đóng cửa các sân bay quốc gia mà theo các luật sư Nhà Trắng đó là các cuộc đình công phi pháp.
Hầu hết các cố vấn của tổng thống đã cảnh báo Reagan về những nguy hiểm không lường trước được khi triệt hạ một công đoàn. Nguy cơ đóng cửa kiểu châu Âu ở khắp nơi đe dọa hệ thống giao thông Mỹ sẽ bị ngừng trệ. Điều này sẽ khiến nền kinh tế Mỹ gặp nhiều khó khăn, và ngay lập tức khiến hàng nghìn người Mỹ mất việc. Sau khi đưa ra một tối hậu thư cuối cùng đề nghị trở lại làm việc - nhưng không thành công, rốt cuộc ông cũng giải tán công đoàn. Cả thế giới nín thở. Không có cuộc khủng hoảng kinh tế tàn phá kiểu châu Âu nào xảy ra.
Greenspan nói với tôi rằng ngay lập tức ông biết sự việc đó sẽ là một bước ngoặt chính trị của Mỹ. Các doanh nghiệp như những con khủng long của Mỹ sẽ phải đối mặt với những điều kiện kinh tế và chính trị linh hoạt mới, cho phép tái cơ cấu cần thiết để có thể cạnh tranh trên toàn cầu. Reagan đã làm thay đổi những kỳ vọng trên thị trường. Vấn đề không phải là các công đoàn gây nên những ảnh hưởng xấu hay không đóng vai trò gì trong nền kinh tế hiện đại, vấn đề là liệu Mỹ có đạt đến sự đồng thuận chính trị cho phép các công ty Mỹ đang phát triển thực hiện tái cơ cấu mạnh mẽ hay không. Kết quả đã làm thay đổi hoàn toàn mối quan hệ lao động - quản lý của Hoa kỳ.
Điểm mấu chốt chính là: không có nhiều dấu hiệu trong giai đoạn giao thời này thể hiện sự ủng hộ của riêng một đảng. Những nỗ lực của đảng Dân chủ từ những năm 1960 đã mở đường cho việc Reagan tháo bớt kiểm soát vào những năm 1980. Hơn nữa chính Arthur Burns, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang được Đảng Cộng hòa bổ nhiệm (do những áp lực chính trị từ chính quyền Nixon) là người đã châm ngòi giai đoạn đầu đợt lạm phát khủng khiếp những năm 1970. Và cũng chính một thành viên đảng Dân chủ, nghị sĩ bang Texas Lloyd Bentsen với vai trò là Chủ tịch Ủy ban Kinh tế Lưỡng viện vào cuối những năm 1970 cùng với cố vấn Jack Albertine đã gieo mầm ý tưởng khắp giới chính sách Washington về việc giải quyết vấn đề tăng dần nấc thuế do lạm phát. Bentsen là người đưa ra đề xuất giảm thuế được gọi là 10-5-3, mà sau này trở thành nội dung chính trong kế hoạch thuế 1981 của Reagan. Sau đó Bentsen trở thành Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Bill Clinton.
Điều đáng chú ý là Bentsen đề cập tới vấn đề tăng dần nấc thuế do lạm phát khi Ronald Reagan vẫn coi vấn đề được gọi là Nữ hoàng Phúc lợi Chicago là trọng tâm chính sách kinh tế của ông. Đây là hình ảnh ẩn dụ hay được Reagan đề cập trong các bài diễn thuyết của ông ta vào những năm 1970, theo đó Nữ hoàng phúc lợi (Welfare queen) là người đã nhận tới 85 loại ngân phiếu phúc lợi khác nhau! Chính vì thế xét về khía cạnh nào đó Nữ hoàng Phúc lợi chính là người đã gây nên tình trạng suy yếu kinh tế Hoa Kỳ, một lời khẳng định thật vô lý.
Nhưng không một thành viên đảng Dân chủ nào ủng hộ toàn cầu hóa, tư bản kinh doanh - sản xuất và các thị trường vốn di chuyển tự do mạnh mẽ như Bill Clinton. Ông thúc đẩy mậu dịch tự do và tranh luận mạnh mẽ nhằm đưa toàn cầu hóa lên một tầm cao mới và một nền kinh tế rất thành công. Clinton được hỗ trợ bởi rất nhiều người ủng hộ chính sách quốc tế phố Wall như Robert Rubin, các nhà kinh tế thị trường tự do như Larry Summers thuộc Harvard (trùng hợp là Larry cũng là thành viên Hội đồng các nhà cố vấn kinh tế Nhà trắng thời Tổng thống Reagan), và rất nhiều các quan chức khác, những người hết mình ủng hộ mô hình toàn cầu hóa.
Thực tế Clinton là một nhà kinh doanh tự do hơn cả Ronald Reagan. Tất nhiên ông cũng thành công gấp nhiều lần so với George H. W. Bush, người kế nhiệm Reagan. Mặc dù được tín nhiệm bởi các chính sách mậu dịch tự do, trong những năm cuối nhiệm kỳ tổng thống, Ronald Reagan bị mắc kẹt do vụ bê bối Iran-Contra. Trong giai đoạn này, vào năm 1989 số các mặt hàng nhập khẩu vào Mỹ phải chịu một số hạn chế tăng từ 12% tới 24%. Ngược lại, trong Thông điệp Liên bang năm 1997, Clinton đã yêu cầu “các nhà chức trách ngay bây giờ cần hoàn thiện các hiệp định thương mại mới để mở cửa thị trường… Chúng ta không nhất thiết phải chậm bước do những thách thức từ nền kinh tế toàn cầu”.
Bất chấp những phản đối ban đầu của Đệ nhất Phu nhân và một số cố vấn quan trọng khác, Clinton vẫn thúc đẩy thông qua NAFTA. Mặc dù một số bạn bè của tôi là người ủng hộ Clinton không đồng ý nhưng tôi cho rằng NAFTA chính là vấn đề mang tầm quan trọng kiểu PATCO[82] đối với Clinton - một thông điệp ủng hộ toàn cầu hóa mang tính hình tượng gửi tới các thị trường thế giới. Những nỗ lực không mệt mỏi của Clinton nhằm thực hiện NAFTA đã gửi thông điệp tới các thị trường tài chính rằng sự chuyển đổi mô hình bắt đầu những năm 1980 sẽ còn tiếp tục và tiếp tục mạnh mẽ hơn.
Trong thời gian các cuộc bầu cử sơ bộ chọn ứng viên Tổng thống của đảng Dân chủ năm 2008, các công đoàn và phe phái tự do hơn trong đảng Dân chủ đã kịch liệt phản đối việc chính quyền Clinton ủng hộ NAFTA. Những người phản đối này quên đề cập tới một điều là từ khi NAFTA được thực hiện vào năm 1993 tới năm 2001, tỷ lệ có việc làm ở Mỹ tăng từ 120 triệu lên tới 135 triệu người. 5 năm sau khi NAFTA có hiệu lực, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ giảm xuống mức thấp kỷ lục 3,8%. Đây là mức mà hầu hết các nhà kinh tế học đã từng cho rằng về mặt lý thuyết chỉ là ảo tưởng.
Ngày nay các cựu quan chức chính quyền Clinton đang phản ứng mang tính phòng vệ (mà tôi cho là quá phòng vệ) trước những chỉ trích về các chính sách ủng hộ toàn cầu hóa. Một vài người cố gắng viết lại lịch sử - hay ít nhất là viết về vai trò của mình trong lịch sử đó. Thay vì thế họ nên chỉ ra rằng nếu thế giới không chấp nhận các chính sách như vậy, thì không gì khác ngoài chính sức khoẻ tài chính của nền kinh tế toàn cầu sẽ lâm vào rủi ro.
Tại Mỹ, cả hai đảng chính trị đều đang cố thoát khỏi lập trường tự do mậu dịch. Đảng Cộng hòa trong Quốc hội, mà trong những thập kỷ gần đây tham gia với vai trò là một thành viên quan trọng của liên minh mậu dịch tự do, ngày càng trở nên mờ nhạt trước các vấn đề thương mại. Fred Bergsten, một quan chức chính quyền Carter và sau này thành lập ra Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, tổ chức hàng đầu về vấn đề kinh tế toàn cầu đã có một nhận xét khá thú vị về các thành viên Đảng Cộng hòa trước những vấn đề thương mại. Bergsten nói rằng: “Mất mát lớn nhất của chính sách thương mại Mỹ trong thập kỷ qua chính là sự ra đi của nhân vật chính trị bảo thủ thuộc Đảng Cộng hòa tại Hạ viện Tom DeLay (Texas). Nhờ có “Hammer” (tức Cây Búa, biệt danh của DeLay) bất cứ luật thương mại nào cũng được Quốc hội thông qua. Khi nắm quyền Hạ viện (trong giai đoạn Đảng Cộng hòa đứng đầu từ năm 1994 tới tháng một năm 2007), DeLay luôn kiên trì với các dự luật, ông mua phiếu bầu, và ông thông qua một điều luật đôi khi với chênh lệch chỉ từ một tới hai phiếu”. Ngày nay không còn một Tom DeLay quyết liệt về tự do thương mại như thế nữa trong Đảng Cộng hòa. Hay kể cả Đảng Dân chủ.
Mọi tương đồng chính sách nói trên giữa Reagan và Clinton lại không đúng trong vấn đề chính sách tài khóa. Chẳng phải Reagan cắt giảm thuế trong khi Clinton tăng thuế hay sao? Thật sự không đơn giản như thế. Bắt đầu với thực tế rằng hai đảng chính trị đều chơi trò lập lờ với các chính sách tài khóa của Bill Clinton. Ví dụ như rất nhiều thành viên đảng Cộng hòa nói cứ như là nền kinh tế đang rơi vào suy thoái khi Bill Clinton tăng mức thuế cá nhân cao nhất từ 28% lên 35% (những người có mức thu nhập siêu cao phải trả 38%). Thực tế hoàn toàn ngược lại.
Cũng trong trường hợp đó, nhiều thành viên đảng Dân chủ lại không chấp nhận rằng mức thuế cao hơn sẽ gây thay đổi theo hướng bóp méo mức thù lao cho các lãnh đạo cấp cao nhất của doanh nghiệp (do Dự luật thuế 1993 của Clinton, các công ty không được miễn thuế đối với phần lương giám đốc quá một triệu đô la). Các nhà lãnh đạo có mức lương cao này tìm cách tránh phải trả thuế cao hơn bằng việc áp dụng một biện pháp đáng ngờ là quyền chọn mua cổ phiếu, một biện pháp được áp dụng phổ biến. Để phục vụ cho các mục đích kế toán trong thời kỳ được gọi là kỷ nguyên Enron, rất nhiều các lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp lựa chọn nhận lương theo cách này thay vì nhận một khoản lương lớn bị đánh thuế, vì việc thù lao bằng những biện pháp khích lệ (chẳng hạn, qua cách nhận quyền chọn cổ phiếu) không phải chịu giới hạn nào. Vấn đề này chính là một ví dụ điển hình của “quy luật về hậu quả không lường tới” (unintended consequences) của một chính sách nào đó. Một điều rõ ràng là khi thuế suất biên vượt qua một mức giới hạn nhất định, những người giàu sẽ làm mọi cách trong khuôn khổ pháp lý để tránh không phải trả thuế cao hơn.
Có một vấn đề khác trong chính sách thuế của Clinton mà ít khi được nhắc đến. Vào năm 1997 khi bong bóng các công ty mạng (các công ty dot-com) bắt đầu xuất hiện, Bill Clinton đã âm thầm ký một điều luật giảm tỷ lệ thuế trên thu nhập từ vốn (capital gains) từ 28% xuống còn 20%, một mức giảm mạnh tới 30%.
Fred Goldberg, nguyên ủy viên IRS[83] cho rằng do chính sách thuế của Mỹ không có gì thay đổi trong hơn 40 năm qua, vì thế bất kỳ sự thay đổi đột ngột nào trong hệ thống thuế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới các thị trường tài chính. Nếu điều này nghe có vẻ lạ, hãy cứ tưởng tượng như bạn là người sao Hỏa vừa rơi xuống trái đất và suốt mấy thập kỷ chưa từng nghe tới những tuyên bố hoàn toàn ngược lại của các đảng chính trị ở đất nước này. Khi xem lại các sự kiện, chúng ta thấy Tổng thống Đảng Dân chủ John F. Kennedy dường như là người ủng hộ mạnh mẽ nhất các dòng vốn. Những nỗ lực của ông đã dẫn tới việc cắt giảm mức thuế cá nhân cao nhất từ 90% xuống còn 70%, cấp tín dụng về thuế đầu tư (investment tax credit) cho các doanh nghiệp được thực hiện (ông cũng khởi xướng vòng đàm phán thương mại đa phương đầu tiên và được gọi là Vòng Kennedy). Reagan xóa bỏ tín dụng thuế đầu tư nhưng giảm mức thuế cá nhân hơn nữa. Clinton tăng mức thuế cá nhân cao nhất nhưng ký điều luật giảm mạnh tỷ lệ thuế đánh vào thu nhập từ vốn (trong khi tuyên bố hàng loạt các thỏa thuận thương mại tự do mới có triển vọng thúc đẩy xu thế đi lên của các thị trường vốn). Quan điểm của Goldberg là không thể phủ nhận rằng xu hướng chung từ những năm 1960 là hướng tới xây dựng các chính sách thuế tạo thuận lợi cho việc tạo vốn doanh nghiệp. Hơn nữa chính sách thuế cá nhân hầu như không bị ảnh hưởng bởi các nguyên tắc chính trị khủng khiếp trong cuộc chiến tranh giai cấp.
Thực sự, rất nhiều nhà quan sát chính trị cho rằng Clinton theo đuổi các chính sách do ảnh hưởng bởi chiến lược chính trị vị kỷ “chân kiềng” - cố gắng kết hợp một số quan điểm chính của đảng đối lập vào lợi thế chính trị của mình. Nhưng có ai quan tâm tới động cơ của ông? Với Clinton, chiến lược này có hiệu quả, ông là thành viên đảng Dân chủ đầu tiên từ thời Franklin Delano Roosevelt làm trọn hai nhiệm kỳ liên tiếp tại Nhà Trắng.
Điều quan trọng hơn là nếu các chính sách kinh tế của Bill Clinton bị quét sạch khỏi Washington, thay vào đó là các chính sách rất bất lợi cho nguồn vốn doanh nghiệp thì sẽ tạo nên một sự kiện quan trọng trên thị trường tài chính. Học giả kinh tế theo trường phái tự do Jeff Faux của Viện Chính sách Kinh tế (Economic Policy Institute), với một chút cường điệu, đã nói ngay sau những thất bại lớn của đảng Cộng hòa tại Quốc Hội năm 2006 rằng: “Chúng ta đang sống trong thời kỳ mà kỷ nguyên Reagan cuối cùng có thể đã kết thúc, bao gồm cả tám năm của Bill Clinton”. Sự thay đổi chính trị tiềm tàng này là lý do rõ ràng nhất giải thích tại sao thế giới ngày nay cong một cách nguy hiểm.
Ngày nay cộng đồng chính trị Mỹ chuẩn bị tham gia vào cuộc tranh luận về thuế. Cuốn sách này không phải là một chuyên luận về thuế. Xét về góc độ nào đó, trong bất kỳ xã hội nào những người bỏ phiếu nên được khuyến khích tự đặt ra các mức thuế - và sẵn sàng chấp nhận kết quả, dù tốt hay xấu. Nhưng điều quan trọng là cuộc tranh luận phản ánh hai thực tế: một là bất kỳ sự thay đổi thuế nào phá hoại cuộc cách mạng doanh nghiệp tại Mỹ sẽ là biểu hiện tột cùng của sự ngu ngốc. Điều này đặc biệt quan trọng khi Mỹ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt trong nền kinh tế toàn cầu. Và thứ hai, cũng như thế nếu các cuộc thảo luận thuế không phản ánh được những thách thức tài khóa của Mỹ.
Trong cuộc tranh luận hiện tại, đã có một quan niệm sai lầm rằng nếu chỉ người “giàu” ở Mỹ trả thuế nhiều hơn thì ác mộng về tài khóa ở Mỹ sẽ chấm dứt. Điều này hoàn toàn sai lầm khi xem xét tới những con số. Phóng viên chuyên mục tờ New York TimesDavid Brooks chỉ ra rằng nếu mức thuế cá nhân cao nhất tăng 1% thì chỉ tạo ra gần 6 tỉ đô la trong ngân khố quốc gia. Đây chỉ là giọt nước bỏ bể trước nguy cơ tài khóa nghiêm trọng có thể xảy ra trong tương lai. Nguy cơ đó có thể phải tính bằng hàng nghìn tỉ đô la.
Các khía cạnh của mối đe dọa đó là gì? Robert Samuelson của tờ Washington Post đã đưa ra một tóm lược hữu ích: từ năm 2000 tới năm 2030, số dân hơn 65 tuổi tại Mỹ sẽ tăng gấp đôi khi những baby boomer theo nhau nghỉ hưu. Số người về hưu sẽ tăng từ 35 tới 72 triệu người, hay gần 20% dân số. Chi phí cho các chương trình lớn sẽ tập trung vào nhu cầu của người cao tuổi - An sinh xã hội, Y tế cho người già và Y tế cho người nghèo - hiện tại chiếm 1,1 nghìn tỉ đô la, khoảng 40% ngân sách liên bang (gấp đôi ngân sách chi tiêu cho quốc phòng). Vào năm 2030, chi phí cho các chương trình này sẽ tăng mạnh, tới 75% ngân sách, vào khoảng hơn 2 nghìn tỉ đô la.
Bởi vậy, bàn về vấn đề chiến tranh giai cấp, sử dụng người siêu giàu nhằm giải quyết tình trạng bất ổn tài chính này có thể tạo nên một chính sách chính trị khôn ngoan, tuy nhiên những lập luận này phản ánh tính yếm thế rất lớn về chính trị. Vấn đề là không đủ người siêu giàu để giải quyết được tình hình đó. Hay nói cách khác, rất nhiều người Mỹ ở cả hai đảng chính trị sau khi cố gắng trở thành người giàu sẽ vô cùng kinh ngạc khi biết rằng Washington đang xem xét xếp họ vào nhóm “những người siêu giàu kiểu Warren Buffett”, cần gánh trách nhiệm bù đắp lỗ hổng ngân khố quốc gia sắp tới.
Một bản báo cáo đầu tư năm 2008 của Morgan Stanley chỉ ra rằng tại Mỹ, một quốc gia với hơn 300 triệu dân, chưa đầy 19 nghìn hộ gia đình hiện có các tài sản tài chính có thể đầu tư ngay (không kể bất động sản và các tài sản liên quan tới hưu trí) với giá trị 25 triệu đô hoặc cao hơn. Hay nói cách khác tất cả các gia đình Mỹ có giá trị thanh khoản thực khoảng 25 triệu đô la có thể tập trung tại Nhà thi đấu Madison Square Garden của New York để tham dự một trận đấu bóng rổ NBA. Hầu hết người Mỹ được cho là giàu thực ra chỉ tích lũy được lượng của cải rất nhỏ bé, thường nhờ điều hành thành công các doanh nghiệp nhỏ, các công ty luật hay các công ty cung cấp dịch vụ chuyên biệt. Họ sẽ vô cùng kinh ngạc nếu được xếp vào tầng lớp siêu giàu của Warren Buffett và được trông chờ dễ dàng chấp nhận giải quyết cuộc khủng hoảng có thể gây ra sự mất mát hàng nghìn tỉ đô la.
Trong bất kỳ quá trình lập pháp liên quan đến thuế nào của Mỹ trong tương lai, việc sửa đổi bộ luật thuế chỉ là một chuyện; mở cửa cho một kỷ nguyên mới mà một nhóm người Mỹ này cạnh tranh với một nhóm khác lại là một vấn đề rắc rối hoàn toàn khác. Một điều chắc chắn về cuộc chiến tranh giai cấp là nó sẽ vô cùng nguy hại cho các thị trường tài chính toàn cầu rất linh động ngày nay. Một khi bắt đầu, cuộc chiến sẽ khó có thể dừng lại. Thực ra tránh được cuộc chiến tranh giai cấp là một trong những thành công quan trọng trong thời kỳ Clinton. Trong thời kỳ đó, khu vực kinh doanh tạo lợi nhuận cao và nhiều công ăn việc làm được ủng hộ mạnh mẽ bởi các chuyên gia chính trị lỗi lạc của Washington do lĩnh vực này được ghi nhận với khả năng mở rộng việc làm.
Một vấn đề khác là: có lẽ người ủng hộ mạnh mẽ nhất những lập luận ủng hộ cuộc chiến tranh giai cấp, trớ trêu thay lại là nhà đầu tư lớn nhất thế giới Warren Buffett. Sau khi tích lũy được một trong những khối lượng tài sản lớn nhất toàn thế giới, Buffett hiện giờ cho rằng ông hầu như bị đánh thuế rất ít. Nếu ông làm theo cách của mình, ông sẽ trả thuế gấp nhiều lần cho chính phủ liên bang do mức thuế cận biên tăng cao hơn. Những người Mỹ giàu có khác cũng nên thế.
Tôi có thể hiểu tại sao Buffett lo lắng về sự mất cân bằng tài khóa của Mỹ, nhưng những quan điểm về chính sách của ông đã khiến ông rơi vào thế bị động. Có một số điểm chung giữa những người rất thành công sau khi chấp nhận rủi ro, một khi họ đạt đến một mức độ thành công nhất định, trong tiềm thức họ có xu hướng cố gắng ngăn cản người khác đạt đến thành công tương tự. Một khi thành công, họ sẽ thấy rằng cần nhanh chóng đóng cánh cửa cơ hội phía sau. Tôi nhận thấy điều này trong thế giới quỹ đầu tư phòng vệ vô cùng cạnh tranh. Tất cả các nhân vật thành công lớn không phàn nàn gì khi chính phủ dựng lên các rào cản tham gia kinh doanh lớn hơn. Trong các rào cản đó, bao gồm cả thói quan liêu nghiêm trọng của chính phủ, dẫn tới những chi phí pháp lý cao tới mức vô lý. Quan liêu và chi phí pháp lý khiến những người có tiềm năng tham gia thị trường phải bỏ cuộc.
Giờ đây, Buffett thoải mái yêu cầu tăng thuế mạnh vào thu nhập từ vốn sau khi ông đã tích đủ của cải cho mình. Tình huống này gợi cho tôi nhớ tới không khí ở hầu hết các câu lạc bộ độc quyền tại vùng quê. Những người có cái được gọi là “tiền mới”[84] sẽ trở thành những kẻ hợm hĩnh nhất và quyết tâm ngăn cản các thành viên khác. Họ không chủ tâm làm như vậy, điều này đơn giản đã nằm trong gene của những người mới thành công.
Với Buffett, các hành động của ông cũng phản ánh một cách tiếp cận không nhất quán về các vấn đề tài khóa ở Mỹ. Cách đây một vài năm, ông cam kết sẽ dành phần lớn tài sản của mình cho Quỹ Bill & Melinda Gates, một tổ chức cá nhân. Điều này nghe có vẻ khá lạ bởi vì trong khi chính phủ Mỹ đang phải chịu nhiều khoản nợ, tại sao ông không giành số tài sản đó cho Bộ Y tế và Dịch vụ công cộng Mỹ? Hay Bộ Tài chính Mỹ? Hoặc Liên Hợp Quốc, một tổ chức chính phủ toàn cầu như ông bạn tỷ phú Ted Turner của ông đã làm trước đó một thập kỷ? Buffett đã chọn một quỹ tư nhân của Bill Gates bởi vì như vậy tài sản của ông có thể hiệu quả gấp 10 tới 20 lần so với thói quan liêu của chính phủ. Buffett đã chọn khu vực tư nhân làm kho chứa khối lượng tài sản khổng lồ của ông trong khi chính phủ liên bang Mỹ và rất nhiều chính phủ các bang khác đang gặp nhiều vấn đề về tài khóa, họ hoàn toàn có thể tận dụng sự hào phóng này của ông ta!
Các chính trị gia ủng hộ đấu tranh giai cấp ngày nay cho rằng người Mỹ vốn có hiềm khích cố hữu với những người thành công về mặt tài chính. Thực tế người Mỹ trước kia vốn rất ngưỡng mộ những người chấp nhận rủi ro doanh nghiệp - từ Henry Ford tới Bill Gates hay Steve Jobs, và tất nhiên không thể thiếu Warren Buffett - người đã tạo nên lượng tài sản khổng lồ.
Người Mỹ trung lưu thấy bất mãn khi nhận thức rằng hệ thống khép kín, không chấp nhận người mới, mọi thứ được duy trì nguyên trạng. Họ chấp nhận quá trình động với các rủi ro và thất bại doanh nghiệp. Nhưng họ không hiểu tại sao, ví dụ như các công ty đầu tư tư nhân được xem xét và được nhận một mức thuế đặc biệt trong khi các doanh nghiệp còn non trẻ mới tham gia vào thị trường phải trả thuế gấp đôi. Họ bất mãn với quan niệm rằng những người trong cuộc giàu có và quyền uy có thể tới Washington và giành được những thỏa thuận béo bở. Nhưng không ai phủ nhận rằng đa số người Mỹ sẵn sàng chấp nhận hệ thống mà một phần tư thế kỷ qua đã tưởng thưởng xứng đáng những sáng kiến vô cùng mạo hiểm với mức thuế tương đối thấp. Đặc biệt, họ khó có thể chê trách hình ảnh một Warren Buffett trẻ trung, một con người với xuất phát điểm không cao khi hàng ngày ông phải đi giao tờWashington Post, rồi sau đó ông chuyển tới Omaha và trở thành nhà đầu tư lớn nhất thế giới, mua một lượng cổ phần lớn của tờ báo ông đã từng làm thuê và bây giờ ngồi trong Hội đồng quản trị. Họ gọi con người vô cùng giàu có đó là “người hùng kiểu Mỹ”.
Một câu hỏi lớn là liệu sự chấp nhận về mặt chính trị đối với quá trình tạo ra của cải này này có tiếp tục hay không? Những người tham gia vào thị trường tài chính toàn cầu thắc mắc điều gì đang diễn ra tại Mỹ. Gần đây một nhóm các nghị sĩ Anh tới thăm Washington đã khiến tôi vô cùng bất ngờ khi đưa ra nhận xét rằng: “Điều gì đó đã thay đổi. Lần đầu tiên người Mỹ dường như đang bị ám ảnh bởi cuộc chiến giai cấp”, một nghị sĩ nói. Số khác cũng hoàn toàn đồng ý.
Các nghị sĩ đó không tưởng tượng ra nổi sự thay đổi phôi thai này. Các chuyên gia chính trị ưu tú ở Washington bắt đầu đùa giỡn các thị trường tài chính khi sử dụng những ngôn từ sặc mùi dân tuý về cuộc chiến giai cấp. Đó là một trò chơi nguy hiểm, nhưng lý do không phải như nhiều người bảo thủ vẫn nghĩ. Những người bảo thủ nhấn mạnh tới thực tế rằng 10% người có thu nhập cao nhất ở Mỹ đóng tới 75% số thu thuế thu nhập liên bang, 10% này cũng chiếm phần lớn khoản thu nhập quốc gia được tạo ra. Thực ra, đó là một trò chơi nguy hiểm bởi vì các chính sách hạn chế hay ngăn cản nguồn vốn toàn cầu liên quan tới cuộc chiến giai cấp có thể sẽ dẫn tới việc không chấp nhận rủi ro doanh nghiệp nữa - và chính vì thế sẽ tạo ra ít công ăn việc làm hơn, và nền kinh tế sẽ mất dần sức sống. Hơn nữa, không khí chiến tranh giai cấp dễ tạo điều kiện cho những đợt hoảng loạn về tài chính, điều có nguy cơ phá hoại nghiêm trọng toàn bộ hệ thống kinh tế.
Một trong những lý do chính mà cộng đồng đầu tư toàn cầu coi nhẹ những sai lầm hiển nhiên trong chính sách của Mỹ, bao gồm cả sự mất cân bằng tài khóa trong những thập kỷ qua là: Mỹ là điểm tập trung quá trình cách tân doanh nghiệp (entrepreneurial innovation). Mỹ là sân chơi đáng tin cậy và duy nhất mà những người sáng tạo, chấp nhận rủi ro trên thế giới có thể thử sức mình. Một số đã tạo dựng cho mình những gia tài khổng lồ, nhưng điều quan trọng hơn là những người khởi nghiệp này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, hay nói cách khác vì thế số lượng công việc mới ở Mỹ cũng tăng tới con số kỷ lục.
Tuy nhiên những bàn luận này không nhằm phủ nhận những bất ổn mà tự do mậu dịch và các thị trường tài chính toàn cầu hóa đã gây ra. Các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy thậm chí sau nhiều năm tình hình thất nghiệp được duy trì ở mức thấp và các thị trường chứng khoán luôn hoạt động hiệu quả, người Mỹ vẫn luôn lo lắng về tương lai nền kinh tế của mình. Sự bất ổn này càng trầm trọng hơn với sự suy giảm kinh tế. Tái cơ cấu và thu hẹp sản xuất là những thực tế đáng buồn ở các tập đoàn lớn nhất nước Mỹ. Tiền lương thực tế của giai cấp công nhân Mỹ ở trạng thái dậm chân tại chỗ. Việc thất nghiệp sẽ thấp nhất khi thương mại phát triển mạnh mẽ vẫn là một khái niệm khá “phản trực giác” và khó hiểu đối với rất nhiều người.
Trong những năm gần đây, người Mỹ đã chi tiêu cho việc nhập khẩu nhiều hơn là cho nộp thuế. Chính vì thế, có cảm giác rằng bất chấp sự thịnh vượng khổng lồ hiện tại, người Mỹ không thể kiểm soát bản thân nền kinh tế của mình. Không ngạc nhiên khi những người ủng hộ quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ nhất cũng đang bắt đầu phải “phòng vệ” cho những khoản đặt cược chính trị của họ.
Ví dụ như Robert Rubin, cựu lãnh đạo Goldman Sachs và cựu Bộ trưởng Bộ Tài chính, nhà lãnh đạo tài tình của đảng Dân chủ về tất cả các vấn đề kinh tế, đồng thời là một người theo chủ nghĩa quốc tế thực sự. Ông khiến cả cộng đồng hoạch định chính sách của Washington vào cuối năm 2006 phải bất ngờ với bài phát biểu trong lễ kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Viện Kinh tế Quốc tế Peterson. Rubin khiến hầu hết các cử tọa thuộc đảng Dân chủ ủng hộ tự do mậu dịch phải choáng váng khi ông lập luận rằng thật ngây thơ khi tiếp tục tin vào “lợi thế so sánh”. Nói cách khác, ông nghi ngờ những tiền đề cơ bản về tự do mậu dịch (và toàn cầu hóa) mà những người theo chủ nghĩa tự do và bảo thủ trong suốt các thập kỷ qua hầu hết tin tưởng vào. Sau đó, rất nhiều người bày tỏ hy vọng rằng nhận xét này chỉ là ý nghĩ thoáng qua và sai lầm, chứ không phải một lời tuyên chiến.
Với vai trò là ứng cử viên tổng thống, Hillary Clinton cảm thấy rằng bà không nên đi theo những quan điểm ủng hộ toàn cầu hóa của chồng bà. Để phản ánh những quan niệm chính trị đang thay đổi, bà đã bổ nhiệm nguyên lãnh đạo phe đa số ở Hạ viện Richard Gephardt, người đứng đầu lực lượng chống đối toàn cầu hóa của Washington vào nhóm chiến lược nội bộ của bà. Nhưng để không làm lộ rõ quan điểm, bà cũng lắng nghe một vài cựu cố vấn ủng hộ toàn cầu hóa của chồng bà, trong đó có Gene Sperling. Sperling luôn nhất quán trong quan điểm ủng hộ toàn cầu hóa của ông, nhưng hiểu rằng những lo lắng mà thị trường toàn cầu hóa gây ra cần phải được giải quyết. Nếu những ví dụ trên có vẻ còn thiên lệch[85], thì xin nói thêm là những thành viên Cộng hòa không có người lãnh đạo tại Đồi Capitol cũng không khá hơn trong các vấn đề về toàn cầu hóa, mà trong một số trường hợp còn tệ hơn nhiều.
Lawrence Summers, Bộ trưởng Bộ Tài chính kế nhiệm Rubin dưới thời Clinton là nhân vật thú vị nhất trong nhóm. Giống Sperling, ông vẫn nhất quán ủng hộ toàn cầu hóa nhưng lập luận, một cách hoàn toàn chính xác, rằng “phần bánh mà phần lớn giai cấp trung lưu được nhận thậm chí bị giảm”. Sau thời gian làm việc tại Bộ Tài chính, Summers trở thành hiệu trưởng trường Đại học Harvard. Sau đó ông buộc phải thôi việc (một phần bởi vì cách quản lý không khôn khéo của ông, nhưng tôi nghĩ rằng một phần cũng là việc trả giá của phe cực tả lập trường ủng hộ toàn cầu hóa của chính quyền Clinton, mà Summers là người đi đầu).
Summers là nhà hoạch định chính sách rất thú vị, đôi khi đến hài hước bởi vì ông dựa vào tri thức đơn thuần mà ít khi xem xét tới những quy tắc xã hội truyền thống. Ví dụ như vào đầu những năm 1990, nhiều năm trước khi ông trở thành Bộ trưởng Bộ Tài chính, Summers từng là Trưởng kinh tế gia của Ngân hàng Thế giới. Một buổi tối, tôi có sắp xếp cho các bộ trưởng tài chính của các nước được coi là Bốn con hổ vành đai Thái Bình Dương (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Hongkong) đến thăm Mỹ gặp một nhóm người mà tôi mô tả là “nửa tá kinh tế gia quan trọng nhất Washington”. Tôi có mời cả Summers tới cuộc gặp gỡ này.
Bữa tối diễn ra vào một ngày cuối hè tại khách sạn Jefferson, cách Nhà Trắng bốn tòa nhà về phía bắc. Tôi chọn một phòng ăn nhỏ, sang trọng ngay gần sảnh. Chúng tôi uống nhanh một vài cốc cocktail trước khi cùng thảo luận trong bữa tối. Khi buổi thảo luận bắt đầu, tôi nhận thấy một ghế còn trống. “Larry Summers chưa tới,” tôi nói với những người khác. Tôi nghĩ ông có thể bị muộn do cơn mưa xối xả bất ngờ ập vào thành phố. “Larry đang đợi mưa tạnh. Những cơn mưa mùa hè đáng ghét ở Washington như thế này nhanh đến và cũng nhanh đi thôi”. Tôi vừa nói vừa nhìn qua cửa sổ và thấy trời vẫn đang mưa như trút nước.
Một vài phút sau cánh cửa phòng ăn nhẹ nhàng mở. Một nhân viên phục vụ với vẻ mặt lo lắng, bồn chồn xuất hiện. Tôi đứng dậy và đi nhanh ra cửa. Nhân viên phục vụ nói: “Có một người lạ bên ngoài và ông ấy nói ông được mời tham dự bữa tối tại đây. Nhưng nhìn diện mạo của ông ta, tôi nghĩ chúng tôi không nên cho ông ta vào”. Vừa khi đó, một người quần áo ướt sũng bước qua nhân viên phục vụ, đi vào phòng. Chính là Summers đang đứng đó, trông ông cứ như thể vừa nhảy xuống một bể bơi. Ông đã vượt qua tám tòa nhà, từ Ngân hàng Thế giới dưới cơn đại hồng thủy tới đây. Chắc nhân viên phục vụ tưởng ông là kẻ vô gia cư đang phải đi xin ăn từng bữa. Vị bộ trưởng tài chính từ Singapore trông vô cùng bối rối. Summers đứng đó nước chảy ròng ròng, bộ quần áo da thuộc của ông ướt sũng. Summers tài giỏi ngồi xuống cùng tham dự bữa tối và dường như không để ý tới vũng nước dưới chân ông. Mọi người khác trong căn phòng lấy làm vô cùng kinh ngạc.
Nhưng bề ngoài có thể gạt người. Mặc dù tính cách cá nhân và quan hệ xã hội khá đặc biệt nhưng Summers là người không thiên lệch, táo bạo về mặt trí tuệ nhất và là một quan chức tài chính can đảm nhất mà tôi đã từng gặp trong hơn 30 năm ở Washington. Một viên kim cương thô nhám, chỉ có Summers, một bộ trưởng tài chính được bổ nhiệm một cách dân chủ, mới dám đấu tranh với các biện pháp đòn bẩy tài chính đáng ngờ của Fannie Mae - một trong những nguồn gây quỹ tiền mặt lớn nhất cho đảng Dân chủ.
Trong nhiều thập kỷ, Fannie Mae, một tổ chức không thể động đến về mặt chính trị, được thị trường ngầm hiểu với nhau rằng bộ Tài chính Mỹ đã đảm bảo cho danh mục các khoản cho vay thế chấp thu nhập thấp của tổ chức này. Điều này cho phép Fannie Mae mượn tiền với lãi suất thấp hơn rất nhiều so với các đối thủ, nhưng do đó cũng đã bóp méo thị trường một cách nguy hiểm vì kích thích việc mượn tiền quá mức. Với Summers, những hành động thiên lệch kém thông minh hơn rất nhiều so với việc theo đuổi một bước đột phá chính sách - hay, vì không tìm ra từ nào hay hơn, theo đuổi chính sách trung thực truyền thống. Trong trường hợp này, một công ty cần được giữ lại bên bờ vực thẳm, như lĩnh vực ngân hàng rộng lớn hơn sau đó gần một thập kỷ cần được kéo ra khỏi sự cám dỗ của thế chấp dưới chuẩn.
Tất cả điều đó giải thích tại sao câu hỏi cho đảng Dân chủ tại Washington trong những năm tới là: những người chủ trương chiến tranh giữa các tầng lớp mới sẽ chiếm ưu thế? Hay nhóm Clinton, bao gồm những người như Summers ủng hộ các thị trường tự do (dù sẽ thêm những cải cách) sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới các cuộc tranh luận? Bởi các dấu hiệu chỉ ra rằng cách tiếp cận thị trường vốn tự do hóa và tự do mậu dịch của Bill Clinton đang bị từ chối, Mỹ chuẩn bị phải sống trong một thế giới cong hơn nhiều so với những gì chúng ta đã từng tưởng tượng.
Thực tế, các nhà tư vấn của Clinton như Summers và Sperling đã đúng khi lập luận rằng giai cấp trung lưu không được hưởng trọn vẹn những lợi ích từ bộ máy tạo ra của cải toàn cầu. Trong hệ thống tài chính ngày nay, khi khu vực làm công ăn lương đang sụt giảm, chỉ riêng lương của tầng lớp trung lưu khó có thể giúp các gia đình tránh được các khó khăn tài chính. Vấn đề này sẽ không thể được giải quyết cho dù thực hiện bất kể chương trình được nhà nước hỗ trợ nào, bao gồm tăng mức lương tối thiểu và các trợ giúp giáo dục đúng đối tượng.
Hơn nữa, khoảng cách giữa người nghèo và người giàu có thể tiếp tục gia tăng nếu toàn cầu hóa vẫn tiếp tục diễn ra, bởi sự tạo ra của cải sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Vào những năm 1950, một nhà hoạt động tôn giáo có hỏi Albert Einstein rằng: “Ông có tin vào những điều kỳ diệu?”. Einstein trả lời: “Tôi tin vào điều kỳ diệu của lãi suất kép”. Nói theo các thuật ngữ toàn cầu, tài sản trên toàn thế giới sẽ tăng theo cấp số nhân nếu các chính phủ không phá vỡ bộ máy tài sản toàn cầu.
Nhưng tôi không biết ai có lý trí - cả người theo chủ nghĩa tự do lẫn người theo phe bảo thủ - mà lại tin rằng khoảng cách thu nhập gia tăng hơn nữa lại không gây ra sự sụp đổ về chính trị và xã hội. Tuy nhiên, không có vấn đề nào trong cuộc tranh luận này là vấn đề đơn giản và dễ dàng. Trong lịch sử, các kế hoạch tái phân bổ thu nhập diện rộng tại Mỹ (chẳng hạn mức thuế cao hồi những năm 1970) luôn có xu hướng đột ngột làm cho sự tăng trưởng kinh tế bị đình trệ. Chính vì thế, số lượng công việc ngày càng giảm và toàn bộ hệ thống kinh tế sa sút hơn. Hơn nữa, các kế hoạch với mục tiêu can thiệp phúc lợi mạnh mẽ thực tế đã làm tổn thương lòng tự trọng của mỗi người, khiến họ mất đi cảm giác thành công. Đó là lý do tại sao Bill Clinton với vai trò Tổng thống một lần nữa khiến một vài đồng minh chính trị của ông phải sửng sốt khi ký điều luật đổi mới phúc lợi quan trọng nhằm giúp tầng lớp lao động nghèo thoát khỏi mặc cảm tự ti khi bắt buộc phải phụ thuộc vào phúc lợi (trong khi vẫn duy trì hệ thống phúc lợi cho những người thực sự khó khăn).
Cuối cùng những căng thẳng chính trị do sự phân bố thu nhập quá chênh lệch sẽ có thể rất khó xác định và dự đoán, thậm chí khó có thể kiểm soát hơn nữa. Trong các nền kinh tế mức độ mạo hiểm cao, có người chiến thắng vinh quang nhưng cũng có những người thất bại thảm hại. Thách thức lớn nhất chính là làm thế nào để tăng số người chiến thắng trong xã hội lên mức cao nhất. Biện pháp khả thi nhất là tăng số nhà đầu tư. Thực tế, tạo điều kiện cho nhiều người sở hữu vốn hơn tham gia vào nền kinh tế về lâu dài có thể là phương pháp duy nhất về mặt chính trị để cứu toàn cầu hóa.
Trong nền kinh tế mới ngày nay, tầng lớp trung lưu sẽ không thể giàu nếu chỉ có lương. Hơn nữa, bởi mức lương thường bị “neo” theo cách nào đó với mức tăng trưởng GDP, chính phủ Mỹ cần hiện đại hóa phương thức đo lường nền kinh tế. Ngày nay, các số liệu GDP chính thức có thể không phản ánh chính xác mức tăng trưởng thực sự của nền kinh tế; và chính vì thế lương trong hàng thập kỷ có thể sẽ bị hạn chế một cách bất hợp lý. Lĩnh vực dịch vụ chiếm khoảng 70-80% GDP khu vực tư nhân, trong khi lĩnh vực sản xuất chỉ chiếm khoảng 13%. Chính phủ có những phân tích vô cùng chi tiết về lĩnh vực sản xuất, nhưng cách đo lường ngành dịch vụ lại mơ hồ đến khác thường. Vấn đề này cũng do thực tế rằng trong nửa thế kỷ qua, chính phủ chỉ phải đo lường ngành sản xuất. Chỉ trong những năm gần đây dịch vụ mới trở thành lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế Mỹ. Chính vì vậy, không ngạc nhiên khi những kỹ thuật đo lường trong 50 năm qua có thể không còn phù hợp để đo lường động cơ tăng trưởng chính của nền kinh tế mới ngày nay nữa. Và điều này sẽ gây phương hại cho người làm công ăn lương.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế toàn cầu bùng nổ tới mức gần như chưa từng có. Tuy nhiên người làm công ăn lương bình thường, so với những người có danh mục chứng khoán toàn cầu, không thể tham gia vào quá trình tạo ra của cải này. Họ gặp nhiều bất lợi lớn vì không được hưởng những lợi ích của tăng trưởng kinh tế toàn thế giới. Người giàu hơn có thể mua chứng khoán quốc tế, các quỹ tương hỗ toàn cầu và tham gia đầy đủ vào quá trình bùng nổ năng suất toàn cầu trong khi những người lao động bình thường trong hầu hết các trường hợp không thể được hưởng những lợi ích này. Hay nói cách khác, do toàn cầu hóa tài chính, một số lợi nhuận từ các khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán khẳng định sự tăng trưởng có tính chất bùng nổ trong tương lai bên ngoài nước Mỹ, điều này sẽ hoàn toàn ngoài tầm với của những người không tham gia đầu tư. Do sự xuất hiện các thị trường toàn cầu hóa, mối liên kết giữa GDP quốc gia và tài sản quốc gia kém mật thiết hơn, khoảng cách thu nhập ngày càng lớn.
Đó là lý do tại sao để được hưởng trọn vẹn những lợi ích từ sự tăng trưởng năng suất toàn cầu mà toàn cầu hóa mang lại, các gia đình thuộc tầng lớp lao động cần được đầu tư về lâu dài trên các thị trường tài chính toàn cầu. Cần phải như vậy mặc dù thị trường có những giai đoạn thăng trầm không thể tránh được. Lực lượng sở hữu vốn[86] cần được mở rộng nhiều hơn nữa bằng việc khuyến khích các gia đình thuộc tầng lớp lao động đầu tư vào chứng khoán và các quỹ tương hỗ thông qua một chiến lược toàn cầu.
Các ứng viên đảng Cộng hòa thường nhắc đến tên Ronald Reagan gần như là một nhân vật huyền thoại hoàn hảo về chính trị. Tuy nhiên Reagan, nguyên là một lãnh đạo công đoàn và đảng viên Đảng Dân chủ này không bao giờ lãnh đạo được sự bùng nổ quá trình tạo ra của cải nếu không nghiêm túc nỗ lực lôi kéo tất cả người Mỹ vào công cuộc đó. Cũng với tinh thần đó, những năm 1980 Reagan đã ủng hộ vấn đề được gọi là “các khu vực doanh nghiệp đô thị” (urban enterprise zone). Các khu vực này đã cắt giảm đáng kể hoặc bãi bỏ thuế cho các gia đình trong nội ô thành phố gặp khó khăn nhằm khuyến khích tạo công ăn việc làm cho các doanh nghiệp nhỏ. Nghị sĩ Jack Kemp đã trình bày việc đưa ra luật dành riêng cho khu vực doanh nghiệp này tại Quốc hội. Tôi rất may mắn được là người tiên phong trong đội ngũ nhân viên. Cùng với Nghị sĩ Dân chủ Bob Garcia của khu vực Nam Bronx với tư cách là nhà đồng bảo trợ, chúng tôi đã vạch ra luật và phổ biến với các cộng đồng đô thị và các nhóm lợi ích đặc biệt khác. Đồng thời chúng tôi cũng chia sẻ quan điểm đó với Ronald Reagan. Ngày nay khái niệm khu vực doanh nghiệp đã trở nên phổ biến trên cả nước, đặc biệt ở cấp bang và cấp địa phương.
Về phương diện này, tôi đồng ý với Barack Obama khi ông phát biểu hồi tháng Ba năm 2008: “Điều cốt yếu nhất tạo nên thành công kinh tế của chúng ta là sự thật căn bản rằng mỗi người Mỹ làm tốt hơn khi mọi người Mỹ làm tốt hơn, rằng lợi ích của các doanh nghiệp Mỹ, các thị trường vốn và lợi ích của toàn nhân dân Mỹ đều thống nhất”.
Đó là lý do tại sao mà việc mở rộng mạnh mẽ cái gọi là tầng lớp hay giai cấp đầu tư (investor class) là vô cùng thiết yếu nếu muốn tiếp tục quá trình toàn cầu hóa. Đó là lý do tại sao trong bất kỳ nỗ lực đổi mới thuế nào của Mỹ tôi đều cho rằng nên xóa bỏ việc đánh thuế vào các khoản đầu tư thị trường tài chính của những người Mỹ thu nhập thấp và trung bình. Tôi cũng ủng hộ đề xuất của nguyên Thượng nghị sĩ Dân chủ Bill Bradley và nhà chiến lược thuế của ông, Gina Despres rằng chính phủ liên bang nên lập cho mỗi trẻ khi sinh ra một “Tài khoản cho trẻ sơ sinh Hoa Kỳ” (American Birthright Account). Chương trình hỗ trợ mỗi trẻ mới sinh một khoản tiền để đầu tư vào thị trường tài chính nhằm mục đích sử dụng sau này. Hay nói cách khác, khi sinh ra mỗi trẻ em sẽ nhận được một khoản tiền lớn, mà như Despres nói, là nhằm để “thế hệ sau cũng được hưởng những lợi ích sau nhiều thập kỷ hội nhập tài chính như những gì người giàu được hưởng”.
Khi tham gia vào lực lượng lao động, những nhà tư bản nhỏ tuổi mới này có thể gửi thêm tiền vào tài khoản của mình và thấy số tiền tiết kiệm tăng cao hơn. Cụ thể hơn, khoản tiết kiệm 5.000 đô la với mức lãi 7,5% trong 65 năm sẽ tăng tới gần nửa triệu đô. Với hầu hết người Mỹ, những người vốn không phải là người tiết kiệm thì cách thu xếp tài chính này sẽ là một sự khác biệt giữa khó khăn và thành công tài chính về lâu dài.
Người Anh đã hình thành một hệ thống như thế nhằm khuyến khích trẻ sơ sinh cũng trở thành những nhà tư bản bằng cách tạo cho chúng một khu vực đầu tư. Bắt đầu vào năm 2004, mỗi trẻ em mới sinh ra tại Anh nhận được 250 bảng Anh (tương đương 500 đô la) hay có thể lên tới 500 bảng Anh, tương đương khoảng 1.000 đô la cho mỗi trẻ sơ sinh trong các gia đình thu nhập thấp từ chính phủ. Điều khiến các nhà hoạch định chính sách ngạc nhiên là: thậm chí các cộng đồng, các hộ gia đình và bạn bè có mức thu nhập thấp cũng đóng góp gấp ba lần mức đầu tư ban đầu của chính phủ từ khi chương trình bắt đầu vào năm 2004.
Tại Hoa Kỳ, mỗi năm có khoảng 4 triệu trẻ em mới sinh. Thực hiện chương trình hỗ trợ mỗi trẻ em mới sinh 1.000 đô la chỉ chiếm một phần rất nhỏ hay không đáng kể trong ngân sách liên bang. Với số vốn không đáng kể, cả một thế hệ có thể thực hiện giấc mơ trở thành một người sở hữu vốn. Thậm chí điều quan trọng hơn, điều này sẽ tạo nên một thế hệ các nhà tư bản mới và một sân chơi cho các nhà đầu tư tương lai.
Ngày nay, tương lai toàn cầu hóa về mặt chính trị hoàn toàn không thể dự đoán được bởi vì số lượng chủ sở hữu vốn tài chính còn quá bé. Trong khi đó, sự chênh lệch tài sản ngày càng lớn hơn. Chính vì thế, lực lượng chính trị ủng hộ toàn cầu hóa vẫn rất mỏng manh. Dưới đây là một thống kê đáng ngạc nhiên cho thấy rõ điều này: ngày nay 40% người Mỹ không có đủ tiền mặt để sống ở mức nghèo trong vòng ba tháng, theo Edward N. Wolff thuộc trường Đại học New York. Với một gia đình bốn người, sống ở mức nghèo trong khoảng thời gian đó cần khoảng 5.300 đô la tiền tiết kiệm.
Tôi cũng xin nói luôn rằng mức tiết kiệm thấp của người Mỹ không chỉ phản ánh sự phân bố tài sản không đồng đều mà đồng thời chứng tỏ sự tự tin thái quá về tính bền vững nền kinh tế Mỹ. Trong một phần tư thế kỷ qua, mọi người đều tin vào ảo tưởng rằng tình trạng thất nghiệp ở mức thấp sẽ không bao giờ chấm dứt, cho dù các nhà hoạch định chính sách có làm bất cứ điều gì - một tình trạng chắc chắn sẽ dẫn tới những cú sốc và sự vỡ mộng trong thế giới hậu toàn cầu hóa với sự bất ổn tài chính gia tăng, sản lượng sụt giảm và công ăn việc làm ngày càng ít đi.
Tuy nhiên thay vì tìm cách tạo điều kiện cho nhiều người tham gia vào hệ thống tư bản doanh nghiệp hơn, hầu hết các nhà lãnh đạo của chúng ta đều tham gia vào cuộc chơi chính trị. Một nửa cho rằng toàn cầu hóa chính là nguyên nhân của mọi vấn đề và đề xuất các biện pháp quyết liệt bảo hộ nền kinh tế trong nước cũng như các chính sách làm gia tăng cuộc chiến giữa các tầng lớp xã hội, điều sẽ khiến hệ thống tài chính quốc tế rơi vào nguy hiểm. Các đề xuất chính sách, nếu được thực hiện sẽ đảo chiều quá trình tạo ra của cải và xóa đói giảm nghèo toàn cầu một cách ấn tượng trước đây. Sử dụng những lập luận mang tính dân túy mang tính kích động này đã làm mất ổn định các thị trường tài chính.
Tuy nhiên, một nửa khác cũng không có nhiều suy nghĩ tích cực hơn. Họ vênh vang đề xuất các biện pháp hoàn toàn vô ích nhằm giảm thuế dưới hình thức cấp tín dụng thuế cho giáo dục và đào tạo lao động. Nhưng bởi vì 40% người Mỹ không phải trả thuế thu nhập liên bang (và 20% trả thuế thu nhập âm nghĩa là họ nhận được một số tiền thực từ chính phủ), những thay đổi cơ cấu thuế nghe có vẻ tuyệt vời này thực tế hoàn toàn vô nghĩa với phần lớn mọi người trong xã hội.
Các nhà hoạch định chính sách Mỹ không có lựa chọn nào khác ngoài việc đưa ra một số biện pháp sáng tạo nhằm mở rộng mạnh mẽ lực lượng sở hữu vốn tài chính. Đây là thời điểm vô cùng quan trọng trong lịch sử khi cả những người theo trường phái tự do hay bảo thủ cần phải suy nghĩ rộng hơn - như khi các nhà hoạch định chính sách đưa ra Đạo luật Điền thổ (Homestead Act) vào thế kỷ XIX (được ký bởi Tổng thống Lincoln vào năm 1862, luật này cho phép mỗi người Mỹ quan tâm sở hữu miễn phí 160 mẫu đất ở miền Tây nước Mỹ) và Đạo luật An sinh Xã hội (Social Security Act) vào thế kỷ XX.
Cuối cùng, để duy trì lực lượng chính trị ủng hộ nền kinh tế toàn cầu mới, các nhà hoạch định chính sách cần tập trung vào vai trò nguồn vốn nhân lực (human capital). Tổng thống Mỹ hiểu được vấn đề này chính là Abraham Lincoln. Ông là người ủng hộ vĩ đại cho nguồn vốn nhân lực. Trong Thông điệp Liên bang vào năm 1861, Lincoln đã nói: “Lao động quan trọng hơn vốn, và cần xem xét nghiêm túc hơn. Vốn… có thể sẽ chẳng bao giờ tồn tại nếu lao động không có trước”.
Năm 1960, Theodore Schultz, sau này đoạt giải Nobel kinh tế đã lập luận trong một bài phát biểu nổi tiếng với Hiệp hội Kinh tế Mỹ về vai trò trung tâm của “vốn nhân lực” trong một nền kinh tế hiện đại rằng: “Các luật thuế của chúng ta ở bất cứ đâu đều phân biệt đối xử với vốn nhân lực. Mặc dù lượng vốn dự trữ này ngày càng lớn, và mặc dù rõ ràng rằng vốn nhân lực, giống như các hình thức vốn sinh lời khác cũng có thể sụt giá, trở nên lỗi thời và cần bảo dưỡng nhưng các luật thuế của chúng ta không nhận ra các vấn đề này”.
Ngày nay trong chính sách thuế, các nhà hoạch định chính sách ở Washington của cả hai đảng chính trị đều tôn sùng mức thuế khấu hao kinh doanh, với các ưu đãi thuế cực lớn cho thiết bị vật tư máy móc. Tuy nhiên, đào tạo hay nếu cần thiết tái đào tạo nguồn vốn nhân lực chỉ là suy nghĩ muộn màng trong quá trình hoạch định chính sách, thường là sự cân bằng phút cuối, giống như một bùa hộ mạng chính trị nhằm thông qua các điều khoản thuế doanh nghiệp tại Quốc hội. Quan điểm của tôi là để nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ lâu dài, bộ luật thuế không nên đánh giá và đề cao vật tư máy móc hơn con người. Điều đáng lưu ý là bởi vì lĩnh vực dịch vụ hiện tại chiếm từ 70 tới 80% GDP, “vốn kiến thức” (knowledge capital) thậm chí đang trở nên quan trọng hơn vốn tài chính và vật chất.
Tôi không đơn thuần bàn về việc tăng ngân sách cho các chương trình tái đào tạo và đào tạo nâng cao của chính phủ, mặc dù những mục tiêu này quan trọng không kém. Chính những người lao động Mỹ đôi khi dường như không ý thức được rằng họ đang tham gia vào một cuộc cạnh tranh toàn cầu, nơi đó việc liên tục đổi mới các công ty của họ với các ý tưởng mới là yếu tố thiết yếu dẫn tới thành công. Sự thờ ơ nói trên không đáng ngạc nhiên bởi vì những người làm công ăn lương bình thường ít được hưởng lợi nhuận tài chính từ nền kinh tế toàn cầu mới. Nhưng một vấn đề khác là các hiện tượng xã hội hay văn hóa cũng khiến mọi người thấy e ngại. Các cuộc nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng sự bất bình đẳng giáo dục kỹ năng trong xã hội đang gia tăng, đến mức thậm chí ngay cả khi có các quỹ cho giáo dục bậc cao hơn, một bộ phận trong xã hội vẫn thiếu kỹ năng tư duy và giao tiếp để có thể tận dụng cơ hội giáo dục được trao cho họ. Lỗ hổng kỹ năng này thường do các bậc cha mẹ với mức thu nhập khác nhau có cách tiếp cận giáo dục khác nhau. Các bậc cha mẹ giàu có thường khuyến khích bồi dưỡng các kỹ năng liên quan tới quá trình tư duy và giao tiếp nhiều hơn. Do các vấn đề kinh tế, người không giàu có thường phải vắng nhà nhiều hơn, vì họ thường phải làm tới hai công việc.
Tuy nhiên, trong tờ New Republic, chuyên viên phân tích Brink Lindsey cho rằng sự bất bình đẳng kỹ năng ngày nay nên được xem xét không phải như “một vài vở kịch luân lý dân túy điên cuồng về chủ nghĩa tư bản” mà chính là sự bùng nổ thành công của nền kinh tế toàn cầu mới: “Trong một thế hệ cho tới nay, những cơ hội nền kinh tế của chúng ta đã tạo ra nhằm sử dụng hiệu quả kỹ năng nhận thức rất phát triển nhiều hơn so với số người có thể tận dụng được những cơ hội đó… Sự phát triển kinh tế đã vượt lên trước sự phát triển văn hóa; kết quả là văn hóa giờ đây đóng vai trò như một cái phanh hãm sự phát triển lên một tầng lớp cao hơn và giàu có hơn (upward mobility). Do đó, thay vì ngăn cản hệ thống kinh tế, chúng ta cần có những biện pháp tốt hơn giúp đỡ mọi người thích nghi với hệ thống đó và sẵn sàng đối diện với những thách thức của hệ thống. Luật chơi không phải là vấn đề - vấn đề là chúng ta cần những người chơi khéo léo hơn”. Hay nói cách khác, những nhà lãnh đạo chính trị của chúng ta cần khích lệ xã hội tìm các phương pháp giúp các gia đình bắt kịp với các nhóm kỹ năng.
George Monbiot trong cuốn sách Đất nước bị giam giữ: Sự tiếm quyền của Doanh nghiệp nước Anh (Captive State: The Corporate Takeover of Britain) cho rằng cuộc chiến giữa các cá nhân và các doanh nghiệp sẽ là vấn đề trọng tâm cần phải giải quyết trong thế kỷ XXI. Tuy cuốn sách hướng tới nước Anh, các bài học trong đó đồng thời cũng có thể áp dụng vào Mỹ và các khu vực khác trên thế giới.
Tại Washington ngày nay, cả hai đảng chính trị đều tập trung vào việc sử dụng chính sách thuế để giúp đỡ các doanh nghiệp hiện tại, thường thông qua các biện pháp thuế ưu đãi hơn cho việc sử dụng các tài sản vốn. Cách này cũng tốt, nhưng vẫn chưa quan tâm đúng mức tới mục tiêu song song và quan trọng hơn nhiều - bồi dưỡng kỹ năng vốn nhân lực cho lực lượng lao động và khuyến khích hàng loạt các sáng kiến làm ăn của những người chấp nhận rủi ro.
Trong khi Quốc hội Mỹ bị ám ảnh bởi việc giải quyết các lỗ hổng cuối cùng trong bộ luật thuế áp dụng với các doanh nghiệp hiện tại, họ đã làm những gì để thúc đẩy việc thành lập các công ty năng động, sáng tạo chưa hoặc đang sẵn sàng gia nhập thị trường? Các doanh nghiệp chưa được thành lập này là tương lai tạo việc làm, tái phát minh và thịnh vượng cho nền kinh tế, tuy nhiên chúng không được đánh giá đúng mức trong các vấn đề chính sách của Washington.
Cho tới giờ một điều rõ ràng và tôi hoàn toàn tin tưởng là: các hộ gia đình thuộc tầng lớp lao động cũng muốn nắm lấy cơ hội mà làn sóng tài chính mạnh mẽ mang lại. Họ muốn chuyển từ giai cấp lao động (labor worker) sang những người làm chủ nguồn vốn (capital owner). Họ muốn có phần thực sự trong hệ thống tư bản doanh nghiệp, và họ không phẫn uất với những thành công doanh nghiệp của người khác miễn là có cánh cửa tạo ra của cải và cơ hội mở ra cho tất cả mọi người. Nếu các nhà hoạch định chính sách không hiểu rằng những động lực này đang diễn ra thì có thể chúng ta sẽ thấy một mô hình hoàn toàn mới xuất hiện. Các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới sẽ phải đương đầu với các biện pháp nhằm quản lý một xu hướng chính trị mang tính đố kỵ mới. Và một khi mô hình này xuất hiện, các quy tắc chính trị khủng khiếp này sẽ trở nên không thể kiểm soát. Đó chính là tấm vé tới buổi diễn cho chúng ta thấy những yếu tố thắng lợi trong tay có thể sụp đổ ngay trước mắt chúng ta.
Tôi nghĩ một điều cũng đã trở nên rõ ràng là nếu cộng đồng chính trị Mỹ từ chối chương trình thị trường tài chính tự do hóa và tự do mậu dịch mà Bill Clinton đề ra, việc này có nguy cơ gây ra các điều kiện dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ban đầu là lòng tin các nhà đầu tư trên toàn cầu sụt giảm nghiêm trọng, tiếp theo thanh khoản và lượng tín dụng sẵn có bị thu hẹp và sau đó là một giai đoạn kéo dài với tăng trưởng kinh tế đình trệ, thấp hơn nhiều so với tiềm năng. Tăng trưởng kém đồng nghĩa với việc xuất hiện nhiều người ủng hộ chế độ bảo vệ nền công nghiệp trong nước hơn, nhiều chính sách và lời lẽ ủng hộ cho cuộc chiến giữa các tầng lớp xã hội hơn, những vấn đề này lại tiếp tục làm suy giảm lòng tin vào nước Mỹ trên khắp hệ thống quốc tế. Đó là lý do tại sao các chính trị gia ngày nay khi dám có quan điểm khác trong vấn đề tự do mậu dịch và vốn tự do hóa thì họ nên nhớ rằng can đảm cũng có thể gây ra chết chóc.
Nước Mỹ nói riêng đang bước vào thời khắc quan trọng trong lịch sử kinh tế của họ. Các chính trị gia ngày nay được hưởng một phần tư thế kỷ với những thành công kinh tế hai đảng vô cùng tuyệt diệu. Họ đã chứng kiến mức tạo ra của cải và xóa đói giảm nghèo toàn cầu dường như không thể nào đạt đến mà chỉ là sự mơ tưởng hão huyền vào những năm 1970. Nhưng họ cũng đùa giỡn với chủ nghĩa bảo hộ và các chính sách ủng hộ cuộc đấu tranh giai cấp, điều có thể làm tan nát những thành công kinh tế mà một liên minh quốc tế rộng lớn, bao gồm Reagan và Clinton đã nỗ lực không ngừng để đạt được.
Tuy nhiên, tất cả những phân tích trên đây không hề nói rằng kiểm soát vấn đề chính trị đối với toàn cầu hóa là một nhiệm vụ dễ dàng. Khi nền kinh tế tài chính toàn cầu chứng kiến sự lan rộng cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn, dường như sẽ không có nhiều anh hùng trong khi vô số kẻ bạo ngược. Như trong chương cuối tôi sẽ đề cập, chỉ các chính trị gia có khả năng nhìn xa trông rộng và tự chủ hiệu quả thì mới có thể ngăn chặn những kẻ mị dân chính trị tuyên truyền rằng lĩnh vực ngân hàng toàn cầu hoạt động một cách vô trách nhiệm và đôi khi là ngớ ngẩn trong những năm gần đây. Thực tế, đúng là các ngân hàng đã khiến toàn bộ nền kinh tế thế giới gặp phải vấn đề nghiêm trọng.