Thế Giới Cong - Chương 03

3. Các doanh nhân khởi nghiệp trong thế giới của những kẻ gây rối - các quỹ đầu tư cổ phần tư nhân và các quỹ đầu tư phòng vệ

Một ngày mùa hè năm 1988, Paul Tudor Jones, một nhà đầu tư trẻ tuổi của quỹ đầu tư phòng vệ hiện đang là một trong 400 người giàu nhất nước Mỹ theo bảng xếp hạng của tạp chí Forbes, đã gọi điện mời tôi ghé thăm văn phòng của anh ấy trong chuyến đi New York sắp tới của tôi. Tôi chưa bao giờ nghe nói gì về anh ấy, nhưng cuộc gặp mặt tiếp theo đã dạy cho tôi rất nhiều về bản chất của những người giàu có này trong một nền kinh tế doanh nghiệp. Họ là những người sẽ cấp vốn cho những nhà kinh doanh sẵn sàng chấp nhận rủi ro (risk-takers).

Khoảng một tuần sau, vào một buổi chiều oi bức, tôi lang thang tại khu vực cuối Phố Wall, tìm kiếm văn phòng của anh ấy một cách vô vọng. Cuối cùng, tôi đi theo một lối cầu thang đầy rác, khuất nẻo (thang máy bị hỏng), cạnh một cửa hàng ăn nhanh đi lên một văn phòng trên tầng hai trông rất tiêu điều không có biển hiệu, không có lễ tân, không có một ai quanh đó và cũng không có hệ thống điều hòa không khí.

Mười, rồi hai mươi phút trôi qua mà vẫn không có ai đến hoặc đáp lại những tiếng gọi của tôi vọng khắp các văn phòng của khu nhà. Khi tôi đang đứng ở lối ra vào, chuẩn bị bỏ đi thì đột nhiên Jones xuất hiện phía tầng trên với những căn phòng nhỏ lộn xộn. Người đàn ông khoảng chừng 30 tuổi trông có vẻ thích gây gổ, chiều cao trung bình trong bộ đồ thun thể thao với cái đầu hói dường như chỉ còn một nhúm tóc ấy giới thiệu và dẫn tôi vào trong văn phòng riêng của anh thẳng ngay cửa trước. Bạn bè tôi thường nói rằng có một ai đó tên là Jones, một cựu thương gia buôn bán các mặt hàng cơ bản người gốc Tennessee năm trước đã giàu to nhờ dự đoán một cách chính xác về sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ. Nhưng chắc chắn không thể là người đàn ông này. Có lẽ nào là anh ta, tôi tự hỏi.

“Anh đánh giá thế nào về đồng đô la?” Jones hỏi ngay khi chúng tôi ngồi xuống, giọng miền Nam của anh ấy quá nặng và méo mó. Tôi bắt đầu tự hỏi liệu đây có phải là một tiết mục rất công phu, một trò đùa tinh nghịch được thực hiện bởi một người bạn tinh quái thời đại học, người đã thuê một diễn viên tồi đóng vai Paul Jones. Jones trông giống như mới ở nông thôn ra. Trước khi tôi có thể trả lời, tôi nhìn thấy một cái gì đó có vẻ được sắp xếp không đúng chỗ, ngay bên phải anh ấy. Đó là một ma-nơ-canh loại bày đồ ở cửa hàng, có kích thước bằng người thật, mặc quần áo đầy đủ được đặt ngồi ngay cạnh bàn của anh ấy và nhìn thẳng vào tôi.

Bất chợt, tôi cảm thấy e dè. Giống như là người vừa hỏi tôi và con ma-nơ-canh chỉ là một. Ngay lập tức, tôi liếc nhìn xung quanh và cảm thấy rằng có cái gì đó khá quen thuộc: Toàn bộ căn phòng toát lên cảm giác giống với ngôi nhà của hội nam sinh viên đại học trong bộ phim Animal House. Đây là một phòng sinh hoạt chung, hoàn thiện bằng một chiếc bút chì số 2 màu vàng dài khoảng ba tấc. Có lẽ điều khiến tôi bối rối nhất là việc ma-nơ-canh đeo kính râm gây cho tôi cái cảm giác như là có hai cặp mắt đang nhìn chằm chằm vào mình, đôi mắt của ma-nơ-canh và đôi mắt của Paul. Liệu ma-nơ-canh có phải là một gián điệp thị trường của một ngân hàng Pháp nào đó không? Tôi tự cười với chính mình.

Tôi trả lời câu hỏi về đô la rằng các bàn giao dịch ngoại hối của Bộ Tài chính Nhật Bản, chứ không phải các thị trường, đã nắm quyền kiểm soát trong một thời gian ngắn đối với tỉ giá đồng yên so với đồng đô la nên điều quan trọng là tránh bị Bộ Tài chính che mắt trong cuộc họp nhóm G7 sắp tới của các thống đốc ngân hàng trung ương và các bộ trưởng tài chính thuộc các quốc gia công nghiệp hóa. Tuy nhiên, khi tôi giải thích được khoảng 45 giây thì Jones xen vào “Tôi thuê anh làm việc cho tôi! Vậy anh sẽ tính chi phí là bao nhiêu?” Các thương nhân trong lĩnh vực tài chính thường đưa ra những quyết định tức thì dựa vào bản năng vốn có của mình như vậy đấy.

Rất nhiều dịp, Jones đã mời tôi đến khu bảo tồn rộng khoảng 160 ha của anh ấy trên bờ Đông của Maryland, một thiên đường săn bắn mà anh ấy gọi là “Thế giới Disney của thú săn bắn”. Có 26 nhân viên phục vụ mọi yêu cầu của chúng tôi. Vào một ngày, vài năm sau khi chúng tôi gặp nhau, chúng tôi cùng nhau đứng trên một cánh đồng chờ các nhân viên lùa những chú gà lôi ra khỏi ổ để các vị khách bắn (Jones, trông hơi giống Rambo, mặc một bộ quân phục dã chiến; một vị khách khác, cựu bộ trưởng Tài chính Nick Brady, đứng cách khoảng 7 mét). Trong khi chờ đợi, tôi và Jones bắt đầu bàn về vấn đề cuộc sống bên ngoài thị trường là thế nào. Tôi hỏi: “Paul này, anh mơ ước sẽ làm gì nếu không phải là các công việc liên quan đến thị trường?” Jones, một tỷ phú và cũng là một người mới cải sang “đạo môi trường” (vì một tai nạn trong vùng đầm lầy trên mảnh đất riêng của anh nên một người quản đốc xây dựng của anh ấy phải vào tù) đưa ra một câu trả lời bất ngờ. Anh ấy trả lời khá nghiêm túc: “Ước mơ của tôi là trở thành bộ trưởng nội vụ Hoa Kỳ[21].

Tôi bị sốc với câu trả lời đó. Một siêu sao tài chính, lại có ước mơ là lãnh đạo một cơ quan nội các thường bị chế nhạo là vùng nước đọng trong lòng vành đai Washington. Tôi chợt hiểu ra rằng tại sao ngay cả những nhà đầu tư sành sỏi nhất trong các thị trường cũng hiểu rất ít về sự khắc nghiệt của việc thay đổi chính sách ở Washington từ bên trong, đặc biệt là với tầm ảnh hưởng mà họ đang có với tư cách là người cổ xúy bên ngoài có tiềm lực đối với mục tiêu thay đổi. Mặc dù chúng ta đã có những tiến bộ trong truyền thông nhưng khoảng cách về sự hiểu biết lẫn nhau giữa chính phủ và các thị trường tài chính vẫn còn lớn một cách đáng ngại. Đây là hai thế giới chỉ gặp nhau một cách ngẫu nhiên tình cờ. Hình ảnh ẩn dụ này giải thích rất nhiều về lý do tại sao thế giới vẫn còn bất ổn một cách nguy hiểm như vậy. Các nhà hoạch định chính sách trong chính phủ và các thị trường tài chính hiểu về nhau rất ít. Hai trong số những nguồn cung cấp vốn doanh nghiệp chính trong nền kinh tế toàn cầu mới này - các quỹ đầu tư phòng vệ và các công ty đầu tư cổ phần tư nhân[22] - vẫn còn rất khó hiểu đối với giới chính trị.

Thật ngẫu nhiên, hiện nay các văn phòng của Tập đoàn Đầu tư Tudor có thể cạnh tranh về sự từng trải và sự xa hoa của mình với bất kỳ một đối thủ nào trong giới tài chính. Jones giờ ăn mặc như một người mẫu thời trang (có lẽ là anh ấy được vợ tư vấn, cô là một người mẫu thời trang). Jones đã sử dụng kỹ năng kinh doanh và buôn bán của mình để tạo nên một tổ chức phi lợi nhuận đầy ấn tượng tên là Quỹ Robin Hood (Robin Hood Foundation), một tổ chức dành cho những người thiệt thòi ở thành phố New York và những vùng xung quanh. Nhưng anh chưa bao giờ kinh doanh tốt như là khi có ma-nơ-canh ngồi bên cạnh mình trong văn phòng ẩm ướt phía trên cửa hàng ăn nhanh. Điều này liên tục nhắc nhở tôi rằng những tay liều thành công nhất trong xã hội, thường hoạt động ngoài xu hướng chủ đạo, ít nhất là vào thời kỳ đầu. Họ hiếm khi là thành viên của một “câu lạc bộ”. Họ không khởi nghiệp với bất cứ một thứ gì gần với câu chuyện thành công thông thường. Đó là lý do tại sao họ và những người anh em cùng ưa mạo hiểm như họ,các doanh nhân, vẫn còn bí ẩn đến vậy.

Tóm lại, tôi đã hợp tác chặt chẽ với hầu hết các nhân vật trong các quỹ đầu tư phòng vệ chính yếu trong thời kỳ đó, và tôi quen biết một số nhân vật chủ chốt trong giới đầu tư cổ phần tư nhân. Các quỹ đầu tư phòng vệ thông thường là các quỹ toàn cầu, hầu như không bị kiểm soát và rất linh hoạt, dành cho các nhà đầu tư có giá trị ròng cao, những người có thể giải quyết các rủi ro - vượt xa rất nhiều so với các quỹ thị trường bị kiểm soát chặt chẽ như các quỹ tương hỗ (mutual funds). Trong khi đó, các nhà đầu tư cổ phần tư nhân giao dịch với các công ty không công khai niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, định hình lại các công ty này thông qua các thỏa thuận sát nhập, tái cơ cấu hoặc tái vốn hóa (đôi khi bằng cách đưa chúng lên thành công ty đại chúng) để tạo ra hiệu suất tốt hơn.

Ngày nay, cả các quỹ đầu tư phòng vệ và các công ty đầu tư cổ phần tư nhân đều đã trở thành những tay quỷ quyệt mới trong hệ thống tài chính quốc tế - những con quái vật tham lam, gớm ghiếc bị các chính trị gia quy trách nhiệm về sự mất kiểm soát, và thỉnh thoảng là những vụ hỗn loạn liên quan đến những luồng vốn vô cùng bất ổn hiện nay. Cho dù có một phần sự thật nhỏ trong trách nhiệm của những tay quỷ quyệt đó nhưng những thành kiến tiêu cực này cũng tạo ra một mối nguy hiểm cho hệ thống quốc tế và những nguy cơ dẫn đến thời kỳ trì trệ của thị trường tài chính. Trên thực tế, đúng là trong khi một số nhà điều hành các quỹ đầu tư phòng vệ, những người kiếm được những khoản phí khổng lồ, thể hiện sự hào phóng đặc biệt đối với những người xung quanh họ thì những người khác lại thể hiện mức độ tham lam gần như ngoài tưởng tượng. Chính tính tham lam đó cùng với tâm lý bất thường đã góp phần gây ra sự không hài lòng về mặt chính trị và cả nguy cơ tiềm ẩn cho ngành tài chính.

Ví dụ, một người giao dịch trên thị trường chứng khoán Phố Wall mà tôi biết, làm việc cho một quỹ thường xuyên kinh doanh với quy mô lớn trên những loại tài sản có tính biến động (volatility) cao, lại thường xuyên tham vấn ý kiến từ… một nhà chiêm tinh chuyên nghiệp về những quyết định mua bán của anh ta! Tuy nhiên điều này không hề xuất hiện trong các tài liệu mà công ty của anh ta công khai cho các nhà đầu tư. Một người điều hành quỹ đầu tư phòng vệ khác có một gia tài lớn và có trụ sở tại New York đã cử một trợ lý thân cận đến văn phòng của tôi sau khi đã là khách hàng được khoảng một năm. Mục đích của chuyến viếng thăm là thảo luận về việc gia hạn hợp đồng tư vấn của chúng tôi.

Hãy tưởng tượng xem tôi đã sốc như thế nào khi nghe người trợ lý ấy nói: “Chúng tôi có thể đánh cắp các văn bản về dịch vụ tư vấn của các ông. Những gì chúng tôi không thể lấy được là các phân tích từ những cuộc điện thoại cho khách hàng của các ông. Chúng tôi sẽ trả cho ông phân nửa số tiền phí tư vấn hiện tại để có được những thông tin về các cuộc điện thoại ấy”. Vô cùng kinh ngạc, tôi nhanh chóng cảm ơn người trợ lý vì đã nói thẳng điều họ muốn, và chấm dứt hợp đồng tư vấn cho công ty ông ta. Vài năm sau, người ta nhận ra chính người điều hành quỹ đầu tư phòng vệ đó ở phía trước cửa nhà hát Carnegie Hall ngay trước khi buổi hòa nhạc bắt đầu. Ông ấy đã mua thừa một chiếc vé và đang cố gắng bán lại chiếc vé đó với giá hời nhất cho những người đi đường trước khi buổi hòa nhạc được trình diễn. Trước cảnh này, những người bạn của vị tỷ phú ngày xưa cảm thấy vô cùng nhục nhã!

Thế giới đầu tư cổ phần tư nhân, nơi mà những người sở hữu những khoản tiền kếch xù bỏ ra cả 6 triệu đô la cho những bữa tiệc sinh nhật tuổi 60, không khác gì so với các quỹ đầu tư phòng vệ. Nơi đây cũng đầy rẫy thói đạo đức giả. Nhiều năm nay, các vị lãnh đạo tự phong, có địa vị cao trong các công ty đầu tư cổ phần tư nhân đã phàn nàn rằng thuế suất thấp đối với nhóm những người có thu nhập cá nhân cao nhất ở Mỹ có lợi cho những người giàu có nhưng lại góp phần tạo ra thâm hụt ngân sách. Nghe rất có tinh thần cộng đồng, phải không bạn? Thực tế là các thành viên góp vốn này của công ty đầu tư cổ phần tư nhân không phải đóng thuế thu nhập công ty hoặc thuế thu nhập cá nhân hiện tại dựa vào mức thu nhập kếch xù của họ, vốn được phân loại vào dạng thu nhập “lợi ích từ việc quản lý quỹ”[23]. Thay vào đó, họ chỉ phải đóng một mức thuế 15%, ít hơn một nửa so với mức thuế mà các doanh nghiệp khác phải đóng.

Đây là tình trạng cần phải được từng bước xóa bỏ. Tuy nhiên, điều này không hề dễ dàng bởi các nước khác không muốn gì hơn là các quỹ đầu tư cổ phần tư nhân Mỹ mở rộng ra nước ngoài. Ví dụ, Thụy Sỹ áp dụng luật cho phép các công ty đầu tư cổ phần tư nhân ở New York và London chỉ phải đóng mức thuế tương tự là 15% nhằm khuyến khích các công ty này chuyển trụ sở sang Thụy Sỹ. Nhờ sự lưu động của nguồn vốn, sự chuyển dịch như vậy sẽ không quá ghê gớm như vẻ ngoài của chúng. Các dịch vụ tài chính vẫn còn là một trong những ngành mà Mỹ chiếm ưu thế xét trên phạm vi toàn cầu. Các nước còn lại trên thế giới sẽ vui thích chứng kiến sự suy tàn của Mỹ, điều dường như đang diễn ra do cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn.

Nhưng vấn đề là: lòng tham của những người điều hành quỹ đầu tư phòng vệ và sự hiệu quả của những người vận động cho thuế cổ phần tư nhân không hề phủ định giá trị của các tổ chức này đối với hệ thống tài chính toàn cầu. Các công ty đầu tư cổ phần tư nhân không tạo ra những méo mó trong các thị trường; đơn giản là họ chỉ phản ánh những méo mó đó. Nếu tín dụng quá rẻ, quá sẵn có và nếu xu hướng điều tiết khiến cho các tập đoàn thiên về việc mua lại và sáp nhập (M&A) hơn là đầu tư vào các doanh nghiệp mới, thì các công ty đầu tư cổ phần tư nhân sẽ xuất hiện và sẵn sàng phục vụ! Bất chấp những mức phí lạ lùng của mình, họ vẫn chỉ là hệ quả chứ không phải là nguyên nhân của xu thế hiện nay.

Trong thế giới mới đầy bất ổn hiện nay, các chính trị gia muốn xóa bỏ các quỹ đầu tư phòng vệ, những đối tượng được cho là nguyên nhân gây ra mọi rắc rối trong nền kinh tế thế giới. Bạn có thể nói là tôi thiên vị nhưng chính những quỹ đang gây ra nhiều rắc rối này lại là chất “huyết thanh sự thật” (truth serum) của nền kinh tế quốc tế. Các quỹ này liên tục thách thức những quan điểm chính trị cũ kỹ của chính phủ và thể hiện thái độ nghi ngờ đối với những lời giải trình không thật của các “đại gia” trong ngành về công ty của họ. Một số nhà phê bình cho rằng các quỹ đầu tư phòng vệ liên quan đến sự câu kết trong thị trường, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng hóa cơ bản và như vậy các quỹ này phải chịu trách nhiệm về việc tăng giá hàng hóa[24] hiện nay. Tuy nhiên, tôi cảm thấy hầu hết các quỹ đầu tư phòng vệ lớn đã dự đoán sẽ xảy ra một sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu, dẫn đầu là Mỹ. Một nhà đầu tư trong bối cảnh này sẽ đặt cược vào sự rớt giá của hàng hóa. Nói gì thì nói, từ trước đến nay chưa bao giờ có tình trạng giá hàng hóa lại tăng cao trong suốt thời kỳ suy giảm kinh tế trên toàn cầu. Nhưng tình hình còn phức tạp hơn nếu các chính phủ có chủ quyền, dẫn đầu là Trung Quốc, thực sự đang tích trữ hàng hóa thì sự phát triển như vậy sẽ không còn là bí mật lâu dài nữa[25]. Biết được sự phát triển này, các quỹ đầu tư phòng vệ, vốn là những nhà quản lý tiền tệ thông thái, sẽ thanh toán những hợp đồng “vay và bán” chờ giá xuống (short positions) của họ trong các thị trường hàng hóa và đặt cược vào việc tăng lên của giá cả bất chấp tình trạng suy thoái của nền kinh tế toàn cầu. Rõ ràng là trong bối cảnh này, các quỹ đầu cơ phòng vệ đang phản ứng lại với các sự kiện chứ không phải là dẫn dắt các sự kiện.

Trong lịch sử, các quỹ đầu cơ phòng vệ đóng vai trò rất quan trọng, họ là các diễn viên xuất hiện trong những cảnh đầu tiên của vở kịch toàn cầu hóa. Họ là những người đầu tiên nghĩ ra cách tận dụng tối đa lợi ích của cơ cấu tài chính toàn cầu. Họ bắt đầu gộp chung các danh mục đầu tư với nhau, đại diện cho rất nhiều thị trường quốc tế khác nhau với các công cụ đầu tư khác nhau dựa trên các đánh giá kinh tế vĩ mô khái quát của toàn bộ nền kinh tế toàn cầu. Cựu chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Alan Greenspan gọi các quỹ đầu tư phòng vệ là “những chú ong đi phát tán phấn hoa”. Tôi tin rằng nếu các quỹ đầu tư phòng vệ không tồn tại thì các thị trường tài chính sẽ phải hứng chịu nhiều tai họa hơn so với những gì hiện giờ họ phải trải qua.

Thay vì là nguồn gốc của bất ổn giống như các nhà bình luận vẫn nói, trong suốt thời kỳ toàn cầu hóa đang gia tăng, các quỹ đầu tư phòng vệ, mặc dù đôi khi có hành xử thiếu trách nhiệm, nhìn chung đã giúp cho các thị trường thống nhất và trở nên hiệu quả hơn. Trên thực tế, những quỹ đầu tư phòng vệ là một nhân tố quan trọng đối với sự ổn định lâu dài của thị trường. Không có chúng thị trường có thể còn tiếp tục thiếu hiệu quả lâu dài, nhược điểm này sẽ đột ngột kích động một cú sốc tiềm tàng và rộng lớn cho toàn bộ hệ thống.

Ví dụ, trước khi có sự hình thành của các quỹ đầu tư phòng vệ, các công ty và/hoặc chính phủ ủng hộ các cartel và các tổ chức độc quyền (một hình thức đôi khi được gọi là chủ nghĩa tư bản thân hữu) có thể che giấu những hoạt động của họ trong một thời gian dài. Những mối liên hệ tay trong, chứ không phải cơ chế thị trường tự do, đã dẫn dắt việc đưa ra quyết định. Trước đây, thị trường đã không thể hoàn toàn kiểm soát những hành vi này. Ngày nay, toàn bộ giới đầu cơ của các quỹ đầu tư phòng vệ lục tung mọi ngõ ngách để tìm kiếm sự thiếu hiệu quả trên thị trường để khai thác. Một ví dụ về sự thiếu hiệu quả như vậy là các chính phủ từng tuyên bố những cải tổ to lớn một cách hùng hồn, biết rằng họ thiếu dũng khí chính trị và quyết tâm để thực hiện đầy đủ những cam kết của mình.

Một ví dụ về sự thiếu hiệu quả khác là: Các công ty cồng kềnh với các hoạt động thiếu hiệu quả và chi phí quản lý quá cao. Lãnh đạo của các công ty này có một tầm nhìn vô cùng hạn hẹp về tương lai, họ cũng không có dũng khí cần thiết để điều hành công ty của mình một cách hiệu quả hơn và nâng cao vị thế cạnh tranh của mình. Các công ty này là mơ ước của các nhà quản lý quỹ đầu tư phòng vệ. Những người giao dịch vay chứng khoán của các công ty này để bán ra, dự đoán rằng giá trị của các công ty đó sẽ giảm xuống để quỹ đầu tư phòng vệ có thể được hưởng những vận may bất ngờ. Mối đe dọa của quá trình này cũng buộc các cấp quản lý trong công ty phải nghĩ đến những thay đổi tích cực, giúp các công ty này khỏi trở nên lạc hậu trên thị trường toàn cầu.

Dành một chút thời gian với các chính trị gia ở Đức, bạn sẽ khám phá ra rằng theo quan điểm của họ, các nhà quản lý quỹ đầu tư phòng vệ không là gì hơn là hiện thân của quỷ - “những kẻ phá hoại” như một số nhà phê bình vẫn gọi. Tuy nhiên thật buồn cười là trong những năm gần đây các quỹ đầu tư phòng vệ, các công ty đầu tư cổ phẩn tư nhân và các tổ chức có mối quan hệ khăng khít với họ - các ngân hàng đầu tư trên toàn cầu - đã và đang tái cơ cấu, hiện đại hóa khu vực tài chính - doanh nghiệp của Đức. Điều này chủ yếu đã diễn ra trong khi chính phủ liên minh, đang lúng túng về mặt chính trị, không hề hay biết. Giống như hầu hết các chính phủ châu Âu khác, nhiều thập kỷ nay nước Đức đã chấp nhận tỉ lệ thất nghiệp hai con số và sự tăng trưởng kinh tế dưới mức trung bình trong khi thiếu ý chí chính trị để cải tổ nền kinh tế. Ở Đức trong những năm gần đây, các quỹ đầu tư phòng vệ và các công ty đầu tư cổ phần tư nhân đã thúc đẩy sự thay đổi. Như tôi sẽ trình bày ở chương sau, sự thay đổi này cũng chính là lý do giải thích cho việc tại sao một nước Đức năng suất và hiệu quả hơn đang có tính cạnh tranh toàn cầu cao hơn so với các nước còn lại ở châu Âu. Ngược lại, Italia, một nền kinh tế mang tính “đóng cửa” nhiều hơn đối với các lợi ích tài chính bên ngoài, lại bị tụt lại phía sau.

Các nhà phê bình cho rằng rất nhiều các quỹ đầu tư phòng vệ mới ra đời đã thực hiện hàng loạt các biện pháp đòn bẩy vay nợ táo bạo, và như vậy đã tạo ra những nguy cơ cho toàn bộ hệ thống tài chính. Đúng là các quỹ đầu tư phòng vệ mới đã mọc lên như nấm sau mưa. Khi tôi khai trương công ty tư vấn thị trường của mình, mới chỉ có một vài trăm quỹ đầu tư phòng vệ, với một vài chục quỹ đạt được hiệu quả cao. Hiện nay đã có 9.000 quỹ đầu cơ phòng vệ tham gia vào trò chơi mạo hiểm trong hệ thống, phần lớn là những quỹ mà tôi muốn tránh xa hoàn toàn.

Trong một quỹ đầu cơ phòng vệ, thâm niên hầu như không mấy giá trị. Tiêu chuẩn đánh giá thành công duy nhất là kết quả đầu tư thực tế. Vì vậy, những nhà kinh doanh chứng khoán (trader) trẻ tuổi và xuất sắc thường nhanh chóng đạt được những vị trí cao đầy quyền lực. Vấn đề là đa số những người này chưa bao giờ trải qua thời gian mà thị trường đi xuống trên diện rộng. Với độ tuổi trung bình khoảng 26, họ mới chỉ là những học sinh tiểu học trong khoảng thời gian sụp đổ thị trường năm 1987. Cái họ thiếu chính là sự từng trải và khả năng đánh giá.

Đó là tin xấu. Tin tốt lành là các thị trường tài chính đang điều chỉnh tình hình này. Từ đầu năm 2004, rất nhiều nguồn vốn trên thế giới đã rút khỏi các quỹ mới thành lập, quay trở lại với các quỹ đầu tư phòng vệ có danh tiếng và có thâm niên hơn với những thành tích an toàn trong quá khứ. Hiện nay, 100 quỹ đầu tư phòng vệ lớn nhất kiểm soát 75% tổng số vốn đầu tư vào các quỹ đầu tư phòng vệ - và con số này đang tiếp tục tăng lên. Vào đầu năm 2004, tỉ lệ đó chỉ là 50%. Với các quỹ mới thành lập, thị trường bắt đầu chọn lọc và phân biệt các “tài năng” thực sự với những kẻ “ăn theo” trong việc đầu tư góp vốn. Sau cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn, quá trình lựa chọn này sẽ tăng tốc vì phần lớn việc cấp vốn cho quỹ đầu tư phòng vệ thông qua ngành ngân hàng đang gặp rắc rối của Mỹ sẽ bị rút lại.

Nam 1998, sự sụp đổ của quỹ đầu tư phòng vệ mang tên Quỹ Quản lý Vốn Dài hạn (LTCM) gần như đã làm sụp đổ hệ thống tài chính thế giới. Hãy so sánh, năm 2006 một quỹ đầu tư phòng vệ khác là Amaranth có trụ sở tại Connecticut, Greenwich đã thua lỗ gần 9 tỷ đô la (xét về đô la, lớn hớn so với lượng thua lỗ của Quỹ Quản lý Vốn Dài hạn nói trên). Nhưng hệ thống tài chính toàn cầu hiện đại hơn, phức tạp hơn hiện nay bình thản đón nhận sự thua lỗ này hầu như không có chút ngạc nhiên nào. Điều tương tự cũng diễn ra trong suốt cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn năm 2007-2008.

Một vài quỹ đầu tư phòng vệ đã phải gánh chịu những thua lỗ lớn và lặng lẽ phá sản. Nhưng những chuyện ồn ào khởi nguồn không phải từ các quỹ đầu tư phòng vệ. Chính các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính đã thất bại trong việc đưa ra một bức tranh rõ ràng về nguy cơ đối với các thị trường. Trong những năm tới, sẽ nhiều quỹ đầu tư phòng vệ thất bại hơn nhưng lý do thua lỗ vì rủi ro quá mức sẽ ít hơn lý do là các tác dụng phụ từ những khó khăn của các ngân hàng, theo đó họ rút vốn từ các quỹ đầu tư phòng vệ này về.

Hầu hết các nhà hoạch định chính sách châu Âu và một số nhà hoạch định chính sách Mỹ không muốn gì hơn là đặt giới quỹ đầu tư phòng vệ vào một khuôn khổ quy định. Điều họ không thể nhận ra là: đó chính là những gì mà các quỹ đầu tư phòng vệ lớn, có uy tín hết sức mong muốn. Những gánh nặng mới (về mặt chính sách, quy định v.v… - ND) từ phía chính phủ sẽ là một khó khăn cho những người mới đến muốn thành lập các quỹ đầu tư phòng vệ cạnh tranh, cái mà các nhà kinh tế học gọi là “các rào cản khi gia nhập ngành[26]”. Nếu phí thành lập là 3 triệu đôla theo luật định cộng với các chi phí khác liên quan thì rất nhiều nhà kinh doanh chứng khoán tài năng, xuất thân từ những tập đoàn đầu tư lớn nhất như Goldman Sachs, cũng sẽ không thể tự mình thành lập quỹ được. Các doanh nghiệp lớn có danh tiếng luôn khét tiếng trong việc nỗ lực để đạt được thế độc quyền trong ngành của mình, và những người điều hành các quỹ đầu tư phòng vệ lớn cũng vậy. Sự cạnh tranh được nâng lên cũng có thể gây nguy hại cho cơ cấu thu nhập từ phí đang rất “rộng rãi” của họ, nếu các nhà kinh doanh chứng khoán tài năng khác mới thành lập quỹ trong hoàn cảnh này sẵn sàng giảm giá.

Vào tháng 12 năm 2007, trong thời kỳ đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Ben Bernanke đã đưa ra lời nhận xét này với một số nhà phân tích thị trường: “Khi cuộc khủng hoảng qua đi, thật nực cười là các ngân hàng sẽ có thể chiếm vị trí trọng tâm hơn trong hoạt động trung gian tài chính, so với chính họ trước đây”. Xét bề ngoài thì điều này nghe có vẻ là một sự phát triển lành mạnh. Trong suốt thời kỳ khủng hoảng, một trong những động thái đầu tiên của Cục Dự trữ Liên bang là mở rộng mạng lưới an toàn thông qua một hệ thống đấu giá mới để nâng cao tính thanh khoản của ngân hàng. Cục Dự trữ Liên bang về cơ bản đã đặt ra những hàng rào phòng vệ xung quanh hệ thống ngân hàng - điều này hoàn toàn vì những lý do chính đáng. Nếu các ngân hàng sụp đổ thì nền kinh tế Mỹ và có thể cả nền kinh tế thế giới cũng sụp đổ theo.

Tuy nhiên, việc tăng cường vai trò phân bổ tín dụng của các ngân hàng ở Mỹ, đặc biệt là khi thế giới đang trong quá trình giảm đòn bẩy tài chính, nghe có vẻ rất đáng tin cậy nhưng thực ra lại không phải như vậy. Lý do là các ngân hàng có thành tích tương đối nghèo nàn trong việc tài trợ cho các doanh nhân khởi nghiệp. Những người hoạt động trong ngành ngân hàng nói chung còn thiếu khả năng tưởng tượng và tầm nhìn để nắm bắt được cơ hội. Cũng có rất nhiều điều luật và quy định cản trở họ thực hiện việc đó. Các doanh nhân khởi nghiệp sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao là những thành phần kỳ diệu cho phép nền kinh tế mở rộng nhanh chóng và tạo ra nhiều việc làm. Tuy nhiên, như mọi người đều biết, các ngân hàng địa phương luôn luôn chỉ muốn giải ngân cho những người “đủ giàu” đến mức thật ra… không cần vay vốn! Các công ty mới thành lập, chưa nổi tiếng, có ý tưởng kinh doanh xuất sắc nhưng không đủ vốn đã bị làm ngơ hết lần này đến lần khác. Hiện nay, khi Cục Dự trữ Liên bang, trong quá trình giải quyết vụ sụp đổ của Bear Stearns, dường như đã bảo đảm cho toàn bộ hệ thống tài chính (bằng cách cho phép các tổ chức tài chính phi ngân hàng được tiếp cận các khoản vay qua “cửa sổ chiết khấu” của Fed, không cần tài sản đảm bảo); câu hỏi đặt ra là liệu sự giám sát chặt chẽ hơn trong tương lai rốt cuộc có làm chậm lại quá trình cho khu vực doanh nghiệp vay vốn hay không.

Trong lịch sử, các quỹ đầu tư phòng vệ, các công ty đầu tư cổ phần tư nhân, các nhà tư bản doanh nghiệp, và các nguồn phân bổ vốn khác đã mang lại một phẩm chất đặc biệt - sự tò mò về tính sáng tạo của các doanh nghiệp và một cảm giác thấm nhuần rằng sự mở rộng kinh tế bắt nguồn từ sự phá hủy những cái “nguyên trạng” (status quo). Hầu hết các công ty lớn bao gồm cả các ngân hàng chỉ tập trung vào duy trì Cái hiện có. Các quỹ đầu tư phòng vệ nhỏ và các nhà phân bổ vốn khác tập trung vào thay thếcái hiện có đó bằng một thứ gì đó tốt hơn. Đó là lý do tại sao họ lại bị giới “chính thống” ghét bỏ đến như vậy! Họ là những người đầu tiên khởi xướng quan niệm rằng thành công của nền kinh tế bắt nguồn từ sự đổi mới không ngừng. Trong mắt họ, doanh nhân khởi nghiệp gần như là một anh hùng trong thần thoại.

Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu nền văn hóa chính trị ngày nay, bị ảnh hưởng bởi tư tưởng chính trị đố kỵ mới, có tiếp tục chấp nhận trong xã hội có một tầng lớp doanh nhân khởi nghiệp kiếm được những khoản tiền vô cùng lớn hay không. Những hồi đáp đầu tiên không có gì là đảm bảo. Câu thần chú chính trị phổ biến nhất hiện nay là lời kêu gọi của những người theo chủ nghĩa dân túy rằng hãy “chấm dứt sự tham lam của phố Wall và các doanh nghiệp”. Nhưng với tư cách là một xã hội, chúng ta sẽ giải quyết như thế nào đối với những kẻ lừa đảo tại Enron và những người chủ ngân hàng ngốc nghếch nói chung mà không vô tình vứt bỏ đi những cái quý giá của các doanh nghiệp? Khi cải tổ hệ thống này, Washington sẽ làm sao để không làm ngành dịch vụ tài chính què quặt, điều làm… vui lòng các đối thủ cạnh tranh tài chính trên thế giới? Chúng ta tránh việc cắt giảm tài trợ cho những doanh nhân chấp nhận rủi ro cao trong xã hội như thế nào?

Cuộc thảo luận về các doanh nhân khởi nghiệp với tư cách là một tầng lớp xã hội đặc biệt và riêng rẽ gợi cho tôi nhớ đến một cuộc nói chuyện của mình vào đầu năm 1990 tại nhà của Chủ tịch ngân hàng trung ương Đức Karl Otto Po..hl. Nhà lãnh đạo đầy quyền lực này đã tham gia vào rất nhiều hội nghị kinh tế quốc tế mà tôi đã tổ chức vào cuối những năm 1980 và những năm 1990, và chúng tôi đã trở thành bạn bè. Po..hl, một người có chiều cao trung bình và nước da luôn luôn rám nắng vì chơi gôn và trượt tuyết thường xuyên, có lẽ là một quan chức có sức lôi cuốn nhất trong giới chính trị mà tôi từng gặp. Khi ông nói chuyện với ai đó, thì người ấy sẽ cảm thấy như mình là người quan trọng nhất trong phòng. Tôi phải công nhận rằng nếu Po..hl không vào ngân hàng trung ương thì ông đã trở thành Thủ tướng Đức.

Tối hôm đó, Po..hl vừa mới kết thúc một giai đoạn nhiều tranh cãi nhất trong sự nghiệp của mình. Vào tháng 11 năm 1989, bức tường Berlin đã sụp đổ và ông vừa nhận xét kế hoạch của Thủ tướng Helmut Kohl nhằm thống nhất một nước Đức bị chia cắt dưới một loại tiền tệ chung là “một sự thất bại”. Tất nhiên, đồng tiền của Đông Đức yếu hơn rất nhiều so với đồng mác (DM) vô cùng mạnh của Tây Đức nhưng Thủ tướng Kohl vẫn nhất quyết đòi hỏi tỉ lệ chuyển đổi 1:1 để nhanh chóng tạo ra một đồng tiền chung cho nước Đức trong nỗ lực thống nhất đất nước của ông ấy. Sự việc này thật kịch tính. Một cuộc chiến tranh đã nổ ra giữa chủ tịch ngân hàng trung ương và thủ tướng Đức.

Ngôi nhà của vị chủ tịch ngân hàng trung ương Đức, một thiết kế đương đại nổi bật được bảo vệ kỹ lưỡng và được bao quanh bởi hàng chục cây sồi cổ thụ 200 năm tuổi nằm ở thị trấn nhỏ đầy quyến rũ Kronberg, cách Frankfurt khoảng 40 phút lái xe. Thật may mắn, không giống như Frankfurt, Kronberg đã tránh được những trận bom của không quân đồng minh vào cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ II.

Mặc dù “cuộc chiến” với Thủ tướng vẫn đang tiếp diễn nhưng khi tôi đến, tinh thần của Po..hl vẫn rất tốt. Sau khi trao đổi về tình hình cộng đồng quốc tế trong lúc uống nước, tôi quyết định khéo léo nêu vấn đề với vị chủ tịch ngân hàng trung ương, người mà vào lúc đó là nhà hoạch định chính sách quan trọng nhất của châu Âu. Tôi bắt đầu: “Karl Otto này, nếu tôi nói sai thì ông hãy sửa cho tôi nhé, nhưng chẳng phải là năm 1946, kinh tế nước Đức đã nhanh chóng phục hồi trở lại ngoài sự mong đợi của mọi người hay sao? Vậy tại sao điều đó lại không thể xảy ra với Đông Đức hiện nay? Liệu có một phép màu thứ hai cho nền kinh tế Đức không?”.

Câu trả lời của Po..hl liên quan nhiều đến lý do tại sao các nền kinh tế lại cần một “loài sinh vật” đặc biệt, đó chính là các doanh nhân khởi nghiệp. Ông bắt đầu: “Trong mọi xã hội đều có 15 đến 20% những người thuộc nhóm đầu; bao gồm các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý lỗi lạc và quan trọng nhất là những người chấp nhận mạo hiểm có tầm nhìn xa. Ông nói đúng: Năm 1946, trái với mong đợi của Anh và Mỹ, nhóm người tài năng này sau chiến tranh đã đem đến cho nước Đức một phép màu kinh tế thứ nhất dưới thời của Bộ trưởng Kinh tế Ludwig Erhard. Những người ưa mạo hiểm không có chỗ nào khác để đi, nhưng ngày nay thì khác. Khoảnh khắc Bức tường Berlin sụp đổ, nhóm người sục sôi nhiệt huyết trong xã hội Đông Đức ngay lập tức tràn sang biên giới, hoàn toàn tin tưởng rằng họ có thể cạnh tranh ở Tây Đức và ngay lập tức kiếm được gấp 10 đến 20 lần so với thu nhập hiện tại của họ. Họ để lại sau lưng những người ít tài năng hơn, sống phụ thuộc hơn và sợ hãi hơn. Những người này thiếu khả năng tự mình xây dựng lại nền kinh tế. Và bằng việc chuyển đổi tiền tệ theo tỉ lệ 1:1, Kohl sẽ làm cho toàn bộ nền kinh tế Đức chậm lại hàng thập kỷ”. Do hiệu quả của nền kinh tế Đức tương đối kém cho tới thời gian gần đây, bị kéo chậm lại bởi khu vực Đông Đức nên hóa ra Po..hllại đúng (mặc dù một vài nhà phân tích cho rằng cuối cùng vấn đề thực sự là việc tăng mức lương cho khu vực Đông Đức).

Phân tích của Po..hl cơ bản cho thấy trong bất cứ một tổ chức nào, bộ phận tinh hoa đều có xu hướng nằm tại phần “đỉnh” của nó. Điều này gợi cho tôi nhớ đến một câu hỏi mà tôi đã từng đặt ra cho một người bạn của mình, một nhà tư vấn quản lý mạnh mẽ người New York. “Bí quyết để trở thành một nhà lãnh đạo tuyệt vời là gì?”, tôi tình cờ hỏi một người sau một bữa ăn trưa. Anh ấy trả lời một cách thô thiển: “Là phải biết chấp nhận những thứ rác rưởi chứ gì nữa!”. Anh ấy giải thích rằng: một triết lý nổi tiếng mà các nhà quản lý đều biết là mọi tổ chức đều gồm khoảng 80% những người có thành tích từ kém cỏi tới trung bình, và 20% còn lại là những người tài năng, rải rác trong tổ chức, những người mang lại những thay đổi đầy sáng tạo, những tiến bộ trong sản xuất, nói chung là những người tạo ra sự khác biệt giữa thành công và thất bại”. Và anh kết luận: “Là một nhà quản lý, nếu bạn không thể chấp nhận những thứ rác rưởi và những điều không vừa ý, thì bạn sẽ tạo ra một cuộc nội chiến cho chính bản thân mình. Vì vậy bí quyết ở đây là ủng hộ nhóm người tài năng đó, cho phép họ hoạt động hiệu quả cao mà không làm tổn thương đến những người khác”.

Cựu CEO tập đoàn Goldman Sachs Henry Paulson, người sau đó trở thành bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ, từng có một nhận xét tương tự trong thời kỳ ông còn là nhà lãnh đạo của tập đoàn đầu tư danh tiếng đó. Trong phiên chất vấn tại Hội nghị Salomon Smith Barney[27] tháng 1 năm 2003, ông đã nói “Có 15 đến 20% số người (tại Goldman Sachs) thực sự đóng góp 80% giá trị. Tôi nghĩ chúng ta có thể cắt giảm một số lượng tương đối [lao động] và không cần phải gồng mình lên mà vẫn có được vị trí cao để tiếp tục phát triển”. Phát biểu này đã tạo ra một cuộc tranh cãi gay gắt mà giới báo chí đã chộp ngay lấy, ngay sau đó Paulson đã xin lỗi qua hệ thống thư thoại của công ty. Một người khôi hài sau đó đã nói rằng Paulson không cần phải xin lỗi vì tại tập đoàn siêu cạnh tranh Goldman Sachs “tất cả mọi người đều nghĩ họ nằm trong số 20% đó cho nên không ai thực sự buồn vì những gì Hank đã nói”.

Sự chú trọng vào một bộ phận đặc biệt của xã hội này ban đầu dường như là sai và bất công, nhất là ở một nước như Mỹ nơi mà mọi thứ được cho là “sinh ra đều bình đẳng” - và đặc biệt là trong thời điểm vấn đề giai cấp đang phát triển. Hơn nữa, tôi có cảm giác rằng khi bỏ mặc cho họ tự xoay sở thì những thành phần tinh hoa này thường xử lý mọi việc rất kém, cho dù là ở Việt Nam hay Iraq. Là một phóng viên chuyên mục rất bảo thủ, William F. Buckley từng châm biếm: “Tôi thà bị quản lý bởi 200 người đầu tiên trong danh bạ điện thoại của Boston còn hơn là bởi những thành viên của trường Harvard”.

Mặt khác, ý kiến cho rằng nhóm những nhà lãnh đạo doanh nghiệp ưa mạo hiểm là một tập hợp liên tục thay đổi đang ngày càng trở nên thuyết phục hơn. Một điều hấp dẫn hơn là những người ưa mạo hiểm luôn được đánh giá theo tài năng[28], cả những thành công và thất bại khi họ cùng nhau thực hiện những cách tân, thúc đẩy nền kinh tế tiến về phía trước, liên tục đổi mới trong quá trình phát triển kinh tế. Trong cái nôi của các hoạt động kinh tế, của thành công và thất bại này, cơ hội để trở thành thành viên (của nhóm những doanh nhân chấp nhận rủi ro - ND) luôn rộng mở đối với bất cứ ai có sự can đảm và một ý tưởng mới.

Robert Litan thuộc Viện Brookings và Quỹ Kauffman đã cố gắng định lượng tình hình doanh nghiệp ở Mỹ. Ông phát hiện ra rằng: Khoảng nửa triệu người Mỹ thành lập công ty mỗi năm và khoảng 10 đến 15% những người trong độ tuổi lao động tham gia vào một hoạt động lèo lái doanh nghiệp nào đó, một bộ phận trong số những người này là những nhà cải cách, những người giữ vai trò quan trọng nhất. Gần đây, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ (Small Business Administration) cho biết 672.000 công ty mới đã khai trương vào năm 2005, nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ. Rõ ràng là ở một thời điểm trong những năm 1980 một sự chuyển đổi mô hình đã diễn ra, tạo điều kiện cho sự năng động đầy tính bùng nổ này. Chế độ đãi ngộ nhân tài doanh nghiệp này đã kích thích nền kinh tế Mỹ phát triển như vũ bão.

Trên thực tế, cho đến vài thập kỷ gần đây, cái mác “doanh nhân” (entrepreneur) ám chỉ một điều gì đó rất nham hiểm. Người ta cho rằng các doanh nhân là những người chiến thắng trong một cuộc chơi kẻ thắng người thua không mang lại lợi ích cho xã hội (zero-sum game: cuộc chơi có tổng bằng không), để cho những người thua cuộc trong nền kinh tế rơi tự do trong thất bại. Họ là những kẻ độc ác, những người mà chỉ bằng sự liều lĩnh mạo hiểm đã hớt mất những phần béo bở nhất của hệ thống tư bản thị trường tự do.

Những gì mà 25 năm qua đã thể hiện lại hoàn toàn là những điều ngược lại. Một tác giả bảo vệ toàn cầu hóa người Thụy Điển là Johan Norberg lập luận rằng các doanh nhân chẳng làm gì ngoài việc “làm cho cuộc sống của chúng ta đầy ắp những điều kỳ diệu”. Norberg chỉ ra: “Nếu bạn sống cách đây vài trăm năm, bạn sẽ thức dậy vào mỗi buổi sáng mà không có điện, không có nước máy hay thậm chí còn không có cả hệ thống vệ sinh trong nhà. Bạn sẽ không có ô tô, xe buýt hay tàu hỏa và không có cả thuốc kháng sinh. Bạn sẽ mất hàng thập kỷ để làm những việc mà máy tính có thể làm trong vài giây. Bên cạnh đó, bạn sẽ thọ không quá 40”.

Đó là lý do tại sao nếu phải lựa chọn giữa việc được làm vua Louis XIV của nước Pháp vào cuối thế kỷ XVII và làm một người dân trung lưu ở Mỹ hiện nay thì tôi sẽ chọn cái thứ hai. Sự sẵn có của thuốc kháng sinh và các công nghệ truyền thông mới - chưa nói đến sự giàu có mà nền văn hóa đã đem lại thông qua các phương tiện truyền thông điện tử - sẽ giúp tôi dứt khoát quyết định như vậy.

Dựa vào những gì mà các doanh nhân đã làm để cải thiện cuộc sống của chúng ta, chúng ta nên đề cao hơn là bêu riếu họ. Họ là những người tìm ra giải pháp cho những vấn đề gây rủi ro cho xã hội, những người tìm kiếm những cơ hội mới mặc dù việc đó dường như là không thể hoặc rất ít khả năng có thể thực hiện được. Theo như Norberg đã gọi thì họ là “những nhà thám hiểm, mạo hiểm bước vào vùng đất chưa được biết tới, và mở ra những con đường mới mà tất cả chúng ta sẽ sớm đi qua”.

Các doanh nhân thường kinh doanh trên những ý tưởng mang tính cách mạng, mà đôi khi đối với chúng ta những ý tưởng này dường như hết sức điên rồ. Tôi nhớ đến Chester Carlson, người mà cuối những năm 1930 đã khẳng định được bản thân mình bằng một ý tưởng dường như điên rồ đối với những người khác - quy trình in bằng tĩnh điện - quy trình mà ông đã cố bán cho các công ty máy in roneo hàng đầu ở Mỹ. Bị từ chối hết lần này đến khác, cuối cùng ông đã chuyển căn bếp của mình thành xưởng và tự kinh doanh. Ông đã phải nếm trải rủi ro và thiếu vốn nhưng doanh nghiệp nhỏ bé của ông đã sống sót được qua cơn hoạn nạn và phát triển thịnh vượng.

Ngày nay chúng ta biết đến doanh nghiệp đó của ông với cái tên Xerox!

Nếu Carlson còn sống, có lẽ ông ấy sẽ hỏi: “Những công ty máy in roneo thiển cận và tự mãn đó đã trở thành cái quái gì nhỉ?”. Câu trả lời là họ đã trở thành nạn nhân của cái mà Joseph Schumpeter, nhà lý luận kinh tế gọi là “sự phá hủy sáng tạo”[29] của lực lượng sản xuất - quá trình mà nhờ nó một ý tưởng mới bước vào thị trường, khiến cho tài sản, lực lượng sản xuất hiện đang tồn tại trở thành vô giá trị. Điều mà nghe có vẻ như là một quy trình bí ẩn, khó hiểu lại là trung tâm của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Cứ năm trong sáu doanh nghiệp non trẻ sẽ phá sản, chủ yếu là ngay trong năm đầu tiên với rất nhiều doanh nghiệp mới khác thế chỗ họ. Ở Hoa Kỳ, ở Frost Belt hay Sun Belt, các doanh nghiệp như vậy cũng thất bại với tỷ lệ gần như tương tự.

Chu trình thành công và thất bại này đã đưa ra một minh họa trực quan hoàn hảo. Bí quyết để duy trì được một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ không chỉ tập trung vào những nỗ lực để hiện đại hóa các nhà máy và thiết bị hiện có. Bí quyết ở đây là sự sáng tạo, cho phép các công ty mới thành lập với những ý tưởng mới có thể phát triển, trong khi các công ty hiện hữu phải nỗ lực tự làm mới mình để cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu.

Bí quyết nằm ở một hệ thống toàn cầu của thị trường tự do và sôi động. Nó tồn tại trong các doanh nghiệp chưa thành lập, những nguồn năng lượng chưa được khai thác và những phát minh chưa được thử nghiệm. Rất nhiều doanh nhân khởi nghiệp đã thất bại, nhưng những người khác - như Chester Carlson, với bản năng kinh doanh độc đáo - sẽ thay thế lực lượng sản xuất và các sản phẩm hiện nay bằng lực lượng sản xuất và các sản phẩm tốt hơn vì lợi ích của tất cả chúng ta. Và Xerox hiện nay ở đâu? Dường như nó không còn tồn tại bởi vì cuối cùng nó đã không thể tham gia vào quá trình đổi mới liên tục trong khi các công ty cạnh tranh hơn đã xuất hiện trên thị trường. Trên thực tế, Xerox đã phát minh ra cái gọi là con chuột máy tính nhưng đã không nhìn thấy tiềm năng của nó và vì thế không bao giờ được hưởng lợi từ chính phát minh của mình.

Nhiều nhà hoạch định chính sách ở Mỹ, và thậm chí các nhà hoạch định chính sách của châu Âu và Nhật Bản với số lượng đông đảo hơn, đều nhận thấy rằng chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp đang rất lúng túng. Một lý do có thể là thật khó để đại diện về mặt chính trị cho lợi ích của một thực thể chưa tồn tại, hay một doanh nghiệp non trẻ còn đang chật vật kinh doanh, gần như không có tên tuổi gì trong nền kinh tế. Nhưng cũng có thể nó là kết quả của một tâm trạng thất vọng tràn trề đối với khả năng không thể dự đoán được, sự thiếu khả năng kiểm soát quy trình doanh nghiệp. Thật khó có thể cung cấp một “tấm chăn” an ninh kinh tế toàn diện trong một xã hội doanh nghiệp. Chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp tham gia vào quy trình sôi nổi của hai lực lượng cạnh tranh - thành công và thất bại. Và có lẽ bất lực nhất là nó tiếp tục phụ thuộc trực tiếp vào việc thực hiện một cách sáng tạo các ý tưởng mới của các cá nhân, những người mà trong mắt của giới thượng lưu là những người không tinh tế và thiếu kinh nghiệm.

Tôi nhớ đã xem Ted Turner xuất hiện trên CNN vào một buổi sáng của những ngày đầu khi đài CNN mới thành lập để giải trình trước Quốc hội. Với giọng nói miền Nam kéo dài và nặng, Turner xuất hiện như một người quê mùa cục mịch với đôi mắt hoang dã chứ không phải là một tỷ phú linh lợi như danh tiếng về sau của ông. Một đám nhân viên Thượng viện vô danh, ngồi phía sau các sếp của họ (các Thượng nghị sỹ - ND) trong phiên điều trần, đã cười nhạo cách cư xử thiếu tinh tế và công ty mới thành lập một cách táo bạo của Turner. Giờ đây ai mới là những kẻ ngốc nghếch?

Các doanh nhân có xu hướng dường như hơi “điên khùng”. Họ là những người mơ mộng không logic, thậm chí mặc dù rất nhiều người được thừa hưởng một tài năng bẩm sinh cho thành công. Dù sao họ cũng là những người tạo ra công việc và của cải chính trong xã hội chúng ta. Tuy các doanh nhân có thể là điên khùng, họ khùng nhưng… khôn[30]!

Phần lớn trong số họ đánh giá thấp các rủi ro. Một số người lại đánh giá quá cao một cách hấp tấp về cơ hội thành công của họ. Họ phải làm như vậy. Nếu không, họ sẽ không dám thử. Tuy nhiên, là những người liều lĩnh của xã hội, họ phải chấp nhận rủi ro rất cao - cao hơn nhiều so với một người điều hành doanh nghiệp trung bình - để có thể nhận về những phần thưởng lớn về tâm lý và tiền bạc. Ở trung tâm của nền kinh tế mới được toàn cầu hóa hiện nay tồn tại một quan niệm rằng mỗi cá nhân đều là một doanh nhân tiềm năng, có nghĩa là việc trở thành doanh nhân không bị giới hạn bởi địa vị xã hội hay sự giàu có. Lưu ý rằng đây không đơn giản là sự hình thành vốn mà là sự huy động vốn. Vốn không chỉ là tiền. Vốn là khả năng sản xuất và vì thế vốn tồn tại trong tâm trí, bàn tay và trái tim của mọi người. Thách thức đối với các nhà

hoạch định chính sách là làm thế nào để khuyến khích những người tạo ra công việc và của cải đầy tiềm năng này chấp nhận những rủi ro ngay từ đầu.

Trong những năm gần đây, vai trò của doanh nhân trong các nước công nghiệp đã trải qua một thời kỳ chuyển giao. Trước đây không lâu, các doanh nghiệp phương Tây bắt đầu dựa vào máy tính để thực hiện các nhiệm vụ mà con người từng làm, từ sự phát triển của hệ thống chuỗi cung cấp hàng hóa và dịch vụ tới việc quản lý hàng hóa tồn kho. Nhưng với sự xuất hiện của thị trường giá rẻ Trung Quốc và Ấn Độ thì chỉ tính hiệu quả không thôi chưa đủ để đảm bảo thành công.

Thay vào đó, yếu tố thiết yếu cho thành công hiện nay là một xu hướng cách tân vững chắc, bền bỉ. Harold Evans, tác giả cuốn sách Họ tạo ra nước Mỹ: Từ Động cơ hơi nước tới Công cụ tìm kiếm: Hai thế kỷ của những người cách tân[31] đã lưu ý rằng nếu bạn tìm kiếm trên Google từ “CEO” thì hiện nay sẽ có một kết quả đáng ngạc nhiên là số entry cho “CEO và sự đổi mới, cách tân” sẽ nhiều gấp đôi số entry cho “CEO và tính hiệu quả”. Evans nói: “Tương lai của chúng ta phụ thuộc vào sự đổi mới đầy sáng tạo. Đúng, chúng ta phải thực hiện và phát triển quá trình lãnh đạo bằng tính hiệu quả nhưng trong quá trình quản lý đó, đừng bao giờ làm mất đi tầm nhìn bao quát năng động, điều đã tạo nên sự đổi mới đầu tiên, nếu không sự nghiệp lãnh đạo chắc chắn sẽ tiêu tan”.

Thật khó để có thể nói điều gì thúc đẩy khu vực doanh nghiệp dám đương đầu với các rủi ro. Sẽ là sai lầm nếu nói rằng chỉ riêng chính sách thuế và tiền tệ cũng đã dẫn đến sự bùng nổ trong việc dám đương đầu với các rủi ro trong 25 năm cuối của thế kỷ. Bill Gates, trong quá trình phát triển công ty mới thành lập Microsoft trong những năm đầu của thập niên 80 đã phát triển lên nhờ một tầm nhìn táo bạo chứ không phải là nhờ những lời tư vấn thuế từ nhân viên kế toán của ông ta. Nói chung, các doanh nghiệp ban đầu không liều lĩnh chấp nhận rủi ro chỉ vì lợi nhuận có thể thu được. Họ làm việc đó vì việc đó phải được làm và trước đó chưa ai làm. Một vài người làm việc đó vì cái tôi. Cuối cùng các doanh nhân nhận ra rằng ý tưởng phải có tính kinh tế, cái mà cuối cùng có thể đem về rất nhiều của cải.

Năm 2006, Ngân hàng Thế giới đã công bố một nghiên cứu gây sửng sốt dưới nhan đề “Của cải của các quốc gia ở đâu?”, trả lời câu hỏi: Tại sao các nước công nghiệp hóa cao như Hoa Kỳ lại thành công về mặt kinh tế trong khi một số nước kém phát triển hơn với nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào lại có kết quả kém? Nói cách khác tại sao những người nhập cư vào Mỹ từ các nước đang phát triển lại đạt được hiệu suất lớn gấp 4 đến 5 lần so với hiệu suất mà họ đạt được nếu họ sống ở quê nhà? Bản nghiên cứu kết luận rằng sự khác biệt chính là nước Mỹ và các nước công nghiệp hóa khác được hưởng một lượng lớn “của cải vô hình”.

Tổng số của cải của một nền kinh tế không chỉ liên quan đến việc tổng hợp một danh sách các tài sản tài chính và tài sản vật chất của một nước. Của cải còn liên quan đến các tài sản vô hình như các quyền sở hữu, một hệ thống pháp lý hiệu quả và trung thực được hỗ trợ bởi các quy định pháp luật, một chính phủ có năng lực, một sự đánh giá cao và nuôi dưỡng vốn nhân lực, và tôi muốn đưa thêm vào đây sự thông cảm, thậm chí cả sự đánh giá cao khả năng sáng tạo và mạo hiểm của các doanh nghiệp, kết hợp với việc kiềm chế đấu tranh giai cấp. Nói cách khác, các tài sản vô hình bao gồm cái gì đó rất đơn giản như sự thông cảm của xã hội đối với những người dám mạo hiểm thành công và trở nên giàu có. Và trở nên giàu có là điều mà các doanh nhân thành đạt đã làm được.

Tuy nhiên, như lý thuyết về “con người kinh tế” chỉ phục vụ chính mình, lòng tham là chưa đủ để giải thích cho câu hỏi điều gì thúc đẩy các doanh nhân, và quan điểm tiền không quan trọng cũng vậy. Mức thuế, môi trường chính trị chung đối với các doanh nghiệp và rủi ro mới là điều quan trọng đáng kể. Điều này đặc biệt đúng vào các giai đoạn đầu của một công ty mới thành lập. Các doanh nhân mong rằng nếu họ kiếm được nhiều tiền, thì phần lớn số tiền đó sẽ không bị chính phủ thu mất. Đó là lý do tại sao việc chắp vá hệ thống toàn cầu mới này để làm cho nó có vẻ công bằng hơn, hoặc sử dụng hệ thống thuế sung công nhằm cố gắng tạo ra cảm giác an toàn hơn cho xã hội nói chung, lại có nguy cơ tạo ra những hậu quả không mong muốn[32]. Mỗi hành động chính sách đều có tiềm năng gây ra một phản ứng tiêu cực. Tại sao vậy? Bởi vì xét ở mọi khía cạnh thì các doanh nhân đều thích khả năng được lưu động. Tôi xin nêu ra một ví dụ tiêu biểu.

Ngôi sao nhạc rock Bono, ca sĩ chính của ban nhạc rock U2, nổi tiếng bởi những nỗ lực đầy tình nhân ái của mình. Các chuyên gia trong lĩnh vực giảm thiểu đói nghèo nói với tôi rằng Bono là một người có tấm lòng vàng. Anh là người có tất cả - của cải, vị trí cao trong làng nhạc rock và nhiều thứ khác. Nhưng trái tim anh lại rỉ máu vì một châu Phi đang bị căn bệnh thế kỷ AIDS hoành hành và vì nỗi thống khổ mà những người nghèo trên khắp thế giới đang phải hứng chịu. Một ngôi sao lớn trong ngành công nghiệp giải trí nổi tiếng với những kích thích của chủ nghĩa hưởng lạc cũng không đánh mất linh hồn mình.

Tuy nhiên, trước sự ngạc nhiên của toàn thế giới, người quản lý kinh doanh của anh đã tuyên bố rằng Bono sẽ chuyển một phần hoạt động kinh doanh của mình từ Ireland, nơi đã tăng thuế đối với ngành kinh doanh giải trí sang Hà Lan, nơi mà mức thuế đối với những khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động nghệ thuật so với ở Ireland là thấp. Bono thấy hấp dẫn bởi tỉ lệ lợi nhuận thu được từ sự mạo hiểm lớn hơn. Anh bất ngờ đối mặt với một nước Hà Lan với tinh thần doanh nghiệp đang cố tạo dựng cơ sở trong giới giải trí. Mà con người đó có lẽ là hình tượng vĩ đại nhất của Ireland đối với thế giới.

Nếu Bono làm như vậy với đất nước Ireland thân yêu của mình thì liệu các chính trị gia trong cuộc đấu tranh giai cấp ở Washington có thể chắc rằng đa phần doanh nhân Mỹ sẽ không chuyển ra nước ngoài tìm kiếm những địa điểm tốt hơn để thực hiện việc kinh doanh và tạo ra của cải - hoặc một nơi để thư giãn - trong trường hợp có những thay đổi lớn bắt nguồn từ cuộc chiến tranh giai cấp xảy ra với môi trường hiện tại của Mỹ không? Tôi nghi ngờ rằng các nhà hoạch định chính sách kinh tế cạnh tranh ở những nơi khác trên thế giới cũng sẽ gần như không phản đối. Đây là lý do tại sao các nhà hoạch định chính sách Mỹ nên tiếp cận hiện tượng không bền vững của giới doanh nghiệp một cách cẩn trọng, với một sự cảnh giác và nhạy bén cực độ. Còn đây là một sự châm biếm thậm chí còn lớn hơn. Vào tháng 4 năm 2008, Chính phủ Công Đảng Anh đã công bố một bản tổng hợp về khả năng cạnh tranh của hệ thống thuế Vương quốc Anh. Lý do là: một số các công ty lớn của Anh đã tuyên bố rằng họ sẽ chuyển trụ sở của mình sang Ireland, bởi sức hấp dẫn của mức thuế doanh nghiệp thấp hơn tại nước này.

Diễn biến mới nhất về thuế của Anh là nỗ lực nhằm bắt những cư dân không phải là người gốc Anh đóng thuế cho những khoản đầu tư nước ngoài (hoặc đóng cho chính phủ một khoản phí hàng năm là 70.000 đô la để khỏi phải khai báo thuế). Tuy khoản phí đó chẳng là gì với một tay trùm dầu khí Nga đang sống ở London, nhưng nó có thể làm nản lòng những nhà quản lý trung, cao cấp của các công ty nước ngoài đặt tại Vương quốc Anh. Kết quả là không chỉ các công ty này mà thậm chí còn nhiều công ty khác nữa cũng có kế hoạch bỏ đi nước khác. Đặc biệt trong các nền kinh tế công nghiệp hóa theo định hướng dịch vụ, thì tính lưu động là điều đương nhiên. Nỗ lực của chính phủ Anh nhằm sửa chữa luật thuế đã tạo ra một hiệu ứng tâm lý tiêu cực trong việc thay đổi thái độ của thế giới đối với nước Anh như là một trung tâm của tài chính thế giới. Và trong tương lai đâu là những địa điểm thay thế? Nhiều chuyên gia đã liệt kê theo khả năng từ trên xuống như sau: (1) Ireland, (2) Thụy Sĩ, (3) Singapore.

Mong các bạn đừng hiểu lầm ý của tôi. Không phải mức lương cao của các nhà điều hành doanh nghiệp đều công bằng. Có điều gì đó bất ổn khi các nhà điều hành cao cấp đã thất bại như Robert Nardelli, cựu lãnh đạo của công ty Home Depot, Inc., bị sa thải với một khoản tiền đền bù hợp đồng là 210 triệu đô la. Điều này thể hiện một sự thất bại hoàn toàn và tuyệt đối của việc kiểm soát bộ máy lãnh đạo công ty (corporate board governance). Mức độ hào phóng quá mức trong việc bồi thường cho các lãnh đạo ở các công ty đại chúng là một điều đáng hổ thẹn đối với hầu hết hội đồng quản trị. Lòng tham vô đáy làm tổn hại lợi ích của các cổ đông này đã hủy hoại nghiêm trọng sự ủng hộ chính trị đối với hệ thống tư bản thị trường.

Và điều này đã tạo nên một sự ngập ngừng, rằng một doanh nghiệp mới thành lập chưa được thử thách nhưng có tiềm năng vẫn có thể cổ phần hóa trong các thời kỳ tín dụng thừa và thị trường chứng khoán đi lên, thu về những khoản lợi nhuận hàng trăm triệu đô la. Điều này đặc biệt đúng khi so sánh với ban quản lý cấp cao của một công ty đã được thử thách qua thời gian dài, đưa ra những quyết định khôn ngoan để duy trì mức độ việc làm ổn định, dẫn dắt công ty phát triển đi lên trong hàng thập kỷ, mà chưa bao giờ thấy bất cứ một vận may bất ngờ về mặt tài chính như vậy. Với chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp, nhiều khi hệ thống kinh tế như một cuộc xổ số lớn và bất công.

Tuy nhiên, vấn đề là trong nền kinh tế doanh nghiệp ở mức độ cao, thật khó nếu như không muốn nói là không thể quản lý vi mô (micromanage) sự phân phối của cải mà không có những ảnh hưởng tiêu cực. Xét ở mức độ nào đó thì hệ thống phải chấp nhận, với một mức độ nhất định, sự bất công trong phân phối với một mục tiêu lớn hơn là tạo ra một sự bùng nổ trong việc làm ra nhiều của cải, tạo ra nhiều việc làm hơn và giảm thiểu được đói nghèo trên diện rộng. Theo quan điểm của tôi, mô hình chủ nghĩa tư bản với tinh thần doanh nhân rất xứng đáng với một sự “đánh đổi” như trên bởi vì nó mang đến tiềm năng tạo ra cơ hội tại mọi bậc thang thu nhập[33].

Bằng cách nào? Nền kinh tế doanh nghiệp của sự đổi mới liên tục, hình thức trong sáng nhất của chế độ đãi ngộ nhân tài, theo định nghĩa đã nâng những người ưa mạo hiểm lên hoặc hạ họ xuống trong thang thu nhập trong môi trường vận động hỗn độn vô cùng khắc nghiệt, nơi mà những người đứng đầu không giữ được vị trí đó lâu. Hãy nhìn lại danh sách 400 người Mỹ giàu nhất và ngành mà họ đại diện trong năm 1980 theo tạp chí Forbes. Rất nhiều người và ngành trong danh sách năm 1980 đã biến mất khỏi danh sách năm 2006.

Có một hiện tượng tương tự xảy ra với Forturne 500, danh sách những công ty hàng đầu của Mỹ. Vào những năm 1960 và những năm 1970, trung bình một năm chỉ có 20 công ty bị loại ra khỏi bảng xếp hạng Forturne 500. Đến những năm 1980, con số đó là 40 công ty một năm. Từ năm 1990 đến 1995, 200 công ty đã bị thế chỗ. Và trong nhóm 100 công ty đứng đầu trong bảng xếp hạng năm 2005, gần ba phần tư số công ty này không nằm trong bảng xếp hạng năm 1980 (mặc dù một phần nhỏ vẫn tồn tại thông qua việc sáp nhập, dưới những cái tên công ty khác).

Sự thật là, chỉ khi tư bản lưu động trên khắp thế giới để tìm kiếm lợi nhuận cao nhất tương đối an toàn, thì các doanh nhân toàn cầu mới được hưởng khả năng lựa chọn địa điểm hoạt động dựa trên các điều kiện pháp lý và quy định, cũng như dựa trên mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Các nhà hoạch định chính sách hiện nay không nhận ra rằng trong nền kinh tế mới, nơi mà các dịch vụ chiếm một khối lượng lớn các hoạt động kinh tế, con người và các thể chế có tính lưu động rất cao. Hai thế kỷ trước, Adam Smith có thể là người đầu tiên nhận thấy hiện tượng này:

Đất là một chủ thể không thể di chuyển; trong khi đó chứng khoán thì có thể. Người sở hữu đất nhất thiết phải là một công dân của một nước cụ thể nơi mà có khu đất đó. Người sở hữu chứng khoán là một công dân trên thế giới, không nhất thiết phải gắn với một đất nước cụ thể. Anh ta dễ có khuynh hướng từ bỏ đất nước nơi mà anh ta phải chịu những yêu cầu gây bực mình và bị áp thuế nặng nề và sẽ chuyển chứng khoán của mình sang một nước khác nơi mà anh ấy có thể hoặc là tiếp tục công việc kinh doanh của mình hoặc là tận hưởng số của cải của mình một cách dễ chịu hơn. Bằng cách chuyển chứng khoán của mình, anh ta đặt dấu chấm hết cho tất cả các ngành công nghiệp vẫn được duy trì ở đất nước mà anh đã rời bỏ. Chứng khoán vun xới đất; chứng khoán thuê nhân công. Cho đến nay khoản thuế nào có xu hướng đẩy chứng khoán ra khỏi bất cứ một đất nước cụ thể nào đó sẽ đều có xu hướng làm cạn kiệt mọi nguồn thu nhập cho cả chính phủ và xã hội. Không chỉ lợi nhuận của chứng khoán mà cả việc thuê đất và mức tiền công lao động cũng sẽ nhất thiết bị giảm bớt không ít thì nhiều do sự chuyển dời của nó.

Hãy xem xét tác dụng phụ từ vụ việc của tập đoàn của Enron. Phản ứng với sự sụp đổ của Enron và các vụ bê bối khác, Quốc hội Mỹ trong năm 2002 đã ban hành một đạo luật cải cách doanh nghiệp, được biết đến với cái tên là đạo luật Sarbanes-Oxley. Đạo luật này dựa trên niềm tin rằng các thị trường vốn của Mỹ chỉ có thể duy trì được vị trí vượt trội trên toàn cầu nếu những cải cách chính được thực hiện. Nỗ lực đó đã mang lại kết quả ngược với mong đợi. Khi ý niệm về những cải cách rất có ý nghĩa thì việc thực hiện lại rất vụng về, đòi hỏi hàng núi các công việc giấy tờ mới. Luật đòi hỏi các CEO phải “xác nhận” sổ sách kế toán của họ, có nghĩa là nếu những lỗi nghiêm trọng bị phát hiện ở bộ phận kế toán thì CEO phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tiền thân của Đạo luật Sarbanes-Oxley ở Vương quốc Anh là Ủy ban Cadbury, vốn đi theo một cách tiếp cận ít hà khắc hơn đối với quản lý doanh nghiệp[34], trong các khuyến nghị năm 2002. Cách tiếp cận của nước Anh đã đặc biệt thành công trong việc không “hắt đứa trẻ ra ngoài cùng với nước tắm”[35], bằng cách đạt được một sự đồng thuận trên diện rộng đối với các cơ cấu doanh nghiệp, theo đó vai trò của Chủ tịch hội đồng quản trị được tách khỏi vai trò của Giám đốc điều hành.

Không có gì đáng ngạc nhiên, với sự ra đời của Đạo luật Sarbanes-Oxley ở Mỹ, London đã trở thành trung tâm tài chính được yêu thích của thế giới, New York trở thành kẻ thất bại. Trên thực tế những người ủng hộ cho Đạo luật Sarbanes-Oxley cố gắng cho rằng sự cạnh tranh về giá cả và sự phát triển mạnh mẽ trong các thị trường là nguyên nhân tạo ra sự dịch chuyển sang London. Đó có thể là một phần nguyên nhân, nhưng khi xem xét việc trùng khớp về thời điểm một cách kỳ lạ và quy mô lớn của việc chuyển dịch ra khỏi New York thì lập luận cho rằng Đạo luật Sarbanes-Oxley không có trách nhiệm gì có vẻ như là một sự nhân nhượng lớn!

Điểm mấu chốt là phản ứng của chính phủ đối với các vụ bê bối của thời kỳ Enron, khi mà hàng nghìn người hưởng lương hưu mất đi tương lai của mình, là rất quan trọng. Vấn đề là Đạo luật Sarbanes-Oxley, phương thuốc đầy thiện chí của Washington hướng tới việc sửa chữa các vấn đề đã tạo ra hậu quả không định trước có thể giết chết bệnh nhân. London giờ đây đã chắc chân trong thế giới tài chính, thế giới mà hầu như đã không giúp được gì cho đồng đô la của Mỹ dưới áp lực bị suy yếu.

Rốt cuộc, thất bại bắt nguồn từ việc không thể nhận ra rằng những người ưa mạo hiểm (những doanh nhân-ND) là những người có xu hướng dịch chuyển. Trong hệ thống toàn cầu hiện nay, họ có thể đưa công ty mới thành lập của họ ra sàn chứng khoán London dễ dàng như ra sàn chứng khoán New York. Hoặc có thể thậm chí còn ra cả Hong Kong. Đó là lý do tại sao việc đặt ra rào cản về mặt quy chế hoặc những biện pháp điều chỉnh khác về tỷ lệ lợi nhuận - rủi ro, trong khi đáng ra phải làm sao để đem lại một cảm giác dễ chịu của sự công bằng và an toàn, có thể tạo ra những rắc rối đáng sợ và nhanh chóng. Đó là lý do tại sao mà về một khía cạnh đáng quan tâm, các doanh nhân lại rất nguy hiểm.

Họ nguy hiểm đối với sự nghiệp của các nhà chính trị, những người coi bản chất hay trốn tránh, khó nắm bắt của khu vực sáng tạo doanh nghiệp của chúng ta là điều đương nhiên và không suy nghĩ thấu đáo trước khi đưa ra những thay đổi vội vàng về pháp lý, quy định hoặc thuế. Họ nguy hiểm đối với những nhà hoạch định chính sách trong các nước công nghiệp, những người không hiểu được rằng các nền kinh tế, từ góc nhìn của doanh nhân, đang cạnh tranh trong cuộc chiến toàn cầu về ý tưởng và sự sẵn sàng đương đầu với mạo hiểm, ở đó không có một điểm nghỉ chân nào cho những người kiệt sức hoặc thậm chí cả những người đã thành công rực rỡ trong quá khứ. Ở mọi thời điểm các doanh nhân có thể lựa chọn và đem những sáng kiến đầy sáng tạo của họ đi đến bất cứ nơi nào và họ sẽ được hoan nghênh với những vòng tay rộng mở ở hầu hết các nước trên thế giới.

Theo một nghĩa cơ bản hơn, vấn đề ở đây là: quy trình chính trị chỉ đáp lại những thực thể có thể xác định rõ ràng về bản thân và nhu cầu của họ, những thực thể có khả năng vận động hành lang mà thôi. Trong trường hợp này, bạn không thể đổ lỗi cho các chính trị gia bởi vì việc ra đời hay sự đổi mới của một doanh nghiệp liên quan đến một tính chất khó nắm bắt và hầu như trừu tượng không thể đoán trước được, khiến cho việc đặt mục tiêu và lập kế hoạch trở nên khó khăn. Các phát minh xuất hiện ở những nơi và từ những nguồn không ai ngờ tới. Một thứ phổ biến và cần thiết như chiếc bút bi lại được sáng tạo ra bởi một giám đốc công ty bảo hiểm trong kỳ nghỉ hè của anh ta. Một ví dụ khác, hộp số tự động lại được phát minh bởi một nhà cung cấp đang gặp khó khăn trong kinh doanh, chẳng dính dáng gì tới các cơ sở chế tạo hùng mạnh và hào nhoáng của ngành công nhiệp ô tô ở Detroit cả.

Tất cả những gì mà các nhà hoạch định chính sách có thể làm để thiết lập một môi trường doanh nghiệp năng động (bên cạnh việc cung cấp một hệ thống giáo dục và đào tạo tốt nhất có thể cho các công dân của mình; cũng như khả năng tiếp cận nguồn tín dụng một cách công bằng) là cung cấp một môi trường sôi nổi về kinh tế - tránh các rào cản về mặt pháp lý, thuế và các quy định có thể cản trở các cá nhân theo đuổi ước mơ của mình - đồng thời tránh để xảy ra bất cứ một dấu hiệu nào của xung đột giai cấp. Đó là lý do tại sao trước khi đưa ra những thay đổi về chính sách, các nhà hoạch định chính sách nên luôn luôn phải trả lời câu hỏi kiểm tra sau đây: Với hành động theo đề nghị của tôi, liệu tôi có làm hại đến môi trường, tinh thần chấp nhận rủi ro của các doanh nghiệp, điều rất cần thiết để tiếp tục duy trì lợi thế của nền kinh tế toàn cầu không?

Ngày nay, cuộc đua quốc tế đang chuyển qua việc phát triển các ý tưởng cạnh tranh mới, những ý tưởng cho phép các công ty đang tồn tại tự làm mới mình và các công ty mới thành lập phát triển thịnh vượng giữa những thay đổi toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ. Trong môi trường này, sẽ là hoàn toàn điên rồ khi các chính trị gia can thiệp sai lầm vào khu vực doanh nghiệp, nhưng đó là những gì mà họ đang làm một cách tình cờ, không chủ ý. Nước Mỹ, nơi mà nền văn hóa chính trị đang ngày càng bị điều khiển bởi những lo lắng đối với những cuộc khủng hoảng kinh tế và mức lương thực tế đang giảm đi, đang cân nhắc việc cố gắng luật hóa hoặc điều tiết một kỷ nguyên mới của an ninh kinh tế. Đánh giá theo những lời lẽ của giới chính trị hiện nay thì rất nhiều nhà lãnh đạo dường như đang coi kỷ nguyên của cơ hội và thịnh vượng trước đây là một điều đương nhiên, như thể là việc chấp nhận đương đầu với thử thách của các doanh nhân như là một thác nước vô tận. Đó là một giả định cực kỳ mạo hiểm.

Là một người từng tham gia vào giới chính trị, tôi phải nhắc nhở chính bản thân mình rằng nền kinh tế toàn cầu và hệ thống tài chính toàn cầu không thể dễ dàng bị kiểm soát hoặc quản lý, kể cả bằng các chính sách thuế. Đặc biệt, nền kinh tế Mỹ không phải là một hòn đảo. Điều sẽ xảy ra ở một nơi nào đó trên thế giới không chỉ ảnh hưởng tới riêng vùng đó. Điều đó bao gồm cả các sự kiện kinh tế và tài chính đang diễn ra ở Trung Quốc, một đất nước đang nằm ở trung tâm của cơn bão toàn cầu. Trong chương tiếp theo, tôi sẽ trình bày tại sao không có điều gì về Trung Quốc - một vạc dầu đang sôi sùng sục - có thể được cho là chắc chắn một cách tuyệt đối. Thực ra, với sự bất ổn về tài chính, chính trị và xã hội đang dần bộc lộ của mình, Trung Quốc có lẽ là trường hợp thuyết phục nhất để khẳng định rằng thế giới không hề phẳng. Nếu tính minh bạch là chìa khóa cho sự ổn định lâu dài của các thị trường tài chính toàn cầu thì chúng ta thực sự biết những gì về tương lai của Trung Quốc?

Báo cáo nội dung xấu