Thế Giới Cong - Chương 04
4. Quyền lực ngầm cưỡi rồng Trung Quốc
Vào giữa thập niên 70 khi tôi mới đến Washington, rất nhiều nhà hoạch định chính sách đã rỉ tai nhau về một người tên là Herman Kahn. Anh ấy thường được gọi là “siêu thiên tài Herman Kahn”.
Vì quá tò mò nên tôi quyết tìm hiểu về anh ấy. Kahn đã thành lập một nhóm chuyên gia nghiên cứu[36] có tên là Viện Hudson sau khi đã có danh tiếng ở tập đoàn RAND[37] đầy uy tín. Bạn bè nói với tôi rằng khó có thể không ngưỡng mộ sự rèn luyện trí não có tính kích thích lạ thường của con người này, đặc biệt là khả năng dự đoán của anh về xu hướng địa chính trị trong tương lai. Vì thế tôi đã tham dự buổi thuyết trình của Kahn. Kahn là một người đàn ông lực lưỡng có bộ râu quai nón, đang đứng trước bục giảng và thôi miên khán giả bằng những hiểu biết thấu đáo và những dự đoán thần kỳ. Trước kia, có lẽ Kahn là một người dự đoán xu hướng hàng đầu của quốc gia, và đám đông nóng lòng nghe phần cuối bài diễn thuyết của anh ấy. Anh ấy đã dự đoán một cách tự tin rằng đến đầu thế kỷ XXI, một nước sẽ nổi lên như một cường quốc công nghiệp chi phối toàn bộ thế giới. Nước nào sẽ thống trị? Trung Quốc? Ấn Độ? Không. Nước sẽ chi phối toàn bộ thế giới sẽ là… nước Pháp.
Từ lần đó, tôi rất hứng thú với phép ngoại suy. Đó là vì việc xem xét những điều kiện hiện tại và dự báo trước cho vài thập kỷ để đi đến một kết luận có thể rất nguy hiểm. Có điều gì đó về tâm lý con người khiến chúng ta luôn bám chặt lấy “những điều chắc chắn tuyệt đối”, thứ mà tất nhiên sẽ nhanh chóng trở thành quan niệm phổ biến, hay những cái gọi là “lẽ phải thông thường” (conventional wisdom). Mặc dù những lẽ phải thông thường hay quan niệm phổ biến này hầu như luôn luôn sai nhưng dù sao đi chăng nữa, chúng ta vẫn tìm thấy nguồn an ủi trong đó.
Có lẽ khi miêu tả sự khó khăn của việc dự đoán dòng sự kiện lịch sử, Thủ tướng Đức hồi thế kỷ XIX, ông Otto Von Bismarck đã hiểu được điều này một cách thấu đáo nhất khi ông lưu ý rằng “thiên tài chính trị là phải nghe thấy tiếng vó ngựa của lịch sử từ xa và sau đó lao ra bắt lấy kỵ sĩ đang phi ngựa băng qua bằng cách tóm vào đuôi áo anh ta”.
Hãy thử xem lại những gì đã xảy ra trong quá khứ. Vào cuối thế kỷ XIX, các nhà địa chiến lược quan trọng nhất châu Âu đã tranh luận về việc nước nào sẽ là siêu cường trên thế giới vào năm 1920. Có thể bạn không tin nhưng qua vài vòng tranh luận, các lựa chọn hàng đầu là Mỹ và Argentina vì cả hai quốc gia này đều được hưởng nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. (Nguồn tài nguyên của Argentina cân bằng và đa dạng hơn. Dân số của Mỹ đông hơn và GDP cũng cao hơn). Hầu hết các chuyên gia Anh tham gia vào cuộc tranh luận này đều chọn Mỹ nhưng một số chuyên gia châu Âu lại chọn Argentina là siêu cường tiếp theo trên thế giới, nhấn mạnh đến những ảnh hưởng mạnh mẽ của truyền thống châu Âu tại đây, hơn nữa Argentina lại không có những vấn đề về sắc tộc như ở Mỹ.
Đây là những dự đoán khác: vài năm trước, một quan chức cấp cao Nhật Bản đã ghé qua văn phòng của tôi tại Washington chủ yếu để nói về Trung Quốc. Ông đã đưa ra một bản sao một bài báo trên tạp chí Foreign Affairs được viết năm 1957. Bài báo này viết rằng đến giữa những năm 1970, nền kinh tế Xô Viết, trước kia đã có lúc chính thức phát triển nhanh hơn nền kinh tế Mỹ gấp 3 lần, sẽ là một lực lượng kinh tế chi phối toàn bộ thế giới (trước đây đã có nhiều chuyên gia cũng đưa ra kết luận này). Sau đó vào cuối những năm 1970, người ta lại dự đoán rằng Đức sẽ chiếm ưu thế trên toàn cầu; và vào cuối những năm 1980, Nhật Bản được coi là nước sẽ chi phối thế giới. Quá nhiều những “niềm tin phổ biến”!
Quan điểm chung ngày nay đều cho rằng Trung Quốc sẽ chiếm ưu thế trong thế kỷ XXI. Trong chương này, tôi sẽ lý giải về ảnh hưởng của Trung Quốc - một lực lượng hùng mạnh không thể dự đoán được với sức mạnh có thể giúp phát triển hoặc nhấn chìm nền kinh tế thế giới. Tôi cũng sẽ bàn luận về việc các nhà hoạch định chính sách Mỹ không có lựa chọn nào khác ngoài việc cố gắng nối lại và cải thiện mối quan hệ cồng kềnh và thường xuyên căng thẳng với Trung Quốc.
Đối với nền kinh tế toàn cầu, Trung Quốc đại diện cho một nghịch lý lớn, và tôi sẽ bắt đầu lý giải về điều đó một cách ngắn gọn. Một mặt, Trung Quốc không có cách nào khác ngoài việc cố gắng tăng trưởng với mức độ cao chưa từng có. Vì tỉ lệ tăng trưởng thấp hơn đồng nghĩa với số lượng việc làm ít đi, kéo theo đó là nguy cơ tiềm ẩn những căng thẳng chính trị xã hội lớn hơn và nguy hiểm hơn. Tuy nhiên, khi tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc tăng nhanh chóng, đất nước này cũng có nguy cơ trở thành một bong bóng tài chính và kinh tế nguy hiểm đối với thế giới. Ở Trung Quốc, những nhà hoạch định chính sách quan liêu vẫn tiếp tục dự trữ hàng hóa cơ bản với mục tiêu cung cấp nhiên liệu cho bộ máy kinh tế đang phát triển hơn bao giờ hết. Các thị trường chứng khoán sôi động đang bắt đầu thể hiện sự bất ổn đầy nguy hiểm. Tại Trung Quốc, lạm phát đang tăng nhanh. Điều này đi kèm với những kỳ vọng lạm phát gia tăng trên toàn bộ các nước công nghiệp.
Nhưng không có gì đơn giản ở đây. Khi các bong bóng Trung Quốc nổ tung (các bong bóng luôn luôn nổ tung dưới hình thức này hay hình thức khác), Trung Quốc có thể ngay lập tức trở thành một mối đe dọa giảm phát cho thế giới. Trong tình hình kinh tế suy giảm do giảm phát, Trung Quốc có thể không còn lựa chọn nào khác ngoài cách bán phá giá các kho hàng hóa dự trữ và các thành phẩm cho các thị trường thế giới. Điều này có nguy cơ khiến cho mức giá cả trên toàn cầu giảm mạnh, đồng thời thể hiện những phức tạp lớn cho các nhà hoạch định chính sách trong các nước công nghiệp. Trong hoàn cảnh như vậy, giá cả hàng hóa khi đạt đến đỉnh điểm sẽ giảm xuống một cách nghiêm trọng bởi vì một số áp lực tăng giá là kết quả của việc đặt cược vào giá cả cao hơn của các nhà đầu cơ. Một khi xu hướng đi lên bắt đầu đảo chiều thì các nhà đầu cơ sẽ nhanh chóng rút vốn và tìm chỗ an toàn khiến cho giá cả sụt giảm nghiêm trọng.
Một nghịch lý khác của Trung Quốc là vai trò của các dòng vốn. Một mặt, Trung Quốc cần công nghệ của các nước công nghiệp dưới hình thức nhập liên tục nguồn đầu tư vốn trực tiếp chuyên dụng từ nước ngoài. Một mặt, Trung Quốc lại là một nước xuất khẩu vốn chính. Nước này sử dụng nguồn vốn dự trữ của ngân hàng trung ương (nguồn dự trữ này hiện nay rất lớn một phần vì Bắc Kinh cố ý định giá đồng tiền của họ thấp) để đầu tư ra nước ngoài nhằm có được những lợi thế chiến lược. Kết quả là với các nhà hoạch định chính sách trong các nước công nghiệp, Trung Quốc đại diện cho một màn diễn cân bằng tinh vi, một kịch bản liên quan đến tập hợp biến số kiểu khối lập phương Rubik. Những biến số này đã khiến cho việc lập kế hoạch chiến lược để kiểm soát khủng hoảng trở nên vô cùng khó khăn.
Mặc dù hiệu quả kinh tế của Trung Quốc trong thập kỷ qua thực sự ấn tượng với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm là trên 10% nhưng các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản đã phải đối mặt với một thách thức rất lớn: đưa những người ở các tỉnh nằm sâu trong nội địa nước này hội nhập vào lực lượng lao động. Dựa vào những con số thì đây là một thách thức khổng lồ. Trong 25 năm tới, mỗi năm Trung Quốc phải giải quyết việc làm cho một số lượng lao động bằng khoảng hơn 2/3 dân số Canada, khi nước này loại bỏ các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả và tham nhũng. Mục tiêu như vậy đòi hỏi mức tăng trưởng kinh tế hàng năm phải duy trì ở cận mức 10%. Nó cũng đòi hỏi tỉ lệ đầu tư cao chưa từng có tiền lệ, cũng như mức tiêu thụ ngày càng tăng. Duy trì những tỉ lệ này và kiểm soát lạm phát sẽ là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn nếu không
muốn nói là không thể thực hiện được. Vì thách thức lớn này của Trung Quốc, thế giới trở nên bất ổn theo cách mà hiện chưa có ai trên thế giới có thể hiểu được thấu đáo.
Rõ ràng là một Trung Quốc thành công sẽ đem lại cho nền kinh tế thế giới rất nhiều lợi ích to lớn. Hơn nữa, một nền kinh tế châu Á đang phát triển mạnh mẽ ngày càng nhập khẩu nhiều hàng hóa từ Mỹ hơn là một trong những phương tiện hữu hiệu để giảm tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai lớn của Mỹ, trừ khi có một cuộc suy thoái toàn cầu. Tuy nhiên, việc Trung Quốc tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh như vậy hay việc nước này có thể ngăn chặn hiệu quả tình hình lạm phát chưa hẳn là “điều chắc chắn” (slam dunk), cụm từ mà Warren Buffett yêu thích. Và một lần nữa, chính trị lại nằm ở trung tâm của sự bất ổn.
Mối nguy hiểm lớn nhất là Trung Quốc đang trở thành bong bóng tài chính và kinh tế mới nhất. Bong bóng là thời kỳ mà những người ra quyết định kinh tế[38] bị lôi cuốn một cách phi lý vào hoạt động đầu tư mà ở đó kỳ vọng tăng giá tiếp tục tạo ra một vòng xoáy kỳ vọng cao hơn. Như tất cả các bong bóng gần đây - bong bóng bất động sản ở Nhật Bản những năm 1980, bong bóng Internet (bong bóng dot-com)[39] ở Mỹ những năm 1990 và bong bóng nhà đất ở các nước phương Tây đầu thế kỷ XXI - đã chứng minh không có gì tồn tại mãi mãi. Đôi khi bong bóng từ từ xẹp xuống nhưng đa phần, các bong bóng sẽ nổ tung mang theo những hậu quả có sức tàn phá khủng khiếp.
Khi bong bóng Trung Quốc vỡ - và nó có nhiều khả năng sẽ vỡ, chứ không phải từ từ xẹp xuống - ảnh hưởng của nó đối với các nước khác trên thế giới có thể sẽ vô cùng khủng khiếp. Có người gần đây đã yêu cầu tôi nêu cụ thể một kịch bản có thể xảy ra khi bong bóng Trung Quốc nổ tung. Sự thật là không ai có thể chắc chắn về kết cục chính xác của điều này! Hành động đầu tiên của các cơ quan hành chính Trung Quốc có thể là nhanh chóng bán đổ vào thị trường thế giới một lượng hàng hóa lớn đang được tích trữ để tạo lực cho việc mở rộng hơn nữa trong tương lai. (Hàng hóa được tích trữ một phần do tỉ lệ lãi suất thực âm của Trung Quốc, đây là một bước phát triển mới xảy ra gần đây, tôi sẽ miêu tả ngắn gọn trong phần tiếp theo). Điều xảy ra tiếp theo là thế giới sẽ bị ngập trong đống hàng hóa khổng lồ đại hạ giá của Trung Quốc.
Đối với các nước khác trên thế giới, mức giá giảm sẽ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với hệ thống tài chính thế giới. Lúc đó, các ngân hàng trung ương lo lắng về lạm phát sẽ ngay lập tức bị buộc phải đương đầu với mức giá cả giảm mạnh, hay còn gọi là giảm phát. Các hợp đồng kinh doanh dựa vào tỉ lệ lợi nhuận dự kiến trong tương lai sẽ trở thành vô nghĩa. Ngay lập tức hàng loạt các đợt cắt giảm nhân công sẽ xảy ra. Thị trường chứng khoán toàn cầu sẽ sụp đổ vì khi các nhà đầu tư thấy được khả năng có thể bùng nổ một cuộc đấu tranh của những người ủng hộ chế độ bảo hộ công nghiệp cùng với sự giảm mạnh của giá cả, họ sẽ hoang mang rồi sau đó bán cổ phiếu và các quỹ tương hỗ của mình để chuyển sang mua trái phiếu Mỹ và châu Âu. Ngay sau đó, hàng loạt quỹ lương hưu sẽ tuyên bố không còn khả năng đáp ứng các yêu cầu trong tương lai do thành quả nghèo nàn của thị trường chứng khoán. Bốn Ông Lớn - các quỹ đầu tư quốc gia (SWF), những nhà sản xuất dầu, các quỹ đầu tư phòng vệ và các công ty đầu tư cổ phần tư nhân - sẽ nhanh chóng rút cổ phần đầu tư của họ trên toàn cầu và chuyển chúng thành tiền mặt. Giống như Nhật Bản vào thập niên 1990 và toàn thế giới thập niên 1930, giá cả giảm sút quá nhanh với mức độ vô cùng lớn đã tạo ra tình trạng kinh tế trì trệ trong thời gian dài. Việc lập kế hoạch kinh tế trở thành một nhiệm vụ bất khả thi. Giá cả cao mà một công ty dự đoán sẽ đạt được với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ có thể sẽ không được duy trì ở mức cao như vậy trong tương lai.
Nhưng cũng có một kịch bản khác có thể xảy ra. Do lo sợ các vấn đề xã hội bùng nổ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ mất bình tĩnh và thiếu sáng suốt rút nguồn dự trữ khổng lồ của họ ra khỏi hệ thống toàn cầu[40] để mua chuộc những cử tri đang giận dữ ở trong nước. Tùy vào mức độ phi lý trí của tình hình, kịch bản này sẽ làm cho lãi suất trên thế giới tăng mạnh và buộc các ngân hàng trung ương phải tăng nguồn cung tiền để mua hết quyền nắm giữ trái phiếu của Trung Quốc. Theo lý thuyết, kết quả là tình trạng lạm phát trên thế giới sẽ cao hơn, chứ không phải là giảm phát.
Cho dù tình hình ảm đạm như thế nào thì hầu hết các nước trên thế giới có thể sẽ trả đũa Trung Quốc bằng cách thiết lập những hàng rào bảo hộ. Những hàng rào bảo hộ này sẽ nhanh chóng tạo ra một sự trả đũa tức thì của người Trung Quốc đối với các công ty nước ngoài có trụ sở tại Trung Quốc. Trong khi đó, các ngân hàng trung ương trên toàn cầu sẽ tiếp tục ồ ạt tung ra thị trường hàng loạt thanh khoản trong nỗ lực cứu các thị trường khỏi bị sụp đổ. Nhưng như chúng ta đã chứng kiến trong cuộc Đại Khủng hoảng năm 2007-2008, quá trình phục hồi có thể rất chậm và đầy khó khăn. Đó là vì các nhà đầu tư trên toàn cầu đang hoảng loạn sẽ nhanh chóng đầu tư tiền vào thị trường nợ chính phủ ngắn hạn của các nước công nghiệp; vì họ cho rằng chứng khoán và thậm chí cả các trái phiếu công ty được xếp hạng cao cũng đầy rủi ro. Do đó, các thị trường tín dụng trên toàn cầu sẽ bị chặn lại. Như trong suốt cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn, các ngân hàng trung ương hoảng loạn sẽ bị giới hạn trong khả năng áp đặt nhiều ảnh hưởng và quyền kiểm soát.
Rốt cuộc, sau khi phân tích mọi yếu tố, chúng ta thực sự không biết điều gì sắp xảy ra ở Trung Quốc, và chỉ cần một cú lắc nhẹ cũng đủ để làm chao đảo toàn bộ hệ thống.
Với toàn bộ những tài liệu và thông tin có được, tôi phải thừa nhận rằng tôi có đôi chút định kiến tiêu cực đối với tình hình của Trung Quốc. Đó là vì vào đầu những năm 1990, tôi tham gia vào một nhóm nhỏ trong một vụ đầu tư gọi là Xi măng Trung Quốc. Nhóm này bao gồm một vài nhà kinh tế học hàng đầu thế giới, một người đã đoạt giải Nobel và một người là lãnh đạo của một ngân hàng trung ương. Chúng tôi mua 8 nhà máy sản xuất xi măng của Trung Quốc chủ yếu nằm rải rác ở các tỉnh phía Bắc, nơi việc đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng chắc chắn sẽ sớm được tiến hành. Trung Quốc mới nổi lên là một nền kinh tế đầy hấp dẫn. Đây là một mặt trận mới, một cuộc đổ xô đi tìm vàng cuối thế kỷ XX. Chúng tôi thấy một cơ hội tốt và hy vọng tận dụng được hết sự sôi động của nơi này thông qua việc phát triển công ty và niêm yết cổ phiếu công ty trên thị trường chứng khoán Hongkong.
Tuy nhiên, vụ đầu tư đã thất bại. Như tất cả các lĩnh vực mới mẻ khác, kể cả thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế Mỹ, tham nhũng diễn ra tràn lan. Hệ thống kế toán của công ty, do nguồn dữ liệu đầu vào đáng ngờ từ ban quản lý cấp cao Trung Quốc, trở nên khó hiểu và dường như là “làm đẹp sổ sách”. Chúng tôi thuê một nhà quản trị từng làm cho Goldman Sachs làm Tổng giám đốc nhằm cố gắng hiểu rõ mọi thứ nhưng vô ích.
Rốt cuộc, dự án đầu tư mang tên Xi măng Trung Quốc (China Cement) này không bao giờ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chúng tôi bán lỗ vốn các tài sản cho công ty xi măng Lafarge của Pháp. Tất cả chúng tôi đều bị cuốn vào vụ này bởi nghĩ đến một viễn cảnh tốt đẹp. Quản lý tồi và thiếu hiểu biết về hệ thống của Trung Quốc đã góp phần tạo sự thất bại của chúng tôi. Nhưng trong quá trình đó, tôi rút ra được một bài học quan trọng về thị trường Trung Quốc: Đừng bao giờ đặt tiền vào nơi mà không gắn liền gần như ngay lập tức với một sự trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó. Mua đồ dùng với một giá cố định là một lẽ nhưng quản lý một công ty đang phát triển dựa trên niềm tin vào các dữ liệu kế toán hoặc bất kỳ một phương thức đo lường khách quan nào đều hết sức khó khăn. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trình
trạng thiếu niềm tin này sẽ trở nên đặc biệt khó giải quyết trong suốt các thời kỳ khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế sau khi bong bóng vỡ.
Rõ ràng là một số công ty của phương Tây đã thành công trong việc kiếm tiền ở Trung Quốc. Tổng giám đốc của một công ty phụ tùng ô tô châu Âu lớn cho biết cách thức ông tiếp tục phát triển hoạt động kinh doanh của mình ở Trung Quốc bất chấp các vấn đề về đánh cắp sở hữu trí tuệ (điều mà ông ấy đã mô tả là “cũng tệ không kém gì ở Đài Loan 30 năm trước”). Ở Trung Quốc, ông ta chỉ sử dụng công nghệ đời đầu. Ông ta cho biết: “Tôi không bao giờ trưng bày cho họ thấy những mặt hàng mới nhất của chúng tôi, nếu không họ sẽ đánh cắp chúng ngay”.
Rốt cuộc, vụ đầu tư của tôi vào Xi măng Trung Quốc lại là một may mắn lớn. Tại sao ư? Vì vào những năm sau, tôi không còn phung phí tiền vào các vụ đầu tư khác, những vụ mạo hiểm có nguy cơ trả giá đắt hơn. Khi bạn bè hoặc người quen đề xuất với tôi một vụ đầu tư, tôi thường trả lời rằng: “Tôi có một nguyên tắc là tôi chỉ đầu tư vào những thứ mà tôi biết đôi chút về chúng”. Sau đó tôi kể ra câu chuyện về Xi măng Trung Quốc và kết luận bằng một câu hỏi tu từ: “Vậy có ai trong chúng ta biết gì về xi măng hay Trung Quốc không?”.
Do đó, nếu ta nhìn thấy mặt trái của Trung Quốc thì điều đó rất hữu ích, vì mọi cơ quan truyền thông, trừ những nơi am hiểu nhất, đều vẽ ra một bức tranh về Trung Quốc như là một Miền Đất Hứa vĩ đại của châu Á. Về một khía cạnh nào đó thì đúng là như vậy. Tuy nhiên theo tôi thì Trung Quốc đang nỗ lực làm một điều chưa ai từng làm được trong lịch sử, đó là kết hợp kinh tế thị trường với cơ chế chính trị mác-xit. Điều đó có nghĩa là tránh những hậu quả xấu từ nạn tham nhũng của các quan chức, sự lãng phí tài nguyên thiên nhiên, suy thoái môi trường và sự bất bình đẳng kinh tế lớn, trong khi vẫn hy vọng nền kinh tế toàn cầu phát triển không ngừng và hệ thống thương mại vẫn mở rộng. Đó là một đòi hỏi quá cao.
Đặng Tiểu Bình nổi lên như một nhà lãnh đạo táo bạo, nhưng tôi ngờ rằng ngay cả ông ấy cũng không thể khống chế được quyền lực của bộ máy kinh tế mới này. Người Trung Quốc đã tạo ra một động lực nằm ngoài khả năng kiểm soát của bất cứ ai. Họ muốn có một nền kinh tế thị trường thịnh vượng, nhưng họ lại nhận được thứ có thể không bền vững. Giờ đây họ đang hoạt động dưới một giả định sai lầm rằng nền kinh tế bùng nổ mạnh mẽ này có thể được kiểm soát bởi các sắc lệnh của chính quyền. Tất nhiên điều đó không phải là cách mà hệ thống toàn cầu mới hoạt động.
Nền kinh tế của đất nước với dân số gần 1,3 tỷ người đã vượt rất xa mốc mà Bắc Kinh, nơi luôn tin tưởng vào những chính sách “giết gà dọa khỉ” (“To scare the monkey, kill the chicken”) theo cách miêu tả của các quan chức Trung Quốc, có thể kiểm soát, dễ dàng điều khiển hoặc hăm dọa. Một ví dụ cho điều này là mấy năm trước, một quan chức ngành y tế đã bị bắt vì tội nhận hối lộ và bị tuyên án tử hình.
Thực ra, nếu nền kinh tế Mỹ được ví như một chiếc máy bay hiện đại của thế kỷ XXI thì nền kinh tế Trung Quốc sẽ là chiếc máy bay của năm 1990 nhưng với hệ thống điều khiển trong buồng lái là từ những năm 1960. Nói cách khác, do thiếu các công cụ thích hợp của các chính sách tiền tệ để ổn định kinh tế nên người Trung Quốc vẫn phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp kiểm soát nguyên sơ của chính phủ, những phương pháp này rất chậm chạp và không chính xác.
Bất chấp những mặt hạn chế này, Trung Quốc đã trở thành một cường quốc kinh tế trên toàn cầu có quy mô lớn nhưng có rất ít vai trò lãnh đạo. Nước này được hưởng lợi từ hơn một nghìn tỷ đô la trong các khoản dự trữ không công khai của Ngân hàng trung ương (nhiều hơn bất kỳ nước nào trên thế giới). Trung Quốc có nhiều tỷ phú hơn bất cứ một quốc gia nào trên thế giới trừ Mỹ. Trong số các trung tâm mua sắm lớn nhất thế giới thì 7 trung tâm do người Trung Quốc sở hữu. Tuy nhiên, thật lạ là Trung Quốc dường như không thể hoàn toàn bước lên vũ đài toàn cầu. Quyết định không tham dự các cuộc họp G7 của Trung Quốc là một minh chứng hùng hồn.
Với Mỹ, Trung Quốc đã thiết lập được mối quan hệ cộng sinh (codependency) mới, chưa từng có trong lịch sử. Một nền kinh tế tiên tiến nhất thế giới liên kết chặt chẽ với một nền kinh tế rất lạc hậu trong lĩnh vực công nghệ tinh vi và gắn chặt với các quy tắc của hệ thống quốc tế. Hậu quả của việc này thật nghiêm trọng. Bằng chứng là gần đây mọi người vô cùng hoang mang về thức ăn chăn nuôi có chứa những hợp chất nguy hiểm và đồ chơi không an toàn của Trung Quốc. Ngày nay, hầu hết các nhà bình luận đều quan tâm tới việc tái sử dụng đồng đô la của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho thị trường nợ của Mỹ, song mối quan hệ thương mại giữa hai nước này thậm chí có thể còn quan trọng hơn. Nếu tính cả Hongkong thì hiện nay Trung Quốc đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Mỹ, sau Mexico và Canada. Tuy nhiên, Mỹ cũng đã bắt đầu nghi ngờ về thực phẩm Trung Quốc. Mối nghi ngại này ngày càng tăng khi các nhà máy sản xuất của Trung Quốc đều thiếu các quy định kiểm soát thích hợp. Điều chưa được biết đến ở đây là phản ứng của người Trung Quốc đối với việc mua hàng hóa và dịch vụ của châu Âu và Mỹ khi người tiêu dùng Mỹ và châu Âu không mua sản phẩm của Trung Quốc nữa.
Vì diện tích địa lý của Trung Quốc lớn gần bằng Mỹ nhưng dân số thì đông hơn 4 lần nên các nhà dự báo cho rằng nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt qua quy mô của nền kinh tế Mỹ trong vòng 3, 4 thập kỷ tới. Dự đoán này dựa trên một giả định rằng sự tăng trưởng sẽ tiếp tục ở mức độ như hiện nay. Nhưng có lẽ là không có gì đơn giản như chúng ta tưởng.
Theo nhà kinh tế học Angus Maddison, vào năm 1820 Trung Quốc đã sản xuất khoảng 1/3 tổng GDP của cả thế giới với số dân chiếm khoảng 36% dân số thế giới và mức GDP bình quân trên đầu người bằng khoảng 90% mức trung bình của thế giới. Đến năm 2005, mặc dù có mức độ tăng trưởng hàng năm khoảng gần 10% trong 3 thập kỷ gần đây nhưng Trung Quốc chỉ sản xuất được 5% tổng GDP của cả thế giới với số dân chiếm khoảng 20% dân số thế giới. Qua gần hai trăm năm biến đổi xã hội một cách sâu sắc, năng suất của Trung Quốc giảm từ 80% xuống còn dưới 25% mức trung bình của thế giới, và tuy năng suất đang dần phục hồi thì đất nước này vẫn còn một chặng đường dài nữa để đi. Thế giới đang dõi xem Trung Quốc có thể làm những gì. Nhưng cho đến bây giờ, nền kinh tế của Trung Quốc mới chỉ gấp gần ba lần nền kinh tế Hà Lan nếu tính theo các số liệu về tỉ giá đô la của Ngân hàng Thế giới (10 lần nếu tính theo ngang giá sức mua[41]).
Hơn nữa, ta không nên đánh giá thấp những vấn đề cơ bản của Trung Quốc. Vài năm trước, tôi đã hỏi một quan chức Bắc Kinh rằng trong một kỷ nguyên của chiến tranh công nghệ cao như hiện nay, tại sao chính phủ của ông ấy lại cần một lực lượng quân đội thường trực lớn đến vậy. Rốt cuộc, mặc dù có sự hiện diện của Hạm đội 7 của Mỹ ở khu vực Biển Bắc Trung Quốc nhưng nước này dường như không phải đối mặt với bất kỳ một mối đe dọa đáng kể nào về lãnh thổ. Câu trả lời của vị quan chức đó nhằm đúng vào vấn đề trung tâm của Trung Quốc: Ông ấy nói rằng chúng tôi cần quân đội để giữ họ lại vùng nông thôn. Không có quân đội, dân nông thôn và các khu vực nghèo nàn sẽ đổ xô ra các trung tâm thành phố, khiến cho dân số ở các thành phố lớn vùng duyên hải của Trung Quốc nhanh chóng tăng gấp ba lần. Dần dần, tình trạng này sẽ khiến cho các thành phố sụp đổ. Ngoài ra, chính sách một con trong mấy thập kỷ ở Trung Quốc đã khiến cho tỉ lệ nam giới cao hơn tỉ lệ nữ giới. Vì thế, quân đội ở đây sẽ giúp thu nạp những nam thanh niên không kết hôn.
Từ năm 1980, hơn 100 triệu người Trung Quốc từ các vùng nông thôn đổ ra thành phố để tìm kiếm tương lai tốt đẹp hơn[42]. Hai thập kỷ tiếp theo, người ta dự đoán ít nhất cũng có vài trăm triệu người muốn tới đây với mục đích tương tự. Vài thập kỷ sau, khoảng hơn ¾ tỉ người Trung Quốc với đầy háo hức và hy vọng có thể bị nhồi nhét trong khoảng 150 thành phố duyên hải lớn để tìm kiếm cuộc sống của tầng lớp trung lưu. Mặc dù chính phủ đã có những nỗ lực nhằm tăng cường mạng lưới an toàn và tạo việc làm cho khu vực nông thôn nhưng tình trạng bất ổn và bạo lực ở các vùng nông thôn của Trung Quốc đang gia tăng nhanh chóng - và tình hình này vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên, các bản tin của phương Tây lại hiếm khi đề cập đến vấn đề đang ngày càng lớn này, mặc dù các con số thống kê qua kiểm duyệt của Trung Quốc đã giảm bớt một phần mức độ trầm trọng của tình hình. Đó là bởi thế giới sẽ được hưởng lợi khi Trung Quốc thành công, hơn nữa nói đi nói lại về những tranh cãi trong nội tại của một nước cũng không giải quyết được điều gì. Nhưng chắc chắn, việc Trung Quốc đưa một lực lượng quân đội lớn vào Tây Tạng nhỏ bé vào đầu năm 2008 là một dấu hiệu của tình trạng lộn xộn về chính trị của Trung Quốc sắp diễn ra. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy đất nước này sắp đạt đến điểm mốc bùng nổ các vấn đề xã hội.
Các nhà chiến lược Nhật Bản kể với tôi rằng các thành phố duyên hải Trung Quốc vẫn có sẵn khá nhiều thanh khoản cho mục đích đầu tư, song đi sâu vào các khu vực nội địa của nước này thì tình trạng thiếu vốn lại phổ biến đến ngạc nhiên. Các tỉnh có lực lượng bán quân sự riêng hoạt động tương đối độc lập với Bắc Kinh. Có một suy nghĩ khá phổ biến tại các khu vực nằm sâu trong đại lục Trung Quốc, rằng các thành phố duyên hải đã rất thành công khi dịch chuyển sang nền kinh tế thị trường vào những năm 1990. Thật không may, những sự phát triển này hầu như chẳng đem lại lợi ích gì cho các tỉnh trong nội địa. Thêm vào đó, những người dân di cư từ vùng nông thôn Trung Quốc không hạnh phúc cho lắm khi họ tái định cư ở thành phố. Điều này có thể là do một số nhân tố.
Theo quan sát của Ngân hàng Thế giới thì 16 trong số 20 thành phố ô nhiễm nhất thế giới là ở Trung Quốc. Hơn 70% lượng nước ở 7 con sông chính của Trung Quốc đã không thể uống được nữa. Người Trung Quốc hiện nay phải đối mặt với lượng khí sulfur dioxide trong không khí cao nhất thế giới, phần lớn là từ việc sử dụng rộng rãi các mô hình lò luyện kim đốt bằng than thô sơ nhất. Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, “các bệnh về tim mạch và hô hấp liên quan đến ô nhiễm không khí là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong ở Trung Quốc”. Thật không may, người dân Trung Quốc lại không thể thay đổi các chính sách về môi trường của mình. Ví dụ, lập luận chính chống lại đạo luật của Thượng Nghị viện Mỹ về kiểm soát lượng khí thải nhà kính (Dự luật Lieberman-Warner[43]) là các nước đang phát triển như Trung Quốc và Ấn Độ sẽ không hợp tác. Trên thực tế, các nền kinh tế đang phát triển này sẽ nhanh chóng khẳng định rằng đạo luật này mâu thuẫn với các điều luật của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Song hiện nay, Trung Quốc với một nền kinh tế nhỏ hơn rất nhiều đã vượt qua Mỹ để trở thành nguồn khí nhà kính lớn nhất trên thế giới. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), lượng khí thải của Trung Quốc hiện nay đang tăng nhanh hơn so với khối lượng khí thải giảm đi của tất cả các nước công nghiệp phát triển cộng lại. Các chính sách môi trường của Trung Quốc đang mâu thuẫn với những mục tiêu thương mại của nước này.
Có một vấn đề cơ bản khác đang gây rắc rối cho Trung Quốc: tình trạng thiếu thông tin đáng tin cậy về kinh tế của đất nước. Vài năm trước, một vị quan chức cao cấp của Trung Quốc dự tiệc cocktail tại Bắc Kinh với một nhóm các chủ ngân hàng quốc tế đã được hỏi rằng liệu đất nước ông có thực sự nghiêm túc trong nỗ lực đạt được tính minh bạch “vĩ mô” cho hệ thống tài chính không. Vị quan chức này đã làm cho các chủ ngân hàng phải ngạc nhiên bằng một câu trả lời trung thực: “Mô hình của chúng tôi là nước đục thả câu”[44]. Cho tới thời điểm này, điều ông ấy nói dường như là đúng.
Bất chấp những vùng nước đục (tức là tình trạng thiếu minh bạch), một lượng vốn nước ngoài khổng lồ đã đổ vào Trung Quốc, lúc đầu là các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng sau này, ngày càng nhiều vốn được đầu tư vào bất động sản và chứng khoán. Dù đặt cược vào Trung Quốc có thể là một cách đa dạng hóa các hạng mục đầu tư tuyệt vời nhưng liệu các nhà đầu tư toàn cầu có hiểu thấu đáo về các loại tài sản mà họ đang kiếm được không? Liệu họ có thực sự hiểu về cơ cấu sở hữu các công ty Trung Quốc không? Họ có thực sự đánh giá đúng những mặt hạn chế của các hoạt động kế toán và kiểm toán của Trung Quốc không? Họ có nhiều thứ để dựa vào khi bong bóng vỡ không?
Trong 10 năm gần đây, người Trung Quốc đã cố tranh thủ các khoản đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chính phủ vẫn kiên quyết hạn chế đầu tư nước ngoài trong một số ngành chiến lược và các ngành khác bao gồm bảo hiểm, ngân hàng, bán lẻ, đóng tàu, truyền thông, viễn thông và bất động sản. Ví dụ, vài năm trước, hầu hết các vụ hợp nhất hoặc mua lại công ty liên quốc gia đã bất ngờ đối mặt với hàng loạt các rào cản hoàn toàn mới. Không ai hiểu rõ chuyện gì đằng sau sự rút lại này, trừ việc cho rằng một số thay đổi về chính trị đã xảy ra, và điều này chỉ gây thêm bí ẩn và hoang mang.
Đôi khi, chính người Trung Quốc dường như cũng không rõ điều gì đang xảy ra. Vào tháng Tư năm 2005, một phái đoàn cấp cao của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã đến thăm Trung Quốc, gặp gỡ các quan chức cao cấp nhất và được thông báo rằng vào cuối tuần sau đồng nội tệ Trung Quốc “chắc chắn 100%” (theo cách nói của một quan chức Trung Quốc) sẽ được nâng giá đáng kể. Nhưng rồi sự điều chỉnh nội tệ táo bạo đó đã không bao giờ xảy ra khiến phái đoàn IMF vô cùng lúng túng (điều này có thể là một may mắn bởi vì phái đoàn IMF đang xem xét việc nâng giá ở mức 20%, trong khi Trung Quốc đang xem xét tỉ lệ thấp hơn mức 5% nhiều). Theo một nhân viên cao cấp của IMF, các quan chức ở Bộ Tài chính và Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng rất lúng túng. Các quan chức này thực ra đã thực hiện một bước không chính thống khi thông báo ngầm, nhưng chính thức với các đối tác trong nhóm G7 rằng họ (các thành viên trong ngân hàng trung ương và bộ tài chính Trung Quốc) không phải là người chịu trách nhiệm kiểm soát các quyết định then chốt như cải cách tiền tệ. Thay vào đó, Hội đồng Nhà nước, cơ quan đầy bí ẩn bao gồm hầu hết giới tinh hoa và cao cấp nhất trong Đảng Cộng sản, mới là người đưa ra tất cả các quyết định quan trọng.
Ví dụ, người ta nói rằng mặc dù Chủ tịch Hồ Cẩm Đào có những ý định tốt đẹp nhất nhưng ông thường đến các cuộc họp Hội đồng với không quá 3 phiếu ủng hộ, như thế không đủ để đạt được đa số phiếu trong hội đồng 9 người cho dù ông ta đã hứa gì với tổng thống Mỹ hoặc các thủ tướng của châu Âu đi chăng nữa.
Một thành viên của Hội đồng Ngân hàng Trung ương châu Âu đã từng nói với tôi về chính quyền Trung Quốc: “Cơ cấu đưa ra quyết định của họ là một mạng nhện rối rắm phức tạp. Vài năm trước chúng tôi đã hỏi họ rằng các ngân hàng trung ương châu Âu có thể làm gì để giúp họ thiết lập một cơ sở hạ tầng ngân hàng trung ương hiện đại hơn. Chính quyền Trung Quốc phải mất 9 tháng mới đưa ra được câu trả lời”.
Tình huống này gợi cho tôi nhớ đến một lời nhận xét gần đây của chủ tịch một ngân hàng châu Âu lớn. Trong một chuyến công tác tại Trung Quốc, khi đang đứng ở tiền sảnh của khách sạn ở Thượng Hải, một đối thủ cạnh tranh đã hỏi vị chủ tịch này rằng: “Ông không kinh doanh nhiều ở Trung Quốc đúng không? Ông không nhận thấy những cải cách trong hệ thống ngân hàng đúng không?”. Vị chủ tịch ngân hàng châu Âu đáp lại rằng: “Ồ, đó không phải là sự cải cách của các ngân hàng mà là những cải cách trong hệ thống chính trị đã ảnh hưởng đến các ngân hàng”.
Gần đây, các quan chức Trung Quốc đã khiến cho rất nhiều người tham gia thị trường toàn cầu phải sững sờ kinh ngạc với một thông báo rằng ngân hàng lớn nhất Trung Quốc, Ngân hàng Công Thương Trung Quốc (ICBC) thuộc sở hữu nhà nước, hiện là ngân hàng được đánh giá cao nhất trên thế giới. Trong vòng vài năm tới, Ngân hàng Công Thương Trung Quốc sẽ thực hiện những vụ mua lại mang tầm toàn cầu. Trên thực tế, ngân hàng này đã hé lộ một cách không chính thức khả năng mua lại một hoặc cả hai ngân hàng châu Âu có quy mô đáng kể.
Tuy nhiên, các cá nhân có liên quan nói rằng dường như các nhà đầu tư phương Tây không biết chiếc vòi bạch tuộc của Trung Quốc vẫn ăn sâu vào cơ cấu đưa ra quyết định của hệ thống ngân hàng mặc dù gần đây, rất nhiều người trong số họ đã tham gia mua cổ phần trong các đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO) thành công lớn của Ngân hàng Công Thương Trung Quốc và 4 hoặc 5 ngân hàng nhà nước khác. Một nhà quan sát của Ngân hàng Công Thương Trung Quốc đã lưu ý với tôi rằng khi các quan chức Trung Quốc đi nghỉ cuối tuần thì hầu như toàn bộ việc quản lý ngân hàng cũng bị đình trệ lại. Điều này không chỉ đúng với các chi nhánh ở Bắc Kinh, mà còn đặc biệt đúng với các chi nhánh ở các khu vực. Các quan chức Trung Quốc không chỉ chi phối việc đánh giá rủi ro tín dụng mà còn chi phối cả các quyết định về nguồn nhân lực. Vì thế, các nỗ lực cải cách cơ cấu của những nhà cải cách nghiêm túc đứng đầu chính phủ (có một vài người) và các giám đốc ngân hàng đầu tư quốc tế đang bị làm ngơ tại cả trụ sở chính lẫn ở các chi nhánh ngân hàng. Tình hình này tương tự với những gì đã xảy ra vào thời kỳ đầu cải cách hệ thống ngân hàng ở Nhật Bản. Trong khi đó, rất nhiều các khoản nợ xấu và các khoản nợ có khả năng thu hồi thấp (thậm chí còn nhiều hơn thế) tiếp tục được gia hạn. Và cách mà các ngân hàng Trung Quốc đã giải quyết tình hình này là tăng thêm các khoản cho vay mới. Kết quả là tỉ lệ của các khoản nợ xấu trên tổng số các khoản nợ đã giảm xuống, đưa tình hình trở về trạng thái bình thường. Hiển nhiên thời điểm đổ vỡ của kế hoạch Ponzi[45] này là thời điểm mà việc giải ngân các khoản vay mới trở nên khó khăn hơn, một điều rất thường xảy ra trong môi trường lạm phát.
Nếu bạn chưa tin hệ thống tài chính Trung Quốc tiềm ẩn một nguy cơ thực sự, một nguy cơ sẽ nghiêm trọng hơn do tình hình lạm phát ngày nay càng lúc càng gia tăng thì bạn hãy quan sát thật kỹ bản cáo bạch của bất kỳ một ngân hàng Trung Quốc nào mới cổ phần hóa. Những thông tin trong đó đều không rõ ràng. Đâu đó trong phần “Rủi ro”, bạn sẽ thấy rất nhiều trang miêu tả đại loại như: “Ông Wang ở chi nhánh Hong Su vừa bị bắt vì biển thủ 2 triệu đô la Mỹ. Ông Hu, giám đốc chi nhánh của chúng ta ở một địa điểm nào đó bị bắt vì đã ăn cắp 10 triệu đô la Mỹ”. Danh sách cứ tiếp tục dài ra. Phần “Rủi ro” cũng nhận định rằng ngân hàng không có một hệ thống quản lý rủi ro nào để kiểm soát tín dụng. Trong một vài trường hợp, ta cũng sẽ bắt gặp trong phần này sự thừa nhận rằng ngân hàng hiện chưa có hệ thống quản lý thanh khoản. Tuy nhiên, sau khi đã cổ phần hóa, ngân hàng vẫn có giá trị vốn hóa thị trường trên 100 tỷ đô la Mỹ. Đó là điều xảy ra trong môi trường vốn lớn, dư thừa… Điều đó xảy ra cho tới khi bong bóng nổ tung.
Liệu điều này nghe có cường điệu quá không? Câu chuyện gần đây nhất giữa các chủ ngân hàng đầu tư phương Tây hoạt động ở Trung Quốc là về việc phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu mới được khởi xướng bởi một trong số các ngân hàng nhà nước lớn nhất Trung Quốc. Do hiểu rõ những lo lắng của các ngân hàng phương Tây đối với việc kiểm soát rủi ro nên ngân hàng Trung Quốc đã thuê một người phương Tây trước đây từng làm việc cho một ngân hàng đầu tư nổi tiếng của Mỹ làm chuyên viên quản lý rủi ro cao cấp cho ngân hàng này. Tất cả điều đó nghe có vẻ rất sáng suốt trừ một chi tiết nhỏ: tay chuyên viên quản lý rủi ro mới này không hề biết tiếng Hoa. Nhưng thật buồn cười là ban lãnh đạo người Trung Quốc của ngân hàng lại yêu cầu anh ta ký vào tất cả các giấy tờ cho phép phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu. Người này từ chối và cuối cùng xin thôi việc. Một giám đốc ngân hàng đầu tư phương Tây khác nhận xét: “Hắn không biết rằng mình được thuê chính là vì không biết tiếng Hoa hay sao?”.
Tôi xin được nhắc lại: cấu trúc ngân hàng Trung Quốc, dưới sự chỉ đạo kiểu Tony Soprano, sẽ cố gắng mua hết các định chế tài chính lớn trên toàn thế giới. Hãy nói về thế giới đầy gián đoạn trong thời gian sắp tới với những chỗ ngoắt ngoéo quanh co. Hãy tưởng tượng Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Jean-Claude Trichet, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên Bang Ben Bernanke và một nhân vật quyền lực ngầm Trung Quốc cùng tham dự một hội nghị ngân hàng quốc tế nào đó để thảo luận về sự minh bạch tài chính, và trong cuộc họp này, nhân vật quyền lực ngầm sẽ nói với Ben và Jean Claude về bản chất của mô hình “nước đục thả câu”. Đây không phải là vấn đề về hệ tư tưởng mà là liệu hệ thống sở hữu nhà nước dưới sự chỉ đạo của đảng có phù hợp với việc đưa ra quyết định trong thị trường cạnh tranh toàn cầu hiện nay vô cùng phức tạp hay không, vì ở đó minh bạch tài chính thỏa đáng chính là yếu tố phân biệt môi trường phát triển lành mạnh với môi trường khủng hoảng và sụp đổ hoàn toàn. So với các ngân hàng Trung Quốc, các định chế tài chính lớn hiện nay đang gặp rắc rối ở châu Âu và Mỹ giống như những hình mẫu lý tưởng về sự minh bạch tài chính.
Đơn giản là các ngân hàng nhà nước Trung Quốc không hiểu về quản lý rủi ro tín dụng, thậm chí không hiểu rõ cả những quy tắc sơ đẳng của tính minh bạch tài chính. Bởi vì các ngân hàng được xem là các công cụ chính trị xã hội nên mối quan tâm lớn nhất của các nhà lãnh đạo đảng là duy trì được hệ thống hiện tại. Tuy nhiên, ở đây, sự công bằng cũng là một vấn đề được họ quan tâm. Các nước phương Tây, qua các cá nhân và công ty, đầu tư rất nhiều vào Trung Quốc và tìm kiếm quyền kiểm soát đa số trong các khoản đầu tư của mình. Vậy tại sao sự sắp xếp này không nên hoạt động theo cả hai hướng? Tại sao chúng ta lại ngạc nhiên khi chính phủ Trung Quốc hiện đang kiểm soát hầu hết các hoạt động đầu tư ra bên ngoài Trung Quốc lại muốn mua và kiểm soát các công ty lớn của phương Tây?
Vào đầu năm 2007, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã tuyên bố bằng lối diễn đạt rất mơ hồ rằng Trung Quốc đang trong quá trình cải tổ các chính sách quản lý đối với khoản dự trữ hơn nghìn tỉ đô la ở ngân hàng trung ương. Rõ ràng là chính phủ Trung Quốc đang định lao vào một trào lưu mua bán lớn. Không, họ sẽ không làm điều gì nhằm cố ý gây tổn hại đến đồng đô la Mỹ, vì điều đó làm giảm bớt giá trị dự trữ của họ. Thay vào đó, họ sẽ làm theo mô hình của Singapore, tập trung trước hết vào các khoản đầu tư hàng hóa và năng lượng vốn là lĩnh vực mà họ đã từng cảm thấy dễ bị tổn thương nhất, sau đó nhanh chóng tiếp tục đầu tư vào các định chế tài chính quốc tế. Trong quá trình thực hiện, các quan chức Trung Quốc hướng tới việc kiểm soát đa số sở hữu của các tổ chức, chính là điều mà họ không để cho người khác đạt được ở Trung Quốc.
Chúng ta nhìn nhận Trung Quốc là một quốc gia nhưng thực chất nó là một tập hợp các vùng lãnh thổ khác nhau nhưng phụ thuộc vào nhau, trong đó Bắc Kinh đóng vai trò là trung tâm điều hành. Lý do tại sao việc điều hành một chiến lược kinh tế vĩ mô thống nhất lại khó khăn như vậy là do sự chênh lệch rất lớn ở Trung Quốc: hiện nay Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Thượng Hải cao hơn GDP của một nước Malaysia thịnh vượng, trong khi mức sống ở nhiều vùng khác chỉ ngang bằng với mức sống của Bangladesh nghèo đói.
Tôi nhớ lại một thập kỷ trước, thị trưởng Thượng Hải đã khoe với tôi rằng với mỗi một nhân dân tệ tiền thuế do người Thượng Hải nộp cho Bắc Kinh, chính quyền của ông đòi hỏi một dịch vụ (từ Bắc Kinh) tương đương với hơn 1 nhân dân tệ. Cứ như thể Thượng Hải giúp Bắc Kinh giữ thể diện vậy. Việc đóng thuế đã che đậy những gì đang thực sự diễn ra ở Trung Quốc: chính quyền trung ương Trung Quốc đang mất đi ảnh hưởng đối với nền kinh tế phi tập trung ở mức độ cao.
Đúng là Đại hội Thể thao Olympic Bắc Kinh 2008 tượng trưng cho niềm tự hào, sự đoàn kết và ổn định quốc gia. Trong khi tình trạng bất ổn ở các làng quê và thành phố nhỏ đang gia tăng theo cấp số nhân, chính phủ trong quá trình chuẩn bị cho đại hội thể thao đã khởi xướng các biện pháp cưỡng chế hiệu quả, lập luận rằng Olympic Bắc Kinh 2008 phải thể hiện cho các nước khác trên thế giới thấy được những điểm mạnh nhất của Trung Quốc. Tuy nhiên, người ta lo ngại rằng Olympic sẽ trở thành điểm nút tạo ra một trật tự khiến tình hình hoàn toàn đảo lộn vào những năm hậu Olympic. Trong tình hình kinh tế chậm lại và lạm phát tiếp tục tăng mạnh, vài năm tới Trung Quốc có thể phải chứng kiến sự bất ổn gia tăng ghê gớm, theo kiểu cảm xúc bị dồn nén bỗng dưng bùng nổ.
Một vài người lo lắng rằng những người giàu ở Trung Quốc sẽ trở thành những người giơ đầu chịu báng mới vì sự căm ghét tình trạng bất công kinh tế. Khoảng cách giữa các vùng và các tầng lớp đã rất rõ rệt. Sự căng thẳng giữa Bắc Kinh và Thượng Hải, giữa các tỉnh vùng duyên hải giàu có và các tỉnh nghèo túng nằm sâu trong nội địa, giữa những nhà tư bản thân hữu với những người lao động di cư đang gia tăng mạnh mẽ. Ta rất khó dự đoán những hậu quả của thời kỳ quá độ về mặt chính trị của Trung Quốc. Có lẽ Martin Wolf của Financial Times đã miêu tả chính xác nhất khi nói rằng “Trung Quốc có một con hổ rất khó thuần phục: tất nhiên, con hổ đó chính là Trung Quốc”.
Tình hình kinh tế của Trung Quốc tương tự Nhật Bản vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Ở Nhật, lúc đầu là một làn sóng lớn đầu tư vào thị trường chứng khoán, tiếp đó là bong bóng thị trường chứng khoán và bất động sản, và cuối cùng là chính sách thắt chặt hay hạn chế mà sau này là nguyên nhân khiến cho bong bóng nổ tung. Ở Trung Quốc, sự thắt chặt và sụp đổ vẫn chưa hoàn toàn diễn ra, nhưng chỉ số Thượng Hải Composite (Shanghai Composite Index) đã tăng vọt lên mức 500% trong giai đoạn 2006-2007 và trong năm 2008 đã bắt đầu được điều chỉnh một cách nghiêm túc, giảm mất hơn một nửa giá trị từ tháng Mười năm 2007 đến tháng Tư năm 2008. Tuy nhiên, lần đầu tiên việc vốn hóa theo thị trường chứng khoán của Trung Quốc đã vượt quá GDP của nước này. Ở một số nơi, giá bất động sản đã tăng vọt với độ lớn tương tự. Lưu ý là một số nhà phân tích đã cho rằng Trung Quốc cũng có thể đi theo con đường của Đài Loan những năm 1990 - thị trường chứng khoán tăng vọt nhưng kéo theo sau đó là nhiều năm thị trường chứng khoán trì trệ và kinh tế kém hiệu quả. Tình hình này cũng có thể tương tự với tình hình của Nhật Bản nhưng Trung Quốc không có các tập đoàn đa quốc gia lớn giàu sức cạnh tranh để làm chiếc lò xo giảm xóc kinh tế cho những bộ phận khác của nền kinh tế như của Nhật. Đừng quên rằng mặc dù nền kinh tế đang phát triển vượt bậc nhưng chi tiêu của người tiêu dùng Trung Quốc lại giảm mạnh một cách kỳ lạ từ gần 50% GDP năm 1992 xuống còn 36% năm 2006.
Bạn có muốn tìm hiểu lý do sâu xa nhất tại sao trong những năm gần đây Trung Quốc lại trượt dốc thảm hại khi tình hình đầu tư cho thị trường chứng khoán và bất động sản tăng vọt cùng với việc tích trữ hàng hóa cơ bản đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát không? Khái niệm rất khó hiểu nhưng lý do là tỉ lệ lãi suất thực tế ở Trung Quốc, tỉ lệ sau khi đã được trừ cho tỉ lệ lạm phát, là âm hoặc khả quan nhất là 0% (nói cách khác nếu tỉ lệ lãi suất là 3% nhưng tỉ lệ lạm phát là 6% thì tỉ lệ lãi suất thực tế là là -3%). Hiện nay, lạm phát ở Trung Quốc đang tăng vọt nhưng mức lãi suất được kiểm soát hành chính chịu chi phối mạnh bởi những người trong bộ máy chính trị lại không được tăng lên phù hợp. Đây là một hạn chế của việc không cho phép các thị trường tài chính hoạt động tự do.
Khi một nền kinh tế trải qua tỉ lệ lãi suất thực tế âm, các nhà đầu tư sẽ vay càng nhiều càng tốt và mua càng nhiều càng tốt. Trong một thời gian ngắn, họ mua chứng khoán cũng như các tài sản hữu hình như hàng hóa và bất động sản một cách táo bạo. Đó là lý do tại sao trong những năm gần đây người Trung Quốc đã có mặt ở khắp các nước đang phát triển, bao gồm cả ở châu Phi, sử dụng các hợp đồng mua hàng dài hạn. Tôi xin nhắc lại: thường thường, nền kinh tế với tình trạng lạm phát đang tăng lên cũng sẽ có lãi suất tăng và đồng nội tệ mạnh lên (xóa bỏ tình hình tỉ lệ lãi suất thực tế âm). Nhưng đồng nội tệ và thị trường lãi suất của Trung Quốc lại bị kiểm soát về mặt hành chính. Như vậy, môi trường lãi suất thực âm đã góp phần khiến cho bong bóng tài chính và kinh tế phình lên. Đó là chuyện nực cười ở Trung Quốc - vay và mua càng nhiều tài sản càng tốt bởi vì không ai tin bong bóng sẽ nổ tung. Tất nhiên, không sớm thì muộn, bong bóng cũng sẽ nổ. Hãy hỏi người Nhật Bản về kinh nghiệm của họ vào những năm 1990 hay hỏi những chủ nhà ở ở Florida và California trong thời gian gần đây, họ đều chịu chung tình cảnh giá trị nhà sụt giảm nhanh chóng, trong một số trường hợp còn bị giảm xuống dưới mức họ đã đặt cọc.
Một trong những chủ đề của cuốn sách này là những thay đổi chính sách thường tạo ra những hậu quả ngoài dự kiến (unintended consequences). Khi Cục Dự trữ Liên bang hạ thấp mức lãi suất ngắn hạn vào thời kỳ đầu của cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn, kết quả giống như thả một trái bom nguyên tử tài chính vào các nền kinh tế châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Thậm chí khi nền kinh tế Mỹ chậm lại và theo đó xuất khẩu của châu Á cũng giảm sút thì xu hướng kinh tế sản lượng dư thừa (sản xuất thừa) của châu Á vẫn tiếp tục. Kết quả là tình hình lạm phát giá cả của châu Á và Trung Quốc đã tăng lên, một dấu hiệu khiến cho mức lương tăng lên. Mặc dù các dữ liệu kinh tế của Trung Quốc không phải luôn luôn đáng tin cậy nhưng đến giữa năm 2008, mức tăng tiền lương danh nghĩa đã tăng vọt lên 20% một năm. Song mức lương thực tế (sau khi đã tính đến lạm phát) may lắm thì mới bằng so với trước đây. Trong suốt một khoảng thời gian tương tự, giá thực phẩm và năng lượng đã tăng hơn 20%. Giá gạo trong 9 tháng từ năm 2007 đến 2008 đã tăng 300%, đây chính là hiện tượng đã gây ra những cuộc bạo loạn ở hơn 30 nước trên khắp châu Á và châu Phi chứ không chỉ ở Trung Quốc.
Tôi xin được nhắc lại rằng các dữ liệu kinh tế của Trung Quốc có thể không đáng tin cậy nhưng có một lĩnh vực có thể tin tưởng đôi chút là đo lường việc cung tiền. Việc sử dụng các các số liệu về cung tiền để dự đoán xu hướng lạm phát là một công việc tinh tế, đặc biệt là trong hệ thống tài chính cũng phức tạp như hệ thống tài chính của Mỹ. Tuy nhiên, tình hình của Trung Quốc nói lên nhiều điều. Từ giữa năm 2006 đến giữa năm 2008, lượng cung tiền của Trung Quốc đã tăng với tỉ lệ hàng năm là 16%. Lạm phát trong suốt thời kỳ này tăng mạnh từ 2% lên 8%. Song lượng cung tiền thực sự (sau khi đã điều chỉnh với mức lạm phát) lại giảm xuống nhanh chóng.
Cũng cần lưu ý rằng lạm phát tiền lương trên bình diện quốc tế do toàn cầu hóa đã lan rộng. Ví dụ tại Việt Nam, lạm phát tiền lương cũng tăng với tỷ lệ trên 20% một năm. Trong những năm gần đây, các nền kinh tế châu Á đã bị điều khiển bởi một luồng chi phí vốn đều đặn. Trong tình hình lạm phát gia tăng, người ta hy vọng rằng tỉ lệ chi phí vốn của châu Á sẽ bắt đầu giảm xuống một cách nhanh chóng. Trong tương lai gần, tình hình này sẽ bị xấu đi do sự chậm lại của nền kinh tế Mỹ, điều sẽ giúp thu hẹp thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ nhưng cũng thu hẹp luôn cả tính thanh khoản trên toàn cầu. Đó không phải là tình hình tích cực cho cả Mỹ và các nền kinh tế châu Á. Một trong những điểm sáng sau cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn là sự ra đời của các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ với chức năng là một bộ máy xuất khẩu thương mại, chủ yếu xuất khẩu sang châu Á. Trong 9 tháng đầu sau cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Mỹ đã không bị hủy hoại hoàn toàn như nhiều nhà phân tích đã dự đoán, chính xác là nhờ làn sóng lớn trong xuất khẩu của Mỹ. Trong những năm tới, lạm phát tiền lương ở châu Á cùng với sự thu hẹp trong tiêu dùng và phí tổn vốn có thể sẽ làm vô hiệu hóa bộ máy xuất khẩu mới của Mỹ.
Hơn một thập kỷ trước đây, người Nhật nằm trong số những người đầu tiên rót một lượng vốn đầu tư lớn vào Trung Quốc, một số nhà lãnh đạo Nhật Bản tin rằng mối quan hệ mới này sẽ phần nào bù đắp cho mối quan hệ kinh tế đang ngày càng rệu rã của Nhật Bản với Mỹ. Nhưng điều này hiện nay không còn tồn tại nữa. Người Nhật đã cắt giảm mạnh các khoản đầu tư vào Trung Quốc trong năm 2005 và 2006, và trong thời gian ngắn đã gây hoang mang lớn ở Bắc Kinh.
Theo quan điểm của người Nhật Bản, có một số diễn biến đang gây nhiều rắc rối mà hầu hết đều gắn với việc đưa ra quyết định có vẻ thiếu thận trọng của Trung Quốc. Ví dụ, Trung Quốc đã cố gắng mua vét quặng sắt trên thị trường thế giới mà hầu như không quan tâm đến nhu cầu sắt thép trên thế giới hoặc quan tâm đến thực tế rằng thế giới đã sản xuất một lượng thép dư thừa để đáp ứng nhu cầu của toàn thế giới. Công suất sản xuất thép theo kế hoạch của Trung Quốc có thời điểm đã đủ lớn để không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đủ để đáp ứng nhu cầu của 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới, Nhật Bản và Mỹ.
Trung Quốc gần đây sản xuất 450 triệu tấn thép một năm. Trái lại, Nhật Bản sản xuất 120 triệu tấn; Mỹ sản xuất gần 100 triệu tấn; còn châu Âu sản xuất khoảng 150 triệu tấn. Tại Trung Quốc, khoảng 1/3 sản lượng thép thực sự dành cho việc tăng công suất sản xuất thép, 1/3 lượng thép khác dành cho xuất khẩu sản phẩm làm từ thép, 1/3 cuối cùng dành cho tiêu thụ trong nước. Do đó, thị trường thép Trung Quốc là một mối nguy hiểm cho thị trường thế giới khi nhu cầu của Trung Quốc suy giảm và nền kinh tế toàn cầu sụt giảm. Người Trung Quốc đã lao vào việc sản xuất thép đầy tham vọng và mạo hiểm này mặc dù vẫn đang chỉ có một nền kinh tế gấp 3 lần quy mô của nền kinh tế Hà Lan. Mối nguy hiểm của cách làm đó là tạo ra lượng dự trữ hàng hóa cơ bản lớn, điều mà ban đầu dẫn đến việc tăng giá nhân tạo, nhưng với nguy cơ của một sự sụp đổ giá cả mạnh mẽ và nhanh chóng một khi thị trường hàng hóa toàn cầu đạt đến đỉnh điểm của sự bất ổn trong việc duy trì các mức giá mới. Chính phủ Trung Quốc đã dự trữ một lượng lớn các loại hàng hóa khác, mà quên mất những mối lo lắng về năng suất dư thừa trên toàn cầu và nhu cầu thực sự trên toàn cầu. Hơn nữa, khi bong bóng vỡ, nền kinh tế thế giới sẽ trở thành một nơi rất đáng sợ.
Năm 2007, một nhà điều hành hãng ô tô Nhật Bản thất bại đã lưu ý với tư cách cá nhân rằng người Trung Quốc, cũng đang hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất ô tô, đã kể với ông là họ định tăng nhanh sản lượng. Những con số thật đáng ngạc nhiên. Năm 2006, công suất sản xuất ô tô trong nước của Trung Quốc lên tới gần 6 triệu chiếc. Những nhà lập kế hoạch của Bắc Kinh đưa ra sắc lệnh quy định rằng đến đầu năm 2012, sản lượng ô tô phải đạt được 20 triệu chiếc, tăng hơn 300%. Điều này tương tự với tình hình liên quan đến việc sản xuất thừa thép mà ở đó có sự đánh giá đầy quan liêu và nguy hiểm về nhu cầu ô tô trên toàn cầu trong tương lai.
Ví dụ, đến năm 2012, nhu cầu trong nước về ô tô của Trung Quốc được dự đoán ở mức cao nhất mới chỉ là 9 triệu chiếc. Vậy 11 triệu chiếc còn lại sẽ được xuất khẩu sang nước nào? Người Nhật tin rằng các nhà quản lý kinh tế của Trung Quốc đã được yêu cầu thực hiện một kế hoạch để trở thành nhà xuất khẩu ô tô lớn nhất thế giới bất chấp năng lực sản xuất hay nhu cầu về ô tô trên toàn cầu. Mục tiêu của họ là: cạnh tranh để giành và nắm giữ thị phần, điều này thật nực cười vì đây là cuộc chơi mà người Nhật nắm rất rõ. Ban đầu tôi đã nghi ngờ câu chuyện về uy-thế-Trung-Quốc-trong-sản-xuất-ô-tô mãi cho tới khi tôi nghe nói về Công ty Ô tô Chery, một công ty sản xuất ô tô thuộc sở hữu nhà nước nhưng hoạt động độc lập. Gần đây, Yin Tongyao, chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty Chery đã tuyên bố với tờ Wall Street Journal rằng đến năm 2012 chỉ riêng công ty nhỏ của ông ta cũng sẽ sản xuất một triệu chiếc mỗi năm để phục vụ nhu cầu trong nước và quốc tế, so với gần 100.000 chiếc như hiện nay.
Có lẽ lý do chính khiến các chiến lược gia người Nhật cũng nghi ngờ đối với việc sản xuất thừa của Trung Quốc là hiện nay Trung Quốc chỉ ở mức phát triển tương tự như Nhật những năm 1960. Trong suốt khoảng thời gian đó nền kinh tế Nhật Bản tăng 10% mỗi năm, dẫn đầu là ngành sản xuất thép. Khi Nhật đạt đến mức năng suất dư thừa mà bong bóng thép bắt đầu xẹp xuống thì tỉ lệ tăng trưởng bình quân mỗi năm của Nhật đã giảm từ 10% xuống còn 4%.
Tất cả những điều này đều giống với lý thuyết đen tối (Dark Theory) của Nhật về Trung Quốc. Vài năm sau, tại một bữa tối ở Tokyo với một vài quan chức chính phủ Nhật (không thuộc Bộ Tài chính), cuộc thảo luận của chúng tôi đều xoay quanh Trung Quốc. Sau một chầu rượu dường như không bao giờ kết thúc, một trong số các vị quan chức đã than phiền rằng sau tất cả những thất bại trong việc đầu tư của Nhật vào Mỹ vào cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990 (dẫn đầu là khoản đầu tư vào Trung tâm Rockfeller), các công ty của Nhật dường như cũng đang thua lỗ ở Trung Quốc. Vị quan chức đó nói thêm rằng: “Các công ty của chúng tôi đã dừng phần lớn các khoản đầu tư ròng trực tiếp vào Trung Quốc. Thật khó để kiếm được lợi nhuận. Việt Nam hấp dẫn hơn nhiều nhờ thị trường nhân công rẻ”. Tôi nhanh chóng cảm thấy đỡ buồn hơn về vụ Xi măng Trung Quốc!
Cuộc nói chuyện không kết thúc tại đó (và những chầu rượu cũng vậy). Cuộc nói chuyện còn trở nên sôi nổi hơn. Đó là khi một vị quan chức nêu ra cái mà tôi gọi là “Lý thuyết đen tối” của Nhật Bản về Trung Quốc, một kiểu nói chuyện mà người ta chỉ nghe thấy vào đêm khuya khi những chiếc lưỡi trở nên mềm ra và người ta ở trạng thái hơi ngà ngà say do uống nhiều rượu sa-kê. Đại loại lý thuyết này như sau: bộ máy lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc đã biết họ không thể đạt được mục tiêu kinh tế của mình mặc dù hiện tại có những tiến bộ kinh tế to lớn. Thậm chí dưới những điều kiện thuận lợi, việc đạt được mức tăng trưởng 10% và tỷ lệ đầu tư 40% trong 25 năm liên tục dường như là một mục tiêu gần như không thể thực hiện được, mục tiêu đó càng bất khả thi hơn khi hàng trăm triệu công nhân mới muốn được làm việc tại các thành phố. Nhưng nhiệm vụ của Trung Quốc thậm chí còn đáng nản lòng hơn vì một lý do khác nữa - vấn đề nhân khẩu.
Trong khi châu Âu, Nhật Bản và, ở mức độ thấp hơn, Mỹ phải đối mặt với áp lực về nhân khẩu nghiêm trọng thì nhiệm vụ của họ vẫn đơn giản hơn nhiều so với nhiệm vụ của Trung Quốc. Ở đây, chính sách một con đã tạo ra một con “quái vật nhân khẩu” (mặc dù một vài nhà phân tích tranh luận rằng vấn đề nhân khẩu của Nhật cũng khó giải quyết như vậy). Đến năm 2045, cứ ba người Trung Quốc sẽ có một người ở độ tuổi nghỉ hưu. Như nhà phân tích Chi Lo đã viết trong tạp chí The International Economy, khi lực lượng lao động thu hẹp lại nhanh hơn dân số, mức sống chắc chắn sẽ giảm sút, tạo ra một phản ứng dây chuyền luẩn quẩn. Dây chuyền đó bắt đầu với một mức lợi nhuận trên vốn thấp hơn. Điều này đã làm giảm tổng lượng vốn và mức sống. Vẫn vị quan chức Nhật Bản đó nói: “Chúng tôi ngờ rằng mục tiêu của các nhà lãnh đạo (Trung Quốc) trong tình huống này là phản ứng như hầu hết mọi người có quyền lực vẫn phản ứng - tìm cách giữ quyền lực. Hiện nay họ có khả năng thanh toán bằng tiền mặt rất cao và một khoảng thời gian khoảng hai mươi năm trước khi vấn đề nhân khẩu bắt đầu. Chúng tôi ngờ rằng họ sẽ sử dụng tính thanh khoản đó để hiện đại hóa và củng cố quân sự, không chỉ cho những mục tiêu đối ngoại đơn thuần, mà còn giống như quân đội Saudi với mục tiêu chính là để duy trì trật tự trong nước” (Ở Saudi Arabia, lực lượng an ninh lớn của quốc gia được tập trung vào việc kiểm soát 30% dân tộc thiểu số Shiite, những người tình cờ sống gần những mỏ dầu quan trọng nhất của nước này!).
Lưu ý rằng cuộc nói chuyện ở Tokyo đã xảy ra vào trước tháng Ba năm 2007. Tôi biết vì lúc đầu tôi nghi ngờ lý thuyết đen tối về Trung Quốc. Sau đó, vào ngày 4 tháng Ba năm 2007, chính phủ Trung Quốc tuyên bố kế hoạch tăng chi tiêu cho quân sự thêm một khoản lớn bất thường bằng 18% trong năm tới, một đợt tăng chi tiêu cho quân sự lớn nhất được tuyên bố trong vòng một thập kỷ. Giống như hầu hết các dữ liệu tại Trung Quốc, con số thực có thể cao hơn đáng kể. Ý nghĩ ngay lúc đó của tôi là: họ đang bảo vệ căn cứ quyền lực của mình. Thuyết Đen tối có thể đúng.
Tới đây, bạn có thể tự hỏi người Nhật đang “bôi đen” điều gì vậy? Nói gì thì nói, Trung Quốc tượng trưng cho một câu chuyện thành công về kinh tế có tầm vóc thế giới. Bằng cách tiếp tục giữ giá đồng nhân dân tệ, xuất khẩu đã tăng vọt lên mức 30% một năm trong khi mức tăng trưởng của nhập khẩu chậm hơn rất nhiều. Vậy có gì không ổn khi Trung Quốc vừa nắm giữ 15% tổng nợ của Mỹ vừa để hơn một nghìn tỷ đô la trong các khoản dự trữ của chính phủ - một khoản quỹ đen của chính phủ - với 90% số đó được giữ bằng các tài sản tương đối an toàn của Mỹ? Việc có hơn một nghìn tỷ đô la tiền dự trữ trong khi vẫn kiểm soát về mặt hành chính đối với tỷ giá hối đoái chẳng khác nào một hợp đồng bảo hiểm trong tình hình tài chính toàn cầu đang sụp đổ. Có gì để bạn không thích?
Câu trả lời là các đồng nội tệ bị cố ý định giá thấp và việc xây dựng nguồn dự trữ lớn đã thể hiện tình trạng méo mó lớn đối với hệ thống tài chính toàn cầu. Sự méo mó này không chỉ tạo ra những bong bóng tài chính mà còn khiến cho nhiệm vụ kiểm soát lạm phát và quản lý hệ thống kinh tế của chính các quan chức Trung Quốc trong suốt thời kỳ bong bóng vỡ tung trở nên khó khăn hơn. Những lực lượng cân bằng thị trường lành mạnh cần thiết để duy trì sự ổn định tài chính trên toàn cầu vẫn bị triệt tiêu ảnh hưởng bởi sự can thiệp của chính phủ nhằm mục đích thao túng tiền tệ (currency manipulation).
Những ý trên không hề phủ nhận rằng thành quả kinh tế của Trung Quốc là rất ấn tượng. Trung Quốc đã trở thành điểm cuối cùng trong dây chuyền sản xuất khổng lồ các sản phẩm giá thấp đầy thành công của châu Á. Cỗ máy này đã chuyển một phần lớn các thành phẩm sang Mỹ. Kết quả là hơn một nửa lượng hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc bắt nguồn từ các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này có nghĩa là những sản phẩm này được dùng để tái xuất khẩu như những thành phẩm[46]. Hơn một nửa lượng sản phẩm xuất khẩu của Trung Quốc được sản xuất từ các nguyên vật liệu nhập từ các nước khác của châu Á. Hiện tượng này đã kiến cho châu Á trở thành một khu vực có khả năng cạnh tranh đặc biệt trên toàn thế giới vì nguồn nhân công tương đối rẻ gây áp lực giảm giá.
Trong quá trình vận hành cỗ máy sản xuất khổng lồ đang phát triển này, người Trung Quốc tiêu thụ hay tích trữ 1/3 lượng cung cấp thiếc, than, kẽm và quặng sắt hàng năm của thế giới. Đồng thời, nó cũng đã tạo ra những mối quan hệ rắc rối với các nước xuất khẩu dầu mỏ vô cùng tàn bạo, bao gồm Sudan và Angola. Những liên minh này đã khiến Trung Quốc có phần tách biệt khỏi cộng đồng thế giới. Chính phủ Mỹ đã thẳng thắn phê phán Trung Quốc vì đã không triệt để ngăn chặn những hoạt động vô nhân đạo, kêu gọi nước này hãy là một “chủ thể có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế.
Bất chấp những lời chỉ trích này, chiếc xe tải hạng nặng Trung Quốc vẫn tiếp tục tiến lên phía trước. Ít nhất có hơn 100 triệu công nhân Trung Quốc hiện nay đã kiếm được hơn 5.000 đô la Mỹ mỗi năm. Con số đó nghe có vẻ không nhiều nhưng Reed Hundt trong cuốn tạp chí Nước Mỹ (America) đã chỉ ra rằng: tầng lớp trung lưu Trung Quốc không chỉ bằng khoảng 2/3 tổng lực lượng lao động Mỹ mà mức sống của họ cũng giống mức sống trung bình của người Mỹ ở nhiều mặt, bởi vì ở Trung Quốc giá trị tương đương với 1 đô la Mỹ có thể dùng được vào khá nhiều việc. Ví dụ, người cư trú trong những căn hộ ở Thượng Hải mỗi tháng chỉ phải trả 5 đô la Mỹ cho dịch vụ truyền hình cáp và điện thoại. Máy tính cá nhân giá 200 đô la Mỹ. Ở Bắc Kinh, tầng lớp trung lưu có đủ tiền thuê người giúp việc gia đình để lau dọn, nấu nướng và phục vụ. Hãy so sánh với Mỹ và châu Âu, nơi có nhiều hộ gia đình trung lưu với hai người đi làm hay hai nguồn thu nhập[47] và phần lớn các gia đình trung lưu vẫn phải tự làm công việc nấu nướng và lau dọn.
Trong thập kỷ tới, các nhà chiến lược kinh tế hy vọng rằng thêm 200 triệu người Trung Quốc nữa sẽ có mức sống của tầng lớp trung lưu này. Ngày nay, người Trung Quốc tiêu thụ bằng khoảng 1/3 lượng tiêu thụ của người Mỹ (xét về khía cạnh vật chất). Trong vòng hai thập kỷ, với giả thiết những xung đột chính trị căng thẳng được ngăn chặn, và thêm vài trăm triệu người nữa gia nhập vào tầng lớp trung lưu, thì người tiêu dùng Trung Quốc sẽ trong quá trình gây ảnh hưởng đến những xu hướng và công nghệ toàn cầu như những gì mà hiện nay Mỹ đang làm.
Hơn nữa, không thể phủ nhận rằng ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc đối với các nước khác trên thế giới, ít nhất là cho đến nay, cũng khá tích cực. Khả năng kết hợp tỉ giá hối đoái danh nghĩa gắn chặt (neo) với đồng đô la của Trung Quốc cùng với mức lạm phát trong nước thấp và sự tăng trưởng năng suất nhanh chóng trong thập kỷ trước đã giúp giữ mức lạm phát trên khắp thế giới và tỉ lệ lãi suất ngắn hạn ở mức thấp. Trên thực tế, hàng xuất khẩu giá rẻ của Trung Quốc đã giúp kiềm chế lạm phát cơ bản (core inflation) của Mỹ. Không có các mặt hàng xuất khẩu như vậy, lạm phát cơ bản của Mỹ có thể cao hơn rất nhiều. Tuy nhiên, vấn đề từ đây trở đi là: mức tăng giá dầu và hàng hóa bao gồm cả giá thực phẩm do nhu cầu của người Trung Quốc và các nước đang phát triển khác tăng lên đang bắt đầu làm lộ rõ các kỳ vọng lạm phát khắp các nước công nghiệp.
Ít nhất trên lý thuyết, tương lai của Trung Quốc có vẻ sáng sủa. Tiết kiệm vượt trội của Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng lên. Trong khi tiết kiệm cá nhân của Trung Quốc đã giảm sút thì tiết kiệm của các công ty dưới hình thức lợi nhuận không chia lại tăng lên nhanh chóng. Tại Trung Quốc, tiền tiết kiệm của công ty hiện tại đang cao hơn tiết kiệm cá nhân. Niall Ferguson, một giáo sư tại Harvard, và nhà kinh tế học London Moritz Schularick lập luận rằng các công ty Trung Quốc “đã thu được lợi nhuận lớn trên thị trường, dẫn đến những khoản tiền lãi kỷ lục cho công ty… Các nhà sản xuất Trung Quốc đã tiếp tục thu được những khoản lợi nhuận lớn với sự cạnh tranh về giá (được trợ giúp bởi thực tế rằng) đồng nhân dân tệ hiện nay rẻ hơn bao giờ hết”.
Các chuyên gia ngoại suy chuyên nghiệp đã dự đoán về tiềm năng chi phối toàn cầu của Trung Quốc. Hundt nói rằng trong khi không ai biết được ảnh hưởng của Trung Quốc, “nếu châu Á như bóng đêm phủ xuống một ngày hè dài ở phương Tây thì tình hình sẽ như thế này: Các công ty của Trung Quốc và các nước phương Đông khác sẽ sản xuất hầu như mọi thứ cho hầu hết mọi người trên thế giới, và không ai khác có thể nói hay làm gì nhiều về điều đó”.
Tác động của các diễn biến ở Trung Quốc là rất lớn. Nhưng vấn đề không phải là Trung Quốc có phát triển hay không; mà là Trung Quốc có đang phát triển quá nhanh hay không? Trong khi các dữ liệu của Trung Quốc không hoàn toàn đáng tin cậy thì dường như người Trung Quốc, để ngăn chặn những căng thẳng chính trị và xã hội, đã tăng tốc sớm hơn nhiều so với các nhà phân tích phương Tây đã tưởng. Mức độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có thể cao hơn rất nhiều so với các dữ liệu chính thức. Do vậy, những cơ hội để bong bóng nổ tung và sự gia tăng bất ổn xã hội là đáng kể hơn những gì chúng ta đã nghĩ. Mọi thứ càng tăng vọt một cách thiếu thận trọng thì chúng càng có thể nhanh chóng giảm sút một cách mạnh mẽ.
Và đây là một vấn đề khác: các quan chức Trung Quốc nhấn mạnh rằng mức độ tăng trưởng 9% là mức tối thiểu cần thiết để tránh những chia rẽ về mặt chính trị. Điều gì sẽ xảy ra nếu sang thập kỷ tiếp theo mức tăng trưởng sẽ giảm xuống 7%? Đó là vẫn là mức tăng trưởng tượng trưng cho hiệu quả kinh tế phi thường ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Liệu Trung Quốc có trải qua một sự sụp đổ chính trị không? Hầu hết các chuyên gia phương Tây cho rằng nếu tỉ lệ tăng trưởng của Trung Quốc giảm sút xuống 7,5% thì nạn thất nghiệp sẽ xảy ra, khiến cho căng thẳng chính trị gia tăng và đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống kinh tế.
Hơn nữa, chưa ai xác định được những ảnh hưởng xã hội tiêu cực do sự gia tăng tỉ lệ lạm phát gần đây ở Trung Quốc. Tỉ lệ lạm phát ở Trung Quốc đã tăng vọt lên hơn 7% vào đầu năm 2008 và dường như vẫn tiếp tục tăng lên. Tỉ lệ lạm phát đang tăng lên này đã phá vỡ sức mua cá nhân trung bình của người Trung Quốc. Đối với các nước khác trên thế giới, lạm phát đang gia tăng của Trung Quốc làm tăng giá hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong vài thập kỷ trước của các thị trường được toàn cầu hóa, những hàng hóa nhập khẩu giá thấp đó đã giúp hạn chế lạm phát trong các nước công nghiệp. Ví dụ, ở Mỹ, gần 50% lượng hàng quần áo và 85% lượng hàng đồ chơi và giày dép hiện nay bắt nguồn từ Trung Quốc.
Tuy nhiên, tình hình ở Trung Quốc dường như đang thay đổi. Vào ngày 1 tháng Một năm 2008, người ta hy vọng rằng một luật mới của Trung Quốc nhằm hạn chế hoạt động thuê nhân công sẽ giúp cải thiện mức lương, nếu không phải là thiếu hụt lao động. Theo tờ New York Times, luật mới đã tạo ra những cuộc đình công và căng thẳng toàn diện giữa người lao động và người sử dụng lao động. Điều này có thể gia tăng áp lực lạm phát vào thời điểm mà các thị trường tài chính Trung Quốc dường như dễ tổn thương nhất. Mối nguy hiểm ở đây là trong lịch sử, lạm phát gia tăng có xu hướng tác động tiêu cực tới hiệu quả của các thị trường chứng khoán đang vận hành thành công.
Liệu bóng bóng kinh tế nổ tung có phải là một kết quả không thực tế? Trung Quốc hiện nay có 102,5 triệu tài khoản kinh doanh chứng khoán, với một số lượng không thể tin được là 300.000 tài khoản mới được mở mỗi ngày. Chỉ riêng năm 2006, hơn 24 triệu nhà đầu tư mới của Trung Quốc bắt đầu mua bán chứng khoán trên sàn giao dịch Thượng Hải nóng bỏng. Phần lớn những nhà đầu tư mới này là những người chưa có kinh nghiệm. Tuy sở hữu chứng khoán hay cổ phần vẫn còn hạn chế trong giới hạn gần 10% dân số nhưng dù sao nó cũng đang mở rộng với một tỉ lệ lớn.
Tuy nhiên, hệ thống thiếu sự tác động ổn định của thị trường giao sau nhằm hạn chế rủi ro. Đó là lý do tại sao chính phủ cấm các giao dịch tài sản phái sinh/tài chính trên sàn giao dịch vào năm 1995. Ví dụ, vào tháng Hai năm 2007, một sự thay đổi thị trường tưởng chừng bình thường đã khiến cho Chỉ số Chứng khoán Thượng Hải Composite giảm hơn 9% trong một ngày (có tin đồn lan truyền rằng chính phủ, để làm xẹp bong bóng cổ phẩn đang phình lên nhanh chóng, đã chuẩn bị bán cổ phần ở những công ty lớn nhất Trung Quốc). Trước tin tức đó, chỉ số Dow cũng giảm hơn 400 điểm. Và đây là điểm khởi đầu của một hiện tượng mà ở đó hệ thống tài chính không minh bạch của Trung Quốc trở nên gắn chặt với hệ thống tài chính thế giới. Trong vòng 5 năm tới, trong một cuộc khủng hoảng, những diễn biến tài chính ở Trung Quốc sẽ gây ảnh hưởng lớn đối với tài chính toàn cầu. Thậm chí bây giờ, thị trường chứng khoán Trung Quốc vẫn còn đắt đỏ dưới mọi hình thức. Đến đầu năm 2008, hệ số giá trên thu nhập (hệ số P/E) một cổ phần ở thị trường Thượng Hải đã đạt mức cao hơn so với thị chứng khoán Nhật Bản ngay trước khi thị trường này sụp đổ cách đây hơn một thập kỷ. Thời gian sau đó, thị trường Trung Quốc cũng giảm mạnh từ điểm cao của nó.
Hãy nhìn vào những gì đã xảy ra trong suốt cuộc Đại Khủng hoảng tín dụng năm 2007-2008 như một bài học thực tế hữu ích. Ban đầu, hệ thống tài chính Trung Quốc dường như không bị ảnh hưởng gì, điều này thật kỳ lạ nếu không muốn nói là huyền bí. Nhưng ở những nơi khác thì tình hình không dễ chịu như thế. Trong khi các nước khác trên thế giới phải gồng mình chống lại những vấn đề tín dụng liên quan đến vụ lộn xộn về thế chấp dưới chuẩn thì cổ phiếu loại A của Trung Quốc (loại cổ phần chỉ thuộc sở hữu trong nước) đã tăng 20% trong suốt bốn tuần đầu của cuộc khủng hoảng năm 2007. Thật lạ khi chứng khoán vẫn tăng mạnh mặc dù một trong số những ngân hàng cho vay lớn nhất Trung Quốc, Bank of China, đã tuyên bố rằng ngân hàng này có 9,6 tỷ đô-la có khả năng rủi ro về mặt tài chính nằm trong những khoản thế chấp dưới chuẩn của Mỹ và các ngân hàng khác cũng tuyên bố có những khoản nợ xấu đáng kể.
Lẽ ra, toàn bộ thị trường Trung Quốc phải phản ánh ngay tức khắc trước tình hình nợ dưới chuẩn nghiêm trọng này. Tại sao? Trung Quốc vẫn là một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Nếu nền kinh tế thế giới sụp đổ do sự thất bại của việc cho vay dưới chuẩn (subprime fiasco) thì xuất khẩu của Trung Quốc phải là đối tượng đầu tiên chịu ảnh hưởng tiêu cực. Nhưng sau khi khủng hoảng nổ ra, thị trường cổ phiếu Trung Quốc cuối cùng đã chỉ phản ánh mối nguy hiểm rõ ràng này sau một đợt tăng trưởng khá là kỳ lạ.
Vào năm 2007, tôi đã đề nghị một số nhà chiến lược cao cấp của Ngân hàng Trung ương châu Âu đưa ra cho Trung Quốc những lựa chọn để hãm bớt tốc độ của con quái vật kinh tế khổng lồ này và đạt được điều mà các nhà kinh tế gọi là hạ cánh an toàn (soft landing) ở thời điểm mà lạm phát bắt đầu tăng mạnh ngoài tầm kiểm soát. Mục đích của hạ cánh an toàn là sự tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững nhưng được giới hạn đủ để tránh một tình huống bong bóng quá nóng và nổ tung. Các nhà chiến lược châu Âu tin rằng người Trung Quốc có bốn phương án: (1) can thiệp về số lượng (hướng dẫn về mặt hành chính cho hệ thống chẳng hạn như bằng cách ban hành sắc lệnh của chính phủ nhằm kêu gọi tiêu thụ ít hơn hoặc nhiều hơn); (2) tăng lãi suất; (3) cho phép tăng giá đồng nội tệ; và (4) nỗ lực về mặt hành chính để đẩy mạnh các luồng tài chính và kinh tế ra nước ngoài, đồng thời ngăn cản các luồng tài chính và kinh tế nhập vào (ví dụ, giảm nhập khẩu loại hàng nào và bao nhiêu).
Theo quan điểm của người châu Âu, chỉ có một trong số 4 lựa chọn này là có hiệu quả - cho phép thả nổi đồng nội tệ và từ đó đồng nội tệ tăng giá. Họ chỉ rõ rằng vào thập niên 1970, cũng giống như Trung Quốc hiện nay, nước Đức đã trải qua sự tăng trưởng mạnh mẽ và những luồng vốn đầu tư vào ồ ạt. Biện pháp duy nhất có hiệu quả trong việc làm nền kinh tế chậm lại một cách an toàn là đồng nội tệ mạnh hơn. Với Đức, không một biện pháp nào khác có tác dụng. Và các quan chức châu Âu đã nhiều lần nói điều đó với người Trung Quốc. Họ cũng lập luận rằng sự lên giá mạnh mẽ của đồng nội tệ có thể là biện pháp hiệu quả duy nhất để kiểm soát lạm phát.
Nhưng để đồng nội tệ lên giá nhiều hơn không phải là điều đơn giản, dù cho tới thời điểm này đồng nội tệ đã được tăng giá thêm một chút. Trên thực tế, Mỹ và Trung Quốc, hiện đang liên kết một cách chặt chẽ với nhau, phải đối mặt với một tình huống tiền tệ mà không dễ tìm cách thoát ra được. Rõ ràng, chính phủ địa phương thích sự tăng trưởng thông qua đầu tư (trái với tiêu thụ), điều này dễ dàng kiểm soát hơn và cũng mở đường cho tham nhũng. Rõ ràng, nếu Bắc Kinh ngăn chặn sự can thiệp của ngân hàng trung ương đối với thị trường thì đồng nhân dân tệ sẽ mạnh hơn một cách đáng kể và hàng hóa nước ngoài bán ở Trung Quốc có thể sẽ được bán với giá cạnh tranh hơn. Nhưng bằng cách cho phép đồng nhân dân tệ được tăng giá mạnh hơn, các doanh nghiệp nhà nước không có khả năng cạnh tranh hay không hiệu quả ở Trung Quốc sẽ có nguy cơ sụp đổ, gây ra tình trạng thất nghiệp tràn lan (thặng dư thương mại của Trung Quốc thể hiện một con số đáng ngạc nhiên, tương đương 1/7 GDP). Tuy nhiên, chính vì đồng nội tệ được giữ ở mức thấp giả tạo, trong khi tỉ lệ tiết kiệm của Mỹ thấp và lượng dầu nước này mua vào lại quá lớn nên thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ đã tăng ở mức cao khác thường, khoảng hơn 5% GDP. Tình hình mất cân bằng này không có lợi cho cả Trung Quốc và Mỹ.
Tuy nhiên, không phải là các quan chức Mỹ tự mãn. Mỹ đã mời giám đốc điều hành của công ty Goldman Sachs là Hank Paulson, một người có ảnh hưởng quan trọng thực sự trên thị trường và rất được tôn trọng tại Phố Wall tới cứu nguy và nhậm chức bộ trưởng Bộ tài chính vào tháng Bảy năm 2006. Mặc dù Paulson hiểu rõ các thị trường tài chính nhưng ông được lựa chọn do một nguyên nhân khác - ông là một chuyên gia về Trung Quốc, đã đi công tác ở đó hơn 70 lần! Chính tổng thống Bush đã lựa chọn Paulson để “một mũi tên bắn chết hai con chim”. Paulson có thể làm cho các thị trường tài chính trong cuộc khủng hoảng dịu lại. Thêm vào đó, ông ấy có thể hiểu thấu cả những ngõ ngách bên trong chính quyền Trung Quốc và bắt đầu giải quyết hàng loạt các vụ tranh chấp song phương, bao gồm cả mối quan hệ giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la.
Đến đầu tháng Mười Hai năm 2006, Paulson đã quyết định bắt đầu hành động. Trước đó hơn 35 dự luật thương mại đã được đưa ra tại Capital Hill[48], chủ yếu nhằm trừng phạt chính quyền Trung Quốc vì việc thao túng tiền tệ. Paulson đã tổ chức một đoàn đại biểu cao cấp nhất của Mỹ sang thăm Trung Quốc kể từ khi Richard Nixon nhậm chức. Hầu hết nội các của ông Bush và ngay cả vị chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang còn đang do dự Ben Bernanke cũng khởi hành sang Bắc Kinh. Và chính phủ Trung Quốc đã phản ứng như thế nào? Paulson trở về nước mà không đạt được kết quả gì và bộ trưởng Bộ tài chính cũng không thu lượm được gì ngoài sự trả đũa của Trung Quốc trong 2 lĩnh vực có ảnh hưởng lớn ở Washington - dịch vụ tài chính và nông nghiệp. Nếu Trung Quốc chấm dứt hoặc cắt giảm việc mua hàng nông nghiệp của Mỹ và hạn chế các hoạt động đầu tư tài chính của Mỹ ở Trung Quốc thì nền kinh tế Mỹ sẽ bị thiệt hại lớn.
Trong cuộc họp tại Nhà Trắng của Tổng thống Bush vào đầu tháng Mười Hai năm 2006, một quan chức đột nhiên nói về chuyến đi của Paulson. Vị quan chức này, rõ ràng không phải là người ngưỡng mộ Paulson, đã thể hiện sự ngạc nhiên rằng đội ngũ các quan chức Trung Quốc mà ông ấy đã gặp, theo như ông ấy nói, “thật ngạc nhiên là không có gì khác với những người mà John Snow không may mắn (cựu bộ trưởng Bộ tài chính) sẽ gặp nếu ông ấy còn đương nhiệm”. Phái đoàn đã gặp gỡ với Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên (Zhou Xiaochuan) và Phó Thủ tướng Ngô Nghi (Wu Yi), nhưng những người có quyền lực thực sự lại không xuất hiện. Không có những người đang nắm giữ ảnh hưởng ngầm (mặc dù đôi khi người ta cũng nghe ông Chu Tiểu Xuyên).
Bộ tài chính Mỹ đã chính thức giải thích cho phản ứng thiếu tôn trọng của Trung Quốc bằng lý do rằng Trung Quốc đang trong tình trạng chính trị lộn xộn có thể sẽ chưa được giải quyết trong một vài năm tới. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, với số ít phiếu ủng hộ trong Hội đồng Nhà nước, có thể đang đẩy nhanh cải cách tiền tệ nhưng những người còn lại trong Hội đồng thì lại lo lắng về sự lộn xộn ở các tỉnh nằm sâu trong nội địa do tình trạng mất thị trường và việc làm ở toàn bộ các ngành công nghiệp nhỏ lẻ, ít quan trọng. Khi tôi đặt câu hỏi cho các quan chức Mỹ có liên quan, họ thường biện hộ cho việc không hành động kịp thời của mình bằng lý do: “Chúng tôi sẽ chờ một cuộc cải tổ nhân sự”. Mặc dù ta không nên đánh giá thấp một người có bản sơ yếu lý lịch như Hank Paulson nhưng lời đãi bôi về việc cải cách tiền tệ của Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục kéo dài lâu hơn rất nhiều so với chúng ta nghĩ. Các quan chức châu Âu phản đối Trung Quốc trong vấn đề tiền tệ cũng đã phải đối mặt với một bức tường kiên cố tương tự của Bắc Kinh.
Có một lý do khác cho sự kháng cự này: các doanh nghiệp trong nước (thường là các doanh nghiệp nhà nước) hoạt động thiếu hiệu quả nhưng có quyền lực chính trị rất lo sợ các ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng giá đồng nội tệ đột ngột. Ngày nay, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc chỉ thuê 3% lực lượng lao động (khoảng 25 triệu công nhân) nhưng lại đóng góp lên tới 55% lượng hàng hóa xuất khẩu, 80% mức tăng trưởng xuất khẩu, 22% GDP và 41% mức tăng trưởng GDP. Trái lại, các công ty có vốn nội địa thuê 97% nguồn nhân lực (775 triệu công nhân) nhưng chỉ tạo ra 45% lượng hàng hóa xuất khẩu và 78% GDP. Đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, năng suất lao động có thể cao gấp 9 lần so với năng suất của khu vực có vốn nội địa.
Chính vì vậy, giới lãnh đạo Trung Quốc kiên quyết phản đối việc tiếp tục nâng giá đồng nội tệ lên cao hơn nữa vì một lý do duy nhất - mọi người đều cho rằng việc tăng giá đồng nhân dân tệ một cách đột ngột có thể hủy hoại tính cạnh tranh trong xuất khẩu của những công ty trong nước (rất nhiều trong số đó là công ty nhà nước) vốn hoạt động với năng suất thấp. Hơn nữa, yếu tố cần thiết cho việc tăng năng suất của 97% nền kinh tế này (tức là các công ty có vốn nội địa) sẽ không thể có trong một sớm một chiều - một chính sách tiền tệ độc lập đòi hỏi sự hiện đại hóa hoàn toàn hệ thống tài chính. Điều này thường bao gồm việc dỡ bỏ ngay lập tức các ngân hàng quốc doanh mục nát, điều chắc chắn sẽ không xảy ra vì lý do chính trị.
Một câu hỏi liên quan nữa là liệu việc nâng giá đồng nội tệ của Trung Quốc có làm giảm đáng kể sự mất cân bằng cán cân thương mại lớn của Mỹ không. Morris Goldstein và Nicholas Lardy của Viện Nghiên cứu Kinh tế Quốc tế Peterson lập luận rằng các nhà xuất khẩu Trung Quốc sẽ không dễ bị tổn hại do sự thay đổi về tỉ giá hối đoái vì ở Trung Quốc không có mức lương sàn. Mức lương thấp hơn có thể bù cho những ảnh hưởng của đồng nội tệ mạnh lên, nghĩa là trừ khi những căng thẳng xã hội và tình trạng lao động lộn xộn ngày càng gia tăng không làm những hạn định trong việc thuê mướn và sa thải nhân công tăng lên, từ đó thiết lập một mức lương sàn. Và như đã đề cập trước đó, những hạn định về nhân công này chỉ mới sắp xảy ra. Tuy nhiên, trong các ngành công nghiệp tiên tiến hơn và công nhân buộc phải có những kỹ năng kỹ thuật tinh vi thì các công ty Trung Quốc lại lâm vào tình trạng thiếu lao động thực sự, một diễn biến có xu hướng sẽ tạo ra một mức lương sàn.
Cũng có thể là thói quen chi tiêu và tiết kiệm của người Mỹ không dễ bị chi phối bởi thu nhập hoặc sự gia tăng của giá cả trong trường hợp mua hàng nhập khẩu. Nói cách khác, vì tinh thần lạc quan cố hữu, người Mỹ có thiên hướng tiêu thụ mạnh mẽ. Bất kể họ có nhiều tiền hơn hay không hay giá cả thế nào, họ dường như vẫn kiên quyết tiêu mọi thứ họ có, và có thể còn tiêu nhiều hơn những gì họ có. Đó là lý do tại sao giải pháp cho vấn đề mất cân bằng tài khoản vãng lai đòi hỏi cả Mỹ và Trung Quốc phải cùng nhau giải quyết vấn đề mất cân đối bằng cách tái cân bằng mối quan hệ tiêu thụ - tiết kiệm. Giải pháp này đòi hỏi nhưng không bị giới hạn vào sự điều chỉnh tỉ giá hối đoái theo chiều hướng đi lên của Trung Quốc.
Tất nhiên, đúng là đồng nội tệ của Trung Quốc đã được phép nâng giá từ năm 2006, chỉ nhìn bề nổi thì điều này đã đem đến cho Mỹ một vị thế tốt hơn đáng kể đối với lượng hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài thực tế. Nhưng đồng nội tệ Trung Quốc không được phép tăng giá đủ tầm.
Tôi ngờ rằng một điều, và chỉ duy nhất một điều, sẽ làm ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định về đồng nội tệ. Thậm chí, điều đó có thể thay thế cho mối quan tâm về ảnh hưởng tiêu cực của đồng nội tệ mạnh đối với các công ty nội địa lớn của Trung Quốc. Vấn đề đó chính là lạm phát. Khi lạm phát tiếp tục leo thang ở Trung Quốc, đặc biệt là khi nó ảnh hưởng đến khu vực sản xuất lương thực và may mặc thì hậu quả của nó có thể sẽ tạo ra những căng thẳng xã hội thậm chí còn lớn hơn. Cuối cùng, giới lãnh đạo Trung Quốc có thể bị buộc phải đối mặt với hai sự lựa chọn đầy khó khăn: hoặc là bảo vệ các doanh nghiệp nhà nước và nội địa để rồi phải chấp nhận những hậu quả của lạm phát tăng cao gây bất ổn chính trị và xã hội, hoặc là chấp nhận một đồng tiền mạnh hơn để điều tiết nền kinh tế và có cơ hội kiểm soát lạm phát nhưng lại gây nguy hại cho sự sống còn của nhiều doanh nghiệp nhà nước, ít nhất là theo suy nghĩ của các quan chức. Sau khi đã quyết định thì sự lựa chọn này có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế toàn cầu.
Một trong những chủ đề rộng hơn của cuốn sách này là chỉ ra rằng thành công trong kinh tế bắt nguồn từ những cải cách không ngừng của một đội ngũ các doanh nhân dám đương đầu với thử thách, những người giúp nền kinh tế tiếp tục đổi mới chính mình. Nếu vậy thì Trung Quốc nên có một đội ngũ doanh nhân năng động và dám chịu rủi ro. Bề ngoài, Trung Quốc có vẻ là một thiên đường cho các doanh nhân trên thế giới vì ở nơi này, việc thực hiện giao dịch trên thị trường và chấp nhận rủi ro trong kinh doanh dường như đã trở thành một phần quá quen thuộc của quốc gia. Nhưng cũng giống như hầu hết mọi thứ ở Trung Quốc, tình hình này còn phức tạp hơn nhiều. Như nhà kinh tế học của trường Đại học Columbia, Jagdish Bhagwati, đã nói: “Vì Trung Quốc có một chế độ toàn trị nên nước này không thể được hưởng lợi hoàn toàn từ cuộc cách mạng thông tin, do đó kiềm chế công nghệ trong khi hiện nay công nghệ đang là trung tâm của phát triển. Quả thực, các doanh nhân Trung Quốc đã chứng tỏ mình là những nhà tư bản đáng sợ trên khắp châu Á, nhưng ngay chính tại Trung Quốc, triển vọng của họ lại bị hạn chế.
Một trong những đặc quyền của việc làm chủ một tờ tạp chí là các nhà xuất bản thường xuyên gửi sách của họ về để viết bài điểm sách. Vào một ngày lạnh buốt đầu năm 2007, tôi đang ngồi trong văn phòng của mình tại Washington đọc một cuốn sách mới có tên là Wikinomics: Sự Cộng Tác Đại Chúng Đã Làm Thay Đổi Thế Giới Như Thế Nào (Wikinomics: How Mass Collaboration Changes Everything) của Don Tapscott và Anthony D.Williams. Như đã nêu trước đó, luận đề “thay đổi từ dưới lên” của cuốn sách cho rằng:
Công nghệ thông tin ngày càng phổ biến đã đặt các công cụ cần thiết để hợp tác, tạo ra giá trị và cạnh tranh vào trong tầm tay của tất cả mọi người. Chúng giải phóng con người để họ tham gia vào hoạt động đổi mới và tạo ra của cải trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Hàng triệu người đã tham gia vào các quan hệ hợp tác tự tổ chức để tạo ra hàng hóa và dịch vụ mới, có khả năng cạnh tranh với hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp lớn nhất, có nguồn vốn dồi dào nhất thế giới. Phương thức đổi mới và tạo ra giá trị mới này được gọi là “sản xuất đồng đẳng”. Phương thức này mô tả những điều xảy ra khi đông đảo quần chúng và hàng loạt các công ty cởi mở hợp tác để đưa sự đổi mới và phát triển vào các ngành công nghiệp của họ.
Khi đọc những câu này, tôi nghĩ rằng điều mà tác giả thực sự muốn nói là hiện nay, Internet đại diện cho phương tiện mới để tái đổi mới doanh nghiệp từ dưới lên, mang tính hợp tác và đại chúng. Điều đó rất có ý nghĩa. Cuộc sống của các con tôi, những thanh niên đang ở độ tuổi ngoài 20, gắn liền với Internet. Ví dụ, nếu tôi nói tôi đã đọc một bài báo rất hay trên tờ Washington Post, thì ngay cả khi tờ báo nằm ngay bên cạnh chúng, chúng sẽ vẫn theo thói quen đứng dậy và đi sang phòng máy tính để tìm bài viết đó. Trong thập kỷ sắp tới, văn hóa doanh nghiệp vốn đã mạnh mẽ sẽ được tiếp thêm sức mạnh, lật ngược nền kinh tế trong hiệp hai của cuộc cách mạng doanh nghiệp theo chủ nghĩa dân túy “trực tuyến”.
Khi tôi đang suy ngẫm về cuốn sách thú vị này thì tôi đột nhiên nhìn thấy một dòng tóm tắt tin chính chạy trên màn hình của kênh Bloomberg trên bàn làm việc của mình. Dòng tin dường như kỳ lạ đến mức không thể tin được, nó quá lạc hậu so với hệ thống toàn cầu hóa hiện nay, đại loại là: “Chủ tịch Trung Quốc yêu cầu đẩy mạnh công tác kiểm duyệt Internet”. Lý do chính trong lời giải thích của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào với Bộ Chính trị thuộc Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản là chính phủ đang đẩy mạnh các kế hoạch nhằm cố gắng kiểm soát Internet. Ông nói rằng chính phủ sẽ bổ sung “các công nghệ tiên tiến mới” để đảm bảo rằng nội dung Internet cổ xúy cho “sự phát triển của nền văn hóa chủ nghĩa xã hội… và an ninh của quốc gia” giữa những vấn đề khác.
Tất nhiên, ý định của ông Hồ Cẩm Đào không kiềm hãm sự đổi mới doanh nghiệp. Trái lại, giới quan chức thực ra đang cố gắng làm những điều ngược lại, và những nỗ lực để thiết lập quyền sở hữu cá nhân và một hệ thống thuế đồng nhất hơn là những ví dụ cụ thể. Đơn giản là việc cố gắng kiểm soát Internet sẽ đe dọa văn hóa sáng kiến cách tân doanh nghiệp từ dưới lên. Các quan chức dường như không biết biện pháp nào tốt hơn. Rắc rối nhất là họ không thể hiểu được vai trò thiết yếu của tự do trong quy trình của doanh nghiệp.
Ở Trung Quốc, rất nhiều năng lượng chính trị nguyên thủy của Quảng trường Thiên An Môn đã được khôn khéo hướng vào việc kinh doanh và tránh xa sự thay đổi chính trị. Nhưng dạng tinh thần doanh nghiệp này khác với những gì chúng ta biết ở phương Tây. Reed Hundt đã láu lỉnh nói rằng ở Mỹ, doanh nhân phá vỡ trật tự; còn ở Trung Quốc, các doanh nhân lại duy trì trật tự: “Giới doanh nhân lấp chỗ trống từng bị chiếm lĩnh bởi hệ thống sản xuất của nhà nước”.
Có thể, các doanh nhân Trung Quốc thấy việc kiểm soát Internet là điều có thể chấp nhận được bởi vì họ thường bị buộc phải hợp tác với các quan chức trong chính phủ (ví dụ như những người giúp họ không phải tuân theo những hạn định về môi trường khi việc thải ra các chất gây ô nhiễm tăng lên theo cấp số nhân). Thậm chí một số doanh nhân còn là đảng viên Cộng sản. Người ta ước tính rằng thấp nhất là 17% và cao nhất là 76% giới doanh nhân hiện là đảng viên.
Một vài chuyên gia đã cũng đưa ra những đánh giá tương tự khi cho rằng số doanh nhân của Trung Quốc đã đạt đến đỉnh điểm vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Từ đó, đặc biệt là ở các thành phố, những chiếc vòi bạch tuộc của chế độ quan liêu đã từ từ bám chặt vào hệ thống doanh nghiệp. Ví dụ, năm 1999, 32 triệu người được xếp vào danh sách những người “tự làm việc cho mình” (self-employed). Đến năm 2004, con số này đã giảm xuống còn 24 triệu người, cho thấy khả năng rằng giai đoạn tăng trưởng kinh tế phi thường gần đây bắt nguồn từ lợi ích của đồng nội tệ rẻ và sự cắt giảm chi phí trong nước nhiều hơn là từ cuộc cách mạng đổi mới doanh nghiệp liên tục. Nếu vậy thì Trung Quốc đang gặp nhiều rắc rối hơn chúng ta nghĩ.
Do vẫn phụ thuộc rất nhiều vào những bí quyết công nghệ của nước ngoài nên người Trung Quốc hiện nay chi ra thế giới nhiều tiền hơn nhằm cố gắng chi phối túi tiền của giới lãnh đạo công nghệ và doanh nghiệp, đồng thời mua từ nước ngoài những thứ mà trong nước không thể sản xuất được. Một số nhà phân tích gọi nỗ lực này là để tạo dựng một “tập hợp các nhà vô địch”, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may, dầu, hóa chất và công nghệ thông tin. Đây là nỗ lực cuối cùng - và dường như vô ích nhất - nhằm tiếp tục kiểm soát và kìm hãm một quy trình năng động mà xét về mặt bản chất thì quá trình này không thể kìm hãm được. Vấn đề chủ yếu là công nghệ mới thường nhanh chóng bị lỗi thời. Ngay khi mực trên bản hợp đồng mua công nghệ tiên tiến nhất được đàm phán trong thời gian rất dài vừa mới khô thì một bước đột phá mới ở một nơi nào đó trên thế giới sẽ ngay lập tức khiến công nghệ đó trở nên lỗi thời.
Liệu những dự đoán rằng một ngày nào đó Trung Quốc sẽ chi phối cả thế giới có chính xác hơn những dự đoán trước đó rằng Nhật Bản, Pháp, Nga và Argentina sẽ bước lên vị trí hàng đầu không? Có thể. Nhưng đừng bỏ qua Ấn Độ, một ứng cử viên nặng ký. Tôi đã tránh viết một chương riêng về Ấn Độ vì nền kinh tế của nước này so với nền kinh tế của Trung Quốc thể hiện một mối đe dọa thấp hơn nhiều đối với hệ thống toàn cầu. Ấn Độ không phải là một nhà xuất khẩu tư bản chính. Trong số gần một tỉ dân của nước này, chỉ gần 5 triệu người làm việc trong lĩnh vực sản xuất. Ấn Độ không phải là mối đe dọa đối với thế giới nhiều như mối đe dọa từ chính Trung Quốc.
Việc Trung Quốc đạt được tỉ lệ tăng trưởng kinh tế 10% trong hơn một thập kỷ là điều chưa từng thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nhưng ít người biết rằng Ấn Độ có thể trong tư thế sẵn sàng để đạt được một thành tích tương tự trong tương lai gần. Trong những năm gần đây, Ấn Độ đã đạt được một tỉ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm rất ấn tượng 8% hoặc hơn thế nữa.
Rõ ràng là nền kinh tế Ấn Độ với tầng lớp trung lưu đông đảo biết nói tiếng Anh và được giáo dục tốt đang trong giai đoạn khởi sắc. Nếu Trung Quốc là nhà máy của thế giới thì Ấn Độ là văn phòng điều hành[49] của thế giới. Nhìn chung, văn phòng điều hành mang đến sự ổn định lâu dài hơn so với nhà máy. Trong khi mô hình của Trung Quốc phụ thuộc vào các nhân tố khả biến bên ngoài không thể dự đoán được và không hoàn toàn kiểm soát được là xuất khẩu và dòng đầu tư kỹ thuật trực tiếp từ nước ngoài vào, thì Ấn Độ lại được hưởng một nền kinh tế được dẫn dắt chủ yếu bằng nhu cầu trong nước mặc dù có nhiều luồng vốn ngắn hạn đầu tư vào hơn. Hơn nữa, Ấn Độ đang hoạt động theo một bộ luật kiểu Anglo-Saxon tương đối đáng tin cậy. Mặc dù không hoàn hảo đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhưng bộ luật này vẫn là một hình ảnh đối lập với tình trạng thiếu pháp lý hay thậm chí không hiện hữu của Trung Quốc.
Trên thực tế, nền kinh tế Ấn Độ trước đây đã bị cản trở bởi lạm phát, bởi giới lãnh đạo chính trị thay đổi tương đối thường xuyên và có lẽ bởi nguyên nhân quan trọng nhất là cơ sở hạ tầng nghèo nàn. Đây cũng chính là lý do tại sao quá trình chi tiêu cho cơ sở hạ tầng lớn kéo dài một thập kỷ chưa từng thấy trong tiền lệ cuối cùng đã được khởi động (Ngày nay các nhà sản xuất của Ấn Độ gánh chịu chi phí gấp đôi cho năng lượng và gấp ba lần cho vận tải đường sắt so với các nhà sản xuất Trung Quốc vì sự khởi đầu thuận lợi của Trung Quốc trong vấn đề chi tiêu cho cơ sở hạ tầng). Trong suốt 15 năm qua, lạm phát đã giảm một cách đầy ấn tượng từ 14% xuống còn 5,5% nhưng vẫn cần được giảm hơn nữa. Một nhiệm vụ như vậy sẽ không dễ dàng đặc biệt là trong tình trạng lạm phát tiền lương trên toàn cầu như hiện nay. Hơn nữa, do ảnh hưởng của thâm hụt tài khoản vãng lai đang ngày càng gia tăng ở nước này nên Ấn Độ cũng dễ bị tổn thương hơn.
Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn là Trung Quốc, nước đã mở cửa nền kinh tế của mình vào năm 1979, đã đạt được rất nhiều thành quả trong 20 năm dẫn trước Ấn Độ, nước mới chỉ thực hiện mở cửa từ năm 1991. Song Ấn Độ có thể ở vị thế thuận lợi hơn Trung Quốc trong giai đoạn phát triển này. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Ấn Độ, hiện nay là trên 50 tỷ đô la Mỹ, gần bằng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc tại thời điểm 15 năm sau cải cách. Tăng trưởng của Trung Quốc cao hơn nhưng tăng trưởng của Ấn Độ ổn định hơn với một ngành tài chính có tiềm năng và ít chịu gánh nặng từ các khoản nợ xấu.
Ấn Độ dường như có hiểu biết hơn về công nghệ. Will Hutton, trong cuốn sách Chữ viết trên tường: Tại sao chúng ta phải coi Trung Quốc như một đối tác hay phải đối mặt với Trung Quốc như một kẻ thù (The Writing on the Wall: Why We Must Embrace China as a Partner or Face It as an Enemy) đã lập luận rằng Ấn Độ đã tiến xa hơn rất nhiều so với Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ máy tính: “Mặc dù có những khoản đầu tư đồ sộ… nhưng Trung Quốc vẫn tụt lại rất xa”. Ông đồng ý với tôi rằng những nỗ lực kiểm soát Internet của Bắc Kinh không giúp ích được gì. “Yahoo, Microsoft và Google là một phần trong chất men văn hóa của quá trình toàn cầu hóa, nhưng cả ba hãng này đều gặp phải bức tường lửa kiểm soát Internet của Trung Quốc”.
Do vậy, vấn đề không phải là Ấn Độ đã làm gì mà là có thể làm gì trong các thập kỷ sắp tới nếu nhu cầu về cơ sở hạ tầng, luật lao động hạn chế và những rào cản của sự phát triển được sửa đổi nhanh chóng như chính phủ đã hứa. Cũng cần lưu ý rằng nếu ngành sản xuất đạt đến điểm bão hòa trên toàn cầu và Trung Quốc nỗ lực cạnh tranh trên toàn cầu trong lĩnh vực dịch vụ thì Ấn Độ sẽ là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Trung Quốc.
Tóm lại, qua tất cả những dẫn chứng nêu trên thì Trung Quốc là một nền kinh tế được điều khiển bằng một sức đẩy lớn. Sức đẩy đó bắt nguồn từ nhu cầu, ít nhất là ở hiện tại, về một luồng bí quyết kỹ thuật sắp được nhập vào ồ ạt và một lượng hàng xuất khẩu lớn. Bất cứ điều gì cản trở lực đẩy này - chẳng hạn như sự chậm lại trong đầu tư, sự giảm sút trong xuất khẩu, một cuộc chiến thương mại do tình trạng trái đất đang nóng lên, hay một sự cố kỹ thuật nào đó của giới lãnh đạo Trung Quốc trong khi họ cố gắng sắp đặt một cuộc “hạ cánh an toàn” - đều có khả năng tạo ra những hậu quả tiêu cực theo cấp số nhân đối với toàn bộ hệ thống của Trung Quốc, và rõ ràng là cho cả các nước khác trên thế giới. Chúng ta cũng còn nhiều vấn đề khác cần xem xét như: tình trạng lạm phát ngày càng tồi tệ hơn và yêu cầu về việc dành cho nhau những đặc quyền trong đầu tư của Mỹ hoặc châu Âu, điều mà chính phủ Trung Quốc không thể hoặc sẽ không đáp ứng vì lý do chính trị.
Những ảnh hưởng này đối với toàn cầu là rất nghiêm trọng. Nhóm “G2” mới, tức Mỹ và Trung Quốc, trong 5 năm gần đây đã góp phần vào hơn 60% tăng trưởng tích lũy trong tổng GDP của toàn thế giới. Hãy đối mặt với điều đó: khi xem xét mọi vấn đề thì chính Mỹ cũng đã gia nhập vào gia đình Tony Soprano. Và xét ở mức độ rộng hơn thì các nước khác trên thế giới cũng vậy. Toàn bộ hệ thống toàn cầu đang ngày càng bị buộc chặt vào hệ thống tài chính, kinh tế, chính trị thiếu minh bạch của Trung Quốc. Với Trung Quốc, chúng ta hầu như không biết điều gì sắp xảy ra ngoại trừ việc không có đường quay lại. Thực ra, nếu chúng ta muốn bảo vệ nền kinh tế toàn cầu mới, chúng ta cần giúp đỡ giới lãnh đạo Trung Quốc học cách đối phó và làm việc với các nước khác trong hệ thống quốc tế. Chúng ta cần một nỗ lực tổng hợp để hướng dẫn “con thú nguy hiểm nhưng rất oai vệ” này vì nó có khả năng đưa cả thế giới tới một kỷ nguyên mới của sự thịnh vượng - hoặc cũng có thể đẩy chúng ta vào trong tình trạng hỗn loạn.
Quay trở lại giữa thập niên 1980 khi tôi bắt đầu công việc tư vấn thị trường, Nhật Bản cũng đang trong tình hình rất giống với vị thế của Trung Quốc trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Nhật Bản, nguồn tiết kiệm lớn nhất toàn cầu với sức mạnh công nghiệp đầy ấn tượng của mình, được dự đoán là sẽ thống trị thế giới về mặt kinh tế. Do hàng loạt các sai lầm chính sách trong việc quản lý lãi suất và đồng nội tệ cũng như sai lầm trong việc quản lý chính sách điều tiết ngân hàng, mọi việc đã không diễn ra theo kế hoạch. Như tôi sẽ trình bày trong chương tiếp theo, các thị trường tài chính tự do đôi khi có thể tạo ra biến động và bất ổn đáng sợ. Tuy nhiên, hệ thống duy nhất tồi tệ hơn là hệ thống mà ở đó những con người không hoàn mỹ cố gắng quản lý kết quả của một hệ thống tài chính kinh tế phức tạp trong nền kinh tế toàn cầu thông qua việc kiểm soát hành chính và sắc lệnh của chính phủ.

