Thế Giới Cong - Chương 02

2. Nguồn tiền lớn đầy bất trắc

Một ngày ngột ngạt vào tháng 8 năm 1987, tôi nhận được một cuộc gọi tại văn phòng tư vấn của mình ở Washington. Cuộc gọi đó làm cá nhân tôi hiểu rõ rằng nguồn tiền mới trong nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi các quy tắc của trò chơi một cách triệt để như thế nào. Trước cuộc gọi đó, tôi đã từng có cảm giác rằng dù gì đi nữa thì hệ thống toàn cầu ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau này đang giải phóng các lực lượng thị trường vô cùng hùng mạnh. Nhưng, nhờ cuộc gọi đó, tôi nhanh chóng khám phá ra việc toàn cầu hóa tài chính đã làm thế giới và ngay cả đối với các nền tài chính hiệu quả nhất lúng túng như thế nào.

Cuộc gọi ấy là của vị đại sứ Singapore tại Mỹ, Tommy Koh. Đó là một ngày cuối mùa hè ở Washington D.C, nơi mà bầu khí quyển với độ ẩm cao đang bao phủ cả thành phố, trong khi đó hầu hết các cư dân đang đi nghỉ mát ở bãi biển. Vị đại sứ hỏi tôi rằng “Ngài đã bao giờ đi du lịch ở Singapore chưa?”. Tôi trả lời “Tôi mới đi Tokyo và Hongkong thôi”. Vị đại sứ gợi ý rằng nếu vào một chuyến đi nào đó của tôi trong thời gian sắp tới mà ghé thăm Singapore thì tôi có thể kiếm được một hợp đồng tư vấn lớn với ngân hàng trung ương Singapore (Monetary Authority of Singapore - MAS, Cơ quan Quản lý Tiền tệ Singapore). Chúng tôi đã hẹn một ngày mùa thu, tôi sẽ ghé thăm Singapore. Thời điểm đó hóa ra chỉ chưa đầy một tuần sau khi thị trường chứng khoán thế giới sụp đổ.

Singapore, một nước nhỏ thuộc các nền kinh tế vành đai Thái Bình Dương, là sản phẩm sáng tạo thành công của Lý Quang Diệu. Ông điều hành đất nước như một kẻ chuyên chế nhân từ. Tôi biết đến danh tiếng của ông như là một nhà chiến lược toàn cầu tài ba xuất chúng, và tự hỏi liệu trong chuyến đi này tôi có được nghe những câu chuyện về sự sáng suốt của Lý Quang Diệu đối với những thay đổi của nền kinh tế toàn cầu không. Tôi không được chuẩn bị sẵn sàng cho những gì sắp diễn ra.

Máy bay của tôi đáp xuống Singapore vào đầu giờ tối. Khi người hướng dẫn trong chính phủ Singapore và tôi ngồi trên chiếc xe limo đi thăm khắp thủ đô, lướt qua mắt chúng tôi là từng dãy những khách sạn đẹp, với phong cảnh tươi sáng lung linh và những vòi phun nước lấp lánh. Nhưng khi chúng tôi đến khách sạn mà bộ phận lễ tân trong chính phủ Singapore đã lựa chọn cho tôi thì hóa ra đó lại là một khách sạn nhỏ hẹp. Căn phòng của tôi nồng nặc mùi khói thuốc lá, xen lẫn chút mùi hôi từ nhà vệ sinh và mùi chất tẩy rửa. Qua điện thoại, tôi thất vọng mô tả căn phòng đó cho vợ tôi, Vickie, đang ở Washington. Tôi nói: “Sau một chuyến bay dài, anh đã chờ đón một thứ gì đó thoải mái hơn và thơm tho hơn.”

Buổi sáng hôm sau, người lễ tân đã gặp tôi trong tiền sảnh khách sạn. Ông ấy nói: “Rất tiếc khi biết ông không cảm thấy thoải mái với căn phòng đó.” Tôi im lặng vì đang cố nhớ lại xem có điều gì khác mà tôi có thể đã vô tình nói qua điện thoại với một chút bực bội không. Trong khi lái xe đến ngân hàng trung ương, tôi bắt đầu tự hỏi “Tại sao tôi ở đây?” Tôi nghĩ đến các biển hiệu cảnh báo tại sân bay về mức án tử hình dành cho những kẻ buôn bán thuốc phiện, những câu chuyện về những trận đòn đối với các sinh viên đại học người Mỹ vì những hành động cư xử xấu và về việc cấm nhai kẹo cao su. Tuy nhiên, trực giác đã nói với tôi rằng đây có thể trở thành một cơ hội kinh doanh mới hoặc ít nhất cũng là một sự trải nghiệm hấp dẫn, vì vậy tôi tiếp tục đi.

Nhiều năm nay, chính phủ Singapore đã thuê Richard Helms, cựu giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) làm tư vấn cho mình. Ông Helms, một người bạn thân của Lý Quang Diệu, vị “cha đẻ” của Singapore, lại thiên về các vấn đề an ninh quốc gia nhiều hơn. Tuy nhiên, hiện tại, ngân hàng trung ương lại cần nhiều thông tin về những điều có thể xảy ra khi các quốc gia G7 tìm cách phát triển thịnh vượng trong một hệ thống quốc tế đang toàn cầu hóa nhanh chóng, hơn là những phân tích về nước Nga. Các nhà kinh tế học tại ngân hàng trung ương rất chuyên nghiệp: Họ có thể nhìn thấy toàn cầu hóa đang đến gần. Tương tự như các ngân hàng trung ương khác trong khu vực, Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore (MAS) giống như một công ty thương mại tài chính khổng lồ, một Goldman Sachs được chính phủ tài trợ.

“Các cuộc gặp của ông đã diễn ra tốt đẹp”, bộ trưởng Bộ Tài chính Richard Hu nói với tôi vào ngày thứ hai trong chuyến thăm. Ông nói: “Tất cả những gì ông cần bây giờ là một cái bắt tay đơn giản với Lãnh tụ, một cuộc gặp mặt năm phút.” Tất nhiên, Lãnh tụ ở đây chính là Lý Quang Diệu, người mà Richard Nixon coi là người tài trí nhất mà ông đã từng gặp. Bất ngờ trước tình huống khó xử này, bản thân tôi đã cố gắng để gây được ấn tượng tốt. Khi tôi đến một tòa nhà được xây dựng theo kiểu thực dân với các sân bóng cricket bao quanh, một nhân viên lễ tân dẫn tôi vào một phòng họp có kích thước trung bình.

Sau một vài phút, Lãnh tụ bước vào. Ông mặc một chiếc áo sơ mi trắng không cổ hồ cứng. Nét mặt ông thể hiện rằng: “Tôi không dễ dàng chịu đựng những kẻ ngu xuẩn.” Ông ngồi ở đầu chiếc bàn họp. Chúng tôi ngồi yên lặng khoảng hai ba phút. Lúc đó, ông ngước lên nhìn chăm chú vào chiếc quạt trần đang quay trên đầu chúng tôi. Sau đó, ông nhìn tôi với một vẻ cau có. Ngay lập tức tôi biết lý do tại sao các nhân viên trong ngân hàng trung ương, những người đã tham dự vào mọi khoảnh khắc cho đến thời điểm đó, đã biến mất khỏi phòng. Vị Lãnh tụ nói với vẻ vô cùng thất vọng “Họ đưa đến cho tôi một đứa trẻ để làm cố vấn.” Ông ấy tiếp: “Ông đã từng ở Tokyo. Trước sự sụp đổ của thị trường chứng khoán do những chính sách tài khóa vô trách nhiệm của các vị, họ chắc hẳn đã sẵn sàng rút khỏi thị trường Mỹ.”

Bàn tay đầy mồ hôi của tôi nắm chặt vào ghế. Vẻ cau có của vị Lãnh tụ càng lúc càng tăng lên. Tôi cho rằng đây không phải là một dấu hiệu tốt. Ông ấy đang nản chí và chuẩn bị đưa ra quyết định để giữ lại hợp đồng cho bạn mình, Helms. Một cán bộ của ngân hàng trung ương trước đó đã nói rằng nếu công ty của tôi được thuê, Helms có khả năng sẽ bị mất hợp đồng tư vấn.

Lấy hết can đảm để phản bác lại ý kiến của vị Lãnh tụ, tôi trả lời rằng trong thực tế, tôi đã gặp gỡ tất cả các công ty bảo hiểm Nhật Bản và cả Bộ Tài chính, ở đó người ta không hề hoảng loạn. Tokyo dường như đang lập kế hoạch mua lớn từ thị trường Mỹ. Có nghĩa là: Cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán dường như sắp qua đi và tình hình sẽ ổn định tương đối nhanh do bản chất liên kết chặt chẽ mới của hệ thống toàn cầu.

“Đó là điều vớ vẩn nhất mà tôi từng nghe,” vị Lãnh tụ nói lớn bằng giọng Oxford và quay qua tìm người trợ lý như thể là ông chuẩn bị tuyên bố cuộc gặp mặt kết thúc. Ông ấy nói thêm rằng “Người của chúng tôi ở New York thường xuyên nói chuyện với người ở trong nước. Họ biết tình hình thị trường và họ chỉ nói điều ngược lại với những gì ông nói. Đây là một cuộc trò chuyện vô ích.”

Tại thời điểm này, tôi nhận thấy rằng tôi không có gì để mất. Với một hợp đồng sắp tuột khỏi tay, tôi đã phản ứng lại một cách cứng rắn. Tôi bắt đầu lên tiếng: “Thưa ngài, mặc dù tôi rất tôn trọng ý kiến của ngài nhưng tôi tin tưởng chắc chắn rằng phân tích của tôi là chính xác.” Tôi cảm thấy như có chất adrenaline đang chảy trong cơ thể khiến tim mình đập nhanh hơn. Tôi tiếp tục. Tôi không thể dừng lại được. “Các vị cố vấn New York của ngài có thể thông minh tài trí, nhưng họ không có cùng quan điểm với tất cả các nhà đầu tư lớn ở Tokyo. Và tôi có thể đảm bảo với ngài rằng người Nhật sẽ là những khách hàng lớn của thị trường Mỹ trong tuần tới. Nếu như nền kinh tế Mỹ đi xuống, họ có thể mất rất nhiều. Song cùng với việc nhìn thế giới trong các điều kiện toàn cầu, họ vẫn có niềm tin lâu bền vào Mỹ như một điểm đến cho các hoạt động đầu tư”.

Tôi tin rằng, các nhà kinh tế học Singapore đã phân tích dựa trên mô hình tài chính cũ. Phân tích này cho rằng Mỹ vẫn còn là một hệ thống tài chính và kinh tế khép kín. Thâm hụt ngân sách lớn của Mỹ vào lúc đó có thể sẽ biến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán thành một vấn đề lớn chứ không chỉ là một sự kiện tài chính đơn thuần. Sự sụp đổ này sẽ dẫn đến những thảm họa kinh tế với quy mô rộng lớn hơn. Mô hình này chỉ ra rằng những khoản tiền dự trữ trong nước sẽ phải dùng để bù vào khoản thâm hụt, do đó không đủ nguồn tài chính để khôi phục thị trường chứng khoán.

Hiểu biết của tôi dựa vào việc nghe thông tin từ phía người Nhật đã thuyết phục tôi rằng các nền kinh tế toàn cầu đang trải qua một thay đổi cơ bản. Việc chuyển các khoản tiết kiệm ra nước ngoài đang khiến cho các mô hình tài chính cũ trở nên lỗi thời. Đó là lý do tại sao tôi dự đoán thị trường chứng khoán Mỹ sẽ bật lên từ sự sụp đổ, một phần được kích thích bởi việc nước ngoài mua hàng của Mỹ và cũng bởi các nhà đầu tư Mỹ hiện nay có thể vay mượn trong các thị trường nước ngoài dễ dàng hơn để mua chứng khoán Mỹ. Hóa ra là hệ thống tài chính được toàn cầu hóa mới này đã ngăn chặn một vụ bán ra đại hạ giá mang tính quốc tế đối với cổ phiếu của Mỹ. Toàn cầu hóa tài chính đã giúp cứu vãn tình hình.

Tuy nhiên, điều mà lẽ ra là một cái bắt tay nhanh chóng lại chuyển thành một cuộc trao đổi khá dài và quyết liệt. Tất cả những gì tôi nói, Lý Quang Diệu đều nghi ngờ. Dự đoán của tôi về sự bùng nổ trong hoạt động mua vào của người Nhật là một dự đoán có cơ sở, dựa trên bản chất và đặc điểm chung của những câu hỏi mà người Nhật đã đặt ra một vài ngày trước đó. Trực giác đó, dự đoán có cơ sở đó hóa ra lại đúng, thậm chí sớm hơn so với dự đoán của tôi. Nền kinh tế Mỹ tiếp tục tồn tại sau vụ sụp đổ và khởi sắc chính xác là nhờ bản chất toàn cầu hóa của hệ thống tài chính mới này.

Mặc cho những lý lẽ thông thường và bầu không khí chính trị ở Mỹ, người Nhật cảm thấy một niềm tin sâu sắc rằng Mỹ là một nơi đầu tư tuyệt vời. Mỹ đã cam kết trung thành với các thị trường tự do, luồng vốn tự do và một tương lai tư bản doanh nghiệp. Tuy nhiên, tôi nói với các bạn đồng nghiệp Singapore ở ngân hàng trung ương rằng cuộc trò chuyện của tôi với Lãnh tụ là một thất bại, một trong những cuộc phỏng vấn tệ nhất tôi đã từng trải qua. Nixon đã đúng - người đàn ông này rất tài trí và cuộc đàm luận diễn ra vô cùng căng thẳng và với nhịp độ nhanh, chỉ khi bước lên máy bay tôi mới thấy nhẹ nhõm.

Khoảng một tháng sau, sau khi buổi phỏng vấn tồi tệ đó đã gần như biến mất khỏi tâm trí tôi, Đại sứ Koh gọi đến văn phòng của tôi: “Hợp đồng của ông đã được ký và sẵn sàng chờ ông đến lấy.” Rõ ràng, Lãnh tụ đã bớt khắt khe hơn vì hầu như tất cả những gì tôi đã dự đoán ở Singapore hóa ra lại đúng. Ngân hàng trung ương tiếp tục trở thành một khách hàng luôn luôn đặt ra những các câu hỏi quan trọng hàng đầu về hệ thống kinh tế toàn cầu. Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên sự hoài nghi đáng ngạc nhiên của Lý Quang Diệu khi nghe nói Mỹ có thể sống sót, thậm chí còn phát triển thịnh vượng, trong hoàn cảnh vừa thâm hụt ngân sách và vừa thâm hụt tài khoản vãng lai. Thực ra, trong cuộc gặp đó tôi đã đưa ra một phép so sánh tương tự rằng khoản nợ của Mỹ trong suốt thời gian cuối thế kỷ XIX do một nước Mỹ đang công nghiệp hóa tạo nên trong quá trình xây dựng những tuyến đường sắt phía Tây đã không thể ngăn Mỹ vượt qua Vương quốc Anh, chủ nợ lớn nhất của mình trong cả hai lĩnh vực thu nhập quốc gia và vốn hóa thị trường chứng khoán. Nhưng Lãnh tụ chắc không có khái niệm gì về điều đó, chắc chắn vì phân tích lạc quan của tôi hoàn toàn trái với những tư duy phổ biến. Vả lại, ông cũng có thể đang kiểm tra tôi để xem liệu tôi có thể ứng phó được trước những lời lẽ khó nghe không.

Tại sao mặc dù bị thâm hụt mà Mỹ vẫn tiếp tục sống sót và phát triển thịnh vượng có thể được tóm tắt bằng một từ: toàn cầu hóa. Nước Mỹ mới vừa là một hệ thống khép chặt; thì ngay sau đó, nó là một phần của một mạng lưới toàn cầu có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Bất chấp hậu quả ra sao, những di chuyển của nguồn vốn tiết kiệm trên toàn cầu đang xác định lại và định hình lại toàn cảnh kinh tế thế giới.

Khi hầu hết mọi người hình dung về toàn cầu hóa, họ không thể ngay lập tức hình dung được về những thương nhân trên thị trường tài chính hoặc hàng nghìn tỷ đô la đang lưu thông khắp nơi trên thế giới. Họ nghĩ đến thương hiệu độc quyền Gà rán Kentucky xuất hiện ở giữa trung tâm Bắc Kinh, hay những chiếc máy tính Dell hay Gateway đang được lắp ráp với giá thấp nhất bằng cách sử dụng một số bộ phận được sản xuất tại Châu Á, với mỗi nền kinh tế riêng biệt đều đưa ra những lợi thế tương đối độc đáo của nó. Họ nghĩ đến việc gọi một cuộc điện thoại yêu cầu trợ giúp kỹ thuật về một sản phẩm mua ở Toledo, Ohio, và nói chuyện với một kỹ thuật viên ở New Delhi. Hình ảnh của sự kiện ra mắt con chip máy tính làm cho cuộc sống hàng ngày trên toàn cầu hiệu quả hơn, tạo ra nhiều sản phẩm hơn với chi phí và công sức ít hơn. Nhưng tất cả những phát triển đáng kinh ngạc này diễn ra như thế nào? Nhân tố nào đã khiến cho tất cả những phát triển này bắt đầu?

Tôi tin là câu trả lời nằm trong việc xem xét cách thức thị trường tài chính được quốc tế hóa. Thảo luận về các dòng vốn đầu tư có thể không thú vị bằng thảo luận về những thủ thuật máy tính mới được phát triển bởi các chuyên gia sinh sống trên các lục địa khác nhau, nhưng các thị trường tài chính chính là nhân tố khiến cho quá trình toàn cầu hóa bắt đầu. Trước những năm 1980, Mỹ là một hệ thống tương đối đóng, ngoại trừ đối với một số hoạt động thương mại toàn cầu mà phần lớn là trong lĩnh vực hàng hóa. Ngoại trừ số tiền mà các nhà sản xuất dầu chuyển qua các ngân hàng ở Mỹ vào các khoản đầu tư tại Mỹ La-tinh thì nguồn vốn có xu hướng được giữ ở trong nước (trừ khi cần phải tài trợ cho hoạt động thương mại). Điều này như thể là mỗi quốc gia sở hữu một nguồn vốn riêng mà từ đó họ cấp vốn (tài trợ) cho việc mở rộng kinh tế của mình. Các thị trường tài chính đơn giản, không nhộn nhịp, không hiệu quả và tương đối dễ đoán đối với các nhà hoạch định chính sách. Thật không may, hệ thống này chỉ có những phương tiện tương đối hạn chế trong việc tài trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập và đánh giá rủi ro đầu tư mới. Các ngân hàng thích đầu tư vào các doanh nghiệp có danh tiếng, càng lớn càng tốt. Các doanh nghiệp nhỏ gần như phải tự xoay sở bằng nguồn vốn của mình. Hầu như có rất ít những ý tưởng về việc làm thế nào để tăng cường hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp sắp được thành lập, nguồn cung cấp việc làm mới chủ yếu.

Tuy nhiên, năm 1979, Bộ Lao động Mỹ dưới thời Tổng thống Carter đã sửa đổi các quy định về cách thức mà các quỹ lương hưu có thể đầu tư tài sản của họ. Các quỹ lương hưu, từng chỉ được phép đầu tư vào các cổ phiếu bluechip[7], thì lúc này theo quy định mới đã được phép đầu tư vào các công ty nhỏ hơn và ít có danh tiếng hơn. Đây là một đặc ân đối với ngành đầu tư mạo hiểm, ngành mà 44% vốn được nhận từ các quỹ lương hưu từ năm 1980 đến 2002. Hàng tỷ đô la vốn không được sử dụng của Mỹ đã được huy động để phục vụ cho các mục đích sinh lời hơn.

Theo quan điểm phổ biến thì trong 25 năm gần đây, chỉ riêng vốn của những người giàu đã đủ khôi phục được nền kinh tế Mỹ - cái gọi là thuyết thâm nhập của sự thịnh vượng. Trên thực tế, dù có chủ tâm hay không thì cả nước đều đã đóng góp cho việc khôi phục nền kinh tế khi các khoản lương hưu công và tư nhân cùng các phương tiện tài chính trước đây khá bảo thủ đã được tung ra thị trường. Quốc hội chấm dứt các quy định về mức trần đối với lãi suất trả cho các tài khoản tiết kiệm. Cơ quan quản lý cũng đã giảm bớt lượng vốn mà các ngân hàng đã được yêu cầu phải giữ lại làm tiền dự trữ; giảm bớt các hạn định về đầu tư ngân hàng được đặt ra vào những năm 1930 sau cuộc Đại Suy thoái. Trong năm 1978, Quốc hội với Đảng Dân chủ chiếm đa số đã cắt giảm tỷ lệ thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán (lợi vốn)[8]. Tiếp đến là việc thành lập tài khoản 401(k)[9], một bước phát triển đặc biệt trong việc giải phóng và triển khai vốn tài chính.

Đến giữa những năm 1980, thị trường tài chính được tự do hóa của Mỹ đã đầu tư vốn vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn một thời bị lãng quên thông qua một hệ thống tài chính được hiện đại hóa, nhiều tầng bậc. Hệ thống này trao vai trò quan trọng cho một loạt các công cụ tài chính: quỹ cổ phần tư nhân (private equity funds), phát hành công cụ nợ riêng lẻ (private debt placements), quỹ đầu tư phòng vệ, trái phiếu sinh lợi cao, các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hồi sinh doanh nghiệp, và quỹ đầu tư vốn trung gian tư nhân. Rốt cuộc, trên quy mô toàn cầu, các giao dịch chuyển tiền tiết kiệm qua biên giới mới đã góp phần vào đầu tư rộng rãi trên toàn cầu trong những giai đoạn mới bắt đầu và giai đoạn phục hồi kinh tế (sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods năm 1971 và sự dịch chuyển sang một chế độ quốc tế của tỷ giá hối đoái thả nổi cũng đã góp phần vào việc mở ra các dòng vốn đầu tư).

Các ngân hàng và các công ty đầu tư tại New York, London, Tokyo, Paris, Frankfurt được quốc tế hóa vì một lý do khác: tiến bộ trong truyền thông và công nghệ máy tính cho phép các giao dịch chuyển tiền và chứng khoán quốc tế được thực hiện ngay lập tức. Bạn chỉ cần nhấn nút là tiền đã được chuyển đi khắp thế giới. Các quỹ đầu tư phòng vệ của Mỹ nằm trong số các tổ chức đầu tiên tận dụng lợi thế của những thay đổi này, nhận thức được rằng vốn không còn bị giới hạn trong những ao hồ riêng biệt, mà đã được hòa nhập vào một đại dương mênh mông, không biên giới của tiền bạc. Đồng thời, các thị trường tài chính đơn lẻ chính trên thế giới đã bắt đầu được tự do hóa cũng đẩy mạnh tốc độ giảm điều tiết và quản lý[10].

Ở châu Âu, Đức đã tự do hóa các dòng vốn (có nghĩa là các cơ quan có thẩm quyền cho phép chuyển tiền tự do ra khỏi đất nước) sớm hơn Pháp. Tuy nhiên, người Pháp vô tình lại đóng một vai trò chủ chốt trong việc phổ biến tự do hóa tài chính ra khắp Châu Âu. Bắt đầu năm 1981, Pháp đã thực hiện một thử nghiệm tai hại bằng những biện pháp kiểm soát vốn, cố gắng giữ vốn khỏi bị chuyển ra nước ngoài. Việc kiểm soát diễn ra nghiêm ngặt đến nỗi mà các du khách người Pháp không thể mang theo ra nước ngoài nhiều hơn một khoản tiền tương đương 427 đô la và bị cấm sử dụng thẻ tín dụng khi ra khỏi đất nước. Nền kinh tế Pháp đã bị trì trệ. Vài năm sau, để cứu nền chính trị nước mình, Tổng thống François Mitterrand đã thay đổi đường lối hoàn toàn và thực hiện tự do hóa các dòng vốn một cách mạnh mẽ và triệt để.

Sự cải tổ chính sách hoàn toàn của Mitterrand đã trở thành hiện tượng dễ lan truyền. Ngay lập tức, Uỷ ban Châu Âu (EC) thúc giục tất cả các nền kinh tế châu Âu khác ủng hộ chỉ thị xóa bỏ các biện pháp kiểm soát vốn và cho phép chuyển tiền quốc tế tự do. Tại thời điểm này, xuất hiện một cuộc cạnh tranh quốc tế mới giữa các quốc gia đang chạy đua quyết liệt để trở thành thỏi nam châm mạnh nhất toàn cầu nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư mới được giải phóng, vì nguồn vốn này đang được lưu thông trên khắp thế giới. Cuộc chạy đua diễn ra để xem quốc gia nào có thể giải phóng hoàn toàn các thị trường tài chính của mình và cấu trúc lại nền kinh tế nhanh nhất, thể hiện bản thân như là một quốc gia sẵn sàng và khao khát nhất nhằm thu hút thêm vốn đầu tư từ nước ngoài.

Chẳng bao lâu, nguồn vốn đã được luân chuyển từ nước này sang nước khác, theo sau là một làn sóng buôn bán hàng hóa và dịch vụ mạnh mẽ trên toàn cầu. Như các nhà kinh tế học đã đánh giá, trong quá khứ thương mại thường đi trước - nó luôn luôn “điều khiển” các luồng vốn. Bây giờ tình hình đã đảo ngược hoàn toàn. Những mong muốn thu hút vốn đang điều khiển thương mại tự do. Trong vòng hai thập kỷ, đã có hơn hai trăm thoả thuận thương mại tự do giữa các quốc gia được ký kết vì họ đang cố gắng gây ấn tượng với thị trường vốn thế giới bằng các thị trường tự do và cởi mở không chỉ đối với các luồng vốn đầu tư mà còn đối với các loại hàng hóa và dịch vụ. Vốn toàn cầu đặc biệt được thu hút về Mỹ nhờ các cam kết của Ronald Reagan về một mô hình tư bản doanh nghiệp vì sự tăng trưởng; cũng như nhờ sự tuyên truyền của Bill Clinton cho tự do thương mại và các thị trường tài chính tự do.

Sự chuyển đổi doanh nghiệp và tự do thương mại đã đánh dấu sự ra đời của toàn cầu hóa. Các nỗ lực nhằm xóa bỏ các quy định đối với các thị trường tài chính đã buộc các cánh cửa của hệ thống thương mại toàn cầu phải mở rộng. Máy vi tính và công nghệ mới nổi hiện nay đã cho phép truy cập miễn phí để cải tổ các ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ trên khắp thế giới. Sự phát triển của việc chuyên chở bằng container cũng làm tăng đáng kể hiệu quả thương mại quốc tế nhờ loại bỏ được sự lặp đi lặp lại việc đóng kiện, tháo dỡ kiện hàng và cho phép phân phối nhanh chóng với sự hỗ trợ của máy vi tính.

Lúc đầu, các khoản đầu tư mới trên toàn cầu thông qua các công ty đầu tư mạo hiểm và các hình thái trung gian tài chính khác đã hướng vào mục tiêu cung cấp tài chính cho các khu vực doanh nghiệp mới chủ yếu là ở Mỹ, các nước Châu Âu, Vương quốc Anh, và Canada. Nhưng rốt cuộc Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Israel, và các nước Bắc Âu đã trở thành một phần quan trọng của môi trường đầu tư toàn cầu mới.

Từ những năm 1980, hệ thống tài chính quốc tế đã phát triển những kỹ thuật quản lý rủi ro mới, và hàng loạt các thủ thuật về tài chính mới với mục tiêu là làm cho vốn đầu tư có chi phí thấp hơn và sẵn có hơn đối với các doanh nghiệp. Bằng nhiều cách khác nhau, các nỗ lực đó đã gặt hái thành công. Chứng khoán hóa là một quá trình phức tạp của hoạt động tài chính cho phép đầu tư toàn cầu được mở rộng và chia thành nhiều dòng thu nhập để giảm bớt rủi ro (trừ khi toàn bộ hệ thống tài chính toàn cầu gặp căng thẳng như trong Cuộc Đại khủng hoảng Tín dụng năm 2007-2008). Chứng khoán hóa đã khiến việc cung cấp tài chính cho cuộc cách mạng doanh nghiệp toàn cầu hiệu quả hơn rất nhiều. Các doanh nghiệp nhỏ có triển vọng từng bị các ngân hàng lớn bỏ rơi có thể dễ dàng vay được vốn. Đó là tin tốt lành. Nhiều khi chứng khoán hóa giống như một loại men làm bánh mì nở lên. Một số chuyên gia tài chính lão luyện gom các tài sản tài chính của họ (mà đôi khi là các khoản nợ thế chấp) vào thành một khối, chia chúng thành các luồng thu nhập khác nhau và bán từng phần khác nhau đó như là một loại chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản[11] với một khoản phí. Nhưng quá trình “đóng gói” tài chính được gọi là chứng khoán hóa này đã tự tạo ra một loạt các vấn đề mới.

Tin xấu là mặc dù chứng khoán hóa đã tạo ra một cuộc cách mạng trong việc cấp vốn cho những đối tượng chịu rủi ro kinh tế và cho phép cung cấp tài chính rộng mở hơn cho nền kinh tế, điều này cũng có cái giá của nó. Trong suốt thời gian khủng hoảng, các thị trường có lý do để lo lắng, bởi vì mạng lưới liên kết tài chính phức tạp được tạo ra bởi chứng khoán hóa đã trở nên rất khó hiểu. Hãy chứng kiến sự gieo rắc các gói “chất thải độc hại” nặc danh trong sự sụp đổ do cho vay dưới chuẩn, bạn sẽ thấy điều đó!

Bên cạnh đó, mặc dù chứng khoán hóa là điều cần thiết để tạo ra của cải nhưng nó lại phức tạp đến nỗi rất ít người có thể hiểu được những hoạt động của nó, đặc biệt là trong thời kỳ bất ổn của thị trường tài chính. Thực tế là các nước công nghiệp đã trao quyền kiểm soát hệ thống tài chính cho một nhóm nhỏ khoảng năm nghìn chuyên gia thị trường có chuyên môn cao ở khắp các ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu tư phòng vệ và các cơ quan tài chính khác. Đây là số ít những người biết quá trình chứng khoán hóa diễn ra thế nào, đặc biệt là trong suốt thời gian khủng hoảng. Và thậm chí đôi khi chính họ cũng còn mơ hồ rằng liệu các tài sản được chứng khoán hóa có phản ánh giá trị đã công bố hay không. Tuy nhiên, muốn có một ý nghĩ thậm chí còn đáng sợ hơn ư? Hãy tưởng tượng xem Quốc hội Mỹ đang cố gắng nâng các quy định lên thành luật một cách hiệu quả cho một quá trình nào đó cũng phức tạp như quá trình chứng khoán hóa.

Chứng khoán hóa cũng tạo ra một khuyết điểm to lớn khác cho hệ thống tài chính hiện nay: Các chủ ngân hàng tham gia vào các hoạt động cho vay giờ đây không còn bị gắn chặt với rủi ro của bên vay nữa. Người cho vay không còn có động cơ để bằng mọi giá tránh những rủi ro nguy hiểm bởi vì khi bị cắt ra thành từng mảnh, rủi ro nhanh chóng bị đẩy ra khỏi cửa của người cho vay để được kết hợp với các rủi ro khác và được bán như một khoản đầu tư cho cộng đồng tài chính toàn cầu mà họ không hề hay biết. Trong chương cuối cùng, tôi sẽ giải thích rõ hơn về hệ thống tín dụng thế giới gần như sụp đổ thế nào khi sự sụp đổ do cho vay dưới chuẩnkích hoạt một cuộc khủng hoảng niềm tin của các nhà đầu tư toàn cầu đối với các công cụ tài chính mới.

Tuy nhiên, không có gì về chứng khoán hóa là rõ ràng và đơn giản. Một trong những lý do chính khiến Trung Quốc sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng trong tương lai là hệ thống của họ cần một phương tiện nào đó giống như chứng khoán hóa để quản lý rủi ro tài chính và phân bổ vốn tốt hơn. Thay vào đó, hệ thống của Trung Quốc vẫn còn bị chi phối bởi các ngân hàng nhà nước lớn, không hiệu quả và thường xuyên tham nhũng. Các ngân hàng luôn thiếu các phương tiện cần thiết để phân bổ vốn cho doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nghịch lý là chứng khoán hóa - hệ thống phân bổ vốn cho thế giới công nghiệp thành công như vậy - lại là một hiện tượng gây nản lòng và đầy mạo hiểm mà chúng ta nhận thấy rằng việc sống chung với nó hoặc không có nó đều rất khó khăn. Ví dụ, nếu trong quá trình nỗ lực cải cách tài chính hiện nay Quốc hội Mỹ cấm chứng khoán hóa thì có thể nền kinh tế nước này sẽ nhanh chóng suy giảm do hoạt động cho vay tổng thể bị cắt giảm nghiêm trọng.

Tuy nhiên, điểm mấu chốt là từ những năm 1980 một làn sóng vốn toàn cầu mạnh mẽ đã diễn ra. Điều này là do nhận thức rằng thế giới gần như đã đạt tới một sự đồng nhất đối với việc ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp trong một xu thế thương mại tự do và các luồng tài chính không bị cản trở. Sự trao đổi hàng hóa và vốn quốc tế này - hoặc nói cách khác là việc đầu tư nước ngoài này - đã mang lại lợi ích đáng kể cho Mỹ. Ở Mỹ, hơn năm triệu người hiện nay đang làm việc cho các công ty có trụ sở ở nước ngoài. Theo Bộ Tài Chính Mỹ, mặc dù các công việc này chỉ chiếm 4% lực lượng lao động Mỹ nhưng chúng lại chiếm 10% vốn đầu tư, 15% hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) hàng năm, 20% giá trị xuất khẩu của Mỹ. Hơn nữa, hơn 30% công việc của người Mỹ liên quan đến khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài này là trong ngành chế tạo (so với 10% trong ngành chế tạo cho toàn bộ nền kinh tế Mỹ).

Những hoạt động mới của các thị trường tài chính trên thế giới đã rõ ràng trong một số diễn biến xuyên biên giới của những năm 1980. Trong suốt thời kỳ thâm hụt ngân sách dưới thời Tổng thống Reagan, thế giới đã trải qua một cơn bão của việc di chuyển các nguồn tiền tiết kiệm. Với nguồn vốn lưu thông tự do, sự mất cân bằng của các khoản tiết kiệm lớn bất ngờ xuất hiện ở một số quốc gia công nghiệp chủ chốt. Đến giữa những năm 1980, Mỹ phải chịu những thâm hụt đáng kể trong khi Nhật Bản lại đạt được thặng dư lớn từ tiền tiết kiệm, chủ yếu là do kết quả của việc giá hàng hóa tính bằng đồng yên giảm, và sự bùng nổ trong xuất khẩu sang Mỹ. Kết quả là ngoài các khoản đầu tư khác trên toàn cầu, Nhật Bản đã mua các trái phiếu (các chứng khoán nợ) của Bộ tài chính Mỹ. Điều này đã ngăn tỉ lệ lãi suất của Mỹ tăng lên như rất nhiều nhà kinh tế học truyền thống đã dự đoán. Điều đó khuyến khích nền kinh tế Mỹ tăng tốc. Không một ai lập kế hoạch cho chuỗi phát triển này, nhưng điều này cho phép kéo dài thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.

Tôi đề cập đến tất cả những điều này bởi vì khi tôi bắt đầu công việc tư vấn của mình vào giữa những năm 1980 thì thị trường tài chính đã trở thành một cái nôi của sự bất ổn trên thế giới. Trong quá trình toàn cầu hóa, rất nhiều quy tắc đã được thử nghiệm và đáng tin cậy[12] của kinh tế học và giao dịch tài chính đột nhiên không còn đúng với thực tế nữa. Không có mô hình kinh tế lượng[13] nào - hay không có chiếc hộp thần kỳ nào đựng các công thức kinh tế - còn hữu ích trong việc dự đoán tương lai nữa. Tự do hóa tài chính đã tạo ra vô khối thanh khoản, đánh bại những gì đã viết trong các cuốn sách về nguyên tắc kinh tế và tài chính. Hơn bao giờ hết, thành công đòi hỏi phải hoạt động sáng tạo bằng bản năng kiên cường.

Sự tồn tại của một lượng tiền tiết kiệm khổng lồ trên toàn cầu có thể lưu thông trên khắp thế giới trong một giây không có nghĩa là bội chi ngân sách hoặc sự mất cân bằng của tài khoản vãng lai - cái gọi là thâm hụt kép - là chính sách lành mạnh. Thực tế không phải vậy, và cần phải có một nỗ lực được phối hợp trên toàn thế giới để giảm bớt tình trạng mất cân đối đó. Như tôi sẽ trình bày trong chương 5 với một ví dụ về hệ thống tài chính Nhật, có những giới hạn đối với số nợ mà một nền kinh tế có thể cung cấp mà không khiến cho chính sách tiền tệ mất đi tính linh hoạt và hiệu quả của ngân hàng trung ương để tạo ảnh hưởng tới nền kinh tế rộng lớn hơn. Tuy nhiên, các nỗ lực để giải quyết những mất cân đối hiện nay sẽ rất phức tạp bởi một thực tế rằng một số nhà lãnh đạo chính trị lão luyện nhất của Washington lại không biết sự khác biệt giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai. Cả hai đều là các chỉ số đo lường kinh tế, nhưng chúng đánh giá các đối tượng khác nhau. Thâm hụt ngân sách hoặc thặng dư ngân sách thể hiện mức chênh lệch giữa số tiền thuế mà chính phủ thu vào và lượng chi tiêu công. Thâm hụt tài khoản vãng lai hay thặng dư tài khoản vãng lai cho thấy mức chênh lệch giữa lượng tiền và hàng hóa được nhập vào một quốc gia từ nước ngoài với lượng tiền và hàng hóa xuất ra.

Thâm hụt tài khoản vãng lai khó hiểu hơn và gần đây thường bị các chính trị gia thuộc các đảng phái khác nhau lạm dụng. Về lý thuyết, một nền kinh tế có thể mắc phải thâm hụt tài khoản vãng lai chỉ đơn giản vì nó cung cấp cho các thị trường vốn toàn cầu những cơ hội đầu tư đặc biệt. Nếu một lượng vốn khổng lồ được đầu tư vào ồ ạt thì thâm hụt tài khoản vãng lai của nền kinh tế sẽ tăng lên, trong khi tất cả những thứ khác vẫn ở trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, trong các trường hợp khác thâm hụt có thể là một dấu hiệu cho thấy rằng nền kinh tế không có khả năng cạnh tranh trên toàn cầu và rằng người tiêu dùng thích dùng hàng nhập khẩu hơn là các sản phẩm nội. Hoặc, khi khoản tiết kiệm trong nước không đủ để cấp vốn cho đầu tư trong nước, thâm hụt ngân sách đồng nghĩa với tiết kiệm âm. Nó sử dụng hết nguồn tiết kiệm trong nước, nguồn tiền mà có thể dùng để cấp vốn cho các khoản đầu tư khác. Để tránh việc giảm đầu tư trong nước và kéo theo là làm giảm mức sống, các nền kinh tế bị thâm hụt phải nhập vốn từ các thị trường tài chính toàn cầu.

Đối với nước Mỹ, thâm hụt tài khoản vãng lai tính theo tỉ lệ phần trăm GDP (tổng sản phẩm quốc nội) là cao vì nguồn vốn nước ngoài cung cấp tài chính cho các khoản nợ của Mỹ, nhưng vốn đầu tư cũng ồ ạt đổ vào Mỹ vì nền kinh tế Mỹ theo truyền thống luôn cung cấp những cơ hội đầu tư hấp dẫn. Ngày nay, các nhà đầu tư đang kiểm soát các khoản tiền tiết kiệm lớn đi khắp thế giới để tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại các doanh nghiệp mới cũng như cơ hội đầu tư vào các tài sản hữu hình như bất động sản và vào các công ty danh tiếng.

Đối với các nhà hoạch định chính sách Mỹ, sự hiểu biết về tầm quan trọng của thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai là chìa khóa để tránh một sự sụp đổ tài chính. Thâm hụt cần phải được cắt giảm, nhưng chính sách để thực hiện việc này đòi hỏi phải có sự nhạy cảm và sự hiểu biết đặc biệt của các nhà hoạch định chính sách. Có vẻ như là một nửa số các nhà lãnh đạo chính trị của chúng ta coi thâm hụt chỉ đơn thuần là một trái bóng chính trị, trong khi nửa còn lại hành động như thể là thâm hụt không tồn tại. Các nhà hoạch định chính sách nên bắt đầu với một thực tế là trong vòng 25 năm gần đây, cái gọi là thâm hụt kép đã không còn là một công cụ dự báo hiệu quả kinh tế đáng tin cậy nữa. Vì vậy, chỉ hướng chính sách đến thâm hụt kép như thể thâm hụt là nguyên nhân của mọi vấn đề có thể tạo ra những kết quả đáng thất vọng cho tổng thể nền kinh tế vĩ mô. Nhưng xét về lâu dài, hành động như thể là thâm hụt không đáng lo ngại cũng sẽ tạo ra kết quả tương tự.

Trong những thập kỷ gần đây, những doanh nghiệp nhỏ, linh hoạt, tại gia đã hình thành và đưa đến những dự báo rằng thâm hụt kép của Mỹ sẽ gây ra tình trạng lạm phát cao, lãi suất cao, khủng hoảng đồng đô la và sự sụp đổ kinh tế. Những dự đoán như vậy có lý khi bạn chỉ phải xem xét các nguồn lực sẵn có của nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên, toàn cầu hóa đã khiến cho bức tranh kinh tế không được rõ ràng.

Mỹ đã trải qua tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai từ những năm 1980. Tình trạng này đã khiến cho tỉ lệ lãi suất thực của Mỹ cao hơn cho đến khoảng năm 2000. Từ năm 2000, thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ nhảy vọt từ 4% GDP lên tới hơn 6% nhưng lãi suất thực lại giảm. Hầu hết các nhà kinh tế học cho rằng kết quả này là do sự dư thừa đột ngột trong nguồn tiết kiệm toàn cầu(trên thực tế lãi suất thấp hơn đã khuyến khích sự bắt đầu của việc đầu cơ quá mức vào nhà ở) như là kết quả của việc tăng năng suất trên toàn thế giới và sự tăng trưởng sản lượng đầu ra gắn liền với toàn cầu hóa.

Nhưng đây mới là vấn đề. Mặc dù Mỹ đã tránh thành công viên đạn thâm hụt kép trong quá khứ, nhưng không có sự đảm bảo thành công hay an toàn nào trong tương lai. Sự mất cân bằng của Mỹ đã được hỗ trợ tài chính ngày càng nhiều từ các khoản dự trữ của các ngân hàng trung ương nước ngoài, chứ không phải các thị trường vốn tư nhân. Tình hình thậm chí sẽ trở nên phức tạp hơn nếu các nền kinh tế khác, bao gồm cả các nền kinh tế châu Âu, trở thành điểm đến hấp dẫn hơn cho đầu tư toàn cầu - và nền kinh tế Mỹ kém hấp dẫn hơn, như những gì dường như đang diễn ra sau cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn, với sự giảm sút tính minh bạch về tài chính của Mỹ và sự gia tăng tính đối kháng chính trị đối với các luồng vốn quốc tế.

Tuy nhiên, hãy xem các dữ liệu thực tế có thể trái ngược với tư duy thông thường như thế nào. Ví dụ, tỉ lệ lãi suất của Mỹ (lợi tức trái phiếu Kho bạc có giới hạn mười năm) đã không tụt xuống dưới mức 5,25% trong suốt toàn bộ tám năm của chính quyền Clinton, chính quyền mà có thời gian đã tạo ra thặng dư ngân sách trong nước. Tuy nhiên, có một thời điểm trong nhiệm kỳ luôn bị thâm hụt của George W. Bush, trái phiếu kho bạc đã giảm xuống gần mức 3% và thỉnh thoảng điều đó cũng diễn ra khi nền kinh tế đang phát đạt. Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, ông Alan Greenspan đã gọi tình trạng này là “một thách đố”. Trong kinh tế học truyền thống, thâm hụt ngân sách của chính phủ được cho là luôn đẩy đầu tư tư nhân ra ngoài và khiến cho tỉ lệ lãi suất tăng vọt, đặc biệt là trong suốt thời kỳ tăng trưởng cao. Nhưng điều này đã không xảy ra, một phần vì chính sách tiền tệ của Mỹ, nhưng phần lớn là vì vốn đầu tư toàn cầu ồ ạt tràn vào Mỹ. Thật đáng ngạc nhiên trong giai đoạn 1998-2001, khi xảy ra thặng dư ngân sách, tiết kiệm cá nhân tại Mỹ đạt mức 18% GDP. Trong giai đoạn 1981-1989, với thâm hụt trung bình 4% GDP, tiết kiệm cá nhân cũng lên tới 18% GDP.

Rõ ràng các mối quan hệ thông thường giữa các mốc dữ liệu không phải là hoàn toàn đáng tin cậy. Vì vậy, nếu các dữ liệu này nghe có vẻ như thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai là không liên quan thì hãy nghĩ lại. Trong thế giới của các thị trường tài chính không thể dự đoán ngày nay, quá khứ chắc chắn không phải là sự bảo đảm cho thành công trong tương lai. Điều này là đúng, đặc biệt là vì thái độ chính trị đang thay đổi tại Mỹ, chưa nói đến sự suy giảm niềm tin đối với hệ thống tài chính Mỹ sau sự sụp đổ do cho vay dưới chuẩn.

Trong một thế giới hoàn hảo, cân đối ngân sách và hạn chế sự mất cân bằng tài khoản vãng lai là điều tốt nhất. Nhưng việc này đòi hỏi các hệ thống kinh tế thế giới phải cân bằng, điều mà hầu như không bao giờ xảy ra. Một số nhà phân tích lập luận rằng theo lý thuyết miễn là thâm hụt tài khoản vãng lai là kết quả từ các quyết định cá nhân có liên quan đến thị trường thì hệ thống tài chính toàn cầu sẽ ổn định một cách an toàn. Nói cách khác, trong một giới hạn nhất định sự mất cân bằng tài khoản vãng lai là không thể tránh khỏi; không có sự mất cân bằng tài khoản vãng lai thì khái niệm về các luồng vốn được tự do hóa sẽ là vô nghĩa vì các nền kinh tế toàn cầu không bao giờ có hiệu quả như nhau. Các nền kinh tế hiếm khi đưa ra những cơ hội đầu tư hấp dẫn ngang nhau cho nguồn vốn trên toàn cầu. Nhưng cũng có những giới hạn để xác định sự mất cân bằng bình thường, lành mạnh. Hơn nữa, dự đoán tình trạng nguy hiểm của những giới hạn này - điểm bùng phát mà tại đó những người tham gia thị trường trở nên lo lắng - là rất khó và có lẽ không thể thực hiện được.

Không còn nghi ngờ gì nữa, nước Mỹ tiêu xài quá nhiều, tiết kiệm quá ít và phụ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ nước ngoài. Những mặt trái của sự phụ thuộc này chắc chắn không thể làm ngơ. Robert Hormats, một chuyên gia hàng đầu về tài chính quốc tế lưu ý rằng: “Trong hơn 200 năm nay, chính phủ (Mỹ) đã huy động số lượng vốn lớn dành cho an ninh quốc gia; trong cuộc chiến tranh chống khủng bố mới, chính phủ Mỹ phải huy động một nỗ lực lớn của công chúng để giảm thiểu việc sử dụng và phụ thuộc vào dầu”. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng hạn chế nhập khẩu chỉ có thể xử lý được những hậu quả chứ không giải quyết được nguyên nhân của các vấn đề về tài khoản vãng lai. Để giảm bớt sự mất cân bằng thì Mỹ phải tăng cường tiết kiệm trong nước. Tuy nhiên, cùng lúc đó thì nhiều nền kinh tế khác lại tiêu thụ quá ít, đồng thời cung cấp quá ít những cơ hội đầu tư an toàn và đáng tin cậy cho nguồn vốn toàn cầu. Nhiều nước trong số những quốc gia này có một khoản tiết kiệm lớn vì họ hạn chế những cơ hội đầu tư trong nước thông qua việc đánh thuế, việc điều tiết, sự thiếu minh bạch về tài chính và các quy định của pháp luật. Điều quan trọng cần lưu ý rằng chính đầu tư, chứ không phải tiết kiệm, mới cải thiện được mức sống. Tiết kiệm mà không đầu tư thì không có hiệu quả. Liên Xô cũ đã có một khoản tiết kiệm khổng lồ vì họ đã không có gì để mua.

Trong những năm gần đây, với giá dầu đạt mức cao kỷ lục chưa từng có tiền lệ thì một số áp lực dồn lên đồng đô la là không thể tránh khỏi vì các nhà sản xuất dầu đã bắt đầu nghĩ tới viễn cảnh chuyển sang các loại tiền tệ khác. Những bất trắc của cuộc khủng hoảng dưới chuẩn, điều đã tạo ra sự lo lắng về tương lai của nền kinh tế Mỹ, cũng đã làm đồng đô la yếu đi.

Trước đây, Mỹ chưa bao giờ gặp phải thâm hụt kép lớn như vậy. Chưa bao giờ hệ thống tài chính Mỹ phải đối mặt với sự thiếu minh bạch và sự thiếu tín nhiệm như đất nước này đã gặp phải sau sự sụp đổ do cho vay dưới chuẩn. Chưa bao giờ giá dầu tăng cao với mức kỷ lục trong khoảng thời gian dài như vậy. Một số chuyên gia đã lập luận rằng vận mệnh của nước Mỹ đang nằm trong tay của người nước ngoài một cách rất nguy hiểm, và rằng Mỹ phải đối mặt với khả năng rơi tự do của đồng đô la, điều này có thể khiến nền kinh tế Mỹ sụp đổ hoàn toàn.

Một vài năm trước đây, nhà đầu tư Warren Buffett đã đặt cược lớn vào sự sụt giá mạnh của đồng đô la. Ông dự đoán rằng các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đồng loạt rút ra khỏi Mỹ, khiến đồng đô la rơi vào một vòng luẩn quẩn. Ông đã gọi vụ kinh doanh này là “Điều chắc chắn” (Slam dunk)”, nhưng ông đã mất đi một tỷ đô la trong vụ đặt cược đó bởi vì đồng đô la không trải qua một đợt sụt giảm mạnh theo tình trạng “rơi tự do” nào. (Tuy nhiên, đồng đô la đã có xu hướng sụt giá so với đồng Euro và đồng Bảng Anh từ năm 2000, với một khoảng thời gian lên giá vào giữa thập kỷ và suy yếu đáng kể sau khi Cục Dự trữ Liên bang cắt giảm tỉ lệ lãi suất ngắn hạn vào đầu năm 2008 giữa đợt khủng hoảng tín dụng liên quan đến nợ dưới chuẩn).

Những người đề xướng thuyết rơi tự do trước đó đã mắc sai lầm vì họ đã đánh giá thấp khả năng nhận vốn từ nước ngoài của nền kinh tế Mỹ bất chấp những sai lầm trong chính sách của Mỹ. Bỏ qua tính năng động mang tính lịch sử và vai trò như là một thiên đường quốc tế an toàn của nền kinh tế Mỹ, những người hoài nghi đôi khi chỉ nhìn vào quy mô của thâm hụt tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, sự lựa chọn khôn ngoan lẽ ra không chỉ cần tính đến những sự mất cân đối, mà còn phải quan tâm đến hoạt động của các thị trường vốn bằng tài sản (asset markets) như chứng khoán, trái phiếu, bất động sản… điều mà lúc đó phản ánh những nền tảng cơ bản mạnh mẽ của kinh tế Mỹ.

Nhà kinh tế học David Hale lập luận rằng lý do khiến cho đồng đô la trong khi đang suy yếu cùng với sự suy yếu của nền kinh tế Mỹ lại hồi phục trở lại và sau đó không bị sụp đổ là do thâm hụt tài khoản vãng lai, tuy chiếm một tỷ lệ cao so với GDP, lại chỉ bằng 1% tổng giá trị của tất cả tài sản cá nhân của người Mỹ. Hale cho rằng “đồng đô la với tư cách là một loại tiền dự trữ của thế giới sẽ luôn biến động vì nhận thức của các nhà đầu tư về triển vọng thu hồi tài sản trong thị trường toàn cầu tiếp tục thay đổi.”

Tương tự, ông Hale khẳng định những người hoài nghi đồng đô la không đánh giá đúng rằng “Thị trường tài sản của Mỹ quá lớn và linh hoạt nên không thể bị lâm vào tình trạng gián đoạn dòng vốn đầu tư trong thời gian dài cũng như gặp phải tình trạng sụt giảm lâu dài của đồng đô la”, tức là trừ khi có một trong những biến động sau đây diễn ra: các nhà hoạch định chính sách làm một điều gì đó thật ngớ ngẩn để ngăn cản các dòng vốn bằng cách bất ngờ làm cho Mỹ trở thành một điểm đến kém hấp dẫn hơn cho việc đầu tư, hoặc bằng cách hạn chế hoàn toàn vốn nước ngoài. Với sự sụp đổ cơ cấu điều tiết của ngân hàng Mỹ trong suốt thời kỳ khủng hoảng dưới chuẩn, sự gia tăng gần đây trong những lập luận ủng hộ bảo hộ thương mại và đấu tranh giai cấp ở Mỹ và thái độ chống đối đang ngày càng gia tăng đối với dòng vốn đầu tư quốc tế thì sự ngốc nghếch như vậy dường như đang rộ lên một cách nhanh chóng.

Hãy cùng tôi xem xét tình trạng nợ. Hiện nay, người nước ngoài sở hữu 2,2 nghìn tỷ đô la giá trị kỳ phiếu và trái phiếu kho bạc. Con số này nghe có vẻ là rất lớn, nhưng nó lại không hề lớn khi được so sánh với giá trị tài sản của các hộ gia đình người Mỹ ở mức hơn 57 nghìn tỷ đô la. Nhiều nhà phân tích, đang dùng quân bài chính trị nỗi-sợ-người-nước-ngoài, chỉ tập trung vào nợ quốc gia của Mỹ như thể Mỹ là một kẻ phản bội bị cô lập - một quốc gia mắc nợ mà không có bạn bè - trong hệ thống quốc tế.

Quá nhiều nợ sẽ không bao giờ là một điều tốt, và xét ở nhiều khía cạnh thì người Mỹ có thể đang phải vật lộn cầm cự với tình trạng này. Thông thường, sự suy yếu của đồng đô la khiến cho giá nhập khẩu cao hơn. Nhưng cho đến nay, những đợt giá tăng cao thay vào đó đã ăn dần ăn mòn vào biên lợi nhuận của các nhà sản xuất nước ngoài, một tình huống mà sẽ không kéo dài mãi mãi. Nhưng điều quan trọng là giữ được mọi thứ theo đúng tương quan: Tổng dư nợ quốc gia của Mỹ (65,7% GDP) ít hơn của Đức (66,8%), trong khi nợ của Nhật Bản cao hơn khoảng ba lần so với nợ của Mỹ (176,2%). Trong suốt những năm tăng trưởng được ca ngợi rất nhiều dưới thời Clinton vào thập niên 1990, nợ quốc gia thực ra hơi cao hơn một chút so với năm 2007 (68,9% GDP năm 1996). Nợ Liên bang Mỹ (nợ công) năm 1996 là là 48,5% GDP, tức là cao hơn 25% so với năm 2007 (tỷ lệ năm 2007 là 38% GDP)[14].

Điều quan trọng là việc hệ thống tài chính Mỹ có tránh được các thảm họa hay không, không chỉ phụ thuộc vào việc điều chỉnh sự mất cân đối tài chính. Điều này cũng quan trọng như việc duy trì mục tiêu đó. Rốt cuộc, một câu chuyện ồn ào xảy ra cuối năm 2007 là sự sụt giảm mạnh (mặc dù không phải là cú rơi tự do) của đồng đô la Mỹ so với đồng euro, một diễn biến khá nực cười saukhoảng thời gian dài một năm mà cả thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai thực ra đều giảm theo tỷ lệ phần trăm so với GDP. Rõ ràng, sự kiện đồng đô la xuống giá đã bị ảnh hưởng của cả các nhân tố khác nữa. Nhân tố quan trọng nhất là nỗi sợ hãi kép của sự thiếu minh bạch về tài chính do sự lộn xộn bởi cho vay dưới chuẩn ở Mỹ và ảnh hưởng mà cuộc khủng hoảng nhà ở tác động đến nhu cầu tiêu dùng (và các khả năng cắt giảm đáng kể mức lãi suất ngắn hạn của Cục Dự trữ Liên bang. Điều này có nghĩa là trái phiếu của các quốc gia châu Âu và các nước khác sẽ tạo ra nhiều lợi nhuận cho các nhà đầu tư hơn là trái phiếu của chính phủ Mỹ, vì vậy họ liền đầu tư thêm nguồn vốn vào nền kinh tế thuộc các quốc gia sử dụng đồng tiền chung Châu Âu).

Cuối cùng, ngoài những chênh lệch về tiền lãi này (sự chênh lệch trong mức sinh lợi trái phiếu của các nền kinh tế khác nhau) thì số phận của đồng đô la phần lớn nằm ở tính hấp dẫn của nền kinh tế Mỹ như là một mục tiêu đầu tư toàn cầu. Thành tích trong quá khứ thật ấn tượng. Một khảo sát do Diễn đàn Kinh tế Thế giới tiến hành đã kết luận rằng mặc dù mức nợ cao và tỷ lệ tiết kiệm thấp nhưng Mỹ vẫn đứng đầu trong cuộc đua giành thế cạnh tranh trên thế giới. Trong những năm gần đây, Mỹ vẫn là một mục tiêu chính cho đầu tư toàn cầu nhờ thị trường lao động linh hoạt, nền giáo dục đại học, môi trường chính trị tốt, các chiến lược mang tính sáng tạo, và chất lượng quản lý công ty. Trong cuộc khảo sát này, Trung Quốc xếp hạng 34.

Tuy nhiên, vẫn còn đó câu hỏi: Có phải tính hấp dẫn của Mỹ như là một điểm đến đầu tư của toàn thế giới đang giảm dần không? Liệu có phải người Mỹ đang sống với một ảo tưởng rằng sự thành công trong quá khứ là sự đảm bảo cho tương lai? Xét cho cùng, thành công của hệ thống tài chính và kinh tế Mỹ trong tương lai phụ thuộc vào chính trị - chính trị của toàn cầu hóa và việc liệu vốn có được phép lưu thông tự do không. Cuối cùng, sự thành công cũng phụ thuộc vào việc liệu thị trường tài sản của Mỹ có thể tiếp tục là một mục tiêu lớn, giàu khả năng sinh lợi - và minh bạch - cho đầu tư toàn cầu không. Rõ ràng, vẫn chưa có câu trả lời cho vấn đề này.

Không có gì trong môi trường hiện nay là đơn giản hay dễ đoán. Các nền kinh tế châu Á dẫn đầu là Trung Quốc tiếp tục thu được thặng dư tài khoản vãng lai và thặng dư thương mại lớn, đa phần trong đó là thặng dư với Mỹ. Điều đó gần như chắc chắn là có ý nghĩa, mặc dù chúng ta không chắc chắn chính xác là như thế nào hoặc là bao nhiêu. Chúng ta đang chứng kiến một kịch bản tài chính thế giới mới đang diễn ra trước mắt, và nó không hề được tính toán trước.

Như giờ đây chúng ta đã biết, thế giới mới đã phát triển đến một mức độ đáng kể sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998. Trong thời gian đó, các nền kinh tế châu Á (được biết đến với việc áp dụng một hệ thống gọi là “chủ nghĩa tư bản thân hữu” (“crony capitalism”), với các tiêu chuẩn ngân hàng và kế toán kém minh bạch, nhưng có những nguyên tắc kinh tế cơ bản tốt một cách đáng ngạc nhiên) đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính kinh điển. Các nhà đầu tư “tiền nóng”[15] trên toàn cầu đã đổ xô tìm lối thoát khi các ngân hàng châu Á liên tiếp thất bại và hầu hết các loại tiền tệ châu Á tụt xuống, tạo ra những hỗn loạn kinh tế và tài chính.

Sau thời gian khủng hoảng này, hầu hết các nhà hoạch định chính sách châu Á gắn loại tiền tệ của họ không ít thì nhiều vào đồng đô la Mỹ, loại ngoại tệ của quốc gia tiêu thụ lớn nhất trên thế giới, như là một loại chính sách bảo hiểm để ngăn chặn các cuộc khủng hoảng khác. Mục đích của họ là để trở thành một bộ máy xuất khẩu khổng lồ trên toàn cầu và mục tiêu cuối cùng của họ là người tiêu dùng Mỹ. Mục tiêu ban đầu là tích luỹ sẵn một lượng lớn tiền mặt bằng đô la để chống lại những cuộc tấn công bằng đầu cơ tiền tệ trong tương lai (thay vì làm những gì họ nên làm trước tiên - đó là cải cách hệ thống tài chính của họ, bao gồm cả việc tạo ra tính minh bạch lớn hơn).

Hiện nay các quan chức Mỹ và châu Âu đang chạy đua nhằm thuyết phục các nhà hoạch định chính sách châu Á rằng việc phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu và đồng nội tệ được định giá thấp cùng tình trạng tiêu thụ trong nước bị hạn chế không phải là một chính sách lành mạnh cho bất cứ ai. Nhưng tình hình sẽ không thể đảo ngược một cách nhanh chóng. Phần lớn nguyên nhân của tình trạng này là vì các xã hội châu Á cũng đang già đi nhanh chóng, và những người lớn tuổi có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn tiêu thụ, bất kể chính sách của chính phủ. Vì vậy, thế giới sẽ phải đối phó với tình hình này.

Trên thực tế, vấn đề đối với các nhà hoạch định chính sách toàn cầu ngày nay không phải là liệu hệ thống được tạo ra bởi Trung Quốc và các nền kinh tế khác trong vành đai Thái Bình Dương này có hoạt động không mà là nó có hoạt động hiệu quả không. Bộ máy xuất khẩu khổng lồ của họ đang tích lũy được một lượng tiền tiết kiệm vượt trội[16] hầu như ngoài sức tưởng tượng, một diễn biến mà tôi sẽ đề cập kỹ hơn trong chương 4 về Trung Quốc. Đồng thời, nhu cầu về hàng hóa bao gồm cả nhu cầu về dầu của quốc gia xuất khẩu lớn và đang tăng trưởng này đã làm tăng đáng kể giá cả hàng hóa trên thế giới. Đột nhiên, các quốc gia giàu tài nguyên đứng đầu là các nước sản xuất dầu, bao gồm cả Saudi Arabia và Nga, cũng đã bắt đầu tích lũy được những khoản tiết kiệm vượt trội. Trên thực tế, Trung Quốc và Ấn Độ trong những năm gần đây đã chiếm khoảng 70% lượng tiêu thụ dầu gia tăng trên toàn cầu. Kết quả: nhiều nơi trên thế giới hiện nay đang nắm giữ lượng tiết kiệm vượt trội lớn kỷ lục, thu lãi suất thấp. Nguồn tiền dự trữ này sẽ được các nước khác trên thế giới tái sử dụng để giúp cho kinh tế toàn cầu mở rộng. Bản chất của vấn đề là các khoản tiền tiết kiệm này sẽ được tái sử dụng như thế nào.

Trong quá khứ, Mỹ với những thị trường tài chính có bề dày và linh hoạt một cách kỳ lạ được ủng hộ bởi một hệ thống chính trị và luật pháp minh bạch, rõ ràng đã trở thành một nước chính thu hút các khoản tiết kiệm vượt trội. Một số tiền tiết kiệm đã được đầu tư vào các thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp Mỹ, nhưng rất nhiều tiết kiệm vượt trội trên thế giới đã được dùng để mua trái phiếu Kho bạc siêu an toàn của Mỹ, loại chứng khoán được sử dụng để tài trợ cho các khoản nợ của Mỹ.

Quan niệm rằng nền kinh tế của Mỹ là phụ thuộc vào vốn đầu tư nước ngoài nghe có vẻ đáng lo ngại, và chắc chắn sẽ tốt hơn nếu Mỹ tự túc về mặt tài chính, nhưng tình hình vẫn không bi đát như những người bi quan vẫn thường nói. Lý do là các khoản tiết kiệm vượt trội trên thế giới mà phần lớn vẫn được định giá bằng đô la Mỹ là rất lớn. Nhưng chỉ có hai mục tiêu toàn cầu thực tế đủ lớn để giải quyết lượng vốn dồi dào như vậy - tài sản bằng đồng đô la và tài sản bằng đồng euro. Đơn giản là thị trường vàng quá nhỏ để xử lý nguồn cung cấp tiền tiết kiệm lớn như vậy mà không hình thành nên một bong bóng thị trường nguy hiểm, điều mà có thể đang xảy ra. Tuy nhiên, như tôi sẽ trình bày một cách ngắn gọn, điều mà các nhà hoạch định chính sách châu Âu không muốn là nguồn tiền tiết kiệm vượt trội trên thế giới đổ vào đồng euro và đưa giá trị của đồng euro lên cao hơn bao giờ hết, bởi vì việc này sẽ đặt khu vực xuất khẩu của châu Âu, một bộ máy kinh tế luôn đáng tin cậy trong những thập kỷ gần đây vào thế bất lợi trong cạnh tranh toàn cầu.

Trên thực tế, vị trí là ngoại tệ dự trữ toàn cầu của đồng đô la có lẽ đã đạt đến mức đỉnh điểm. Đa dạng hóa dự trữ sang đồng euro là không thể tránh khỏi. Nhưng điểm mấu chốt là vai trò của đồng đô la sẽ vẫn còn rất cần thiết vì nó là một đồng tiền mậu dịch chính của các thị trường hàng hóa, thị trường tiền tệ và thị trường phái sinh trên thế giới. Các nhà kinh tế học Jeffrey Frankel và Menzie Chinn đưa ra một lập luận đầy sức thuyết phục rằng nếu Vương quốc Anh không tham gia vào khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu và biến London trở thành trung tâm tài chính mới của châu Âu thì đồng đô la, chứ không phải là đồng euro, sẽ vẫn là loại tiền tệ mạnh nhất.

Nhà kinh tế Martin Feldstein góp thêm vào các cuộc tranh luận bằng một lập luận táo bạo rằng đồng đô la thực sự chưa hề giảm nhiều: “Giá trị thực tế đã được điều chỉnh theo lạm phát của đồng đô la so với giá các loại tiền tệ khác chỉ giảm 7% trong 20 năm qua (tức là ít hơn 0,5% mỗi năm).” Liệu Feldstein có đúng hay không vẫn còn là một vấn đề mở cần được thảo luận, nhưng có một điều dường như chắc chắn: Sau khi đã tính đến lạm phát, sức mạnh của đồng đô la so với đồng yên Nhật và hầu hết các loại tiền tệ châu Á vẫn mạnh một cách phi thực tế. Fred Bergsten, người đứng đầu Viện Kinh tế Quốc tế Peterson trong ấn bản vào mùa xuân năm 2008 của tạp chí The International Economy đã đưa ra lý lẽ ủng hộ cho “Hiệp định Plaza châu Á”, một nỗ lực có trật tự và có tổ chức của các chính phủ Mỹ, Nhật Bản, và các nước châu Á nhằm điều chỉnh những sự mất cân đối tiền tệ này (currency mismatches), với mục đích là điều chỉnh sự mất cân bằng cán cân thương mại. Tuy nhiên, cuối cùng nếu Washington không thể khôi phục lại độ tin cậy của hệ thống tài chính Mỹ hoặc Cục Dự trữ Liên bang thất bại trong cuộc chiến nhằm nhấn chìm những nhân tố gây lạm phát thì cuộc tranh luận này sẽ kết thúc: Đồng đô la sẽ sụp đổ trong một môi trường đầy hỗn loạn.

Trong khi đó, Nhật Bản, Trung Quốc, và những nước khác tiếp tục mua trái phiếu Kho bạc Mỹ, và câu hỏi là liệu điều đó có làm cho Mỹ bị tổn thương không, trong trường hợp các nước đó quyết định không mua nữa. Điều quan trọng trước tiên không phải là thổi phồng những khó khăn tiềm ẩn của Mỹ. Một vài năm trước đây, tôi đã hỏi một viên chức cao cấp tại Cục Dự trữ Liên bang New York về những gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc quyết định không tái sử dụng đồng đô la bằng cách mua trái phiếu Kho bạc Mỹ nữa. Vị quan chức đó nhanh chóng trả lời rằng “Tỷ lệ lãi suất của Mỹ sẽ tăng vọt”. Tôi nghĩ ý của ông ấy là tỷ lệ lãi suất của Mỹ sẽ tăng từ 300 đến 400 điểm cơ bản[17] (3 hoặc 4%) khi vị quan chức đó khiến tôi ngạc nhiên khi nói thêm: “Trái phiếu Kho bạc 10 năm có thể tăng thêm 35 điểm cơ bản - trong trường hợp xấu nhất thì thậm chí còn tăng 50 điểm cơ bản!” Tôi không cảm thấy choáng ngợp vì rõ ràng là thị trường trái phiếu và hàng loạt các nhà đầu tư trái phiếu Mỹ có tiềm năng thực sự bí hiểm hơn tôi đã dự đoán rất nhiều[18].

Một nghiên cứu năm 2007 của Tập đoàn kinh tế Wachovia cũng góp thêm tiếng nói vào cuộc tranh luận này. Họ cho rằng không một quốc gia riêng lẻ nào ở bất kỳ nơi đâu nắm giữ gần đủ số nợ của Mỹ để có thể gây ra một gián đoạn nghiêm trọng. Bản nghiên cứu đã nêu: “Trái với nhận thức phổ biến rằng các ngân hàng trung ương ở châu Á, đặc biệt là tại Trung Quốc đang cấp vốn cho toàn bộ thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ thông qua những đợt mua chứng khoán Kho bạc Mỹ với số lượng lớn, những người nước ngoài nắm giữ chứng khoán Mỹ cũng khá đa dạng… Không có một quốc gia hay một ngân hàng trung ương đơn lẻ nào mà Mỹ có thể dựa vào để cung cấp tài chính cho thâm hụt tài khoản vãng lai của mình.” Hơn nữa, tôi xin nói thêm là theo định nghĩa, thâm hụt tài khoản vãng lai luôn luôn được tài trợ, vấn đề là ở mức giá nào mà thôi. Chìa khóa cho vấn đề này chính là tỷ giá hối đoái.

Ví dụ, nếu người Trung Quốc lựa chọn chuyển sang chỉ mua trái phiếu chính phủ châu Âu (một lần nữa, vì quy mô to lớn của khoản dự trữ của họ, đó là sự lựa chọn thực tế khác duy nhất cho việc quay vòng khoản tiền tiết kiệm của họ) thì toàn bộ cộng đồng châu Âu sẽ nổi loạn. Người châu Âu lo sợ rằng động thái đó sẽ khiến cho đồng euro tăng mạnh hơn nó đã từng tăng, có khả năng làm cho hàng hóa châu Âu ít khả năng cạnh tranh trên toàn cầu hơn, đặc biệt là tại các thị trường châu Á, nơi mà đồng euro đã tăng sức mạnh so với đồng yên Nhật và đồng nhân dân tệ Trung Quốc. Giới chính trị và công nghiệp châu Âu cũng nhận thấy đồng Euro là quá mạnh theo mức đánh giá hiện tại của nó. Ví dụ, các bộ trưởng tài chính trong khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu thường xuyên công kích chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Jean-Claude Trichet vì theo quan điểm của họ, vị chủ tịch ngân hàng này đã cho phép tăng sức mạnh tiền tệ như là kết quả trực tiếp của một chính sách tiền tệ, chính sách mà đã giữ tỉ lệ lãi suất ngắn hạn ở mức quá cao.

Một số nhà chiến lược cho rằng đồng Euro cao hơn một cách đáng kể có thể đe dọa tính độc lập của chính ngân hàng trung ương. Đó là vì các chính trị gia châu Âu tin rằng họ có quyền hợp pháp để lựa chọn thể chế ngoại hối (cố định hay thả nổi v.v..) và buộc ngân hàng trung ương quản lý chế độ đó. Nếu các chính trị gia áp dụng một chế độ yêu cầu đồng Euro yếu hơn trong trường hợp một dòng vốn đầu tư nước ngoài lớn đang tràn vào thì Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ có trong tay rất nhiều vốn. Nếu nó tuân theo mệnh lệnh này trong một môi trường với lạm phát ở trên mức mục tiêu của ngân hàng trung ương thì uy tín của các cơ quan này có thể bị tổn hại nghiêm trọng.

Cuối cùng, các ngân hàng trung ương châu Á sẽ không làm gì một cách có chủ ý để gây tổn hại đến giá trị của đô la Mỹ, bao gồm cả việc bán quyền nắm giữ trái phiếu Kho bạc Mỹ. Lý do cho việc này là gì? Làm như thế sẽ chỉ hạ thấp giá trị lượng nắm giữ đồng đô la khổng lồ của họ, như vậy thì chẳng khác gì gậy ông đập lưng ông. Nếu Trung Quốc giảm mạnh lượng nắm giữ trái phiếu Kho bạc Mỹ, Trung Quốc sẽ bị thiệt hại lớn về tài chính xét theo tỉ lệ vốn đầu tư vào trái phiếu vì giá cả giảm xuống. Trên thực tế, đồng đô la đã suy yếu đáng kể, đặc biệt là so với đồng Euro, đồng Yên, và đồng bảng Anh. Tuy nhiên, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, đồng đô la hiện nay vẫn chiếm đến 65% lượng dự trữ ngoại tệ thế giới, bằng tỷ lệ trong lịch sử. Thật vậy, nếu bạn cộng lượng đô la Mỹ được dự trữ bởi các cá nhân của Trung Đông và Trung Quốc thì đồng đô la Mỹ hiện nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi, một thực tế đáng ngạc nhiên bất chấp những phát triển đầy hỗn loạn trong những năm gần đây cùng với sự suy giảm niềm tin vào hệ thống tài chính Mỹ.

Xét về lâu dài, người Mỹ có thể luôn không cảm thấy yên tâm về hệ thống tài chính thế giới mới với sự chuyển dịch các khoản tiền tiết kiệm này. Mỹ nên hành động nhanh chóng để mang lại một nỗ lực quốc tế nhằm điều chỉnh sự mất cân bằng toàn cầu và thương lượng một cơ cấu điều tiết tài chính toàn cầu thống nhất hơn và minh bạch hơn. Khả năng tồn tại lâu dài của hệ thống tài chính toàn cầu phụ thuộc vào việc đáp ứng những mục tiêu đó. Nhưng liệu Mỹ có thể tiếp tục phát triển mạnh về mặt kinh tế trong khi vẫn đi theo một phương thức tổ chức phức tạp không? Câu trả lời là nó có thể trừ khi vì áp lực chính trị mà các nhà hoạch định chính sách Mỹ trong sự hoang mang đã gây ra những sai lầm nghiêm trọng, bao gồm cả việc bảo hộ thương mại, cản trở dòng vốn nước ngoài, đưa ra những quy định quá đáng, các trở ngại pháp lý và / hoặc các mức thuế cao hơn đối với vốn đầu tư và thế chủ động của doanh nghiệp, cũng như cho phép tiếp tục duy trì tính minh bạch không đầy đủ của thị trường tài chính. Đây là tất cả những phát triển mà có thể là một điểm bùng phát cho sự sụp đổ hoàn toàn của niềm tin trên toàn cầu đối với hệ thống của Mỹ.

Rốt cuộc, ba nước mua chứng khoán Kho bạc Mỹ lớn nhất là Anh (thường đầu tư vốn vào thế giới đang phát triển, bao gồm các khoản dự trữ của ngân hàng trung ương), Nhật Bản, và Trung Quốc. Họ mua không chỉ vì mục đích từ thiện mà vì họ tin rằng các nhà hoạch định chính sách Mỹ sẽ tiếp tục cho phép bộ máy làm giàu của Mỹ tạo ra sự tăng trưởng lành mạnh, tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp thấp, và thế chủ động của doanh nghiệp với khả năng tránh các cuộc xung đột giai cấp hoặc các hành động phá hoại kinh tế, bao gồm các nỗ lực nhằm cố tình phá hủy giá trị của đồng đô la cho các mục đích thương mại. Vì các nhà đầu tư tin rằng mô hình chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp tại Mỹ không bị ảnh hưởng nên họ cũng sẵn sàng mua nhiều trái phiếu không phải do Kho bạc phát hành.

Thật khó để đánh giá xem thế giới đang theo dõi tình hình chính trị, kinh tế, và tài chính của Mỹ chặt chẽ như thế nào. Ví dụ, khi Tổng thống Bill Clinton nhậm chức, người nước ngoài sở hữu 19% nợ Kho bạc Mỹ. Bị thu hút bởi những giải pháp kinh tế của Clinton, người nước ngoài đã tăng tỷ lệ đó lên 35% vào thời điểm Tổng thống Bill Clinton rời nhiệm sở. Ngày nay, một phần là vì tình trạng tương đối thiếu các cơ hội đầu tư trên toàn cầu và mức độ rủi ro cao về địa chính trị nên người nước ngoài sở hữu 52% nợ Kho bạc Mỹ.

Một số nhà phân tích cho rằng những nước còn lại của thế giới kinh tế sẽ sớm ly khai khỏi Mỹ. Nói cách khác, những nơi như Trung Quốc sẽ sớm được hưởng các nền kinh tế tiêu dùng thịnh vượng, ít phụ thuộc hơn vào xuất khẩu sang phương Tây. Tuy nhiên, lập luận này bị nhiều người nghi ngờ do những vấn đề dân số rất đáng lo ngại của xã hội Trung Quốc, vốn đang già đi. Những số liệu thống kê dân số này đã tạo ra một luồng gió ngược rất lớn thổi bạt tình hình tiêu thụ trong nước vốn đang rất mạnh. Tuy nhiên tình hình sẽ chỉ trở nên xấu đi trong những năm tới. Ở Trung Quốc, tiêu thụ cá nhân khoảng hơn một thập kỉ qua thực sự đã giảm đáng kể. Theo Nicholas Lardy của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson thì: “Tiêu thụ cá nhân tại Trung Quốc năm 2005 ít hơn 30% so với mức lẽ ra có thể đạt được nếu phần đóng góp của tiêu dùng hộ gia đình vào GDP vẫn duy trì ở mức của năm 1990 thay vì giảm hơn 10%”.

Nhiều bạn bè của tôi trong cộng đồng các ngân hàng trung ương châu Âu ban đầu đã tin vào thuyết ly khai. Nói gì thì nói, giao thương giữa châu Âu với Mỹ chỉ chiếm gần 10% khối lượng thương mại châu Âu. Tuy nhiên, hiện nay chính những người đó cũng công nhận rằng mối quan hệ thương mại là một vấn đề nhưng mức độ hội nhập tài chính, khi cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn xảy ra, lại là một vấn đề khác. Giới chính sách đã đánh giá thấp về việc Mỹ và Châu Âu đang có liên kết chặt chẽ về mặt tài chính như thế nào, và điều đó cũng đúng với hầu hết các nơi trên thế giới.

Cuối cùng, điều mà những người đề xướng học thuyết ly khai đánh giá thấp, đến một mức độ nguy hiểm, là vai trò của Mỹ trong 25 năm qua như một nhân tố then chốt cho hệ thống thị trường vốn và thương mại mở như hiện nay. Đây là một vai trò quan trọng đối với nền tảng của toàn cầu hóa. Với nền kinh tế Mỹ bị tách biệt khỏi phần còn lại của thế giới, giả định rằng sự phân tách như vậy là có thể thì một thế giới mới với sự cạnh tranh về lợi ích giữa các quốc gia và xung đột thương mại đang tăng lên sẽ không hề tốt đẹp. Nếu không phải là Mỹ thì nước nào sẽ bảo vệ mô hình toàn cầu hóa? Ai sẽ thiết lập những nguyên tắc chung rộng hơn cho một trật tự tài chính? Nhật Bản? Pháp? Mexico? Nga? Liệu Canada có thể là đầu tàu về chính sách cho hệ thống kinh tế và tài chính toàn cầu không? Thực tế là bất kỳ sự tách biệt nào đều có khả năng chết yểu.

Nhìn vào tương lai, hệ thống tài chính ngày nay vô cùng mong manh vì các quốc gia đang có lượng tiền tiết kiệm thặng dư lớn nhất - vẫn là các nước sản xuất dầu, Trung Quốc, và các nước châu Á khác - sẽ tích lũy lượng tiền tiết kiệm thặng dư nhiều hơn trong thập kỷ tiếp theo. Tại sao? Đơn giản là vì mô hình phụ thuộc vào tiêu thụ thấp/xuất khẩu cao đem lại lợi ích quá lớn khiến những quốc gia này không thể cưỡng lại được.

Một quốc gia như Trung Quốc chưa đủ mạnh có hệ thống an sinh xã hội hay hệ thống phúc lợi, một thực tế tạo ra động lực rất lớn để mọi người tiết kiệm nhiều hơn là tiêu thụ. Hơn thế nữa, so với mô hình tiêu dùng nhiều và thành lập các doanh nghiệp tư nhân rộng khắp đã tồn tại ở phương Tây, mô hình xuất khẩu theo chủ nghĩa trọng thương dễ bị các quan chức quan liêu trong chính phủ kiểm soát hơn rất nhiều - và nó cũng mở đường cho tham nhũng.

Một báo cáo năm 2007 của Viện toàn cầu McKinsey mô tả các tham số của tài chính toàn cầu ngày nay, và những chuyển dịch mới trong quyền lực tài chính. Nghiên cứu mô tả bốn “nhà môi giới quyền lực” mới của nền kinh tế toàn cầu: (1) các nhà đầu tư từ các quốc gia xuất khẩu dầu; (2) các thống đốc ngân hàng trung ương châu Á và các quỹ đầu tư quốc gia của họ; (3) Quỹ đầu tư phòng vệ; và (4) các công ty đầu tư cổ phần tư nhân. Bốn nhà môi giới đầy quyền lực mới này ngày càng kiểm soát và định hình hệ thống tài chính toàn cầu, với tài sản đã tăng gấp 3 kể từ năm 2000 lên đến gần 10 nghìn tỷ đô la. Thật đáng kinh ngạc, số tiền này chiếm hơn 40% lượng vốn được kiểm soát bởi các quỹ hưu trí toàn cầu. Theo truyền thống, các quỹ hưu trí là những quỹ có ảnh hưởng lớn với tư cách là nguồn huy động vốn cho đầu tư toàn cầu.

Trong số bốn nhà môi giới quyền lực đó thì các nhà sản xuất dầu kiểm soát lượng tiền lớn nhất, 4 nghìn tỷ đô la. Các ngân hàng trung ương châu Á kiểm soát nhiều hơn 3 nghìn tỷ đô la, trong đó Trung Quốc kiểm soát gần một nửa số tiền đó. Các công ty đầu tư cổ phần tư nhân đã tăng lên gần gấp bốn lần về mặt quy mô từ năm 2000, cùng với các quỹ đầu tư phòng vệ nắm giữ khoảng từ 2 nghìn tỷ đô la đến 3 nghìn tỷ đô la tổng số vốn toàn cầu. Và, có thể bạn chưa biết: viện Toàn cầu McKinsey ước tính rằng tổng tài sản của bốn Ông lớn đó sẽ tăng tới khoảng từ 15 nghìn tỷ đô la tới 21 nghìn tỷ đô la tính đến năm 2012 - một số tiền tương đương 75% tài sản của các quỹ hưu trí toàn cầu.

Không cần phải là nhà khoa học lỗi lạc mới có thể thấy được những viễn cảnh sắp nổi lên trong thời gian tới. Theo báo cáo của Viện toàn cầu McKinsey rằng “của cải và quyền lực tài chính, từ lâu tập trung tại các nền kinh tế phát triển như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, hiện nay đang phân tán.” Câu hỏi đặt ra là người Mỹ và người châu Âu sẽ cho phép bán bao nhiêu phần trăm cơ sở công nghiệp của họ cho các đơn vị đầu tư được kiểm soát bởi chính phủ nước ngoài. Ví dụ, Quốc hội Mỹ sẽ phản ứng lại như thế nào khi đơn vị đầu tư do chính phủ Trung Quốc, Ấn Độ, hoặc Nga kiểm soát cố gắng mua cổ phần trong các ngành công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp bán dẫn của Mỹ? Như đã đề cập trước đó, điều gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc cố gắng mua một lượng lớn cổ phần của Microsoft hay IBM, và sau đó sẽ đòi ghế trong hội đồng quản trị cho các vị quan chức chính phủ Trung Quốc? Điều gì xảy ra nếu chính phủ Nga bắt đầu tích lũy cổ phiếu của Boeing? Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ phản ứng như thế nào trước những hạn chế ngày càng tăng về cơ hội đầu tư tại Mỹ?

Laura Badian và Gregory Harrington thuộc Hãng Luật Arnold và Porter LLP trong một số gần đây của Tạp chí The International Economy đã tóm tắt hoạt động của quỹ đầu tư quốc gia[19] chỉ riêng trong năm 2007. Mọi việc bắt đầu đầu năm 2007 khi Trung Quốc chuyển 200 tỷ đô la trong tổng số 1,2 nghìn tỷ đô la từ khoản dự trữ của ngân hàng trung ương vào các khoản đầu tư rủi ro hơn của quỹ đầu tư quốc gia. Ngay lập tức, người Trung Quốc đầu tư một khoản trị giá 3 tỷ đô la vào công ty cổ phần tư nhân Blackstone Group LP. Trong tháng 7 năm 2007, Ngân hàng Phát triển Trung Quốc đã mua lại 3,6% ngân hàng Barclays của Anh (như một phần cuộc đấu thầu mua ABN AMRO của Trung Quốc). Trong tháng 10 năm 2007, Ngân hàng Thương mại và Công nghiệp Trung Quốc (ICBC) đầu tư 5,5 tỷ đô la vào Standard Bank Group Ltd., có nghĩa là hiện nay họ sở hữu hơn 20% của ngân hàng lớn nhất Châu Phi này.

Trong tháng 11 năm 2007, tập đoàn chứng khoán lớn nhất Trung Quốc đã liên kết với ngân hàng đầu tư Mỹ Bear Stearns, một mối quan hệ hiện nay đang rất phức tạp khi Bear Stearns sụp đổ. Tháng 12 năm 2007, Tập đoàn Đầu tư Trung Quốc (China Investment Corporation) đã mua 9,9% cổ phần của Ngân hàng Morgan Stanley.

Tất nhiên, Trung Quốc không phải là nhà đầu tư duy nhất trong lĩnh vực này. Trong tháng 10 năm 2007, Công ty Vốn Quốc tế Dubai (Dubai International Capital) đã mua 9,9% cổ phần của Công ty Quản lý Vốn Och-Ziff, một quỹ đầu tư phòng vệ lớn ở New York. Việc này xảy ra sau khi Sở giao dịch chứng khoán Dubai mua khoảng 20% cổ phần trong thị trường chứng khoán NASDAQ gần một tháng. Sở giao dịch chứng khoán Dubai cũng đã mua lại gần 30% quyền sở hữu của NASDAQ tại Sở Giao dịch chứng khoán London. Badian và Harrington dẫn chứng thêm rằng vào cuối tháng 11 năm 2007, Công ty Vốn Quốc tế Dubai đã đầu tư một khoản tiền lớn vào Sony. Không lâu sau đó, Quỹ đầu tư Abu Dhabi tuyên bố trở thành cổ đông lớn nhất của Citigroup.

Một động thái mang tính quốc tế ngăn chặn mạnh mẽ các vụ mua bán này chỉ mới bắt đầu. Thủ tướng Đức Angela Merkel lên tiếng về việc ngăn chặn nỗ lực mua các công ty Đức của người Nga. Trên thực tế, xét về vấn đề đầu tư của các quỹ đầu tư quốc gia ở Châu Âu, khả năng lớn nhất là các nhà hoạch định chính sách châu Âu sẽ yêu cầu một chính sách hỗ trợ cho hai bên cùng có lợi, thứ mà Trung Quốc và Nga sẽ không bao giờ đáp ứng. Xét ở một mức độ nhất định, điều này có thể tạo ra một sự đối đầu trên phạm vi toàn cầu trong vài năm tới. Hãy lưu ý rằng điều này không chỉ là một hiện tượng của riêng các quốc gia lớn. Ngay cả ở Thái Lan, nhiệt độ của nền chính trị gần đây đã nhanh chóng tăng lên khi một cơ quan đầu tư của chính phủ Singapore cố gắng mua Tập đoàn viễn thông Shin của Thái Lan.

Đối với phương Tây, câu hỏi đặt ra là Trung Quốc, Nga và những nước khác đã phản ứng lại việc đầu tư hiện tại của Mỹ và Châu Âu vào cơ sở hạ tầng công nghiệp của riêng họ như thế nào. Liệu có xảy ra một hình thức trả đũa phi lý nào trong trường hợp những kế hoạch đầu tư của họ ở Mỹ và Châu Âu bị cản trở? Những kết quả như vậy có vẻ khó mà không xảy ra, đặc biệt là khi việc tiếp cận với công nghệ phương Tây bị hạn chế nghiêm ngặt vì lý do an ninh quốc gia, có nghĩa là dòng vốn đầu tư trên toàn cầu có thể cũng phải đối mặt với những rào cản mới trong tương lai gần.

Jeffrey Garten, một giáo sư ngành thương mại quốc tế tại Đại học Yale ủng hộ quan điểm rằng các nhà hoạch định chính sách châu Âu và Mỹ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phối hợp các chính sách tốt hơn dựa trên hoạt động của các quỹ đầu tư quốc gia. Garten lập luận rằng nếu không có sự phối hợp, các quỹ này có thể khiến cho nước này chống lại nước kia. Một số nhà phân tích cho rằng việc đầu tư của các quỹ đầu tư quốc gia nên là một phần của các cuộc đàm phán thương mại quốc tế. Nói cách khác, các nhà đầu tư sẽ phải tuân theo các vòng đàm phán thương mại thông thường. Các vị quan chức sẽ giữ vai trò kiểm soát, quyết định lượng vốn được phép đầu tư vào là bao nhiêu cũng như là tính chất và mục tiêu của khoản đầu tư này sau khi đã đàm phán với những người đồng nhiệm quốc tế.

Badian và Harrington chỉ ra rằng phương pháp tiếp cận đầy quan liêu như vậy có thể tạo ra một làn sóng bảo hộ mới. Những rào cản đối với đầu tư nước ngoài đang ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong các thành phần kinh tế có tầm quan trọng chiến lược. Tất nhiên, định nghĩa từ chiến lược là đủ thấy mối bất hòa trong bộ máy quan liêu. Xét ở một mức độ nhất định, hầu hết các hoạt động kinh tế của một quốc gia, nếu cần thiết, có thể được định nghĩa là “quan trọng mang tính chiến lược.”

Nhưng vấn đề đang ngày càng phức tạp là những ranh giới giữa các hạn định đối với đầu tư nước ngoài thuộc sở hữu tư nhân và sở hữu của chính phủ đang rất mập mờ. Gần đây tôi đã nói chuyện với một người có thẩm quyền cao cấp của một quỹ đầu tư quốc gia và ông đã phẫn nộ với ý kiến cho rằng mình là công cụ chính trị của chính phủ. Lập luận chính của ông: là những chuyên gia tài chính, chúng tôi sẽ thành công nếu quỹ đầu tư quốc gia thành công với lợi nhuận đầu tư như dự đoán, hấp dẫn và an toàn. Điều phức tạp hơn nữa là không phải tất cả các quỹ đầu tư quốc gia đều bình đẳng. Một số quỹ thực sự là những đơn vị do chính phủ thành lập, trong khi những quỹ khác là những thực thể độc lập thực sự chỉ quan tâm đến những khoản đầu tư thụ động hấp dẫn. Những khoản đầu tư này sẽ ổn định và củng cố nền kinh tế thế giới.

Rất nhiều trong số các quỹ thuộc nhóm thứ hai tham gia vào các chiến lược “mua và nắm giữ”[20]. Là những nhà đầu tư dài hạn, họ nằm trong số những người đầu tiên nhảy vào thị trường và mua khi giá cả của một tài sản giảm xuống. Tuy nhiên, các quỹ đầu tư quốc gia khác rõ ràng tồn tại một phần là để đạt được lợi thế chiến lược cho nước mình.

Nếu tất cả những điều này nghe có vẻ rất đáng lo ngại thì điều quan trọng là hãy nhớ xem Mỹ đã hưởng lợi lớn như thế nào từ hệ thống toàn cầu của các dòng vốn lưu thông tự do trong một phần tư thế kỷ qua với kết quả đáng kinh ngạc trong việc tạo ra của cải và giảm thiểu đói nghèo. Hơn nữa, Viện Toàn cầu McKinsey ước tính rằng chỉ riêng các khoản đầu tư của các nhà xuất khẩu dầu mỏ và các ngân hàng trung ương châu Á (bằng cách mua chứng khoán Ngân khố Mỹ) đã khiến mức lãi suất dài hạn của Mỹ giảm khoảng 75 điểm cơ bản. Những cuộc mua bán trái phiếu và các khoản đầu tư khác cũng có nhiều khả năng tăng lên trong những năm tới. Thêm vào đó, ngoài những phức tạp mang tính chiến lược do các quỹ đầu tư quốc gia gây ra thì hàng triệu nhà đầu tư nước ngoài có thiện chí từ hàng trăm nền kinh tế ở các quốc gia khác nhau đã coi Mỹ là một mục tiêu cực kỳ an toàn và nhiều lợi nhuận cho các khoản đầu tư lớn hơn, và những kết quả đạt đã được là điều không thể phủ nhận. Hơn nữa, mặc dù các quỹ đầu tư quốc gia của Nga và Trung Quốc đã giành được sự chú ý, nhưng theo tờ Financial Times thì Singapore đã thu hút phần lớn các khoản đầu tư xuyên quốc gia của các quỹ đầu tư quốc gia, hơn 50% của tổng số kể từ đầu năm 2007.

Trong suốt 25 năm toàn cầu hóa tài chính vừa qua, thật đáng ngạc nhiên là Mỹ chỉ bị lâm vào tình trạng suy thoái trong 5% quãng thời gian đó. Trong 25 năm trước, khi không có các thị trường tài chính được toàn cầu hóa, nền kinh tế Mỹ đã bị suy thoái trong 22% quãng thời gian. Mặc dù vẫn có những điều đáng thất vọng về tính chất không đồng đều trong việc phân phối của cải nhưng người Mỹ vẫn thích những thị trường cổ phiếu lớn mạnh và tỷ lệ lãi suất thấp do hệ thống tài chính mới này mang lại, một kịch bản vẫn đang thay đổi khi nền kinh tế suy yếu do sự suy giảm niềm tin và sự tín nhiệm vào tương lai kinh tế. Hơn thế nữa, người Mỹ có thể sớm nhận ra rằng “không có bữa ăn trưa nào miễn phí” (không có gì có thể đạt được mà không cần nỗ lực) khi các quốc gia khác cũng nỗ lực kiếm lời cho chính mình từ những kẻ giàu lên nhờ toàn cầu hóa.

Hãy lưu ý, khi sự thay đổi quyền lực trong hệ thống tài chính toàn cầu này xảy ra, quyền lãnh đạo chính trị của Washington đóng vai trò của một kẻ ngây thơ. Nhiều khi, các chính trị gia hành động như thể là hệ thống tài chính toàn cầu không tồn tại. Nhưng đôi khi các chính trị gia cũng tạo ra một loạt các chính sách mị dân, với lập luận rằng rất nhiều trong số các nền kinh tế phi dân chủ đã thất bại trong việc chơi đúng luật (một số thì không) và rằng dù sao chăng nữa thì Mỹ vẫn giữ cho mình quyền quyết định không tham gia vào hệ thống đó. Mỹ không phải từ bỏ, và không trải qua những hậu quả vô cùng tiêu cực dưới hình thức lãi suất dài hạn cao hơn đáng kể và tình trạng thất nghiệp tăng vọt khi các công ty Mỹ cắt giảm chi tiêu.

Điều mà các chính trị gia của Mỹ không nhận ra là họ chỉ có một lựa chọn trong thế giới mới lạ này với những nguồn vốn mới đầy rủi ro. Đó là: biến nền kinh tế Mỹ thành điểm hấp dẫn đầu tư toàn cầu lớn nhất trong thời gian dài. Điều đó có nghĩa là duy trì mô hình tư bản ủng hộ doanh nghiệp (pro-entrepreneurial capitalist model) của 25 năm qua. Đây là điều mà một ứng cử viên chính trị ngày nay rất ghét vì họ ngày càng tôn thờ tượng đài chính trị dân túy của chính sách mị dân chống lại doanh nghiệp (anti-entrepreneurial). Điều đó cũng có nghĩa là thiết lập một trật tự tài chính mới để tăng cường niềm tin phổ quát đối với hệ thống tài chính toàn cầu.

Vào tháng 12 năm 2007, ngay trước Giáng sinh, tôi đang uống cà phê tại một tiệm Starbucks ở Washington D.C thì tình cờ gặp một người bạn cũ, David Lipton. Là một người lịch thiệp và điềm tĩnh, ông là một trong những nhân vật được ngưỡng mộ của Bộ Tài chính trong chính quyền Clinton. Ông từng chịu trách nhiệm giải quyết khủng hoảng trong suốt cuộc khủng hoảng ở Nga cuối những năm 1990.

Chúng tôi bắt đầu cuộc trò chuyện bằng cách thảo luận về sức mạnh toàn cầu đang ngày càng gia tăng của các quỹ đầu tư quốc gia. Cả hai chúng tôi đều đồng ý rằng các chính trị gia ở cả châu Âu và Mỹ sẽ sớm cố gắng tạo ra một thách thức đối với việc cho phép Trung Quốc, Nga, Saudi Arabia, và các quốc gia khác tiếp cận quyền sở hữu đáng kể đối với của các lợi ích tài chính và công nghiệp của Mỹ hoặc châu Âu. Chúng tôi cùng nhất trí rằng có thể sẽ lặng lẽ xuất hiện một sự đồng thuận rộng rãi của cả hai đảng về việc các khoản đầu tư này nếu không bị cấm thì cũng cần được giám sát chặt chẽ. Tôi xen vào: “Đó là lý do tại sao đây là những thời điểm đầy nguy hiểm và không thể dự đoán trước được”.

Lipton trả lời “Đúng vậy, bởi vì điều đó không hề đơn giản như họ nghĩ. Nếu các quan chức Mỹ và châu Âu nhận ra một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chính thức vào buổi sáng thì thật nực cười, năm cuộc gọi đầu tiên sẽ là các cuộc gọi đến quỹ đầu tư quốc gia với một yêu cầu giúp đỡ để đạt được sự ổn định. Lipton kết luận: “Không có ai khác nắm giữ số vốn lớn tới mức đó. Chắc chắn không phải là Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Họ (các quỹ đầu tư quốc gia) có thể là hy vọng duy nhất của chúng ta.”

Rốt cuộc, đó là lý do tại sao Mỹ cần phải tiếp tục duy trì các chính sách giúp Mỹ trở thành một địa điểm đầu tư hấp dẫn. Mỹ cũng cần phải điều chỉnh sự mất cân đối tài chính của mình. Tuy nhiên, thách thức chính là phải đặt ra những chính sách sẽ giúp điều chỉnh sự mất cân đối mà không gây nguy hại đến của cải và công việc được tạo ra bởi hệ thống tư bản doanh nghiệp. Chìa khóa để giải quyết thách thức này là tránh giết chết tinh thần doanh nhân đã được xây dựng trong một vài thập kỷ qua. Hiện nay, tồn tại một mối nguy hiểm thực sự rằng những đơn thuốc chính sách được tạo ra bởi giới chính trị hiện nay, vốn đã trở nên cuồng dại bởi chiến tranh giai cấp và thuật hùng biện của những người theo chủ nghĩa bảo hộ, cuối cùng sẽ giết chết bệnh nhân. Như tôi sẽ trình bày ở chương tiếp theo, việc hiểu nhân tố nào làm cho một nền kinh tế lớn mạnh và thịnh vượng là điều hết sức cần thiết. Điều đó có nghĩa là đánh giá cao vai trò của các vị thống lĩnh nền kinh tế mới hiện nay - các doanh nhân - và cách thức họ được tài trợ. Nhưng sau đó tôi cũng sẽ chỉ ra chính sách để thúc đẩy tính sáng tạo doanh nghiệp sẽ phải được bổ sung bởi các chính sách nhằm đẩy mạnh việc bồi dưỡng vốn nhân lực trên diện rộng. Rốt cuộc, trong nền kinh tế toàn cầu thế kỷ XXI thì chính vốn nhân lực là điều quan trọng nhất.

Báo cáo nội dung xấu