Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 51
51
Châu Bồi Công lấy lửa đốt gò Hổ
Uông Sĩ Vinh thừa cơ nhập nguy thành
Qua một đêm đánh giết, hai bờ sông Kinh đầy rẫy xác người, máu chảy thành sông, kiếm gãy giáo cong vất đầy bờ bãi. Hai bên tính lại số thương vong, quân Thanh mất bốn ngàn. Vương Phụ Thần binh tướng mất hơn một vạn, chỉ riêng số chết tại trận đã có hơn sáu ngàn người. Do quân lính hai bên tổn thất rất lớn, Đồ Hải lệnh cho ba quân nghỉ bảy ngày để chấn chỉnh rồi mới dời trại qua sông, đóng quân dưới thành Bình Lương.
Vừa mới ổn định lại, Đồ Hải bèn căn dặn tùy tùng: “Vào báo Châu Quân môn, ta đi xem xét gò Hổ. Giết một con hươu sống từ Mông Cổ mang theo cho Quân môn bồi dưỡng, ông ta mệt lắm rồi.” Đang nói thì Châu Bồi Công từ trong trướng sau bước ra, cười nói: “Tôi không phải là đàn bà ở cữ, có bệnh gì đâu! Đại tướng quân đã đi thị sát, Châu Bồi Công đâu dám ngồi đây mà nghỉ ngơi?” Nói xong bèn cùng đi ra. Tham tá trung quân đang định cử tùy tùng theo bảo vệ, Châu Bồi Công cười nói: “Cho Vương Phụ Thần mượn một lá gan thì hắn cũng không dám ra khỏi thành. Bây giờ binh mã tổng cộng không quá một vạn, đi ra ngoài muốn chết sao?” Đồ Hải thì nói: “Cứ vẫn cẩn thận là hơn, đem theo mười mấy thân binh ở đây!”
Hai người cưỡi ngựa đi quanh thành một vòng, rồi men theo phía bắc thành đi về hướng tây đến phía dưới gò Hổ. Cái gò Hổ này ở xa nhìn chỉ là một cái gò đất, đi lại gần xem kỹ mới thấy rất hiểm yếu. Để tiện việc dụng binh, vòng ngang lưng “hổ”, Vương Phụ Thần cho bạt một cái đài bằng, dưới gò lại xây nhiều hang đá, chỉ một đoạn gần cửa thành có một đường bậc đá thông thẳng đến đỉnh đầu hổ, bên trên có một cái miếu vuông vức khoảng nửa mẫu. Mặt bắc có một tòa lầu đá, trên tường có thể hô ứng với trong thành, giống như một con hổ nằm nhìn chằm chằm Bình Lương.
“Thành Bình Lương xây dựng rất vững chắc,” Đồ Hải than thở, “toàn là đá khối to trên mặt, e rằng đại pháo Hồng y phá không nổi nó!”
Châu Bồi Công không nói năng gì, chỉ im lặng quan sát gò Hổ, rất lâu mới thở dài đáp lại: “Thành này bắc chiếm Lục Bàn, nam bóp Lũng Sơn, là cửa bảo vệ Cam Đông, từ nhà Hán trở lại đây là nơi mà nhà quân sư phải giành cho được, qua hàng ngàn năm xây đắp, làm sao mà không kiên cố? Nếu cứ đường hoàng mà đánh, cái thành này không khó hạ, đói cũng phải làm cho Vương Phụ Thần chịu đói mà đầu hàng!”
“Anh xem chôn thuốc nổ cho nổ thành được không?” Đồ Hải nói, “Chỉ cần cho nổ bứt một đoạn là được rồi.”
“Đều là đất cát pha, mặt nước sông quanh thành lại không đóng băng.” Châu Bồi Công lắc đầu nói, “đào địa đạo e không được, hơn nữa thuốc nổ cũng không đủ.”
Đồ Hải thấy Châu Bồi Công chỉ quan sát gò Hổ liền cười nói: “Xem ra anh vẫn một mực muốn đánh gò Hổ, đặt pháo trên đó bắn thẳng vào thành. Đó nhất định là tốt, nhưng xem tình hình này không chết sáu bảy nghìn người thì lên có được không?”
Châu Bồi Công gật đầu, nói: “Đúng vậy, vẫn phải tìm một cách an toàn nhất!”
Lúc này, Vương Phụ Thần nghe nói bọn Đồ Hải quan sát gò Hổ nên cũng đưa Cung Vinh Ngộ đến. Trận đánh này vô cùng thê thảm, đâu đâu máu chảy đầu rơi. Trong thành thực lực quân số không đến bảy ngàn, cộng thêm số quân giữ gò Hổ thì cũng chỉ hơn chín ngàn người. Đô thống Mã Nhất Côn đã chết trong loạn quân, Hà Úc Chi dẫn theo một nhóm tàn quân không biết chạy về đâu. Chỉ còn Cung Vinh Ngộ nguyên là hộ vệ trung quân, tuy không thuộc hàng tham tướng, nhưng quân số không bị tổn thương, số khác có đến ba ngàn chạy trốn vào thành, đều là chim đã khiếp cung, không thể xáp trận đánh nhau. Vương Phụ Thần thấy Đồ Hải và Châu Bồi Công đứng ở dưới thành chỉ trỏ coi như giữa chốn không người, trong lòng vừa tức vừa căm, liền nghiến răng nói nhỏ với Cung Vinh Ngộ: “Vinh Ngộ, tên kia là bạn của anh hả, hắn gây cho ta bao khốn khổ!... Tay ta vết thương chưa lành, anh bắn không tồi, lại đây, hãy thử xem tài cung tên của anh nào!”
Cung Vinh Ngộ từ từ rút trong túi tên đeo sau lưng ra một mũi tên, nỗi lòng rối rắm trăm bề. Anh nhìn cái nốt ruồi nhỏ phía dưới cánh tay, là lúc bé anh và Châu Bồi Công cùng xuống sông bắt cá bị cua kẹp. Bây giờ tự mình dùng tên bắn chết người bạn cùng mò cua bắt ốc với mình. Anh bước tới cái gò nhỏ phía trước, len lén kéo dây cung, Châu Bồi Công chỉ một mực chăm chú quan sát gò Hổ đang nói câu gì đó. Cứ tài bắn cung của anh, ở cự ly gần như vậy, không khó cho một mũi tên xuyên suốt Châu Bồi Công từ phía sau tim, nhưng tay anh run bần bật, ngắm rất lâu mới “phựt” một cái, thả tay buông vút mũi tên ra.
Châu Bồi Công đang nói hăng, đâu có đề phòng mũi tên bắn lén. Đồ Hải là người từng trải chiến trận, nghe tiếng mũi tên bay, không kịp quay đầu, đã đẩy mạnh Châu Bồi Công một cái, tự mình cũng vội né tránh, chỉ thấy mũi tên bay vút tới như sao băng, cắm trúng cánh tay trái của Châu Bồi Công.
“Ối!” Châu Bồi Công kêu lên một tiếng to, suýt rơi xuống mình ngựa, bỗng quay đầu nhìn lại thấy Cung Vinh Ngộ nắm cây cung không đứng đực trên mặt thành. Châu Bồi Công nhắm mắt nghiến răng, lấy tay phải nhổ mạnh mũi tên, máu tuôn ra xối xả. Cung Vinh Ngộ mặt trắng bệch như đất, cây cung trong tay rơi tuột xuống thành như con diều đứt dây.
Đêm đó về tới trại lớn, Đồ Hải nhận được chiếu chỉ và báo cáo phủ đệ. Hai người làm đại lễ ba quỳ chín lạy, mở ra đọc, trong đó có một bức chỉ dụ tự tay Khang Hy viết:
Phủ viễn đại tướng quân Đồ Hải, Phủ viễn Tham nghị tướng quân Châu Bồi Công: Báo cáo quân sự đã rõ, biết được hai khanh đại thắng ở sông Kinh, Trẫm thấy rất phấn khởi. Nay thế giặc Ngô Tam Quế ở Nhạc Châu ngày càng đi vào con đường cùng. Mới nghe báo khẩn, Quý Châu có một vạn quân phản nghịch tới viện trợ, việc này chúng mà làm được thì việc quân ở Tây Lương lại rối bòng bong rồi! Chỉ ghi hai bài khải ca để ban tặng, mong muốn cùng phấn chấn oai phong, chiếm gấp thành Bình Lương, Nhà nước đâu tiếc không phong tặng chức cao!
Phía dưới là hai bài thơ cổ, không kịp xem kỹ, liền xem báo cáo phủ đệ. Một cái là tin Khổng Tứ Trinh về kinh, Khang Hy đưa vào trong cung tiếp đón; một tin là sau khi Tôn Diên Linh quay lại đầu Thanh, Ngô Thế Tông từng dùng lương hướng chiêu dụ ông đã bị giết ở ngoài thành Quế Lâm. Còn một tin nữa nói việc Ngô Thế Tông dùng thư Uông Sĩ Vinh trá hàng, Phó Hồng Liệt bị dụ bị giết chết, bộ Lễ phụng chỉ phong cho hiệu thụy, và lệnh cho Tuần phủ các tỉnh tra rõ tông tích tên Uông phản nghịch, truy nã để xét xử v.v...
“Nếu nói về đánh giặc, những chuyện này là thông thường.” Đồ Hải thấy sắc mặt Châu Bồi Công vừa xanh vừa trắng, nghĩ tới quan hệ thân thiết với Phó Hồng Liệt cũng cảm thấy lòng đau khôn xiết, bèn an ủi than rằng: “Nói về nghiệp lớn, thì đây chỉ là chuyện nhỏ... chỉ có thể nói là Phó Hồng Liệt trung liệt hiền minh, thẳng thắn đáng kính, lại kết thúc đáng buồn như vậy…” vừa nói nước mắt tuôn tràn.
“Uông Sĩ Vinh,” Châu Bồi Công không hiểu Đồ Hải nói gì, anh nhìn ra ngoài trướng, chìm vào suy tư, miệng lẩm bẩm, “tôi đã nghe danh tiếng từ lâu, quả thật muốn gặp ông ta một lần!” Ánh mắt anh quay trở lại nhìn ngọn đèn.
Cuộc tấn công gò Hổ rất khổ sở. Vì đường dốc, căn bản không dùng kỵ binh được. Đồ Hải và Châu Bồi Công ngồi tại trận đốc chiến, ba đội quân lớn luân phiên công kích, cách gì cũng dùng đến, nhưng đều không có hiệu quả. Quân lính giữ thành đem toàn bộ súng đen, tên lửa tập trung đến xung quanh gò Hổ, hễ thấy đối phương đánh gò liền bắn tên như mưa để tiếp ứng, làm cho binh sĩ phải tránh cả hai phía. Đánh hai ngày, chỉ mới chiếm được vùng lưng “hổ”, đã mất hai ngàn lính.
“Đánh như thế này không xong rồi.” Châu Bồi Công xem hai ngày đã thấy có ý mới, “Đánh mà lâu, thì chúng ta lại bị khốn đốn – tính lại thời gian, viện binh Quế Châu trong vòng năm ngày có thể đến kịp, lúc đó thì phiền phức to!”
“Tôi sẽ tự lên đó!” Đồ Hải nổi nóng, ông đứng lên định đi truyền lệnh, nhưng bị hai tay Châu Bồi Công kéo lại: “Cách đánh không khác lạ thì ai cũng thế thôi. Nếu cần phải lên thì tôi phải đi trước – ở đây không biết có thể tìm được cây tre dài không?”
Đồ Hải ngơ ngác, nói: “Khi đi quan sát thành, tôi thấy bãi gỗ ngoài thành phía nam có chất đống nhiều tre, anh cần nó làm gì?”
Châu Bồi Công nheo mắt cười nói: “Đại tướng quân yên tâm, gò Hổ hôm nay hạ được!”
Chiều hôm đó, mọi việc chuẩn bị xong. Hơn bảy trăm cây tre trên đầu đều quấn chăn bông to, tẩm dầu, đến giờ Mùi, một tiếng pháo lệnh phát ra, tất cả đều đốt cháy lên, giống hệt như bảy trăm cây đuốc. Mỗi cây do bốn năm binh sĩ khỏe mạnh nâng lên, đưa thẳng tới lầu đá gò Hổ. Phía dưới lại có mấy trăm binh sĩ lấy ống tre hút dầu, cố sức phun lên trên ... Trong khoảnh khắc gò Hổ đã trở thành hòn núi lửa.
Vương Cát Trinh không hề nghĩ đến tuyệt chiêu này của Châu Bồi Công. Trên đầu hổ, mảnh đất bằng lỗ mũi, không có chỗ trốn tránh, lửa nồng khói đặc hun đốt người hắn như chui vào trong lò lửa, có múc nước mà tưới thì cũng chẳng ích lợi gì. Rồi từng quả cầu lửa tới tấp bay vào lầu, phía dưới đều là dầu bên dưới phun lên, dầu bén vào lửa, lửa cháy càng to, lửa nhờ hơi dầu, cả một tòa lầu đá đều bắt lửa. Binh sĩ giữ gò có người cháy lên như một quả cầu lửa, lăn lộn vùng vẫy trên đất, có người mang theo ngọn lửa nhảy xuống dưới. Vương Cát Trinh cũng bắt lửa khắp người, gục đầu trên bờ tường phía nam gò Hổ, khóc to: “Cha ơi! Cứu con, cứu con với ..” Vừa la, lửa đã thiêu đốt người hắn thành một cục lửa to...
Hai canh giờ sau, gò Hổ rơi vào tay Đồ Hải, Châu Bồi Công. Ngay trong đêm thanh lý xác chết, đại pháo hồng y được kéo lên gò Hổ. Trời vừa sáng, từ lầu đá nhìn ra, toàn cảnh thành Bình Lương hiện ra trước mắt. Nhà đốc phủ to cao sừng sững phía tây thành, kho lương, nhà ngục, trại binh nhìn rõ ràng trong tầm mắt. Đồ Hải bất giác cười nói: “Chú xem, từ đây, trên cao nhìn xuống, đừng nói dùng đại pháo, chỉ cần cung tên cũng khống chế cả trận địa địch, dùng thang mây là có thể trèo vào thành!” Châu Bồi Công mắt nheo lại, tay chống cằm, nhíu mày nói: “Chó cùng đường cắn quẩn, Vương Phụ Thần tuy là tướng cướp, tôi thấy khi cấp thiết vẫn có thể liều một trận chết. Càng quan trọng hơn, hơn bốn vạn bá tánh trong thành, một khi thành vỡ, nhà đã cháy lên, ngọc đá đều tan nát ... Ôi!” Đồ Hải thấy Châu Bồi Công thở dài, bất giác bật cười ha hả: “Bây giờ chú lại muốn làm Bồ Tát rồi! Cuộc chiến sông Kinh, trận đánh gò Hổ, chết bao nhiêu người. Những linh hồn chết quật cường đi tìm ai?”
“Cầm gươm vác giáo, gặp nhau trên chiến trường, không phải là cá chết thì lưới rách, vậy thì có gì đáng nói!” Châu Bồi Công nói chậm rãi, “Binh biến Sát Cáp Nhĩ, quân lính chúng ta cướp đi không ít đồ đạc, bây giờ lại giống như chó sói, đỏ mắt nhìn vào thành, nếu còn giết chóc trong thành... Đại tướng quân, ngày sau, sau khi thắng lợi, ngự sử trong triều càng không dung tha cho anh và tôi!”
Đồ Hải vuốt râu im lặng, một cơn gió lạnh thổi tới, làm ông bất giác run lên.
“Xin bẩm hai vị tướng quân, đại pháo hồng y đã chuẩn bị xong!” Một quân sĩ bước tới làm lễ, nói.
“Trước tiên hãy bắn dọa hắn mấy phát!” Châu Bồi Công tay cắp sau đít, cũng không quay đầu lại, dặn dò: “Nhắm cho trúng kho lương!”
“Dạ!”
Đồ Hải ngạc nhiên nhìn Châu Bồi Công: “Vừa rồi vẫn còn nói từ bi, mới một chốc đã lại thay đổi?” Châu Bồi Công nói: “Đại tướng quân, cho nổ mấy phát để cho chúng biết lợi hại, tôi muốn…”
Lời chưa nói xong, đã bị tiếng pháo trời long đất lở cắt đứt. Loại đại pháo hồng y này là do người Tây Trương Thành giúp Khang Hy thiết kế chế ra, ngoài hai mươi khẩu đưa đi Nhạc Châu, bốn khẩu còn lại nguyên là để bảo vệ kinh sư. Sau khi dẹp yên phiến loạn Sát Cáp Nhĩ. Khang Hy dùng bốn mươi con lừa khỏe đưa hai khẩu theo đoàn quân. Pháo này uy lực rất lớn, có thể bắn xa bảy dặm. Nghe tiếng pháo nổ, từng cột khói dày đặc bốc lên, ánh lửa lóe sáng, nhưng đạn không rơi trúng kho lương thực, mà rơi ngay vào nhà mấy hộ dân cư trước phố phía nam thành, đạn nổ gạch ngói tranh gỗ bắn tứ tung; rồi một tiếng nữa tiếp theo, đạn lại rơi vào vũng nước phía đông kho lương thực, làm bắn lên một cột nước cao hơn một trượng. Trên phố lập tức náo động, ngay cả người phía bắc thành không biết đã xảy ra chuyện gì, nhiều người mở cửa ló đầu ra nhìn ngóng. Từng đội binh sĩ trong doanh trại đi ra đàn áp. Từ xa nhìn tới, có người cầm xẻng đứng bên ngôi nhà sập, xem ra có người bị vùi lấp bên trong. Bên cạnh một người đàn bà ngồi bệt xuống đường kêu trời khóc đất la lối om sòm, một tên đầy tớ gái sợ sệt đỡ cổ bà. Bên cạnh còn có mấy bà già quỳ ngay xuống đường, chắp hai tay, hướng về phía gò Hổ lầm rầm khấn niệm. Đồ Hải buồn bực nói: “Bắn cái kiểu gì vậy? Gọi mấy tay bắn pháo vào đây!”
Các tay súng hoảng kinh mặt trắng bệch, vừa lăn vừa bò chạy vào, quỳ xuống lạy nói: “Quân môn, đây là ...”
“Trước đây mày đã bắn pháo chưa?”
“Có bắn, bắn... đã bắn năm năm rồi.”
“Bây giờ có chuyện gì vậy?”
“Từ nhỏ đến... đến giờ chưa bắn loại pháo như thế này.” tên pháo thủ răng trên đá răng dưới, run rẩy nói, “không... không ngờ loại pháo này bắn xa đến thế...”
“Cút!” Đồ Hải tức giận quát, “Nhắm cho trúng rồi hãy bắn, coi chừng cái đầu chó trên cổ nhà ngươi!”
Châu Bồi Công suy nghĩ rồi quay mặt lại nói: “Thôi đừng bắn vào kho lương thực nữa, nơi đây quá gần khu dân cư, hôm nay các anh luyện tập trên khẩu pháo này, anh có thấy cái miếu Quan Đế ở chân thành phía đông, chắc là hoang phế rồi, bắn ngay vào đó, cào bằng nó đi!”
“Dạ!” Tên pháo thủ lau mồ hôi trên trán đi ra.
Châu Bồi Công cùng Đồ Hải vừa men theo bậc đá từ trên gò Hổ đi xuống, vừa nói tiếp câu chuyện bỏ dở: “... Tôi muốn vào thành một chuyến, có thể thuyết phục Vương Phụ Thần đầu hàng, thế chẳng tốt hơn sao?”
“Cái gì?” Đồ Hải dừng bước, “Chú nói cái gì?”
“Tôi muốn dùng ba tấc lưỡi hạ cái thành này!” Châu Bồi Công nói, “Đồ đại nhân nên biết mấy vạn sinh linh đồ thán, nghiệp chướng của anh và tôi rất nặng nề!”
Đồ Hải nhìn Châu Bồi Công rất lâu, rồi mới nói: “Chắc là chú sợ tên Ngự sử thối đó vạch tội chúng ta giết người vô tội?” Châu Bồi Công biết Đồ Hải nói Minh Châu, anh chỉ cười: “Xưa nay những người đánh thắng trận nhưng bị tàn hại không biết bao nhiêu, sao ta lại không sợ! Nhưng bây giờ thì không phải vậy – cái thành này, bá tánh nếu bị chúng ta ra tay độc, thì ngàn đời sau người ta coi anh và tôi là hạng người gì?” Tài cầm quân của Châu Bồi Công do Đồ Hải phát hiện, sau khi Khang Hy chỉ tên phái đến dưới cờ ông, hai người ngày đêm cùng chung sống, làm việc với nhau nhiều năm, cùng nhau tâm sự rất là tri âm. Bây giờ nghe Châu Bồi Công nói một mình vào thành, lòng bỗng thấy nặng trĩu, ông nói chậm rãi: “Văn minh người Hán rất tinh tế, sâu sắc, tôi tự thấy không bằng Bồi Công, nhưng bây giờ không thể so với thời Chiến quốc, Tần Hán, học Tô Tần, Trương Nghi, Lục Giả, Lệ Sinh e rằng sẽ mang họa bất trắc.” Ông lắc lắc đầu.
“Đại tướng quân, cũng không chắc như vậy đâu. Bây giờ ta mạnh địch yếu, dễ đạt được một minh ước dưới thành!” Châu Bồi Công thấy ông thương mến mình, bất giác động lòng, nói. “Ở đây Vương Phụ Thần mà đầu hàng, Vương Bình Phiên ở Thiểm Tây cũng không đánh mà thắng. Còn nếu cố đánh, trong vòng năm ba ngày không hạ được thành, viện binh mà tới thì cũng phải phụ thánh mệnh thật đấy!”
Đồ Hải nhíu lông mày nghĩ ngợi hồi lâu mới than rằng: “Nếu chú đã định rồi thì cũng được thôi. Có điều nước cờ này quá nguy hiểm, một khi không thành…”
“Giờ Ngọ ngày mai, anh dùng đại pháo hồng y bắn mạnh vào sân sau dinh đô đốc, truyền lệnh ba quân hát to hai bài ca khải hoàn của Thánh thượng, tôi sẽ có cách!” Châu Bồi Công nói một cách bình tĩnh, “Tạm đưa quân phía đông thành lui về sau năm dặm, tôi sẽ gọi mở cửa thành phía đông.”
Giờ Thìn ngày hôm sau, Châu Bồi Công mặc áo xanh, đội mũ nhỏ, cưỡi ngựa đi tới cửa thành phía đông, hai tay chụm làm loa gọi to: “A lô, quân giữ thành nghe đây, ta là Phù viễn Tham nghị tướng quân Đại Thanh Châu Bồi Công, phụng mệnh đại tướng quân, cần vào thành có việc quan trọng muốn bàn bạc với Vương Phụ Thần!”
Quân Thanh vô cớ lui binh mấy dặm đã sớm có người báo với tướng giữ thành phía đông Trương Kiến Huân. Đang do dự thì nghe có tiếng người gọi ở cổng thành, hắn một mặt sai người bẩm báo với Vương Phụ Thần, rồi tự mình bước lên bờ thành. Vừa thấy Châu Bồi Công, ngọn lửa vô hình bốc lên, hắn nhổ một bãi nước bọt, nói: “Ngươi còn dùng kế xảo trá gì nữa đây? Không đợi chết ở gò Hổ, còn vào thành làm gì?”
“Tướng quân không nên hành động theo tình cảm!” Châu Bồi Công nói, “Tình hình bây giờ ông tôi đều rõ cả, tôi đến để chỉ cho các ông một con đường sống!”
“Đồ rắm thối!” Trương Kiến Huân tức giận gào lên, đang định ra lệnh bắn tên, dưới lầu bỗng có một quan cờ hiệu chạy lên, ghé tai truyền đạt tướng lệnh của Vương Phụ Thần. Không còn cách nào khác, Trương Kiến Huân đành cười nhạt nói: “Ta vốn đợi lấy thủ cấp của ngươi, nghĩ lại hai nước đánh nhau không giết sứ giả, nên rộng lượng tha cho một keo, cho ngươi vào thành!”
Cửa thành mở chốt nghe rít lên một tiếng, cót két mở ra. Châu Bồi Công thong dong đang đợi vào thành, nhìn xa thấy một người cưỡi ngựa phóng tới như bay. Người đó đến trước thành liền xuống ngựa, hai tay chắp lại vái Châu Bồi Công một cái: “Anh và tôi cùng vào thành này được không?”
“Túc hạ là ai?” Châu Bồi Công quan sát người mới đến, đâu khoảng ba mươi tuổi, mặt mày thanh tú, áo dài thắt dải xanh, quả như cây ngọc trước gió, phiêu diêu phong lưu, vừa nhìn đã có cảm tình, nên vừa cùng nhau giật cương ngựa vào thành, vừa cười nói: “Có phải anh đi thăm người nhà gặp hai bên đánh nhau không vào được thành? Nhưng lại gặp dịp may.”
Người đó nói: “Đúng như vậy! Tôi đã tới đây ngày hôm kia, nhưng vì ở đây đánh nhau dữ quá, bốn cửa thành đều không mở, không sao vào được, hôm nay gặp hên nhờ phúc của ông anh!” Nói xong liền cười. Châu Bồi Công suy nghĩ, người này quả thật biết cách luồn lách, anh cười nói: “Có chuyện gì quan trọng, đây không phải là lúc thăm người nhà!”
“Đúng vậy!” Người đó bỗng ngước mặt lên trời cười dài, “Sao tôi cảm thấy tòa thành này không đến nỗi nguy hiểm như vậy?”
Châu Bồi Công bỗng thấy kỳ lạ, liền hỏi dò: “Làm sao biết được?”
Người đó vung roi nói to: “Năm vạn binh mã dưới cờ Đại Châu Ngô Tam Quế đến cứu viện thành này sắp đến nay mai, thử hỏi thành này còn nguy hiểm chỗ nào?”
Hai người lúc này người hỏi người đáp, đến cả Trương Kiến Huân lệnh cho quân sĩ đóng cửa thành cũng ngơ ngác, vội vòng qua trước ngựa, quan sát một chập, mới cười nói: “Bạn Uông đấy à! Anh đến cũng chẳng thèm hỏi tôi một tiếng, tôi cứ ngỡ là tùy tùng họ Châu dẫn theo!”
Châu Bồi Công liền hỏi: “Các ông quen nhau, xin cho biết tên họ?”
“Chúng tôi là bạn cũ với nhau!” Người đó cười, từ thắt lưng rút ra một ống tiêu ngọc, với động tác mềm mại uyển chuyển, hắn nói: “Kẻ bất tài họ Uông, tên Lương Thần, tự là Sĩ Vinh! Không ngờ tới nhỉ? Chúng ta là sứ thần hai nước cùng tiến vào Bình Lương!”
“Ngưỡng mộ đã lâu!” Châu Bồi Công bỗng giật mình, vừa xúc động vừa hoảng kinh: Mấy năm nay đã nhiều lần tình báo tìm tung tích người này, lại nhiều lần nghe Phó Hồng Liệt nói Uông Sĩ Vinh thanh tú nho nhã, bề ngoài giống như con gái. Hôm nay gặp nhau, sao mà tính khí cao ngạo như vậy? Nghĩ ngợi hồi lâu mới rõ, hôm nay hắn tới đây là để hà hơi tiếp sức cho Vương Phụ Thần, không thể không làm ra vẻ mạnh ngoài rỗng trong, bất giác anh cười thầm trong bụng.
Nghe nói Châu Bồi Công, Uông Sĩ Vinh cùng vào thành một lượt, trong phủ trên dưới đều kinh động. Vương Phụ Thần trong lòng vừa sợ vừa mừng. Con trai bị chết thiêu, Châu Bồi Công tự đến nộp mạng, hắn vốn định nhân đây trả thù rửa hận, nên ra lệnh để cho Châu Bồi Công vào, bắc lên vạc dầu đốt củi mạnh vào, định học cách Tề Vương ăn thịt Lệ Thực Kỳ, giết chết Châu Bồi Công. Bây giờ nghe Uông Sĩ Vinh cũng đến thì đâm ra do dự: Hai nhà đồng thời sai sứ tới, không hẳn không phải là cơ hội chuyển sang vận may? Cung Vinh Ngộ vốn trong lòng kinh hoàng không yên, thấy Vương Phụ Thần trầm ngâm, bèn thừa dịp nói: “Đại soái, theo tôi nghĩ, Khang Hy, Ngô Tam Quế hai nhà đối với ta đều có ân oán, nếu không có trận đánh sông Kinh, chúng ta không thể tổn thất thảm hại như vậy, nhưng nói trở lại, Ngô Tam Quế nếu có lương tâm, thì đã phải cử viện binh, nếu không chúng ta làm sao buộc phải rơi vào cảnh tồi tệ này? Tôi nghĩ cùng đến một lúc cũng hay, ngại gì không nghe xem, ai nói có lợi cho ta thì theo họ – người quân tử chọn việc lành mà theo, không chừng cũng có những cơ hội tốt.”
“Mấy năm nay, anh cũng đọc được một ít sách, lời nói cũng thay đổi không ít.” Vương Phụ Thần cười nói. Lúc này hơn một nửa người ngựa trong thành đều do Cung Vinh Ngộ điều hành, mà người này đối với ông cũng một mực trung thành, ông không thể chịu thua, và cũng cảm thấy anh ta nói có lý. Ông liền sa sầm nét mặt ra lệnh: “Đặt tiệc ở nhà sau, mời Uông tiên sinh, Châu tiên sinh cùng nhập tiệc.”