Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1238 - 1249
§ 1238. Kiến thức ngày nay, số 617
ĐỘC GIẢ: Xin nhờ ông An Chi giải thích giúp xem Trước Lâm và Trúc Lâm có nghĩa giống nhau hay không. Sở dĩ tôi hỏi như thế là vì cha tôi đặt tên cho tôi là Trước Lâm còn tôi thì thắc mắc tại sai lại không là Trúc Lâm. Cha tôi đã giải thích rằng hai cách nói đó cũng có nghĩa như nhau. Nhưng tôi vẫn tiếp tục thắc mắc; rồi thời gian trôi qua, cha tôi lâm bệnh và đột ngột qua đời. Đến bây giờ tôi vẫn chưa hiểu được nguồn gốc sâu xa của việc dùng Trước thay vì Trúc. Xin ông giải thích giúp.
AN CHI: Từ lâu, ở trong Nam, chữ trúc 竹 là tre đã được đọc thành trước, đặc biệt là trong những ngữ cảnh bằng Hán văn (chữ Nho). Cách đây trên 230 năm, chữ trước là tre đã được ghi nhận trong Dictionarium Anamitico Latinum (1772 – 1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine (có thể xem bản dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên: Tự vị An Nam Latinh, Nxb. Trẻ, 1999). Trong quyển tự vị này, Pigneaux de Béhaine đã ghi nhận:
“Trước [trúc]. Cây tre.
Trước lịch. Nhựa tre.
Trước nhự. Vỏ tre dùng để làm thuốc”.
Đó là nói về trước. Còn trúc thì, trong Nam cũng như ngoài Bắc, lại dùng để chỉ một loại tre nhỏ, gióng thẳng. Chính vì thế nên trong Dictionarium Anamitico Latinum, Pigneaux de Béhaine mới phân biệt mà ghi nhận thành 2 mục rõ ràng như sau:
– Trúc, mà ông giảng là “một loại tre” (species arundinis). và
– Trước [trúc] mà ông đã giảng bằng cách miêu tả là “arundo” (mà nghĩa gốc là “sậy”).
Chúng tôi viện dẫn có phần dài dòng cốt để chứng minh rằng chữ trúc 竹 mà đọc thành trước là một cách đọc truyền thống đã có từ nhiều trăm năm nay của phương ngữ Nam Bộ. Vì thế nên đối với những người lớn tuổi hiện nay thì đó là một cách đọc hoàn toàn quen thuộc. Chẳng những thế, mà đối với những người này, nó còn mang cả sắc thái trang nghiêm, thiêng liêng nữa là đằng khác, vì họ ý thức được rằng đây mới chính là cái âm cần đọc, mà ông bà từ nhiều đời trước đã truyền lại cho mình. Có lẽ cũng là xuất phát từ tâm thức này mà vị thân sinh của cô mới chọn âm trước để đặt tên cho cô, chứ không chọn âm trúc như trong tiếng Việt toàn dân hiện nay.
Chắc cô cũng sẵn sàng thấy rằng âm trước của chữ trúc 竹 có hai điểm đặc sắc. Một là nó mang tính địa phương (người miền Bắc không đọc như thế) và hai là nó mang sắc thái cổ kính (ngay người Nam Bộ bây giờ cũng đã đọc chữ 竹 thành trúc theo tiếng Việt toàn dân). Xét về mặt này thì chẳng phải trước là một âm rất hay, rất ý nhị đó sao?
§ 1239. Kiến thức ngày nay, số 617
ĐỘC GIẢ: Mới đây, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã khoe bộ ngực trần của mình khi đi câu ở Siberia. Báo chí phương Tây đã làm rùm beng về chuyện này và đoán già đoán non về “ý nghĩa bí mật” của việc “khoe ngực” đó. Ông An Chi nghĩ thế nào?
AN CHI: Thật lòng thì chúng tôi chẳng nghĩ gì cả, nói cho đúng ra, đối với chúng tôi, việc Tổng thống Putin “khoe ngực” (Ảnh1 ) chẳng phải là chuyện gì ghê gớm. Đi nghỉ hè vài ngày hoặc đi thị sát rồi kết hợp thư giãn bằng việc câu cá nên có thể hoặc cần cởi trần bên sông bên suối thì đâu có phải là chuyện lạ. Người ta chẳng đã “chộp” được nhiều bức ảnh của một số nguyên thủ quốc gia đang ở trần đó sao? Mới đây, gần như cùng một thời gian với ông Putin, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy chẳng đã cởi trần bơi thuyền đó sao? Có điều là ông Putin thì chẳng có phản ứng gì khi được (hay là bị?) chụp ảnh còn ông Sarkozy thì đã nổi cáu lên và xua đuổi phóng viên nhiếp ảnh (Ảnh 2) khi biết mình bị chụp lén trên hồ Winnipesaukee tận bên Huê Kỳ. Sarkozy đi “vi hành” mà lại (Chính phủ Pháp làm lơ trước chuyến đi này; chỉ có báo chí lên tiếng mà thôi)! Vì thế nên ông ta đâu có muốn “ảnh chèo thuyền” của mình được đưa lên mặt báo! Còn Putin thì…chả sợ ai. Ông ta cứ điềm nhiên buông câu. Mà đây cũng chẳng phải lần đầu ông ta ở trần để (hay là để được) chụp hình. Trước đó, ít nhất cũng đã có một lần hồi 2002, khi ông ta đi nghỉ với phu nhân và hai cô con gái ở Vladivostok.
(Ảnh 1. Nguồn: AP)
Thực ra thì báo chí phương Tây đã chế biến và xào nấu chuyện này thành “vấn đề” chẳng qua là vì lý do chính trị. Nước Nga đang lấy lại vị thế chính trị của mình trên trường quốc tế nên Mỹ và EU tất nhiên không ưa. Chẳng những họ xới vấn đề lên theo kiểu “bình luận chính trị” mà lại còn lợi dụng blog và forum để cho một số cá nhân nói bậy nữa, chẳng hạn nói về sex, liên quan đến bộ ngực của Putin (mà nhiều phụ nữ cho là hấp dẫn)!
(Ảnh 2. Nguồn: AP)
Tóm lại, đó là một việc hoàn toàn bình thường mà chính trang web của Phủ tổng thống CHLB Nga cũng đã đưa lên một cách bình thường.
§ 1240. Kiến thức ngày nay, số 620
Trả lời ông Nguyễn Hà Viên
Kiến thức ngày nay, số 614 đã đăng bài “Hai câu ấy có phải là câu đối không?” của ông (hay bà?) Nguyễn Hà Viên (trở xuống, xin cứ gọi là “ông”), trao đổi về một câu trả lời của chúng tôi trên Kiến thức ngày nay, số 601, liên quan đến đôi câu đối:
Chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí
Ngọn quang minh hun mát tấm trung can.
mà Phạm Quỳnh đã ghép từ hai phần câu trong bài “Văn tế Phò mã chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ thượng thư Ngô Tòng Châu” của Đặng Đức Siêu. Xin trân trọng trả lời như sau:
1. Ông Nguyễn Hà Viên viết rằng “ông An Chi cho đó là “đôi câu đối” do Phạm Quỳnh làm” nhưng chữ “làm” lại là của chính ông chứ đâu phải của chúng tôi. Chúng tôi chỉ viết một cách thận trọng – vì thực ra cũng đã lường trước được vấn đề – rằng “đôi câu đối này nằm trong một đoạn văn luận về luân lý Việt Nam cổ truyền của (…) Phạm Quỳnh”. “Nằm trong một đoạn văn (…) củaPhạm Quỳnh “khác với” do Phạm Quỳnh làm” lắm chứ! Từ 15 năm nay, biết bao nhiêu câu, lời của biết bao nhiêu tác giả “nằm trong Chuyện Đông chuyện Tây của An Chi” (vì được trích dẫn) nhưng chẳng có lẽ tất cả những câu, lời đó đều do “An Chi làm” ra? Huống chi, chính ông Trương Hữu Trác (người nêu câu hỏi) cũng đã khẳng định đã thấy hai câu đó trong bài văn tế đã nói khi nêu câu hỏi cho chúng tôi. Ông chỉ không biết ai đã ghép hai phần câu ấy lại thành một đôi câu đối mà thôi. Vì thế nên trên Kiến thức ngày nay, số 608, vị độc giả đó mới nhắc lại: “Xin thưa với ông An Chi và bà Tôn Nữ Trầm Hương rằng bài “Văn tế…” của Đặng Đức Siêu thì tôi có biết còn cái tôi không biết thì lại là xuất xứ của đôi câu đối đã nêu”. Người hỏi đã đặt vấn đề một cách rõ ràng và người trả lời cũng đã trả lời một cách rõ ràng cho người hỏi. Thế nhưng ông Nguyễn Hà Viên đã có dụng ý dùng mấy từ “do Phạm Quỳnh làm” mà gán cho chúng tôi để kết luận rằng chúng tôi sai và để hạ một “câu xanh yờn” như sau:
“Cách trả lời của ông An Chi cho câu hỏi trên như vậy, chẳng những không góp phần “làm giàu” kiến thức cho bạn đọc mà có thể còn ngược lại, vì thà không biết còn hơn là tiếp thu nhầm những điều tưởng là chính xác!”.
Lời lẽ của ông Nguyễn Hà Viên nghe êm như ru nhưng thực chất thì lại là “tiếu trung hữu đao”. Thà rằng cứ huỵch toẹt như chúng tôi với những “bị ám ảnh nặng nề” và “nghe khó lọt lỗ tai” mà lại ít “dễ sợ” hơn.
2. Ông Nguyễn Hà Viên khẳng định rằng hai câu đang xét không phải là một đôi câu đối vì cái lý do sau đây, mà ông đã chủ quan xem như hoàn toàn chắc chắn:
“Câu đối tồn tại một cách độc lập, tức là một tác phẩm hoàn chỉnh, chứ không phải là một bộ phận của một tác phẩm khác, do đó hai vế đối nhau trích từ những bài thơ, bài phú, bài văn tế, v.v. không thể gọi là một câu đối được”.
Ông đã nhầm, và nhầm to. Chính cái điều ông phủ nhận lại là một kiểu đối mà người Trung Hoa gọi là tập cú đối. Trung Quốc thậtdụng đối liên đại toàn do Lương Thạch, Lương Đống biên soạn* có dành một mục từ trang 114 đến trang 116 để bàn về tập cú đối và dành cả một phần từ trang 501 đến trang 510 để giới thiệu 172 đôi câu đối theo kiểu tập cú qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Người ta có thể “tập” thơ văn ở hai nguồn khác nhau của cùng một tác giả hoặc thơ văn của hai tác giả khác nhau để làm thành câu đối theo kiểu này. Sau đây là một số thí dụ lấy từ đó ra (xin miễn dịch nghĩa):
Thái cúc đông ly hạ
Chủng tang trường giang biên.
(Đào Uyên Minh)
Tang trúc thuỳ dư ấm.
(Đào Uyên Minh)
Sơn thuỷ hàm thanh huy.
(Tạ Linh Vận)
Sơn quang dao tích tuyết
Phàm ảnh quải thanh xuyên.
(Lý Bạch)
Sơn tuỳ bình dã khoát.
(Lý Bạch)
Nguyệt dũng đại giang lưu.
(Đỗ Phủ)
Mai hoa hàn đãi tuyết
Quế diệp vãn lưu hương.
(Thẩm Thuyên Kỳ)
Vấn đề rõ ràng là như thế. Nhưng với hai câu đối đang xét, ông Nguyễn Hà Viên còn nêu một lý do nữa để bài bác:
“Ở đây, Phạm Quỳnh chỉ làm công việc trích dẫn, chứ không hề có ý định “ghép thành” câu đối, vì với trình độ kiến thức của Phạm Quỳnh, ông thừa biết rằng những câu trích ở những bài văn trong đó có áp dụng phép đối thì không thể gọi là câu đối được”.
Ông Nguyễn Hà Viên đã suy bụng ta ra bụng người chăng chứ có lẽ nào Phạm Quỳnh lại không biết rằng tập cú đối chẳng những là một việc làm hoàn toàn được phép mà còn là một thao tác đậm chất nghệ thuật nữa. Nhưng ông cũng chưa dừng ở đây mà còn viết tiếp:
“Vả lại, hai câu ấy xuất hiện trong văn cảnh bài viết của Phạm Quỳnh cũng không phải là hai câu hoàn chỉnh theo phép đối, chứ đừng nói là một câu đối hoàn chỉnh; đó chỉ là hai bộ phận của hai câu sóng đôi mà phần đầu mỗi câu là nhóm từ “một người thời” được lặp lại để nhấn mạnh chứ không đối nhau:
Một người thời: Chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí;
Một người thời: Ngọn quang minh hun máttấm trung can”.
Ông Nguyễn Hà Viên muốn giải quyết vấn đề cho “cùng kỳ lý” nhưng cái lý của ông cũng không vững. “Một người thời” ở đây cũng có giá trị như những câu tường thuật hoặc câu bình luận trong khi giới thiệu về câu đối mà thôi. Trong cả quyển Câu đối Việt Nam của Phong Châu, có phải lúc nào hai câu đối trong cùng một cặp cũng đi liền nhau, cũng đứng khít bên nhau đâu. Còn có lời kể, lời bình nữa chứ. Hồi đầu thập kỷ 1990, viết thơ cho một người bạn ở Hà Nội để kể chuyện Sài Gòn, chúng tôi có lược thuật về hoạt động kinh tế của một nhân vật, rồi viết:
Thanh Hương thơm nghẹt mũi;
nghẹt mũi, nghẹt tiền con tốt đỏ.
Rồi lại lược thuật về một nhân vật khác mà viết tiếp:
Anh Đào ngọt ê răng; ê răng, ê của đứa dân đen.
Người bạn của chúng tôi cũng chẳng vì những lời lược thuật kia mà không nhận ra rằng hai câu trên đây làm thành một cặp đối.
Huống chi, cái ý thức của Phạm Quỳnh về câu đối đâu chỉ hạn định ở hai câu đang xét, mà còn bộc lộ qua việc đưa ra hai câu khác ở ngay sau đó đúng 5 dòng, mà Phạm gọi là “có câu thơ”:
Khẳng khái cần vương dị.
Thung dung tựu nghĩa nan.
Nếu ta cứ câu nệ theo họ Phạm mà nói rằng đó là “thơ” chứ không phải “câu đối” thì dĩ nhiên là…sẽ hết chuyện.
3. Ông Nguyễn Hà Viên còn đòi hỏi chúng tôi phải “nói đến tác giả gốc của bài văn tế” và dạy chúng tôi:
“Khi giảng bài thơ Kính gởi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu, thầy giáo tất phải nói cho học sinh biết những câu “Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng” và “Mai sau dù có bao giờ” đã được nhà thơ trích từ đoạn nào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì học sinh mới cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc của từng câu thơ, chứ không thể xem đó là thơ của Tố Hữu mà bỏ qua xuất xứ và tác giả gốc của những câu thơ trên!”.
Nhưng về tác giả gốc của bài văn tế là Đặng Đức Siêu thì người hỏi là ông Trương Hữu Trác biết rồi còn về phương pháp giảng văn mà ông Nguyễn Hà Viên đã dạy thì đó lại không phải là việc chúng tôi cần làm. Việc chúng tôi cần làm trong trường hợp này chỉ là trả lời cho ông Trương Hữu Trác biết rằng hai vế:
Chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí
Ngọn quang minh hun mát tấm trung can.
mà ông Trương đã thấy trong bài văn tế của Đặng Đức Siêu do ai ghép lại mà làm thành một đôi câu đối. Và chúng tôi đã dè dặt trong việc dùng từ mà trả lời rằng “đôi câu đối này nằm trong một đoạn văn (…) của Phạm Quỳnh”. Thế là đủ. Cũng y như khi trả lời câu hỏi “Jean Paul Sartre sinh năm 1905 hay 1915” trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây, chúng tôi chỉ cần khẳng định “1905” là đủ chứ cần gì phải nói về thân thế và sự nghiệp của Sartre! Việc có diễn giảng thêm hay không còn tuỳ thuộc vào từng trường hợp, vào trọng tâm của câu hỏi, v.v.. Và nếu có thể gọi đó là “diễn giảng” thì chúng tôi cũng từng “diễn giảng” nhiều lần tại Chuyện Đông chuyện Tây chứ đâu có phải là không. Nhưng ở trường hợp này thì hoàn toàn không cần thiết.
4. Cuối cùng, ông Nguyễn Hà Viên đã lợi dụng ngôn từ của chúng tôi (“bị ám ảnh nặng nề”, “nghe khó lọt lỗ tai”) để đặt thành vấn đề “dân chủ” và “bình đẳng”, là những điều kiện mà chính chúng tôi chủ trương là cần phải có trong học thuật. Nhưng cái mà ông Nguyễn Hà Viên không hài lòng ở đây lại chỉ là chuyện ngôn từ và thái độ chứ nào phải là sự cấm đoán hay sự áp đặt mà ông phải viện đến chuyện dân chủ và bình đẳng.
Tóm lại, bài của ông Nguyễn Hà Viên mới đọc thì nghe ra dịu dàng, êm tai nhưng suy nghĩ kỹ thì An Chi lại thấy rùng mình vì đó là một sự quy kết “chết người” (tiếu trung hữu đao) chứ chẳng hiền lành gì đâu!
Cuối tháng 9-2007
§ 1241. Kiến thức ngày nay, số 621
ĐỘC GIẢ: Xin hỏi ông về việc đếm vần trong một số bài thơ. Trong Kiến thức ngày nay, số 610, ông có đề cập đến việc đếm vần trong một bài thơ:
– Trong 4 câu thơ lục bát của Xuân Diệu:
Tôi cầm mùi dạ lan hương
Trong tay đi đến người thương cách trùng
Dạ lan thơm nức lạ lùng
Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương.
Chỉ có 2 vần ương và ung (trang 45): vần ương ứng với 2 chữ hương và thương; vần ung ứng với 3 chữ trùng, lùng và cùng.
– Trong 4 câu Đường luật thì có 3 vần chứ không phải 1 vần:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
(Vương Hàn, Lương Châu từ)
3 vần ở đây là bôi, thôi và hồi chứ không phải là 1 vần ôi. Sở dĩ như vậy là vì ở đây dùng phép hoán dụ (trang 45).
Vậy xin ông cho biết: Lúc nào thì ta đếm vần của một bài thơ theo kiểu như ta đã đếm vần trong 4 câu thơ lục bát ở trên và lúc nào thì ta dùng phép hoán dụ.
Nhân đây cũng xin hỏi thêm: Một bài thơ thất ngôn bát cú có mấy vần?
Ví dụ bài thơ “Qua đèo Ngang” của bà huyện Thanh Quan:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bài thơ này có 1 vần a/oa hay có 5 vần: tà, hoa, nhà, gia, ta?
– Nếu bài thơ này có 5 vần thì xin hỏi thêm:
Bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của bà huyện Thanh Quan:
Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Tới nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn thu gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Bài thơ này có mấy vần?
AN CHI: Thắc mắc của ông xuất phát từ sự hiểu lầm cách diễn đạt của chúng tôi trong bài “Trả lời ông Ngu Minh” trên Kiến thức ngày nay, số 610, trang 36 – 39 và 45. Chữ vần mà chúng tôi nói đến trong bài thơ tình bốn câu của Xuân Diệu (Tôi cầm mùi dạ lan hương…) và chữ vần mà chúng tôi nói đến trong bài “Lương Châu từ” của Vương Hàn không mang cùng một nghĩa. Trong trường hợp đầu, chữ vần mang cái nghĩa thông thường, cũng là cái nghĩa mà hai ông Ngô Quốc Quýnh và Ngu Minh đã hiểu. Đây là cái nghĩa mà Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản năm 2003) giảng như sau tại nghĩa 2 của từ vần:
“Hiện tượng lặp lại vần hoặc có vần nghe giống nhau giữa những âm tiết có vị trí nhất định trong câu (thường là câu thơ), được tạo ra để làm cho lời thơ có nhịp điệu và tăng sức gợi cảm”.
Nghĩa 2 này thực chất chỉ là sự ứng dụng của nghĩa 1 vào việc làm thơ mà nghĩa 1 thì đã được quyển từ điển đó giảng như sau:
“Bộ phận chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt, là âm tiết trừ đi thanh điệu và phụ âm đầu (nếu có). “An”, “bạn”, “làn”, “tản” có cùng một vần “an”.
Còn trong trường hợp sau thì chữ vần mang cái nghĩa mà hai ông Ngô Quốc Quýnh và Ngu Minh không nghĩ đến. Đó là cái nghĩa tu từ (không ghi trong từ điển) mà chúng tôi đã nêu tại trang 45 của Kiến thức ngày nay, số 610:
“Chữ hoặc tiếng cùng vần với chữ hoặc tiếng khác trong những câu thơ có liên quan”.
Xin tạm gọi đây là nghĩa 3.
Vậy nếu xét theo nghĩa 2 (là ứng dụng từ nghĩa 1) thì bài “Lương Châu từ” của Vương Hàn chỉ có một vần là ôi mà thôi (với ba chữ bôi, thôi, hồi). Còn nếu xét theo nghĩa 3, thì nó có ba vần là: bôi, thôi, hồi. Cái nghĩa 3 này cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu ứng dụng trong truyện Lục Vân Tiên:
Tay tiên vội tả tám câu năm vần.
(Có dị bản chép: Xuống tay liền tả (…)).
Tám câu năm vần ở đây là thơ thất ngôn bát cú đấy, chẳng hạn với bài “Qua đèo Ngang” thì đó là năm vần: “tà, hoa, nhà, gia, ta”; còn với bài “Thăng Long thành hoài cổ” thì đó là năm vần “trường, sương, dương, thương, trường”. Trong Truyện Lục Vân Tiên (Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1975), Nguyễn Thạch Giang cũng đã giải thích rõ tám câu năm vần là “bài thơ theo luật Đường bảy chữ tám câu (thất ngôn bát cú) gieo vần ở cuối câu 1 và các câu chẵn: 2, 4, 6 và 8 (tr. 244, chú thích 220). Dĩ nhiên đây là xét theo nghĩa 3, chứ với nghĩa 2 thì, nói chung, bất cứ bài thất ngôn bát cú Đường luật nào cũng chỉ có một vần mà thôi.
§ 1242. Kiến thức ngày nay, số 621
ĐỘC GIẢ: Người ta vẫn gọi thứ máu từ mũi chảy ra là “máu cam”. Nhưng tôi thấy nó vẫn đỏ như máu ở răng, ở nướu chảy ra chứ đâu có màu cam. Vậy tại sao lại gọi như thế?
AN CHI: Cam ở đây khác với cam trong danh ngữ chất độc màu da cam. Nó không chỉ màu mà lại chỉ một chứng bệnh và là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là 疳. Tại mục cam 疳,Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là “một thứ bệnh về huyết, như nha-cam”. Hán – Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng là “một thứ bệnh về máu huyết và tiêu hoá của trẻ con”. Hán – Việt tự điển của Thiều Chửu giảng chi tiết hơn một chút: “Bệnh cam, một thứ bệnh về máu rãi (sic). Như vì máu trắng kém mà tì rắn lại, gọi là tì cam; trẻ con ăn bậy sinh bệnh gầy còm gọi là cam tích; chân răng thối nát gọi là cam răng hay cam tẩu mã”. Mấy chục năm về trước, nhà thuốc Đại Quang ở đường Tổng đốc Phương, Chợ Lớn (nay là đường Châu Văn Liêm), có sản xuất một thứ thuốc bột chuyên trị bệnh cam tích của trẻ con, gọi là Cam tích tán. Cam trong máu cam chính là chữ cam này.
Trong Etudes sur la phonétique historique de la langue annamite (BEFEO, Tome XII, n⁰1, 1912), Henri Maspéro đã sai khi cho rằng đây là một yếu tố Việt (annamite), cùng gốc với các từ tương ứng trong tiếng Thái, tiếng Dioi, v.v. (tr. 22). Thực ra, đây là một yếu tố mà các thứ tiếng này đã mượn từ tiếng Hán nếu không phải đã là cùng gốc với tiếng Hán ngay từ đầu.
§ 1243. Kiến thức ngày nay, số 622
ĐỘC GIẢ: Tôi nghe nói có một quyển sách mang tên Cent ans, mille rêves, ấn hành để kỷ niệm một nhân vật chính trị của châu Mỹ La Tinh. Xin cho biết nhân vật đó là ai và ai là tác giả của cuốn sách?
AN CHI: Nếu chúng tôi không nhầm thì Cent ans, mille rêves không phải là tên của một cuốn sách mà cũng không phải là nguyên văn. Nguyên văn bằng tiếng Tây Ban Nha là Cien anos mil suenos, có thể dịch ngắn gọn là Trăm năm nghìn mộng. Đây là tên một cuộc vận động bắt đầu từ ngày 26-72007 để tiến tới kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cựu Tổng thống Chile Salvador Allende, người đã bị tay cựu độc tài Augusto Pinochet lật đổ, và đã hy sinh vào ngày 11-9-1973, chỉ còn để lại có cặp mắt kính gãy vỡ. Cuộc vận động này do Quỹ Salvador Allende khởi xướng (Xin xem ảnh) và sẽ diễn ra trong một năm, cho đến ngày 26-7-2008. Trong lễ phát động, sau khi nghe ca sĩ Manuel Garcia trình bày bài hát “Lentes de Allende” (Cặp kính của Allende), cử toạ chứng kiến bà Isabel Allende, con gái của vị cựu tổng thống, và những trẻ em của các khu phố nghèo cùng đi với bà, khánh thành bức tượng của nghệ sĩ Carlos Altamiro, cao 2,5m và dài 5m, thể hiện cặp kính của Salvador Allende. Bà Isabel Allende nói:
Tác phẩm này không có tên, vì nghệ sĩ không muốn đặt tên cho nó, nó tượng trưng cho điều “Nunca más!” (Không bao giờ xảy ra nữa!). Không bao giờ còn nạn độc tài, không bao giờ còn chuyện vi phạm nhân quyền. Và không bao giờ còn có chuyện hy sinh của một vị tổng thống hết lòng vì nhân dân”.
§ 1244. Kiến thức ngày nay, số 622
ĐỘC GIẢ: Chuyện ba con khỉ bịt miệng, bịt tai, bịt mắt xuất phát từ đâu và mang ý nghĩa gì?
AN CHI: Người ta cho rằng hình ba con khỉ, con bịt tai, con bịt miệng, con bịt mắt, có sớm nhất là ở một bức phù điêu (Xin xem ảnh) của chùa Toshogu ở Nikko (Nhật Bản) và đó là của nhà điêu khắc Hidari Jingoro (1594 – 1634). Người ta gọi tên ba con khỉ đó là Mizaru, Kikazaru và Iwazaru. Có tài liệu giải thích rằng mizaru là con (khỉ) mù, kikazaru là con (khỉ) điếc và iwazaru là con (khỉ) câm. Cũng có tài liệu giảng rằng nghĩa gốc của mizaru là “tôi không thấy điều xấu”, của kikazaru là “tôi không nghe điều xấu” và của iwazaru là “tôi không nói điều xấu”. Lại có tài liệu nói rằng chuyện ba con khỉ này chẳng qua chỉ là do ảnh hưởng của đoạn 1, thiên 12 (Nhan Uyên) trong sách Luận ngữ mà thôi. Khi Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về đức nhân và về những gì cần phải làm thì Khổng Tử đáp:
“Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”, nghĩa là “Cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, cái gì không hợp lễ thì đừng nghe, cái gì không hợp lễ thì đừng nói, cái gì không hợp lễ thì đừng làm”. (Lời dịch của Nguyễn Hiến Lê).
Ngày nay hình tượng ba con khỉ đã trở nên phổ biến và ta có thể thấy rất nhiều bộ khỉ ba con bằng gỗ, bằng đá, bằng kim loại, bằng chất dẻo, v.v. bày bán ở các cửa hàng đồ lưu niệm. Nó còn có những biến tấu thành ba con chó, ba con thỏ, ba con lợn; thậm chí ba con ếch, v.v.. Chẳng những thế, nó còn biến tấu thành cả ba chú bé, thành ba con người nói chung nữa.
Nhưng dù có biến tấu như thế nào hoặc đến đâu thì cái triết lý ở đây vẫn cứ là:
“Vật lễ phi thị, vật lễ phi thính, vật lễ phi ngôn. Và cả “vật lễ phi động”, nên có khi có tới bốn con khỉ (hoặc chó, thỏ, người, v.v.) ngồi khoanh tay trước ngực (bất động) nữa).
§ 1245. Kiến thức ngày nay, số 624
ĐỘC GIẢ: Tôi rất ái mộ cầu thủ Ronaldinho của Brazil (nay đã vào quốc tịch Tây Ban Nha) nhưng gần đây phong độ của anh rất thất thường. Tôi lại sực nhớ tới cái tên của anh ta mà trước đây nhiều tờ báo cho là được đặt như thế để phân biệt với tên của Ronaldo. Ronaldinho có nghĩa là “Ronaldo nhỏ” (bên cạnh Ronaldo, hiểu ngầm là “Ronaldo lớn”). Xin cho biết giải thích như thế có đúng hay không? Và trong cái tên Ronaldinho thì đâu là dấu hiệu của ý “nhỏ”?
AN CHI: Đúng là khi Ronaldinho bắt đầu nổi thì một số tờ báo đã giải thích tên của anh ta như thế. Cái ý “nhỏ” trong tên của Ronaldinho là do hậu tố -inho/-inha mà ra -inho thuộc giống đực, còn -inha thì thuộc giốngcái. Đây là một hậu tố mang tính chất giảm nghĩa (diminutive, mà Cao Xuân Hạo và Hoàng Dũng dịch là “giảm kích”) của tiếng Bồ Đào Nha (người Brazil nói tiếng Bồ Đào Nha). Hậu tố này chẳng những được ghép vào sau danh từ (để tạo danh từ phái sinh), mà còn được ghép vào cả tính từ (để tạo tính từ hoặc phó từ phái sinh) với tác dụng giảm nghĩa nữa. Trước nhất, xin nêu một số thí dụ về danh từ (nếu danh từ gốc thuộc giống đực thì người ta dùng -inho, còn nếu nó thuộc giống cái thì người ta dùng -inha). Thí dụ:
– anjinho là thiên thần nhỏ bé (do anjo, giống đực, là thiên thần).
– bandeirinha là cờ nhỏ (do bandeira, giống cái, là cờ).
– campainha là chuông nhỏ (do campa, giống cái, là chuông).
– casinha là nhà nhỏ (do casa, giống cái, là nhà).
– lobinho là sói đực con (do lobo, giống đực, là sói đực).
– patinho là vịt trống con (do pato, giống đực, là vịt đực); v.v..
Sau đây là một số thí dụ về tính từ và phó từ:
– atadinho là có vẻ rụt rè, sợ sệt (do atado, giống đực, là lưỡng lự).
– mansinho là dịu dàng (do manso, giống đực, là yên tĩnh).
– baixinho là phó từ, có nghĩa là một cách nhỏ nhẹ, khe khẽ (do tính từ baixo, có nghĩa là trầm, thấp (về tiếng nói)).
– cedinho là phó từ, có nghĩa là từ rất sớm (do tính từ cedo, có nghĩa là sớm); v.v..
Sở dĩ chúng tôi nêu thêm một vài thí dụ liên quan đến tính từ, nhất là đến phó từ, là để ông và bạn đọc thấy rằng nói -inho/-inha có tác dụng giảm nghĩa là nói một cách tổng quát, đặc biệt là đối với danh từ, chứ với tính từ và phó từ thì lại không hoàn toàn như thế (So sánh chẳng hạn, phó từ cedinho (từ rất sớm) với tính từ cedo (sớm).
Với danh từ riêng, thì vấn đề lại càng không đơn giản chỉ là chuyện “giảm nghĩa” dĩ nhiên là kể cả trường hợp liên quan đến tên của Ronaldinho. Ở đây, ta có một sắc thái khác, nổi bật hơn, rồi đẩy cái tác dụng “giảm nghĩa” của hậu tố -inho lùi vào quá khứ từ nguyên học. Người ta đã lợi dụng cái ý nghĩa gốc của hậu tố -inho để đưa vào danh từ riêng, nói cho cụ thể và rành mạch hơn là đưa vào tên người, cái sắc thái thân mật, ban đầu là trong sự đối thoại trực tiếp, rồi cuối cùng là trong lời nói, nói chung. Vì vậy nên khi người ta gọi cầu thủ Ronaldo de Assis Moreira là Ronaldinho thì chỉ là để thể hiện sự thân thương, chứ chẳng phải là để phân biệt với Ronaldo Luiz Nazário de Lima (là cầu thủ mang số 9 của Tuyển Brazil, thường gọi là Ronaldo), bằng cái ý “nhỏ bé” nào cả. Huống chi, về nguyên tắc thì chính cầu thủ Ronaldo mang số 9 cũng có thể được gọi một cách thân thương là…Ronaldinho!
Để tăng tính thuyết phục, xin nêu trường hợp của cái tên Lulinha. Đây là một cách gọi thân mật đối với tên của nam giới nhưng sở dĩ dùng -inha là vì phải “ăn theo” nguyên âm cuối “-a” (của cái tên gốc Lula). Lulinha là tên thường gọi của Luiz Marcelo Morais dos Reis, một cầu thủ năm nay 17 tuổi (sinh năm 1990), đang khoác áo câu lạc bộ SC Corinthians của Brazil). Nhiều câu lạc bộ lớn của châu Âu đã đặt cầu thủ này vào tầm ngắm, trước nhất là Palermo và Fiorentina, rồi Inter Milan của Ý, sau đến Chelsea của Anh còn bây giờ thì có vẻ như Barcelona của Tây Ban Nha đã giành được cái gật đầu của SC Corinthians. Anh chàng Luiz này đã lấy biệt hiệu là Lula, rồi được gọi một cách thân mật là Lulinha. Nếu không nắm được thực chất của vấn đề thì biết đâu người ta sẽ chẳng nói rằng sở dĩ phải gọi Luiz này là Lulinha, tức “Lula nhỏ”, là để phân biệt với Lula lớn, tức Luiz Inácio Lula da Silva, đương kim Tổng thống Brazil, năm nay 62 tuổi (sinh năm 1945), cũng thường gọi là Lula. Nhưng chính cái ông Lula này cũng được gọi là “Lulinha”. Bằng chứng của chuyện này nằm trong khẩu hiệu tranh cử vòng 2 năm 2002 của Lula da Silva. Đó là “Lulinha Paze Amor”, nghĩa là “Lulinha Hoà bình và Tình yêu”. Vậy thì Lula da Silva bé b ỏng ở chỗ nào mà được gọi là “Lulinha”?
Tóm lại, tuy Ronaldinho có nghĩa gốc là Ronaldo nhỏ nhưng sắc thái nổi bật trong cái tên này là sự thân mật của người gọi chứ không phải sự bé bỏng của đối tượng được gọi. Vậy nếu sự thật là người ta đã dùng cách gọi Ronaldinho mà gọi Ronaldo de Assis Moreira để phân biệt với Ronaldo (Luiz Nazário de Lima) thì đó chỉ là dùng sắc thái thân mật trong cách gọi “Ronaldinho” để phân biệt với sắc thái trung hoà thông thường trong cách gọi “Ronaldo” mà thôi. Ở đây, chẳng hề có sự phân biệt giữa “nhỏ tuổi” với “lớn tuổi” gì cả. Cuối cùng, xin nói thêm rằng nhiều nguồn trên internet cũng sai vì đã khẳng định sự phân biệt về tuổi tác ở đây.
§ 1246. Kiến thức ngày nay, số 624
ĐỘC GIẢ: Xin nhờ ông cho nhận xét về đôi câu đối dưới đây:
Trăm năm tình viên mãn
Đầu bạc nghĩa phu thê.
Có người góp ý là nên thay “phu thê” ở câu sau bằng “keo sơn”. Vậy đôi câu đối sẽ là:
Trăm năm tình viên mãn
Đầu bạc nghĩa keo sơn.
Liệu như thế có chỉnh hơn không?
AN CHI: Ngay người góp ý cũng đã đưa ra một cách “sửa chữa” không thoả đáng. Keo sơn là một cấu trúc đẳng lập mà hai thành tố vốn là những từ chỉ chất liệu. Cả keo lẫn sơn đều dùng để dán, để gắn, cho dính chặt vào nhau, và là hai yếu tố Nôm. Còn hai tiếng viên và mãn thì lại là Hán Việt (Xin lưu ý đây chỉ là sự phân biệt giữa Nôm và Hán Việt trong phạm vi câu đối), mà lại là tính từ chứ không phải vốn là danh từ như keo và sơn. Vậy thì làm sao có thể đối cho chỉnh được?
Còn phu thê thì lại càng không thể đối được với viên mãn. Lý do: phu thê là danh từ còn viên mãn là tính từ mà tính từ và danh từ là hai từ loại đối lập hẳn với nhau.
Trăm năm là một ngữ lượng từ, cũng không đối được với đầu bạc là một ngữ danh từ. Năm làm sao đối được với bạc và đầu làm sao đối được với trăm?
Câu đối chú trọng trước nhất ở đối chữ, rồi mới đến đối ý; nói cho đúng ra thì hai mặt phải đi song song. Nếu chỉ có đối ý thì không thể gọi là câu đối.
§ 1247. Kiến thức ngày nay, số 624
ĐỘC GIẢ: Bãi khoá có khác bãi trường không?
AN CHI: Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học Vietlex do Hoàng Phê chủ biên (Nxb. Đà Nẵng và Vietlex, 2007) thì bãi khoá là “cùng nhau nghỉ học [một hình thức đấu tranh nêu yêu sách hoặc kháng nghị của học sinh, sinh viên]” còn bãi trường là “[trường học] nghỉ trong một thời gian dài, như nghỉ hè, nghỉ tết” (nghĩa 1). Vậy một đằng là nghỉ để đấu tranh, một đằng là nghỉ theo diễn tiến tự nhiên của năm học hoặc thời tiết.
§ 1248. Kiến thức ngày nay, số 625
ĐỘC GIẢ: Văn nghệ (Trung ương), số 36, ngày 8-9-2007, có bài Một “tính” trong “bách tính” của Phan Cung Việt, mở đầu như sau: “Thế gian có…bách tính. Rồi được xách ra dùng mấy từ “tính” tiêu biểu: “tính khí”, “tính tình”… Mới đây có giới tính, chuyển đổi giới tính….Xin cho biết tính ở đây là cái “tính” gì?
AN CHI: “Tính” của Phan Cung Việt là tính nết, tính cách, tính tình. Còn “tính” trong “bách tính” của thế gian thì lại là họ (trong tên họ). Bách tính là “trăm họ”. Có lẽ Phan Cung Việt muốn đưa cái “tính” của mình vào “bách tính” của thế gian để làm chuyện “bình cũ rượu mới” chăng?
§ 1249. Kiến thức ngày nay, số 625
ĐỘC GIẢ: Xưa & Nay, số 292, trang 1 (phụ trang) có in hình ông bà Phan Khôi với lời chú thích “Ông Phan Khôi và vợ Lương Thị Tuệ năm 1955”. Ông An Chi có nhận xét gì về lời chú thích này?
AN CHI: Trong một danh ngữ kiểu “vợ + danh từ (chung hoặc riêng)” thì danh từ (chung hoặc riêng) đó luôn luôn chỉ người chồng: vợ thằng Đậu, vợ thằng Tèo, vợ bác sĩ, vợ chủ tịch xã, v.v.. Vậy, để cho đúng chuẩn, lẽ ra BBT phải viết “… và vợ là Lương Thị Tuệ”, và, lịch sự hơn nữa thì “… và vợ là bà Lương Thị Tuệ”.