Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1250 - 1257

§ 1250. Kiến thức ngày nay, số 625

ĐỘC GIẢ: Kiến thức ngày nay, số 623 có bài “Chuyện FIREFOX: “Cáo lửa” hay là cái gì khác?” của Lê Vy, suy nghĩ nhân đọc Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 613. Tôi là người xài Firefox nên cũng quan tâm đến bài của ông trên số 613 và bài của ông Lê Vy trên số 623. Tôi băn khoăn về vài điều trong bài của ông Lê Vy; không hiểu ông An Chi nghĩ thế nào?

AN CHI: Ông Lê Vy đã đi từ chuyện Firefox đến chuyện Firebird rồi chuyện Thunderbird nhưng rất tiếc là trong dòng suy nghĩ của mình thì ông đều sai ở những điểm trọng tâm.

Về Firefox, ông Lê Vy viết:

Trong tiếng Anh (…) fox là con cáo, một động vật ăn thịt, có đuôi xù, mõm dài, nhọn, thuộc họ Canidae, gồm nhiều loài, trong đó đặc biệt có loài cáo lông đỏ được gọi là red fox (tên KH: Vulpes vulpes), một loài thú săn quan trọng ở Anh (để lấy bộ lông phục vụ việc làm đẹp cho quý bà)”. (tr. 38)

Ông Lê Vy còn cẩn thận cho in ảnh ở trang 38 với lời chú “Cáo lông đỏ (Vulpes vulpes)” để minh hoạ cho bộ lông “màu đỏ” của loài cáo này nữa. Rồi ông viết tiếp ở một đoạn sau:

“Không dùng red fox, tên gọi một loài cáo có thật trong tự nhiên, mà dùng danh từ Firefox để đặt tên cho một phần mềm (mã nguồn mở), phải chăng Tập đoàn Truyền thông Nestcape (…) một mặt vừa kín đáo ghi nhận công lao của những người xây dựng phần mềm này, và mặt khác vừa động viên những người sử dụng phần mềm tiếp tục tự do phát triển nó ngày càng hoàn thiện hơn (…)”. (tr. 39)

Nghĩa là, theo ông Lê Vy, tuy red (đỏ) là màu của fire (lửa) đấy nhưng phải dùng fire thì mới gói ghém được “tính sống động của trí tưởng tượng, tư duy sáng tạo, tính linh hoạt (nhất là của phụ nữ) và cảm hứng thi ca” trong cái tên Firefox và đây là “nội lực ngôn ngữ thâm hậu” của những người khai sinh ra cái tên này. Ông cứ ngỡ rằng loài red fox chỉ gồm toàn những con cáo có bộ lông màu “đỏ” nên mới đưa ra một cái ảnh minh hoạ với lời chú “Cáo lông đỏ (Vulpes vulpes)”, như đã nói. Ông không ngờ rằng “cáo lông đỏ” là một loài mà những cá thể có bộ lông “màu đỏ” (thực chất là màu hung) chỉ chiếm một tỷ lệ thấp; rằng “cáo lông đỏ” còn có những màu khác: vàng úa, xám, đen và phổ biến nhất là những sắc độ đậm nhạt khác nhau từ vàng sậm đến nâu. Xin nói rõ thêm một chút là cáo đỏ xám thì tài liệu tiếng Anh gọi là silver fox còn tiếng Pháp là renard argenté, nghĩa là “cáo (ánh) bạc”. Và cái màu bạc này cũng có những sắc độ đậm nhạt khác nhau.

Có vẻ như ông Lê Vy đã không ngờ rằng red fox, mà tên khoa học là Vulpes vulpes, còn được gọi là common fox (cáo thông thường), và giản tiện hơn nữa, là fox (cáo). Có lẽ một phần cũng vì thế nên ông mới tưởng rằng mọi con red fox đều “đỏ” chăng?

Về cách chúng tôi dịch danh từ Firefox, ông Lê Vy viết:

“Dịch Firefox là “Cáo lửa” đúng là không có gì sai, nhưng hình như hơi giản đơn, nhất là khi cố đi tìm một con vật có thật trong tự nhiên để dung tục hoá con vật có thể tạm gọi là “cáo lửa”. Theo tôi nghĩ, đối với từ “Cáo lửa” này, chỉ thật sự đúng khi hiểu đó là một hình tượng mang ý nghĩa: Chương trình xây dựng và phát triển bởi những người thông minh có tư duy sáng tạo và óc tưởng tượng linh hoạt”.

Ông Lê Vy chê cách dịch của chúng tôi là “hơi giản đơn” nhưng rất may là ông vẫn dùng nó để gọi tên con vật đó chứ không thấy ông đưa ra cách dịch của mình. Thật ra, Cáo lửa là một cách dịch hoàn toàn chính xác của Firefox (nếu ta đối chiếu với cái logo đã biết), cũng như chợ đen là một cách dịch hoàn toàn chính xác của black market. Nhưng đến bây giờ thì đó không còn là con “cáo lửa” nữa rồi và firefox hẳn hoi là một “con vật có thật” (mà ông chê!). Sau đây là lời khẳng định của ba vị đại gia.

Trước nhất là Jon Hicks, cha đẻ của cái logo Firefox. Hicks khẳng định rằng firefox thực tế là con gấu trúc (A firefox is actually a cute red panda – Hicksdesign) nhưng vì lấy cảm hứng từ hình vẽ một con cáo của một hoạ sĩ người Nhật nên ông mới cho ra đời một cái logo như thế (con cáo với cái đuôi lửa ôm lấy trái đất).

Còn Yves Grandmontagne, nhà báo của Silicon fr., phụ trách về tin học từ 1982 rồi về internet từ 1994, đã viết trên Silicon fr. một bài với cái nhan đề “Firefox: le renard qui voulait révolutionner l’ informatique”, trong đó ông coi firefox là một con cáo (renard). Nhưng đến ngày 8-2-2005, ông đã có bài “Firefox: renard ou panda?” (Firefox: cáo hay gấu (trúc)?), trong đó ông đã tỏ lời hối tiếc rằng mình đã sai. Và ông khẳng định lại rằng firefox là con gấu trúc (panda rouge). Ông còn khuyến cáo: ai không tin thì cứ vào cửa hàng trực tuyến của Mozilla, tại đó con thú nhồi bông của Firefox đích thị là con gấu trúc với giá 15,95 dollars. Và Yves Grandmontagne đề nghị độc giả đổi tên bài báo trên kia thành: “Firefox: le panda qui voulait révolutionner l’ informatique”. Danh từ renard (cáo) đã được thay bằng panda (gấu trúc).

Cuối cùng là Tristan Nitot, sáng lập viên và chủ tịch Hiệp hội Mozilla Âu châu. Nitot đã trả lời cho độc giả có nick là Jamega một cách ngắn gọn như sau:

– Firefox, c’est le nom en anglais du panda roux, un type de panda qui ressemble à un renard (Đăng lại trên 20 minutes. Fr, ngày 9-12-2007), nghĩa là “Firefox, đó là tên tiếng Anh của gấu trúc, một loài gấu giống như con cáo”.

Chúng tôi xin nghe theo ba vị đại gia trên đây mà hiểu rằng firefox là gấu trúc, con vật phàm tục có thật, chứ không dám tin theo ông Lê Vy.

Về Firebird, ông Lê Vy đã không trung thực khi chú thích cho bức ảnh ở trang 40 là: Firebird “Altamira Oriole”. Bức ảnh này là của World Birding Center, ở góc phải phía dưới có 4 chữ “photo by John Arvin” đã bị ông xoá bỏ. Ảnh cũng chỉ được ghi chú là “Altamira Oriole” chứ không có “Firebird” ở trước như ông đã ghi. Vả lại, firebird dù sao cũng chỉ là tên không thông dụng của Baltimore Oriole chứ không phải của Altamira Oriole.

Về Thunderbird, ông Lê Vy đã sai khi dịch thickheads là “hai loài chim khá đần độn”. Thực ra, thickheads ở đây là “(chim) đầu to”, tương đương với tiếng La Tinh Pachycephala (pachy = dày, to; cephala = đầu). Hai loài thickheads ở đây là Pachycephala pectoralis và Pachycephala rufiventris, như chính ông đã trích dẫn. Ông cũng hiểu sai về cái ảnh trong đó có con gà đã bị vặt lông, chặt giò, nằm chờ “bỏ lò”. Ông tưởng cái câu “Le seul oiseau qui ne craint pas la grippe aviaire” (mà ông dịch là “Thunderbird loài chim duy nhất không sợ cúm gia cầm”) là để nói về Thunderbird. Không đâu, thưa ông. Cái con chim duy nhất không sợ cúm gia cầm chính là con gà chờ “bỏ lò” đó. Đây là một hình nền tếu táo chứ đâu có phải là một lời quảng cáo cho Thunderbird!

§ 1251. Kiến thức ngày nay, số 626

ĐỘC GIẢ: Trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây, ông An Chi có viết rằng đến ngày 15-12-2007, Ba Tây dị nhân Oscar Niemeyer sẽ tròn 100 tuổi. Xin đề nghị ông theo dõi thời sự về việc tổ chức mừng sinh nhật lần thứ 100 của bậc dị nhân này để thuật lại trên Chuyện Đông chuyện Tây.

AN CHI: Cậu bé Oscar (Ảnh 1) đâu có ngờ rằng hơn chín mươi năm sau mình sẽ trở thành ông già Niemeyer, kiến trúc sư danh vang thế giới, đang tươi cười ăn mừng lễ sinh nhật lần thứ 100 giữa con cháu và bạn bè trong ngày 15-12-2007. Niemeyer (Ảnh 2) rất ghét chuyện nghi thức, lễ lạt nên việc ông có mặt trong lễ mừng thọ vừa qua là một sự nhượng bộ đối với những người thân.

(Ảnh 1)

Lễ mừng thọ được tổ chức một cách đơn giản và ấm cúng tại Casa das Canoas (tên mà Niemeyer đặt cho ngôi nhà) do ông tự mình thiết kế, xây xong tại São Conrado (Rio de Janeiro) từ năm 1953 mà đến bây giờ vẫn còn được xem là có tính cách hiện đại. Con cháu đã tề tựu đông đủ, cùng với khoảng mươi người bạn của Oscar. Chiếc bánh sinh nhật cũng đơn giản với tầng trên cùng phỏng theo hình dạng của Bảo tàng nghệ thuật đương đại, thường gọi tắt là MAC (Museu de Arte Contemporânea) ở Niterói, một trong những công tình độc đáo của Niemeyer. Mở đầu buổi lễ, dĩ nhiên phải là nụ hôn của người bạn đời, bà Vera Niemeyer, dành cho Oscar. Và dĩ nhiên là đối với một dị nhân như Niemeyer và một dịp trọng đại như lễ mừng sinh nhật lần thứ 100 của ông thì, dù sự việc có riêng tư đến đâu, chủ nhân và gia đình cũng không thoát được sự có mặt của các phóng viên. Trong cuộc họp báo chóng vánh, Niemeyer nói:

– Tôi là một con người như những con người bình thường khác nhưng tôi cũng không hiểu tại sao mình lại sống dai đến thế. Đâu phải lúc nào cuộc đời cũng dễ dàng và độ lượng. Điều mà tôi cảm nhận được trong ngày hôm nay, đó là niềm vui thú được đón tiếp những người bạn đang có mặt ở đây. Tôi nghĩ đến quá khứ, đến những người bạn đã ra đi và những người thay thế họ, đến cuộc đấu tranh mà cuộc đời này dành cho con người.

(Ảnh 2)

Ông còn nói thêm:

– Sống đến một trăm tuổi, thật là vô nghĩa!

Ông còn nhắc lại, như ông vẫn thường nói, rằng cuộc đời quan trọng hơn kiến trúc. Đây là quan niệm thường trực của ông nhưng chính Niemeyer thì bao giờ cũng “hết mình” với kiến trúc. Ở tuổi 100, ông có bảy dự án đang thực hiện và khoảng một chục dự án khác sắp khởi động tại Brazil. Chính phủ Tây Ban Nha đã chấp nhận đồ án của Niemeyer cho công trình văn hoá ở Avilés. Cuba vừa khánh thành một tượng đài chống Mỹ của chính Niemeyer để tôn vinh ông nhân ngày ông tròn một trăm tuổi. Tượng cao khoảng 8m, đặt trong khuôn viên trường Đại học khoa học tin học, gần La Habana, thể hiện cuộc chiến đấu giữa một con người và một con quái vật. Nhiều cuộc triển lãm hoặc hội thảo cũng được tổ chức ở Brazil và một số nước khác. Và cũng nhân dịp này, Chính phủ Brazil đã quyết định tặng thưởng ông Huân chương Công trạng văn hoá (Ordem do Mérito Cultural). Chung quanh chuyện này, cũng có những chi tiết thú vị. Phần thưởng cao quý sẽ được trao tại Bộ Quốc gia giáo dục và sức khoẻ, ở cung Capanema (Rio de Janeiro). Niemeyer không thích những chuyện nghi thức, lễ lạt, như đã nói:

– Ta sẽ không đi. Nếu họ muốn thì họ phải đến đây.

– Cha phải đi, cha à! Đó là tổng thống.

Bà Anna, người con gái độc nhất, đã khuyên ông như thế. Niemeyer nhất định không đi. Và đích thân Tổng thống Lula da Silva đã phải đem phần thưởng đến tận văn phòng của Niemeyer. Đó là vào ngày 29-11-2007 và sự việc đã diễn ra trong hai mươi phút. Niemeyer muốn để cho người ta hiểu rằng mình không đi là vì tuổi tác. Nhưng nhiều người thì hiểu rằng Niemeyer còn hờn Lula da Silva vì sự “dại dột” của ông này. Trong một bài diễn văn đọc một năm trước đây tại São Paulo (15-12-2006), Lula đã tuyên bố rằng tả khuynh là một lỗi lầm của thời trẻ:

“Nếu một người đứng tuổi mà tả khuynh thì anh ta có vấn đề. Nếu một chàng trai trẻ mà hữu khuynh thì anh ta cũng có vấn đề (…). Còn tôi, tôi đã ngả về nền xã hội dân chủ. Khi người ta 61 tuổi thì người ta đạt được sự cân bằng”.

Chính cái sự “lục thập nhất nhi tri bình hành” này của Lula đã làm cho Niemeyer không hài lòng vì, theo ông, đó chẳng qua là một lập trường chính trị “sọc dưa”. Dù sao thì cái ông “sọc dưa” này cũng đã đem phần thưởng cao quý đến tận văn phòng của Niemeyer.

Cũng đến tận văn phòng của Ba Tây dị nhân, ngày 12-122007, đại sứ Pháp tại Brazil là Antoine Pouillieute, đã trao tặng ông Bắc đẩu bội tinh của Chính phủ Pháp. Rồi ngày 14-12-2007 thì đại sứ Nga là Vladimir Tyurdenev cũng đến tại văn phòng của Niemeyer để trao cho ông Huân chương Tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Ba Tây dị nhân thật là một ông già kiên cường. Ngày nào ông cũng đến văn phòng lúc 11 giờ trưa và làm việc đến 11 giờ đêm.

Trong ba thứ: rượu, thuốc lá và…đàn bà, ông không từ bỏ thứ nào, ngay cả ở tuổi một trăm. Ông kết hôn lần thứ hai sau khi bị ngã nứt xương chậu có một tháng. Phương châm sống của ông thật đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được: “Phải sống trọn vẹn cuộc đời đến phút chót. Sau đó, ta đội mũ vào và ra đi”.

§ 1252. Kiến thức ngày nay, số 629

ĐỘC GIẢ: Gần đây, trong bài “Trả lời ông Nguyễn Hà Viên”, ông An Chi có nhắc đến câu tiếu trung hữu đao. Tôi đoán có lẽ ông muốn diễn cái ý mà cụ Nguyễn Du xưa cũng đã diễn đạt trong Truyện Kiều:

Bề ngoài thơn thớt nói cười;

Mà trong nham hiểm, giết người không dao.

Một người bạn có nói với tôi rằng tiếng Anh cũng có một câu với ý giống như thế. Xin nhờ ông kiểm chứng giúp.

AN CHI: Macbeth là một trong bốn vở kịch nổi tiếng nhất của William Shakespeare, bên cạnh ba vở Hamlet, King Lear (Vua Lear) và Othello. Tại hồi II, cảnh 3, dòng 140 của Macbeth, Donalbain đã nói với Macbeth:

– There’s daggers in men’s smiles.

(Có dao găm trong nụ cười của con người).

Có lẽ ông bạn của ông muốn nói đến câu này chăng?

§ 1253. Kiến thức ngày nay, số 629

ĐỘC GIẢ: Tôi đọc bài “Gửi hai ông An Chi và Ngu Minh” của ông Lê Xuân Lít trên Kiến thức ngày nay, số 618 từ giữa tháng 10-2007 nhưng đến nay chưa thấy ông An Chi có ý kiến gì. Liệu ông có định trả lời hay không, thưa ông?

AN CHI: Bài của tác giả Lê Xuân Lít có những điểm bất ổn sau đây (chúng tôi không nhận xét đến từng chi tiết mà chỉ xin nêu những điểm lớn).

Ông Lê Xuân Lít viết:

“Ông An Chi có viện lời Khổng Tử (…) mà ví đại thi hào Nguyễn Du với một giống ngựa, bạn đọc làm sao đồng tình! Dẫu rằng “nói có sách” nhưng vận dụng sách lại là một việc khác! Bạn đọc có sẵn vốn liếng chữ nghĩa có thể chấp nhận sự so sánh (rất khập khiễng) ấy không? (…) dù là con ngựa đệ nhất trần gian của loài ngựa, nhưng ngựa là ngựa, người là người. Dẫu có lấy tính tốt của vật cũng không nên so với người”. (tr. 21)

Tội nghiệp cho bạn đọc, nhất là những bạn đọc “có sẵn vốn liếng chữ nghĩa”, đã bị ông Lê Xuân Lít kéo về phía mình chỉ vì ông đã suy bụng ta ra bụng người. Thực ra, chỉ có ông, ông Ngu Minh và những người như hai ông, mới nghĩ như thế chứ nếu thực sự đã “có sẵn vốn liếng chữ nghĩa” thì làm sao có thể nghĩ (một cách kém cỏi) như thế được? Từ xưa đến nay và từ Đông sang Tây, thú vật và đồ vật vẫn là những cái nguồn phong phú và sinh động mà loài người sử dụng để so sánh, như An Chi đã noi gương Khổng Tử mà làm. Một bà mẹ mắng đứa con lì lợm, có thể nói với nó:

– Nói với mầy khác gì nói với khúc gỗ.

Còn một bà mẹ cưng con thì nựng nó mà nói:

– Cục vàng của mẹ, cục vàng của mẹ!

Đó là những thí dụ sơ đẳng trong tiếng Việt về việc khen chê bằng cách so sánh con người với những vật vô tri vô giác. Còn với thú vật, và cũng trong tiếng Việt, ta có thể thấy nào là: – (đồ) chó má, – (thằng) đầu bò, – (đồ) khỉ gió, – (đồ) gà mờ, – (đồ) dê cụ, – (con) cừu non, – (con) chiên ghẻ, – (con) chim đầu đàn, – gà trống (nuôi con), v.v..

Đây là những lời khen, tiếng chửi đã đi vào vốn từ vựng của tiếng Việt. Còn trong lời nói thì ta có lời xưng tụng hùm thiêng Yên Thế dùng để chỉ vị anh hùng Hoàng Hoa Thám mà ai “có sẵn vốn liếng chữ nghĩa” cũng đều có thể biết. Mà đã biết thì làm sao có thể nghĩ (một cách nông cạn) như ông Ngu Minh và ông Lê Xuân Lít cho được? Huống chi, chính Nguyễn Du cũng ví Từ Hải với loài thú khi viết về nhân vật này:

Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn.

Nếu ta cứ theo cái “mốt” Lê Xuân Lít mà khẳng định rằng “dẫu có lấy tính tốt của vật cũng không nên so với người” thì cái câu trên đây của tác giả Truyện Kiều tất phải bị sổ toẹt. Chẳng những thế, Nguyễn Du còn có một cái tội rất lớn nữa là đã so sánh con người với loài côn trùng khi bày tỏ lòng thương cảm đối với Kiều và sự phẫn nộ đối với Hoạn bà mà để cho mụ quản gia nói (với Kiều và về Kiều):

Con ong cái kiến kêu gì được oan!

Bấy nhiêu cứ liệu nho nhỏ tưởng cũng đã đủ để phế truất cái “thuyết” “ngựa là ngựa, người là người” của ông Lê Xuân Lít. Còn chính ông thì cứ ngỡ rằng mình vững lý nên để cho “chắc cú”, ông còn kéo cả cụ Tam nguyên Yên Đổ vào mà viết:

“Hình như cụ Nguyễn Khuyến có khen một bài thơ nọ nhưng “Nho đối với xỏ già này không ưa”. Đem nhà nho đối với bọn xỏ lá Nguyễn Khuyến đã bực mình huống hồ so sánh đại thi hào Nguyễn Du với con ngựa gì đấy (…)”.

“Già này không ưa” là chuyện riêng của già còn ai viết thì cứ viết chứ không ai có thể đem cái quan niệm cổ hủ của ông già đó ra mà làm tiêu chuẩn hành xử và viết lách cho người Việt Nam ở đầu thiên niên kỷ thứ ba này. Huống chi, với hai câu thơ hữu quan, Chu Mạnh Trinh đã miêu tả rất đúng cái bản chất bịp bợm và lật lọng của Sở Khanh:

Làng nho người cũng coi ra vẻ,

Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.

Bề ngoài thì trông có vẻ nho nhã, thư sinh nhưng thực chất hắn ta cũng chỉ là một tên ma cô mà thôi. Có không ưa là không ưa cái thằng ma cô chứ sao lại không ưa lời văn tả đúng cái thực chất của hắn? Mà suy cho cùng, “đem Nho đối xỏ” là đề cao “Nho” và hạ thấp “xỏ”, thì mắc mớ gì Nguyễn Khuyến lại không ưa?

Ông Lê Xuân Lít lại còn kéo cả Ngô Đức Kế và Tản Đà vào mà dạy chúng tôi “bàn bạc Truyện Kiều trước hết hãy xác định chỗ đứng”. Xin thưa với ông rằng chúng tôi đứng ở cái vị thế của một độc giả bình thường và bình dân mà nhận xét về Nguyễn Du và Truyện Kiều và chỉ riêng về mặt này thôi thì An Chi hoàn toàn bình đẳng với Ngô Đức Kế và Tản Đà. Có điều – và là điều tối quan trọng – là chúng tôi luôn luôn tâm niệm câu “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã”. Chúng tôi cứ thẳng thắn nêu lên cách hiểu của mình với chứng lý đầy đủ và nghiêm túc; nếu ông Lê Xuân Lít thấy cần thiết phải “tri chi vi tri chi” thì xin ông cứ tự nhiên. Đằng này, ông chỉ “vuốt đuôi” ông Ngu Minh. Nói cho đúng ra, để gọi là ủng hộ ông Ngu Minh, ông Lê Xuân Lít có đưa ra hai ý nhỏ.

Thứ nhất là với hai chữ vu quy, Kim Trọng nghĩ rằng “có chuyện Thuý về làm vợ đấy, nhưng.…” (tr. 41). Thưa rằng, với cái mạch văn mà ai cũng có thể kiểm chứng được thì hai chữ đó phải trực tiếp liên quan đến Kim Trọng chứ khôngthể đến bất cứ nhân vật nào khác. Không thể, tuyệt đối không thể có chuyện đưa Thuý Vân vào một cách ngang xương, không có thông báo, không có chuyển ý gì hết. (Học sinh cấp I mà làm tập làm văn với cách diễn đạt như thế thì bị điểm kém là cái chắc!).

Thứ hai, ông Lê Xuân Lít đã phải dẫn ra đến 20 câu Kiều (2825 – 2844) “để bạn đọc phán quyết xem có phải Nguyễn Du tả cái bảng Vu quy treo trước nhà Kim Trọng hay không” (tr. 41). Nhưng có ai nói rằng nhà Kim Trọng treo bảng treo biển gì cho cam! Chúng tôi chỉ viết: “Đàng trai mà trưng bày hai chữ đó (Vu quy) lên trước cổng nhà thì có mà làm trò cười cho thiên hạ”. Đây chỉ là một câu mang tính giả thiết để biện luận chứ nào phải là một câu tường thuật, càng không phải là một lời khẳng định, và càng tuyệt đối chẳng dính dáng gì đến “nhà Kim Trọng” cả! ÔngLê Xuân Lít đãkhông đủ sức để hiểu những câu thông thường như thế thì nói chuyện với ông rất khó đấy!

§ 1254. Kiến thức ngày nay, số 629

ĐỘC GIẢ: Tuổi trẻ ngày 22-11-2007, trang “Thể thao”, bài “Adriano đã bừng tỉnh” có câu:

“Phong độ của Adriano sa sút trầm trọng từ đầu năm và thường xuyên phảingồi trên băng ghế dự bị của CLB Inter Milan”.

Xin hỏi theo cách viết trên thì ai phải thường xuyên ngồi trên băng ghế dự bị?

AN CHI: Cứ theo cách hành văn trên thì hai vị ngữ “sa sút (trầm trọng)” và “(thườngxuyên) ngồi (trên băng ghế dự bị (.))” phải có cùng một chủ ngữ và đó là “phong độ (của Adriano)”. Nhưng chỉ có Adriano mới “ngồi (trên ghế dự bị (…)) (“chứ “phong độ” của anh ta thì không!). Ta chỉ cần thêm chữ “anh” vào trước mấy chữ “thường xuyên ngồi” thì câuvăn sẽ ổn thoả mọi bề:

“Phong độ của Adriano sa sút trầm trọng từ đầu năm và anh thường xuyên phải ngồi trên băng ghế dự bị của CLB Inter Milan”.

§ 1255. Kiến thức ngày nay, số 631

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết ý nghĩa của bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”.

AN CHI: Sau đây là ý nghĩa của bốn chữ mà ông hỏi, chép theo Phạm Bích Hợp, Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2007:

“Chữ Bửu Sơn Kỳ Hương thông thường được hiểu là Núi Báu (núi Cấm, An Giang) toả hương thơm đặc biệt, nơi này mai sau sẽ làm rạng danh Việt Nam. Tuy nhiên, cũng còn một số cách giải thích khác, mà cách nào cũng có ý nghĩa khá sâu sắc. Chẳng hạn, Bửu Sơn Kỳ Hương ý muốn ví mỗi con người là một ngọn núi quý, trong đó có sẵn hương thơm (Thiện tính, Phật tính), con người cần hiểu điều đó và sống cùng với nó.

Hoặc cách giải thích: Chữ Bửu-Sơn-Kỳ-Hương tương ứng với 4 vị: Phật Thầy, Bổn sư, Phật trùm, Phật Vương, cũng là 4 mức độ nhận thức của con người cần phải đạt được. Trước nhất, con người phải biết khiêm nhường, trân trọng mọi sự vật, hiện tượng xung quanh như một người thầy để không ngừng học hỏi, nâng cao nhận thức. Nhưng sự học không phải chỉ dừng ở bên ngoài, mà họ còn cần trở lại với chính mình (Bổn) để thấy, hiểu và sống cùng cái bên trong. Khi đó, con người sẽ hài hoà trong mối quan hệ Thiện-Địa-Nhân (Trùm) và đạt tới sự tự giác, giác tha (Phật Vương). Đấy cũng là mục tiêu tu hành của Bửu Sơn Kỳ Hương. (tr. 66 – 67)

§ 1256. Kiến thức ngày nay, số 631

ĐỘC GIẢ: Có người nói trong câu “hư bột hư đường” thì đường là Hán Việt mà tiếng Quảng Đông là thoòng còn bột là thuần Việt.

AN CHI: Bột cũng là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là * còn âm Hán Việt cũng là “bột” (bạc một thiết) và nghĩa là “mễ đích phấn mạt” (bột gạo)*.

§ 1257. Kiến thức ngày nay, số 631

ĐỘC GIẢ: Mới đây, tôi được đọc một bài viết rất lý thú của ông Ngu Minh, nhan đề “Cầm trăng – Cầm nguyệt” đăng liền 7 trang trên Kiến thức ngày nay, số 623 (tr. 10 – 16), mở đầu như sau:

“Cầm trăng là cách dùng từ lạ và khó hiểu của Nguyễn Du. Lạ vì trước và sau Nguyễn Du chưa ai sử dụng, khó hiểu vì đến nay cầm trăng tồn tại như một ẩn từ. Dù có nhiều ý kiến cho cầm trăng là đàn nguyệt, đàn Nguyễn hay tỳ bà, nhưng chưa ý kiến nào lý giải thoả đáng”.

Xuất phát từ nhận định trên đây, ông Ngu Minh đã phân tích khá tỉ mỉ để khẳng định rằng: – cầm trăng không là nguyệt cầm; – cầm trăng chưa là Nguyễn cầm; – cầm trăng chưa phải là tỳ bà. Rồi qua việc “phân tích từ và câu” cũng như việc “giải bằng giả thiết, ông Ngu Minh khẳng định:

“Cầm trăng là tỳ bà và trăng (…) Nguyễn Du ghép trăng vào mộtcách quá mới! Trong cùng một câu, ông kết hợp hai cái mới. Cách sử dụng từ mới: một Hán một Nôm tách chữ. Cách miêu tả mới: hiên Lãm Thuý treo thật đàn và treo ảo trăng. Hiên sau treo sẵn cầm trăng: Hiên Lãm Thuý đã có sẵn: tỳ bà và trăng chờ Kiều! Một cách miêu tả. trên cả tuyệt vời!”.

Ông Ngu Minh thấy là trên cả tuyệt vời. Không biết ông An Chi thấy thế nào?

AN CHI: Chỉ có người có óc tưởng tượng “bay bổng” mới thấy đó là tuyệt vời chứ người biết tiếng Việt thì khôngthể chấp nhận cách giải thích như thế vì chẳng những nó trái hẳn với qui luật của tiếng Việt mà nó còn trái với qui luật chung của ngôn ngữ nữa. Cách giải thích đó đã phạm những sai lầm sau đây:

Thứ nhất, nó đã gán cho trạng ngữ hiên sau của câu Kiều thứ 467 (Hiên sau treo sẵn cầm trăng) hai nội dung khác nhau: với đàn thì đó là một chỗ nhất định (trên tường, trên cột, bên hông tủ, v.v.) trong phạm vi của hiên sau (tạm gọi là ND1) nhưng với trăng thì đó lại là một chỗ trên trời và dĩ nhiên là ở phía trên của hiên sau (tạm gọi là ND2). Cú pháp không chấp nhận cách hiểu nước đôi như thế được. Một từ hoặc một ngữ, có thể có tính lưỡng nghĩa, thậm chí đa nghĩa (hơn hai nghĩa) nhưng trong một cấu trúc ngữ pháp nhất định, trong phạm vi của một cái trục kết hợp (syntagmatic axis) nhất định thì, trong một lần dùng, nó chỉ có thể mang một trong những cái nghĩa đó mà thôi. Vì thế nên, ở đây, hiên sau chỉ có thể hoặc có nghĩa ND1 hoặc có nghĩa ND2 chứ không thể có cùng một lúc cả hai nghĩa như ông Ngu Minh đã tưởng tượng ra một cách ngộ nghĩnh được. Và chỉ riêng vì điểm này thôi thì “cách miêu tả… trên cả tuyệt vời” mà ông gán cho Nguyễn Du cũng đã bị ngắc ngứ rồi!

Thứ hai là tác giả đã không phân biệt hai động từ treo khác nhau, liên quan đến đàn (cầm) và đến trăng. Với đàn thì treo là một vị từ hành động nhưng với trăng thì treo lại là một vị từ trạng thái. Người ta có thể treo đàn, cũng như treo gươm, treo tranh, v.v. chứ không ai *treo trăng, vì trăng “tự treo”, chẳng hạn trong đầu súng trăng treo hay (mười rằm trăng náu) mười sáu trăng treo. Vậy thì trong một ngôn cảnh duy nhất và trong một lần dùng nhất định, treo chỉ có thể hoặc là vị từ hành động hoặc là vị từ trạng thái chứ tuyệt đối khôngthể là cả hai. Vậy cũng chẳnglàm gì có chuyện “hiên Lãm Thuý treo thật đàn và treo ảo trăng” vì

Thứ ba, cũng với lý do đã nói ở hai điểm trên, cùng một vị từ treo trong ngôn cảnh của câu 467, thì giữa “treo thật” và “treo ảo” (?), tác giả chỉ có thể chọn một cách chứ không thể hiểu theo cả hai: “thật” cho đàn mà “ảo” (?) cho trăng. Xin nêu một thí dụ cho dễ thấy thêm vấn đề:

– *Anh chàng cầu thủ đó đã đá xong trận cầu gay cấn và cô bồ xinh xắn.

Hai nghĩa hữu quan của động từ đá ở đây là (ghi theo Từ điển tiếng Việt của Vietlex): “đưa nhanh chân và hất mạnh nhằm làm cho bị tổn thương hoặc cho văng ra xa” (nghĩa 1) và “cắt đứt quan hệ yêu đương một cách ít nhiều thô bạo” (nghĩa 3). Nghĩa 3 chỉ có thể tương hợp với bổ ngữ cô bồ (xinh xắn) chứ không thể với trận cầu (gay cấn) mà cả hai nghĩa 1 và 3 cũng không thể dung hợp với nhau trong vị từ đá của ngữ vị từ đã đá xong. Người biết tiếng Việt không ai nói một câu giống như cái thí dụ trên đây. Để chơi chữ, người ta chỉ có thể nói, chẳng hạn:

– Anh chàng cầu thủ đó đã đá xong trận cầu gay cấn rồi đá luôn cô bồ cũ xinh xắn để chạy theo một cô khác xấu xí hơn.

Ở đây, người ta phải dùng hai vị từ đá riêng biệt vì dứt khoát phải như thế và cái qui tắc này cho thấy chuyện “treo thật” và “treo ảo” của ông Ngu Minh chỉ là một chuyện ảo. Huống chi,

Thứ tư, mọi sự càng sáng tỏ hơn với câu 468. Ta hãy ráp lại mà xem:

Hiên sau treo sẵn cầm trăng

Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày.

Với câu tám này thì trăng trong câu sáu dứt khoát không thể là chị Hằng, là cung Quảng, như ông Ngu Minh đã biện luận một cách lúng túng và gượng gạo mà hỏi rằng “nâng cái gì? Tỳ bà hay trăng?”. Người biết tiếng Việt chỉ thấy trong hai tiếng cầm trăng ở đây có một vật duy nhất mà thôi. Chúng tôi đã nhờ một đứa cháu chứng minh điều này bằng cách nói với nó:

– Tr. ơi, bác khát nước quá! Trên bàn có ly bia và chén nước mắm, cháu lấy đưa giùm cho bác.

– Bác khát nước thì uống bia thôi chứ lấy nước mắm làm gì, hả bác? Tr. vặn lại.

– Thì bác có bảo cháu đưa nước mắm đâu.

– Bác chẳng bảo “trên bàn có ly bia và chén nước mắm, lấy đưa cho bác” là gì?

– Thế à?

– Tiếng Việt nó thế đấy bác ạ! Lẽ ra bác chỉ cần nói: “Trên bàn có ly bia, cháu lấy đưa cho bác” hoặc “Trên bàn có ly bia và chén nước mắm, cháu lấy ly bia đưa cho bác”. Bác mà cứ nêu chung như thế thì người ta sẽ đưa cho bác cả hai thứ đấy.

Lời lẽ giản dị mà chí lý của Tr. giúp ta hiểu rằng cầm trăng là vật duy nhất mà Kim Trọng nâng ngang mày chứ nếu đó là “tỳ bà và trăng” thì theo cấu trúc cú pháp đã thấy, Kim Trọng cũng nâng trăng ngang mày luôn nữa.

Tóm lại, cầm trăng là một vật duy nhất và đây là một thứ đàn, còn nó là đàn gì thì xin nhường lời cho các nhà chuyên môn.

Xin xem tr. 529 – 531.

Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 23.

“Về một vài địa danh, tên riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 10 (60)-2000, tr. 1 – 4.

Bđd, tr2, c1

Sđd, tr529.

Dẫn theo Hà Văn Tải, “Góp phần xác định tên gọi Cửa Lò”, Xưa & Nay, số 147 (195), tháng 9-2003, tr. 25.

Cũng dẫn theo Hà Văn Tải, bđd, tr. 25.

Xin xem bản dịch của Phạm Trọng Điềm, tập 2, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1992, tr. 220.

Bđd. tr 25.

Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Nxb. Trẻ và Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr. 83 – 84.

Đường Thi, Tân Việt, Sài Gòn, 1950, tr. 98.

Xin xem Tư liệu Truyện Kiều, tr. 539.

Xin xem Tư liệu Truyện Kiều, tr. 12 – 13.

Bài VHNT, tr. 114.

Bđd, tr. 113.

Bđd, tr. 10.

“Bàn về tính hiếu học của người Việt xưa và nay”, trong Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr. 320 – 321.

Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công giáo Anh Việt, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2002, tr. 606.

Sđd, tr. 545.

Truyện Thúy Kiều, sđd, tr. 85, chú thích 1.

Truyện Kiều, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Đức Vân hiệu đính và chú thích, sđd, tr. 49, chú thích 497.

Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, sđd, tr. 380, chú thích 497.

Từ điển Truyện Kiều, sđd, tr. 177.

Truyện Kiều, Nguyễn Quảng Tuân hiệu đính và chú giải, sđd, tr. 97.

Sđd, tr. 169 – 170.

Kiến thức ngày nay, số 482, tr. 49, c.2.

Xem sđd, mục “tụi”.

Trung Quốc Lữ du xuất bản xã, Bắc Kinh, 1999, tr. 35 – 41.

Xin xem bđd, tr. 48, đặc biệt là tr. 50, chú thích 16.

Xin xem tr. 47 – 48.

Bđd, tr. 21 – 22.

Truyện Kim Vân Kiều, Nguyễn Khắc Hạnh và Nguyễn Đức Vân dịch, Nxb. Hải Phòng, 1994, tr. 270 – 271.

Bđd, tr. 31.

Kiến thức ngày nay, số 154.

Sđd, tr. 273 – 274.

108 bài thơ tình Trung Hoa, Nxb. Thuận Hoá, 1996, tr. 74.

Bđd, tr. 38.

Bđd, tr. 38. c.1.

Mạnh Tử quốc văn giải thích, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến và Tùng Văn Nguyễn Đôn Phục dịch thuật, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 405 – 406.

Sđd, tr. 254.

DN1, tức danh ngữ thứ nhất, là “danh ngữ dẫn nhập (giới thiệu) nhân/vật chính của câu chuyện (hay của đoạn văn)”. Còn DN2, tức danh ngữ thứ hai, thì “chỉ một cái gì liên đới trực tiếp với DN1 (một vật sở hữu, một bộ phận của (toàn thể) nhân/vật được giới thiệu, một đặc trưng của nó).” (Sđd, tr. 255, 256)

Sđd, tr. 259 – 260.

Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, “Phụ lục”, tr. 546.

Bđd, tr. 54.

Bđd, tr. 55 – 56.

Bđd, tr. 65.

Bđd, tr. 22.

Bđd, tr. 22.

Bđd, tr. 23.

Bđd, tr. 23 – 24.

Bđd, tr. 27.

Bđd, tr. 26.

Vrai = thật; vraisemblable = có vẻ như thật.

Bđd, tr42.

Kiến thức ngày nay, số 488, tr. 52.

Xin xem Đại Nam nhất thống chí, tập II, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1992, tr. 344.

Bđd, tr. 28.

Sđd, tr. 273 – 274.

Bđd, tr. 9.

Bđd, tr. 45.

Bđd, tr. 45.

Bđd, tr. 8.

Sđd, tr. 89.

Sđd, tr. 92.

Sđd, tr. 14.

Sđd, tr. 130 – 138.

“Góp ý với ông Đào-Duy-Anh về vấn đề Loa-thành”, Nghiên cứu lịch sử, số 86, 5-1966, tr. 43 – 44.

Hán thư, Trung châu cổ tịch xuất bản xã, Trịnh châu, 1996, tr. 686.

Sđd, tr. 6.

Sđd (hạ, đệ cửu hàm, đệ tứ sách), tr. 1472.

Xin xem Cao Xuân Hạo, “Hai loại danh từ của tiếng Việt”, trong Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 278.

Sđd, tr. 82.

Sđd, tr. 376, mục “tuyết”.

Chép theo Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 108.

Dẫn theo Nguyễn Quảng Tuân – Nguyễn Đức Dân, Từ điển các từ tiếng Việt gốc Pháp, Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 67.

Xin xem bản dịch Tự vị Annam Latinh của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, Nxb. Trẻ, 1999, tr. 287.

Bđd, tr. 65.

“Chữ huý trong hai bản Kiều Nôm 1871,1872”, Ngôn ngữ, số (148)-2002, tr. 6-7.

Bđd, tr. 65.

Bđd, tr. 65 – 66.

Bđd, tr. 66 – 67.

Tạp chí Văn học, số 3-1997, tr. 14.

Xin xem “Kỉ niệm trên đường đi tìm nguyên tác Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học, số 6-1998, tr. 48.

Xin xem Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 523 và số 531.

Sđd, tr. 30.

Sđd, phần tiếng Việt, tr. 1.

Lâu nay, ta vẫn quen gọi là “Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên”.

Theo Đại Nam chính biên liệt truyện thì sau khi đi sứ về Nguyễn Du mới có Truyện Kiều hành thế (NQT chú).

Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, Nxb. Trẻ, 2003, tr. 250 – 251.

Nguyễn Du, Truyện Thuý Kiều, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo, Nxb. Văn hoá Thông tin in lần thứ năm, 1995, tr. 162.

Nguyễn Du, Truyện Kiều, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972, tr. 450.

Từ điển Truyện Kiều, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974, tr. 153.

Từ điển Truyện Kiều, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1987, tr. 192.

Thuý Kiều truyện tường chú, quyển Hạ, Trúc Viên Lê Mạnh Liêu phiên dịch và phụ chú, Sài Gòn, 1974, tr. 150.

Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1969, tr. 352 – 353.

Nguyễn Trãi, Tủ sách Văn học trong nhà trường, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, tr. 97.

Bđd, tr. 13.

Bđd, tr. 12.

Xin xem bản dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên do Nxb. Trẻ ấn hành năm 1999.

Sđd, tr 44.

Sđd, tr 44 – 45.

Xin xem Một số chứng tích về ngôn ngữ; văn tự và văn hoá, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 44, 45.

Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Nxb. Văn học, 2003, tr. 72 – 73.

Dẫn theo Truyện Kiều tập chú do Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hoà soạn, Nxb. Đà Nẵng, 1999, tr. 398.

Theo Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Nxb. Văn học, 2003, tr. 158.

“Về mối quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa của mày ngài trong câu thơ Râu hùm, hàm én, mày ngài”, Ngôn ngữ, số 4-1982, tr. 45.

Dẫn theo Nguyễn Huệ Chi, Bđd.

Đan phượng nhãn chỉ đơn giản có nghĩa là “mắt phượng” nhưng GS. Nguyễn Huệ Chi đã nhầm nên mới dịch thành “mắt đỏ như mắt phượng” rồi còn đẩy đi xa hơn thành “đôi mắt đỏ vằn tia máu”. Ở đây, chữ đan đi với chữ phượng chứ không phải với chữ nhãn. Ở Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), ta chẳng đã có một huyện tên là Đan Phượng đó sao? Và đan phượng chỉ đơn giản là phượng chứ không phải “phượng đỏ”, cũng như lão thử là chuột chứ không phải “chuột già” và ô quy là rùa chứ không phải…“rùa đen”!

Xin xem Kiến thức ngày nay, số 445, ngày 20-12-2002, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 49 – 51.

Sđd, tr. lxv – lxvi.

“Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều”, Tạp chí Văn học, số 3-1997, tr. 15.

Tửu lực vi: Tửu lực kém. Tạm dịch thành “uống đã say”.

Sđd, tr. 67 – 68.

Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Nxb. Khoa học Xã hội, 1985, tr. 74 – 75.

Sđd, tr. 116.

Sđd, tr. 204, chú thích 18.

Yên Ngựa là tên núi ở địa phương – Hoàng Hoa là anh hùng Hoàng Hoa Thám, hùm thiêng Yên Thế.

Từ điển Truyện Kiều, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974, tr. 366.

Gaffe: sự hớ hênh, điều nhầm lẫn ngớ ngẩn.

Tạm dịch: Phạm sai lầm là thuộc tính của con người.

Kiến thức ngày nay, số 143, ngày 15-7-1994.

Lịch sử Việt-nam, quyển thượng, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1958, tr. 175.

Sđd, tr. 174.

Chép theo Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển, in lần thứ năm, 1958, tr. 211 – 212.

Chép theo Nguyễn Thị Bích Hải, 108 bài thơ tình Trung Hoa, Nxb. Thuận Hoá, 1996, tr. 82 – 83.

Chép theo Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Nxb. Văn học, 2003, tr. 45 – 46.

Theo Lê Trung Hoa – Hồ Lê, Thú chơi chữ, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr. 232 – 233.

Theo Phạm Đan Quế, Tập Kiều một thú chơi tao nhã, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr. 230.

Hán ngữ sử luận văn tập, Khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1958, tr. 361 – 363.

Đây là cách viết cố ý của tác giả (BT).

Thượng Hải văn hoá xuất bản xã, 1998.

Hán ngữ đại tự điển, Thành Đô, 1993, tr. 1311.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3