Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1228 - 1237

§ 1228. Kiến thức ngày nay, số 608

ĐỘC GIẢ: Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-6-2007 có in hình một đàn thú với chú thích: “Ngoài trồng cây coca, dân Bolivia còn nuôi vicuna để lấy lông may áo”, (tr. 16). Nhưng vì ảnh chụp từ phía trước của các con vật nên tôi không thấy rõ được thân mình của nó. Có vẻ như đó là một giống hươu không sừng? Vậy xin cho biết vicuna là con gì?

AN CHI: Vì không có dấu tilde (~) của chữ Tây Ban Nha nên người ta mới viết thành vicuna; còn cách viết chính xác là vicuña. Con vicuña (Xin xem ảnh) thuộc họ Lạc đà (Camelidae) và là loài nhỏ con nhất của họ này. Cổ dài, mõm nhỏ, đuôi ngắn, tai dài và nhọn, chân dài và thon. Đặc biệt, nó có lông thật mịn, chỉ thua có tơ mà thôi. Vậy con vicuna quý nhất là ở bộ lông của nó. Mới đây (8-6-2007) Tổng thống Evo Morales của Bolivia đã đến thăm Ulla Ulla, một ngôi làng nhỏ mà vừa xuất khẩu được 950kg len từ lông vicuña và ông đã rất vui thích.

§ 1229. Kiến thức ngày nay, số 609

ĐỘC GIẢ: Có phải tên của hoa dạ lan hương bắt nguồn từ tiếng Hán hay không? Tên của nó trong tiếng Anh và tiếng Pháp là gì? Tên khoa học của nó là gì? Có người nói là Telosma cordata; xin cho biết có đúng không?

AN CHI: Tên khoa học của dạ lan hương là Cestrum nocturnum. Chúng tôi thấy ngoài Bắc gọi là dạ lan hương còn trong Nam gọi là dạ lý hương. Còn tên gọi tắt là dạ hương. Tên tiếng Pháp của nó là galant de nuit, jasmin de nuit, lilas de nuit, reine de la nuit. Tên tiếng Anh là Night jessamine, night blooming jasmine, night blooming cestrum, lady of the night, queen of the night. Tên tiếng Hán của nó là dạ hương mộc 夜香木 hoặc dạ hương thụ 夜香树. Cũng còn gọi là dương tố hinh 洋素馨.

Còn Telosma cordata lại là tên khoa học của hoa thiên lý, mà tên bằng tiếng Hán là dạ lai hương 夜來香.

Dạ hương là cây bụi còn thiên lý là cây leo.

§ 1230. Kiến thức ngày nay, số 609

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 605, giới thiệu về Oscar Niemeyer, ông có nói rằng vị kiến trúc sư người Brazil này “đã nhận lời của Tổng thống Hugo Chavez (Venezuela) thực hiện đồ án cho một tượng đài cao 100m để tôn vinh và tưởng niệm Simon Bolivar, Nhà giải phóng của nhiều nước Mỹ La Tinh”. Không biết có sự nhầm lẫn nào về con số hay không chứ tôi thấy 100m thì quá cao. Và nếu có thì tượng đài này sẽ đặt ở đâu? Mà cái ông “Ba Tây dị nhân” của ông xem ra cũng hay lý sự, nhất là về chính trị, có phải không, ông An Chi?

AN CHI: Ông ta đã trót sinh ra như thế thì ta còn biết làm thế nào! Chính trị phả cái hơi thở của nó vào cuộc sống hàng ngày của mọi người. Có khi nó thổi ào ào như một cơn gió mạnh mà kẻ tự nhốt mình trong tháp ngà thì không hay, không biết; có khi nó chỉ thổi nhè nhẹ như một làn gió mỏng mà người giàu lòng ưu ái với xã hội đã thấy băn khoăn. Oscar Niemeyer thuộc về type sau. Bởi vậy ta cũng chẳng nên lấy làm lạ là trong nhiều cuộc phỏng vấn “Ba Tây dị nhân”, các nhà báo thường “quẹo” qua khía cạnh chính trị. Trong một cuộc đàm thoại do Jean Baudot (cùng với Nanda Eskes) thực hiện tại Rio de Janeiro, đăng trên Le Nouvel Observateur điện tử (số 2.217, thứ năm 3-5-2007), nhà báo Baudot đã hỏi Niemeyer:

– Ông tiếp tục làm việc như một người thanh niên. Và ông vẫn một mực bảo vệ cái giáo điều mác-xít và vẫn là môn đệ (disciple) của Castro và Chavez. Điều này có thực sự phải lẽ hay không?

Niemeyer:

– Tại sao bạn muốn tôi phải thay đổi. Thế giới luôn luôn bất công, người nghèo vẫn cứ nghèo và cuộc đấu tranh chống đói nghèo vẫn cứ phải được ưu tiên. Cuộc đấu tranh giai cấp hãy còn đó. Về mặt thẩm mỹ, người ta có thể chiết trung, có thể đồng thời thích Matisse và Picasso, Le Corbusier và Mies van der Rohe. Về mặt chính trị thì không thể. Tôi bao giờ cũng tin tưởng rằng những nhà lãnh đạo như Chavez thì làm việc để đưa quần chúng ở châu Mỹ La Tinh thoát khỏi cảnh khốn cùng. Ông ấy vừa mới đến đây thăm tôi nhân cuộc họp vừa rồi của tổ chức Mercosur. Tôi đã gợi ý ông ấy về đề án cho một tượng đài để tôn vinh Simon Bolivar.

Trên Kiến thức ngày nay, số 605, chúng tôi đã nói đến chiều cao của tượng đài. Đó là một con số hoàn toàn chính xác. Cái nổi bật nhất trong đề án là một khối bê tông khổng lồ hình mũi tên, dài 170m, cao 100m. Tượng đài sẽ toạ lạc trên đỉnh núi Avila, ở phía Bắc thủ đô Caracas của Venezuela. Mũi tên sẽ chĩa về phía nước Mỹ.

§ 1231. Kiến thức ngày nay, số 610

Trả lời ông Ngu Minh

Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.

KHỔNG TỬ

Chúng tôi đã đọc bài “Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” của ông Ngu Minh trên Kiến thức ngày nay, số 601. Xin trả lời để ông thấy chúng tôi đã tâm phục khẩu phục như thế nào. Bài của ông tựu trung có mấy điểm sau đây:

1. An Chi bất kính với Nguyễn Du.

2. Câu 942 của Truyện Kiều là một câu thơ đúng và rất hay nhưng vì nó nằm ngoài khả năng hiểu biết của An Chi nên tác giả này đã suy luận khập khiễng rồi phạm nhiều sai lầm.

3. Cũng vậy đối với câu 2168.

4. An Chi không hiểu được ước lệ là gì và

5. Cũng không biết được rằng trượng phu là người cao mười thước.

6. Nói theo tác giả Ngô Quốc Quýnh thì Từ Hải chính là Quang Trung và đây là một ý kiến đáng được bàn tới.

7. Cũng đáng được bàn tới là ý kiến của tác giả trên đây cho rằng bốn câu ba vần là thơ lục bát. Ẩn ý hẳn là “Kiều là ta, ta là Kiều”.

Chúng tôi xin trả lời ông theo từng điểm như sau:

1. Ông Ngu Minh viết:

“Thật đáng buồn khi tiên sinh (An Chi – AC) nặng lời với đại thi hào Nguyễn Du một cách khiếm nhã (…) Lôi ngựa ký – thiên lý mã – ngựa kỳ – tên ngựa – ra để châm biếm cá nhân một thiên tài đã khuất (…) thì thật thất kính đối với tiền nhân, coi thường độc giả: Ông bà sai, con cháu đem súc vật ra ví von bóng gió!”.

Ông Ngu Minh nói như thế chứ An Chi chỉ noi gương người xưa mà thôi, bắt đầu là Đức Thánh Khổng. Trong Luận ngữ, thiên “Hiến vấn”, nói về năng lực và đạo đức của người hiền tài, Ngài đã dạy: “Ký bất xưng kỳ lực, xưng kỳ đức dã” nghĩa là “Khen ngựa ký (người ta) không khen cái sức của nó, mà khen cái đức của nó vậy”.

Dẫn lời của Đức Thánh Khổng là có ý dựa dẫm chứ chỉ cần mở từ điển ra thì đã có thể thấy rằng ký là tên của giống ngựa hay, ngựa giỏi, dùng để ví với nhân tài kiệt xuất. Vậy dùng tên của giống ngựa này để chỉ Nguyễn Du là đề cao nhà thơ này một cách nghiêm túc chứ phải đâu là thất kính như ông Ngu Minh đã xuyên tạc.

Nhưng dù có là ngựa ký, ngựa kỳ thì, như đã nói trên đường thiên lý, e cũng có lúc “vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”. Sau đây là một dẫn chứng mà thực ra nhiều người cũng đã thấy. Đó là hai chữ vu quy trong câu 2843 (Tuy rằng vui chữ vu quy). Câu này nằm trong đoạn thơ nói lên lòng nhớ nhung của Kim Trọng đối với Kiều sau khi sánh duyên cùng Thuý Vân. Hai chữ vu quy chỉ dùng để nói về việc người con gái về nhà chồng. Ta chẳng thấy trong các đám cưới, nhà gái đều kết hoa hay treo bảng hai chữ “Vu Quy” đó sao? Đàng trai mà trưng hai chữ đó lên trước cổng nhà thì có mà làm trò cười cho thiên hạ. Thế nhưng thi hào Nguyễn Du lại “tương” hai cái chữ ấy vào cuối câu 2843 để nói về Kim Trọng đấy. Chẳng khấp khểnh ư? Chẳng gập ghềnh à?

Vậy, thưa ông Ngu Minh, ta không được phép bất kính với tiền nhân nhưng ta cũng chẳng bao giờ nên …ngu kính với Kiều giáo chủ.

2. Phân tích dông dài về câu 942, ông Ngu Minh cốt chứng minh rằng An Chi không đủ khả năng để hiểu vai ở đây chỉ là “một vai” chứ không phải “đôi vai”. Nhưng cách diễn đạt của ông lại đẩy ông vào tình thế “gậy ông đập lưng ông”. Ông Ngu Minh đã viết: “Vai ở đây chỉ là biến thể của đôi vai trong ngôn ngữ hàng ngày khi không cần xác định cụ thể (…) vai thay thế cho đôi vai (…) vai năm tấc rộng có nghĩa đôi vai rộng mười tấc”. Vì mải lo hùng biện nên ông không hề hay biết rằng mình đã diễn đạt ngược hẳn với ý mình muốn nói, nên hoàn toàn trùng với ý của… An Chi. Để dễ thấy vấn đề, xin trình bày lời khẳng định của ông bằng đẳng thức (trong đó dấu “bằng” (=) thay thế cho những từ “là biến thể” hoặc “thay thế” mà ông đã dùng): Vai = Đôi vai.

Vậy Vai năm tấc rộng = Đôi vai năm tấc rộng.

Quanh đi quẩn lại thì cũng chỉ có “năm tấc” mà thôi chứ với cái đẳng thức đã nêu, làm sao ông Ngu Minh có thể hoá phép cho vai năm tấc rộng có thể trở thành “đôi vai rộng mười tấc”? Thực ra, cái đẳng thức mà ông Ngu Minh chủ trương thì lại là: Vai = Một vai.

Có thế thì “đôi vai” mới “rộng mười tấc” được chứ. Nhưng Nguyễn Du có dốt tiếng Việt đâu mà xài vai ở đây với nghĩa “một vai”? Trừ những trường hợp được xác định cụ thể về số lượng (một hoặc hai/đôi) hoặc vị trí (trái hoặc phải), danh từ vai dùng để miêu tả vóc dáng hoặc sức lực của con người bao giờ cũng có nghĩa là “đôi vai”: sức dài vai rộng, vai u thịt bắp, vai ngang, vai xệ, v.v.. Vai năm tấc rộng cũng không thể nằm ngoài cái lệ này. Đây là một qui tắc bất di bất dịch về mặt ngữ dụng của từ vai. Cái lý thuyết “một vai” của ông không thể đứng vững được vì trong ngữ học truyền kỳ thì chẳng có thứ “vô chiêu” nào thắng được “hữu chiêu” cả, thưa ông.

3. Nghĩ rằng chúng tôi không đủ khả năng để hiểu câu 2168, ông Ngu Minh đã phải phân tích dông dài rồi gút lại như sau:

“Tú bà mà khấn như… bà tú: triêu triêu Hàn thực, dạ dạ Nguyên tiêu! Câu này chỉ dành cho những người giàu sang phú quí, mong muốn ngày đêm đều là lễ hội. Tú bà hành nghề trong thanh lâu, sống ngược thiên hạ: lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm. Cuộc sống thường là: Đêm đêm ăn sáng, ngày ngày ăn đêm. Mong muốn ngày đêm đều là lễ hội thì phải khấn: Đêm đêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu”.

Ông Ngu Minh không ngờ rằng trong đoạn tiểu kết ngắn ngủi này mình lại phạm đến hai điều mâu thuẫn.

Một là ở trên, ông nói rằng những người giàu sang phú quí mong muốn ngày đêm đều là lễ hội chứ Tú bà thì không (vì mụ ta lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm). Nhưng ở dưới, ông lại nói Tú bà cũng “mong muốn ngày đêm đều là lễ hội (thì phải khấn: Đêm đêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu)”. Thế thì Tú bà cũng y chang như những người giàu sang phú quí kia chứ khác nhau ở chỗ nào?

Hai là ông nói rằng Tú bà lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm. Bất cứ ai biết tiếng Việt cũng hiểu “lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm” là ban đêm thì hoạt động còn ban ngày thì… nghỉ và ngủ. Nhưng đã nghỉ và ngủ vào ban ngày thì còn khấn “ngày ngày Nguyên tiêu” làm gì? Ngày ngày Nguyên tiêu thì bọn ăn chơi kéo đến rần rần; còn nghỉ, ngủ cái gì? Thế thì Tú bà “sống ngược thiên hạ” ở chỗ nào?

Ông Ngu Minh không hề hay biết rằng mình chỉ thốt ra những điều vô nghĩa. Lập luận của ông ở điểm 3 hoàn toàn không có giá trị.

4. Ông Ngu Minh đã tung hoả mù chung quanh hai tiếng ước lệ để chê chúng tôi dốt. Chuyện thực ra không có gì mà phải làm cho ầm ĩ. Ước lệ là một khái niệm mà học sinh chương trình Việt văn trung học đã được học qua.

5. Ông lại chê chúng tôi không hiểu trượng phu là “người cao mười thước” mà bản thân ông thì lại không hiểu rằng đây là một cái nghĩa rất “nhà quê”. Nó cũng “nhà quê” như nói rằng cửa hàng bách hoá là cửa hàng bán một trăm thứ sản phẩm, trường bách khoa là trường dạy trăm môn, đường thiên lý là con đường dài đúng một ngàn dặm, chim bách thiệt là chim có một trăm cái lưỡi, v.v.. Thực ra, cái ý “mười thước” trong hai chữ trượng phu của ông chỉ là cái người ta mượn để chỉ kẻ nam nhi đã trưởng thành. Vì thế cho nên, tuy đều “cao mười thước” cả nhưng có người là đại trượng phu, có kẻ lại là tiểu trượng phu, thậm chí có kẻ còn là tiện trượng phu nữa. Nếu ta cứ “căng” từ ngữ ra mà hiểu theo kiểu Ngu Minh thì tiểu trượng phu sẽ là “người mười thước cỡ nhỏ” chăng? Nhưng đây cũng chưa phải là chuyện quan trọng nhất.

Quan trọng nhất là chuyện ông Ngu Minh đưa hai tiếng trượng phu ra trong trường hợp này để chê chúng tôi vì chính ông đã không phân biệt được hai lĩnh vực: ngôn ngữ và lời nói. Hai tiếng trượng phu thuộc về từ vựng (ngôn ngữ) còn thân mười thước cao thì thuộc về lời nói vì đã là một câu. Đáng lẽ phải tìm cứ liệu trong lời nói (parole) để chứng minh sự tồn tại của “người cao mười thước” thì ông Ngu Minh chỉ đưa ra được có hai tiếng trượng phu, một đơn vị của ngôn ngữ (langue). Cứ theo cách này của ông Ngu Minh thì người ta còn chứng minh được rằng Việt Nam có cả bom hạt nhân, tàu vũ trụ, v.v. cũng không biết chừng vì tiếng Việt chẳng có những danh ngữ tàu vũ trụ, bom hạt nhân, v.v. thì là gì?

6. Ông Ngu Minh dẫn ý kiến của Ngô Quốc Quýnh cho rằng Từ Hải chính là Quang Trung và cho rằng đây là chuyện đáng bàn. Có lẽ ông thích có một tay hoàng đế từng ra vào lầu xanh và từng nghe lời đàn bà để cho sự nghiệp tan thành mây khói chứ chúng tôi thì không. Chúng tôi không dám bôi nhọ Hoàng đế Quang Trung.

7. Ông Ngu Minh lại dẫn ý kiến của Ngô Quốc Quýnh cho rằng bốn câu ba vần là thơ lục bát. Ông cho rằng đây cũng là chuyện đáng bàn. Phải, đáng bàn lắm chứ vì ông Quýnh thì đếm nhầm còn ông Minh thì lại lăng-xê cái sự nhầm lẫn đó. Xin thưa với hai ông rằng bốn câu thì chỉ có hai vần mà thôi. Xin nêu bài lục bát bốn câu sau đây của Xuân Diệu để cho hai ông đếm:

Tôi cầm mùi dạ lan hương

Trong tay đi đến người thương cách trùng

Dạ lan thơm nức lạ lùng

Tưởng như đi mãi chưa cùng mùi hương.

Rõ ràng là chỉ có hai vần: ương và ung. Muốn được ba vần thì phải có sáu câu, như bài “Vịnh cây thông” của Nguyễn Công Trứ:

Ngồi buồn mà trách ông xanh

Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

Giữa trời vách đá cheo leo

Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

Ở đây ta mới có ba vần: anh/ênh, ươi/ơi và eo. Vậy bốn câu ba vần là bốn câu Đường luật đấy, thưa hai ông, chẳng hạn bài “Lương Châu từ” của Vương Hàn:

Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi

Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi

Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu

Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Ông Ngu Minh sẽ hỏi: – Ba vần ở đâu?

Thưa ông: – Đó là ba chữ bôi, thôi, hồi.

Ông sẽ bẻ: – Thế thì chỉ có một vần “ôi” mà thôi.

Xin thưa với ông rằng đó là vì ông chưa quen với phép tu từ gọi là hoán dụ. Với hoán dụ, vần ở đây có nghĩa là chữ hoặc tiếng cùng vần với chữ hoặc tiếng khác trong những câu thơ có liên quan, mà trong bài “Lương Châu từ” thì đúng là bôi, thôi, và hồi. Ông có thể vặn thêm: – Sao không thấy cái nghĩa đó trong từ điển?

Thưa: – Đã là tu từ thì ít khi có sẵn trong từ điển.

Thế đấy, thưa ông Ngu Minh, đó mới chánh cống là Kiều chiêu đấy, thưa ông!

Trở lên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai cốt lõi của ông để ông thẩm định lại.

§ 1232. Kiến thức ngày nay, số 611

ĐỘC GIẢ: Trong một lần trà dư tửu hậu, một ông bạn của tôi có nhận xét rằng bài “Trong đầm” (nói về bông sen) là một bài ca dao thật đẹp, cả nội dung lẫn hình thức; đặc biệt là về mặt ngôn ngữ, nó chỉ gồm toàn những từ thuần Việt. Ông bạn còn nói rõ đó không phải là những từ Việt gốc Hán. Xin cho biết có đúng như thế không. Và thế nào là “từ thuần Việt”?

AN CHI: Trước nhất, xin chép lại bài ca dao:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Trong 28 tiếng (âm tiết) của nó, ta đếm được 21 từ (vì có 7 từ được dùng 2 lần): bằng, bông (2), bùn (2), chẳng, chen, đầm, đẹp, gần, gì, hôi, lá (2), lại, mà, mùi, nhị (2), sen, tanh, trắng (2), trong, vàng (2), xanh (2). Trong 21 từ này, chúng tôi đếm được ít nhất là 13 từ gốc Hán sau đây:

1. Bằng là âm Hán Việt Việt hoá của chữ 平, mà âm Hán Việt hiện đại là bình (như trong hoà bình, bình đẳng, v.v.). “Hán Việt Việt hoá” là cách gọi bắt đầu với Vương Lực (1948) mà chúng tôi tạm thời gọi theo. Chứng cứ cho âm đã nói của chữ đang xét là:

– bình an cũng nói thành bằng an.

– bằng trong đồng bằng chính là âm Hán Việt Việt hoá của bình trong bình nguyên.

– bình chân như vại cũng nói thành bằng chân như vại; v.v..

2. Bông, mà một số tác giả cho là bắt nguồn từ tiếng Mã Lai bunga (đọc là “bu-nga”). Đây là một ý kiến hoàn toàn không có cơ sở mà chúng tôi đã phản bác trên Kiến thức ngày nay, số 276, ngày 1-4-1998. Ở đây chỉ xin nhắc lại và nói rõ thêm về gốc Hán của từ này. Bông bắt nguồn ở một từ Hán ghi bằng chữ *, mà âm Hán Việt hiện đại là phong, có nghĩa là mầm, chồi, nụ. Đây là cái nghĩa mà Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur giảng là “germe, bourgeon”. Về mặt ngữ nghĩa thì mối quan hệ giữa bông và phong đã quá rõ ràng. Còn về ngữ âm, trước nhất là về vần thì mối tương ứng ông ~ ong thực chất là biểu hiện của mối kỳ duyên giữa ba nguyên âm -u-, -ô-, -o- trong lĩnh vực Hán Việt (mà chúng tôi mạn phép cho qua). Chỉ xin nhấn mạnh rằng, nếu kể cả vần, thì bông ~ phong * cũng y hệt như rồng ~ long 龍, là một mối tương ứng hiển nhiên đã được công nhận hoặc mặc nhận từ lâu. Về tương ứng phụ âm đầu b- ~ ph-, ta cũng có hàng loạt dẫn chứng, mà Vương Lực đã nêu lên một số trong luận văn “Hán Việt ngữ nghiên cứu”*. Ở đây, xin nêu thêm một số dẫn chứng khác:

– bổ (trong ngả bổ chửng) ~ phó 仆 (ngã).

– bụ (trong bụ bẫm) ~ phụ 阜 (to, béo).

– bù (trong bù đắp) ~ phụ 附 (thêm vào).

– bua (trong bua việc, bua quan) ~ phu 夫 (trong phu dịch).

– bụng (trong bụng dạ) ~ phụng (ngực); v.v..

Với những dẫn chứng về ngữ âm và ngữ nghĩa trên đây, ta thấy rằng bông ~ phong * là chuyện hoàn toàn bình thường.

3. Đầm là âm Hán Việt Việt hoá của đàm 潭, có nghĩa là…đầm, ao.

4. Đẹp là một từ bắt nguồn ở từ Hán ghi bằng chữ 偞, mà âm Hán Việt là diệp, có nghĩa là…đẹp. Về vần thì đẹp ~ diệp cũng như hẹp (trong eo hẹp) ~ hiệp 狭, có nghĩa là chật hẹp; đặc biệt, cũng y hệt như dẹp (trong dẹp lép) ~ diệp 偞, mà Thuyết văn giải tự giảng là “bạc dã: nghĩa là “mỏng vậy”. Còn về phụ âm đầu thì chữ diệp 枼, thanh phù của chữ diệp 偞 đang xét, cũng còn dùng để hài thanh cho rất nhiều chữ điệp khác nhau: 喋, 堞, 楪, 惵,v.v.. Vậy đẹp ~ diệp 偞 là chuyện hoàn toàn bình thường.

5. Gần là âm xưa (hoặc âm Hán Việt Việt hoá) của chữ cận 近, có nghĩa là…gần. Về phụ âm đầu (g- ~ c- (k-)) thì ta có hàng loạt thí dụ:

– gác ~ các 閣 (= lầu).

– gan (trong tim gan) ~ can 肝.

– gắng (trong cố gắng) ~ cắng 亙, là hết, suốt (gắng sức là “làm cho hết sức của mình”).

– gấm (trong gấm vóc) ~ cẩm 锦 (= gấm).

– gân (trong gân cốt) ~ cân 筋 (= gân); v.v..

6. Hôi là bình thanh của hối 餯, cũng đọc huế, có nghĩa là hư, thiu, cơm thiu.

7. Mùi là âm xưa của vị 味, có nghĩa là… mùi. Về phụ âm đầu thì mùi ~ vị 味 cũng giống như:

– màng (trong màng lưới)/mạng (trong mạng nhện) ~ võng 網 (= lưới).

– mong (trong mong muốn) ~ vọng 望 (= mong).

– muộn (trong muộn màng) ~ vãn 晩 (= muộn).

Nhưng, dẫn chứng tiêu biểu nhất là chính chi thứ tám trong thập nhị địa chi, mà âm nay là vị, chữ viết là 未, thì âm xưa cũng là mùi.

Còn về vần (-ui ~ -i) chỉ xin nêu một thí dụ điển hình: chữ phi 非 là thanh phù của chữ bùi 裴 (họ Bùi); điều này đủ để xác nhận mối tương ứng -ui ~ -i.

8. Nhị là biến thể ngữ âm của nhuỵ, một từ Hán Việt chánh tông mà Hán tự là 蕊.

9. Sen là một từ gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 蓮, mà âm Hán Việt hiện đại là liên, có nghĩa là…sen.

Về vần thì mối quan hệ -en ~ -iên không khó chứng minh. Còn về phụ âm đầu thì sen ~ liên cũng giống như:

– sáp (trong sáp ong) ~ lạp 蠟 (= sáp).

– sức (trong sức mạnh) ~ lực 力 (= sức); v.v..

Mối quan hệ này cũng đã được Nguyễn Tài Cẩn đề cập đến trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếngViệt (Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 108 – 114).

10. Tanh là một từ bắt nguồn ở từ Hán ghi bằng chữ 腥 mà âm Hán Việt hiện đại là tinh, như một số người vẫn đọc, và có nghĩa là…tanh, hôi. Nhưng tanh mới là âm chính thống của nó vì đây lại là một chữ thuộc vận bộ thanh 青.

11. Trong rõ ràng là một biến thể ngữ âm của trung 中, dĩ nhiên có nghĩa là…trong. Về mối tương ứng -ong ~ -ung, ta có nhiều thí dụ: (hình) dung ~ (hình) dong, thong dong ~ thung dung; (tuỳ) tòng ~ (tuỳ) tùng, tòng (bách) ~ tùng (bách); v.v..

12. Vàng là âm xưa (có người xem là âm Hán Việt Việt hoá) của hoàng 黄, có nghĩa là…vàng. Về mối tương ứng phụ âm đầu v- ~ h (w), ta có hàng loạt dẫn chứng:

– và (liên từ) ~ hoà 和.

– vạ (trong tai vạ) ~ hoạ 禍.

– vạch (trong vẽ vạch) ~ hoạch 劃 (= vạch); v.v..

13. Xanh là âm Hán Việt Việt hoá của thanh 青, có nghĩa là xanh.

Thế là trong 21 từ của bài ca dao đang xét, có đến hơn một nửa (13) là những từ Việt gốc Hán, như chúng tôi đã nêu và chứng minh. Đến như “từ thuần Việt” thì đây là một khái niệm rất mông lung mà một số nhà ngữ học thừa thãi tinh thần dân tộc đã đặt ra.

Đây thực ra chỉ là một cách gọi danh không chính, ngôn không thuận mà chúng tôi cũng đã có lần phê phán trên Chuyện Đông chuyện Tây: phàm những từ mà người ta mù tịt về từ nguyên thì đều là “từ thuần Việt”. Thực ra, trong ý thức của những người chưa hề biết đến một từ nào của tiếng nước ngoài thì những từ như: bơ, kem (cả kem để ăn lẫn kem để (thoa), ga (cả ga để đốt lẫn ga tàu hoả), v.v. đều là “thuần Việt”. Vậy ta có nên đặt ra cái khái niệm “từ thuần Việt” cho rắc rối hay không?

§ 1233. Kiến thức ngày nay, số 612

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết vóc trong Ăn vóc học hay nghĩa là gì. Và nghĩa của cả câu là gì?

AN CHI: Về từ vóc và nghĩa của cả câu Ăn vóc học hay, chúng tôi đã trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 194, ngày 10-12-1995. Trên số đó, chúng tôi đã nhận xét và phân tích khá kỹ ý kiến của Phan Ngọc trước khi đưa ra cách giải thích riêng của mình. Vì số 194 phát hành cách đây ngót 8 năm, e khó tìm nên chúng tôi xin nhắc lại ý kiến của mình để ông và bạn đọc tham khảo (còn phần nhận xét về ý kiến của Phan Ngọc thì xin ông và bạn đọc vui lòng tìm đọc ở số Kiến thức ngày nay đã nói, nếu cần). Chúng tôi đã viết như sau:

“Chúng tôi cho rằng vóc là tính từ và đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một nguyên từ ghi bằng chữ 郁 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là úc nhưng âm chính thống lại là vúc vì thiết âm của nó là “vu cúc thiết”. Úc (vúc) là thơm, ngon; úc (vúc) liệt là thơm nức (xem thêm các từ ghép uất úc, úc phức, phân úc, v.v. trong từ điển); vậy vóc có nghĩa là thơm, ngon. Còn về mặt tương ứng âm vị thì úc (vúc) ~ vóc là hoàn toàn bình thường vì uc ~ oc còn được tìm thấy qua nhiều cặp khác nữa, chẳng hạn: – (uẩn) khúc ~ (hiểm) hóc; – (Nhân) Mục (địa danh) ~ (làng) Mọc; – (cực) nhục ~ (cực) nhọc; – túc 粟 (hạt lúa) ~ thóc (gạo); – trục 躅 (không dứt đi được) ~ (trằn) trọc, v.v..

Tóm lại, vóc có nghĩa là thơm, ngon và “ăn vóc học hay” chỉ đơn giản có nghĩa là ăn ngon học giỏi. Cấu trúc cú pháp của thành ngữ này giống hệt của các thành ngữ: ăn ngon mặc đẹp, ăn ngon ngủ yên, ăn không ngồi rồi, ăn gian nói dối, ăn thật làm dối, v.v.. Nghĩa là nó gồm hai từ tổ động từ sóng đôi mà mỗi từ tổ gồm một động từ và một tính từ làm trạng ngữ cho nó”.

Ý kiến của chúng tôi là như thế. Nhưng mới đây, trao đổi riêng trong một cuộc gặp mặt, một cán bộ giảng dạy ngữ văn kiêm tác giả sách ngữ pháp đã bác bỏ ý kiến đó. Vị này cho rằng trong câu thành ngữ đang xét – mà vị ấy cho là tục ngữ – thì cả vóc lẫn hay đều là danh từ. Vóc là thân hình, ở đây là thân hình khoẻ mạnh, còn hay là cái hay, điều hay. Cả câu có nghĩa là ăn thì được thân hình khoẻ mạnh, học thì được cái hay, cái bổ ích. Tuy không trả lời trực diện nhưng ngay lúc đó, chúng tôi đã thấy rằng đây là một cách giải thích thực sự không ổn. Nhân câu hỏi của ông, nay chúng tôi xin phân tích như sau:

Một là về nội dung thì đó là một cách hiểu không phù hợp với lẽ thường. Tục ngữ phải đúng với thực tế nếu nó nói về chuyện đời (xã hội) hoặc chuyện trời (thiên nhiên) và phải hợp lý nếu nó đưa ra những lời khuyên. Nếu là một câu tục ngữ có nội dung như vị kia đã nêu thì vế đầu của câu ăn vóc học hay lại không đúng với thực tế. “Người ta ăn để sống (chứ không sống để ăn)” là một câu nói đúng chứ “ăn thì được thân hình khoẻ mạnh” là một lối suy diễn sai. Nguyễn Du có lý hơn nhiều khi tả Tú bà:

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!

Vâng, vấn đề là phải “ăn gì” và cả “ăn như thế nào” nữa thì mới có thể có được một thân hình khoẻ mạnh. Ăn như gia đình chị Dậu của Ngô Tất Tố thì e là khó có được thân hình như thế. Ăn toàn cơm độn với những ngô những khoai thì chỉ đủ sức đi cày thuê cấy mướn cũng đã là tốt lắm rồi! Câu thành ngữ đang xét này đã ra đời cách chúng ta cũng nhiều trăm năm. Lúc đó nước ta chủ yếu chỉ là Đàng Ngoài, là nơi đất (trồng trọt) hẹp người đông. Cho đến giữa thế kỷ XX, ai có đi “ba cùng” với nông dân ở miền Bắc cũng có thể biết được người ta đã sống khổ cực như thế nào. Vậy thì trước kia, làm sao dân gian lại có thể tếu táo mà nói rằng “ăn thì được thân hình khoẻ mạnh”? Nhưng cứ cho là dân chúng lúc bấy giờ cũng xơi toàn cao lương mỹ vị như các nhà cao sang quyền quý thì ta cũng tuyệt nhiên không thể nói rằng “ăn thì được thân hình khoẻ mạnh” vì vấn đề không phải ở chỗ “ăn”, mà là “ăn gì” và “ăn như thế nào”. “Ăn” chẳng đã góp phần tạo ra bệnh béo phì đó sao? Đó là điểm bất ổn thứ nhất.

Điểm bất ổn thứ hai là việc gán từ loại danh từ cho từ hay. Đây thực ra trước sau vẫn cứ là một tính từ và, với tính cách là một tính từ, nó cũng sẽ không bao giờ có thể trở thành danh từ được cả. Nó chỉ có thể đi chung với danh từ đơn vị cái và đứng sau danh từ này để tạo thành ngữ danh từ cái hay mà cái là trung tâm còn nó thì làm định ngữ cho cái. Cũng vậy, với những tính từ cùng một phạm trù ngữ nghĩa với nó: cái tốt, cái đúng, cái xấu, cái dở, cái sai, v.v.. Từ xưa, dân gian cũng đã nắm vững quy tắc này rồi. Vì vậy nên họ mới tạo ra danh ngữ cái đẹp trong câu Cái nết đánh chết cái đẹp. Trong danh ngữ này, đẹp vẫn cứ là tính từ, chỉ có cái mới là danh từ đứng làm trung tâm của danh ngữ cái đẹp mà thôi. Tóm lại, nếu “đi một mình” thì hay tuyệt đối không thể “chuyển đổi từ loại” thành danh từ. Đó là điểm bất ổn thứ hai.

Điểm bất ổn thứ ba là vóc và hay dứt khoát không thể đơn độc làm thành phần Thuyết trong các cấu trúc Đề – Thuyết ăn vóc và học hay, nếu đó là những danh từ (?). Nếu muốn diễn đạt cái ý “ăn thì được thân hình khoẻ mạnh”, không ai lại nói ăn vóc, cũng như nếu muốn diễn đạt cái ý “học thì được cái hay”, không ai lại nói học hay, cho dù đó có là người xưa đi nữa, và cho dù đó có là thành ngữ, tục ngữ hay là bất cứ thứ …ngữ gì đi nữa, vì đó dứt khoát không phải là tiếng Việt. Danh từ không thể đơn độc làm phần Thuyết trong cấu trúc Đề – Thuyết của tiếng Việt, trừ những trường hợp hoàn toàn ít ỏi làm thành lệ ngoại, chẳng hạn khẩu Phật, tâm xà trong đó Phật và xà là những phần Thuyết dùng để xác định hoặc mô tả bản chất của phần Đề. Ta không thể chấp nhận hiện tượng danh từ đơn độc làm phần Thuyết một cách vô nguyên tắc. Nếu vóc và hay có là danh từ, và nếu cần sử dụng hai danh từ (?) này để diễn đạt hai cái ý mà vị kia đã nêu thì ngay từ xưa dân gian đã phải nói:

Ăn (thì) được vóc, học (thì) được hay

chứ không phải ăn vóc, học hay một cách cộc lốc. Đó là điểm bất ổn thứ ba.

Lại có ý kiến cho rằng ở đây vóc là danh từ chuyển loại thành tính từ và tính từ này có nghĩa là khoẻ mạnh, to lớn. Vậy ăn vóc có nghĩa là ăn thì sẽ được to lớn, khoẻ mạnh. Nhưng một là ta chưa có tiền lệ nào về hiện tượng danh từ vóc trở thành tính từ và hai là, như đã nói, vấn đề không chỉ là “ăn”, mà là “ăn gì” và “ăn như thế nào”. Cũng thời là ăn nhưng ăn như gia đình chị Dậu thì e là sẽ dễ gầy yếu còn ăn như nhiều người khoái ăn ở các nước phát triển thì tránh sao cho khỏi béo phì! Vấn đề rõ ràng không phải chỉ là “ăn” và ta cũng không nên nghĩ rằng dân gian ngày xưa không phân biệt được vị từ ăn với ngữ vị từ ăn gì. Vậy có lẽ ta cũng không nhất thiết phải xem ăn vóc và học hay là những cấu trúc Đề – Thuyết, không nhất thiết phải xem ăn vóc học hay là một câu tục ngữ. Lý do: thành ngữ vẫn có thể có hình thức giống với tục ngữ đồng thời vẫn có thể có những cấu trúc mà nếu xem là tục ngữ thì đúng nhưng nếu xem là thành ngữ thì có khi cũng chẳng sai. Đây cũng chính là ý kiến của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng (Nxb. Giáo dục, 2004, tr. 229, thí dụ 128).

Trở lại với ý kiến riêng, chúng tôi xin nhắc lại rằng vóc là âm xưa của chữ 郁, nay đọc úc, có nghĩa là thơm, ngon, đẹp, tốt…Vậy ăn vóc có nghĩa là ăn ngon và thành ngữ ăn vóc học hay có nghĩa là ăn ngon, học giỏi. Cấu trúc của nó cũng giống hệt cấu trúc của ăn ngon mặc đẹp, ăn ngon ngủ yên, ăn thật làm dối, v.v.. Một cách hiểu như thế thật sự không có gì bất thường. Có thể sẽ có ý kiến cho rằng ta chưa có tiền lệ nào trong đó vóc lại có ý nghĩa là thơm, ngon, đẹp, tốt. Nhưng ta cũng đã bao giờ có tiền lệ về trường hợp danh từ vóc trở thành tính từ? Vả lại, nếu cứ nói như thế thì ta còn biết ứng dụng kết quả của từ nguyên học vào đâu?

§ 1234. Kiến thức ngày nay, số 612

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn chữ Hán, phần phiên âm Hán Việt bài aThu tịch lữ hoài” của Lý Bạch và bản dịch của Tản Đà.

AN CHI: Dưới đây là các phần của bài thơ mà ông hỏi, chép từ Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn (Nxb. Văn học, 2003, tr. 50 – 52).

Thu tịch lữ hoài

Lương phong độ thu hải

Xuy ngã hương tứ phi.

Liên sơn khứ vô tế,

Lưu thuỷ hà thời qui

Mục cực phù vân sắc,

Tâm đoạn minh nguyệt huy.

Phương thảo yết nhu diệm,

Bạch lộ thôi hàn y.

Mộng trường Ngân hán lạc,

Giác bãi thiên tinh hy.

Hàm bi tưởng cựu quốc,

Khấp hạ thuỳ năng huy.

Tối mùa thu nhớ nhà

Lạnh lùng gió vượt bể thu,

Hồn quê theo gió như vù vù bay.

Chạy dài dãy núi liền mây,

Nước trôi trôi mãi, có ngày về chăng?

Đám mây vút mắt xa chừng,

Đứt tươm khúc ruột dưới vừng trăng soi.

Từ xưa bao kẻ chinh phu,

Đã ra đất chiến, về ru mấy người?

Buồn trông cảnh sắc bên trời,

Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.

Lầu cao, đêm vắng, ai mà,

Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.

Tản Đà dịch

§ 1235. Kiến thức ngày nay, số 615

ĐỘC GIẢ: Tại bài “Italy: Phát hiện âm mưu tuồn vũ khí vào Iraq” của một tờ báo ra ngày 14-8-2007, tôi thấy có một bức ảnh với lời chú thích như sau:

“Mua bán vũ khí dễ như mua rau ở Baghdad”.

Xin ông An Chi cho nhận xét về lời chú thích này.

AN CHI: Nếu phân tích theo cấu trúc Đề – Thuyết thì phần Đề của câu trên đây là “mua bán vũ khí” còn phần Thuyết của nó là “dễ như mua rau ở Baghdad”. Với cấu trúc này thì việc mua bán vũ khí không bị giới hạn về không gian còn việc mua rau thì bị giới hạn ở Baghdad. Vậy, với lời chú thích trên đây thì Baghdad có một đặc điểm nổi tiếng là tại đó người ta mua rau rất dễ dàng còn việc mua bán vũ khí thì mặc nhiên được hiểu là có thể tiến hành ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Nhưng điều này dĩ nhiên là không đúng với cái ý mà tác giả bài báo muốn diễn đạt. Cái ý mà tác giả này muốn diễn đạt là:

“Ở Baghdad, mua bán vũ khí dễ như mua rau”.

Với câu này thì “ở Baghdad” mới là trạng ngữ chỉ nơi chốn của “mua bán (vũ khí)” còn với câu của tác giả kia thì đó lại là trạng ngữ chỉ nơi chốn của “mua (rau)”.

Rõ ràng lời chú thích mà ông đã nêu là một cấu trúc cú pháp không chặt chẽ và rành mạch. Chẳng riêng gì trong làng văn làng báo ở ta mới có chuyện này mà ở Tây vẫn có, nhất là trong hoàn cảnh thông tin bùng nổ và báo điện tử đua nhau cập nhật cập thời ồ ạt. Mới đây thôi, trên La Tribune.fr ngày 19-8-2007, mục “Economie/International”, ta có thể đọc thấy một hàng tít như sau:

“Après 2000 jours de captivité, le monde reste sans nouvelle d’Ingrid Bétancourt”.

(Sau 2000 ngày bị giam giữ, thế giới vẫn không có tin tức gì của Ingrid Bétancourt).

Ingrid Bétancourt là một phụ nữ mang hai dòng máu Pháp và Colombia – là ứng cử viên tổng thống Colombia hồi 2002 -đã bị tổ chức FARC (Lực lượng vũ trang cách mạng Colombia) bắt cóc ngày 23-2-2002 trong khi đi vận động tranh cử. Mới đây Tổng thống Hugo Chavez (Venezuela) đã bày tỏ ý định đứng làm trung gian trong việc thương lượng với FARC để tổ chức này trả tự do cho các con tin. Trong động thái đó, một đoàn thân nhân của các con tin đã đến Caracas và được Tổng thống Chavez tiếp kiến tại Dinh Miraflores ngày 20-8-2007.

Trong số đó, có mẹ của Ingrid Bétancourt là bà Yolanda Pulecio. Chúng tôi có ý nói thêm một chút như thế về thời sự để nhấn mạnh rằng người bị bắt làm con tin và bị giam giữ chính là Ingrid Bétancourt chứ không phải là ai khác. Vì vậy nên “Après 2000 jours de captivité, le monde reste sans nouvelle d’Ingrid Bétancourt” là một câu rất vô duyên. Với cấu trúc đang thấy của nó thì ở trong cảnh huống “captivité” (cảnh bị giam giữ) là “le monde”, nghĩa là “thế giới”, chứ không phải Ingrid Bétancourt. Đây hiển nhiên là chuyện trái khoáy. Vậy, nếu muốn cho thế giới thoát khỏi cảnh bị giam giữ thì ta phải thêm cho danh từ captivité một định ngữ (complément déterminatif) mà nói rõ ra là “la cap tivité d’Ingrid Bétancourt” (tình trạng bị giam giữ của Ingrid Bétancourt). Và cả câu phải đổi thành:

“2000 jours après la captivité d’ Ingrid Bétancourt, le monde reste sans nouvelle d’ elle”.

Nghĩa là:

“2000 ngày sau khi Ingrid Bétancourt bị bắt giữ, thế giới vẫn không có tin gì về cô”.

Trong quá trình lên mạng, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn bắt gặp những cấu trúc không chặt chẽ và không rành mạch như thế. Vậy đây không phải là chuyện chỉ có ở ta; chỉ tiếc rằng ở ta thì…nhiều hơn!

§ 1236. Kiến thức ngày nay, số 615

ĐỘC GIẢ: Marc Vivien Foé, trung vệ đội tuyển quốc gia Cameroon đã đột quỵ trong trận bán kết với Tuyển Colombia hồi Cúp các Liên Đoàn (Confederation Cup) năm 2003 tại Pháp, trên sân Gerland (Lyon). Rồi 30 phút sau, cầu thủ này tắt thở. Có nhiều giả thuyết về bệnh lý, trong đó có bệnh tim, bệnh tiêu chảy, bệnh dạ dày, v.v.. Nhưng kết luận chính thức là không có chứng bệnh nào đã giết chết Foé theo kiểu đó cả và vụ việc hình như đã chìm xuồng. Nhưng nghe nói mới đây ông Evo Morales, tổng thống Bolivia đã có lời tuyên bố như thế nào đó về cái chết của Foé, không biết có đúng không? Vậy tại sao Foé chết? Xin hỏi thêm: Có phải cầu thủ này có một cô vợ xinh đẹp người Tiệp Khắc và là người mẫu hay không?

AN CHI: Chúng tôi đã tìm hiểu thì thấy đúng như ông nói, không có căn bệnh nào giết chết Marc Vivien Foé cả. Trong trận bán kết với Colombia, ở phút 60 huấn luyện viên của Cameroon là Schafer đã nhận thấy Marco (tên thân mật của M.V. Foé) có dấu hiệu uể oải và định thay anh nhưng Marco lại muốn cống hiến tất cả sức lực của mình cho đội tuyển. Nhưng đến phút 73 thì Marco ngã quỵ xuống mặt cỏ, mắt trợn tròng. Một cầu thủ Colombia vội vàng chạy đến, rồi sau đó mấy cầu thủ Colombia hoảng hốt ra hiệu về phía khán đài. Marco được cáng ra khỏi sân. Sau 30 phút thực hiện phương pháp hồi sức, Foé đã tắt thở.

Từ đó đến nay, bốn năm đã trôi qua. Tháng 6 vừa qua, trùng với dịp giỗ lần thứ tư của Foé, Tổng thống Evo Morales của Bolivia đã thẳng thắn và dũng cảm quy trách nhiệm cho FIFA về cái chết của Marc Vivien Foé. Sau đây là lời lược thuật của Celestin Ngoa Balla từ New York, trên allAfrica.com, đưa lên mạng ngày 6-8-2007, ngắn gọn và rành mạch:

“Với ông (Evo Morales - AC) thì trách nhiệm về thảm kịch đó phải được quy về cho FIFA, tổ chức đã có cái ý tưởng tệ hại là bày đặt ra Cúp các Liên đoàn và đưa nó lên lịch vào một giai đoạn nguy hiểm cho sức khoẻ của cầu thủ, mà cũng không đếm xỉa gì đến sự thất thường của thời tiết”.

Vợ của Marco, Marie-Louise Foé, không phải là người mẫu, cũng không phải dân Tiệp, nhưng dễ thương và đã sống với anh rất hạnh phúc. Họ có ba con.

Còn cầu thủ có vợ người Tiệp – chính xác là người Slovakia – thì lại là Christian Karembeu. Vợ của Karembeu là người mẫu Adriana Sklenarikova, có đôi chân dài 1,21m, nay lấy họ chồng thành Adriana Karembeu. Họ cũng sống với nhau rất hạnh phúc. Nàng nói: “Thời thơ ấu, tôi đã phải đau khổ vì không được yêu thương nên tình yêu của Christian làm cho tôi yên lòng. Chúng tôi rất thoải mái bên nhau, hầu như không tách rời nhau và tôi sợ phải phá vỡ sự cân bằng này”. Còn chàng thì: “Vì tình yêu đối với Adriana, tôi sẵn sàng không nghĩ đến việc có con. (Christian có một đứa con riêng trên 10 tuổi với một cô nhân tình trước). Nhưng nếu Adriana chấm dứt hoạt động người mẫu để làm mẹ thì tôi sẽ là người đàn ông hạnh phúc nhất trên thế giới”.

§ 1237. Kiến thức ngày nay, số 616

Trả lời ông Lê Vy

Bài “Ăn vóc học hay là thành ngữ hay tục ngữ?” của ông Lê Vy trên Kiến thức ngày nay, số 614 chẳng những không có sức thuyết phục mà còn chứa đựng nhiều điều sai lầm hoặc vô lý. Xin theo trình tự của bài đó mà trả lời ông như sau.

1. Chưa chi ông đã vội phủ đầu chúng tôi là “rơi vào cái nguy cơ triệt xoá những giá trị văn hoá truyền đời của dân tộc, đồng thời còn có thể kéo theo cả một số người rơi luôn vào cái bẫy đó”.

Chuyện đó quan trọng đến thế ư? Và cái nguy cơ đã sát sườn đến thế à? Chúng tôi có đem cả cái kho tàng thành ngữ, tục ngữ đi đổ xuống sông xuống biển đâu mà ông bảo là “triệt xoá những giá trị văn hoá truyền đời”? Chỉ có một câu thành ngữ “Ăn vóc học hay” mà đã ghê gớm đến thế sao? Mà đã chắc đâu chỉ có ông mới đúng còn chúng tôi thì sai? Ông lại còn bồi thêm là “e rằng những giá trị văn hoá dân gian đặc thù của chúng ta không những chỉ mai một dần mà còn hơn thế nữa, sẽ biến thành những giá trị âm!”. Ông thật khéo dùng những “câu xanh yờn”* để hù doạ những người yếu bóng vía chứ thực ra cả cái đoạn từ dòng đầu cho đến dòng 25↓, cột 1, trang 41 trong bài của ông chỉ là chuyện thùng rỗng kêu to.

2. Trong bài của mình, ông Lê Vy đã đặt vấn đề “Ăn vóc học hay là thành ngữ hay tục ngữ” nhưng chính ông thì lại chưa phân biệt cách hiểu thành ngữ với cách hiểu tục ngữ. Vì thế nên ông mới viết: “Nếu quả thật có cái thực tế “ăn ngon học giỏi” như ông nói, thì trên bảng hổ khoa cử ngày trước chỉ có toàn những Trịnh Hâm với Bùi Kiệm, chứ làm sao có được những bậc hiền tài xuất thân từ chốn ruộng nương, thôn dã thiếu đói quanh năm?”.

Ông Lê Vy thật khéo chê chứ cách hiểu của chúng tôi nào phải cách hiểu mà ông đã mỉa mai. Chúng tôi đâu có hiểu câu Ăn vóc học hay theo cái kiểu “hễ ăn ngon thì học giỏi”. Với chúng tôi, đây chỉ là một câu thành ngữ và trong câu thành ngữ này thì ăn vóc và học hay chỉ là hai ngữ động từ đẳng lập (nên tất nhiên không thể và không hề có quan hệ nhân quả gì với nhau). Trên Kiến thức ngày nay, số 612, chúng tôi đã khẳng định rõ ràng: “Cấu trúc của nó (của câu Ăn vóc học hay) cũng giống hệt cấu trúc của Ăn ngon mặc đẹp, Ăn ngon ngủ yên, Ăn thật làm dối, v.v.” (tr. 43). Đối với câu Ăn thật làm dối mà ta lại tếu táo hiểu theo cái mốt của ông Lê Vy là “hễ ăn thật thì làm dối” thì hẳn là cho đến ngày hôm nay, nhân loại vẫn hãy còn ăn lông ở lỗ chứ làm sao mà văn minh cho được? Vậy, nếu đã hiểu câu Ăn vóc học hay theo cách của An Chi là “ăn ngon, học giỏi” thì xin ông Lê Vy vui lòng xem “ăn ngon” và “học giỏi” chỉ là hai ý đẳng lập chứ đừng ép “học giỏi” phải làm cái quả của cái nhân “ăn ngon”. Và như vậy, thì việc Trần Minh khố chuối đỗ trạng cũng chẳng có trực tiếp dính dáng gì về nhân quả với cuộc sống “thôn dã thiếu đói quanh năm” của anh ta cả.

3. Đoạn thứ 3 trong bài của ông Lê Vy (nói về lời giảng của thầy giáo Khảng) đã góp phần khẳng định cái nghĩa “thơm, ngon” của từ vóc mà chúng tôi từng chứng minh. Nó chứng tỏ rằng đó là một cái nghĩa vrai chứ không faux (chữ mà ông Lê Vy đã dùng ở một đoạn sau), đã từng tồn tại trong lời ăn tiếng nói của dân gian. Từ ngày chúng tôi chính thức đưa cái nghĩa “thơm, ngon” của từ vóc lên mặt báo (Thông tin Khoa học & Công nghệ, Thừa Thiên - Huế, số 3-1996), tính đến nay đã 11 năm. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được biết rằng trước đó, cũng có người đã hiểu như thế, ít nhất cũng là thầy giáo Khảng, theo lời ông Lê Vy. Chúng tôi lại càng tâm đắc hơn nữa vì thấy cách nói của vị thầy giáo này rất gần với cách nói ở giai đoạn hiện nay:

“Vóc là một tiếng cổ, có nghĩa là thơm, là ngon, không phải là vóc trong vóc dáng hay vải vóc...”.

4. Đoạn thứ 5, cũng là đoạn dài nhất của toàn bài, chứng tỏ rằng ông Lê Vy đã “nhiều lời, ít ý”. Vì vậy nên chúng tôi chỉ xin nêu lại cái đoạn rõ ý nhất sau đây của ông để trao đổi với ông:

“Tục ngữ chứ có phải văn chương bác học đâu mà câu nệ ngữ âm ngữ pháp, mà lại là ngữ âm ngữ pháp kiểu Tây, kiểu Tàu?”.

Nói như ông Lê Vy thì, té ra chỉ văn chương bác học mới có “ngữ âm ngữ pháp” chứ tục ngữ thì không. Ông nhầm rồi đấy, thưa ông! Chính ngữ pháp của tục ngữ mới thuộc hàng “number one” đấy! Nếu không tin, xin ông cứ dành thời gian đọc ngữ pháp chức năng tiếng Việt trong mấy quyển sách của Cao Xuân Hạo thì rõ.

Ông lại còn vu cho chúng tôi là theo “ngữ pháp Tây ngữ pháp Tàu”. Tây ở chỗ nào, xin ông cứ chỉ ra. Tàu ở chỗ nào, xin ông cứ nêu lên. Chúng tôi e rằng nếu ông mà chỉ ra được những thứ đó, thì đó chỉ là những phổ niệm (universals) mà thôi. An Chi là người kiên quyết chống lại việc rập khuôn theo ngữ pháp Tây hoặc ngữ pháp Tàu đấy, thưa ông. Ông đã hiểu lầm rồi đấy. Ông cũng hiểu lầm cái câu sau đây của chúng tôi:

“Nếu cứ nói như thế thì ta còn biết ứng dụng kết quả của từ nguyên học vào đâu?”.

Ông cho đó là một sự “than van”. Không đâu, thưa ông, nếu có là tán thán thì cũng chỉ là tán thán tu từ mà thôi. Còn thực chất thì đó là một sự vặn vẹo chứ “than van” là “than van” thế nào?

5. Ông vu cho chúng tôi là theo “ngữ pháp Tây ngữ pháp Tàu” nhưng chính ông thì lại đưa tiếng Tây ra để nói chuyện không đâu vào đâu khi ông viết:

“Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến thắc mắc của một bạn học thời trung học: Tại sao Tây nó nói: “Dire le faux pour savoir le vrai” mà không nói “Dire la fausseté pour savoir la vérité”? Giáo sư dạy Pháp văn lớp Đệ Thất lúc đó (...) chỉ cười, bảo: Học lên chút nữa đi, rồi sẽ hiểu...”.

Xin thưa với ông rằng Tây nó không dùng động từ dire (ở đầu câu đang xét) như ông đã ghi. Nó chỉ nói:

“Plaider le faux pour savoir le vrai”.

Plaider (biện hộ) có khi được thay bằng prêcher (giảng, khuyên); savoir (biết) có khi được thay bằng connaître hoặc découvrir (phát hiện) chứ dire thì chưa bao giờ thay cho plaider cả, thưa ông. Plaider le faux pour savoir le vrai là (vờ) bênh vực cái sai để biết được cái đúng. Ông đã thay plaider bằng “dire” trong câu này; thế là sai đấy, thưa ông. Ông lại còn dịch dire le faux (nói cái sai) thành “nói bậy”; thế thì có sợ là... bậy thật hay không? “Nói bậy” khác với “nói cái sai” lắm chứ!

6. Cuối cùng, ông hạ một câu: “Một lời răn bảo, một đạo lý đầy tính nhân văn như vậy mà ông nỡ biến thành một thứ “thành ngữ” vô nghĩa vô duyên như vậy được sao?”.

Chúng tôi đã chứng minh một cách chặt chẽ rằng đó là một thành ngữ còn ông thì chỉ chạy quanh cái lập luận của chúng tôi như sư diễu đàn để nói lên cách hiểu của ông mà không hề có một lời nào trực tiếp bài bác những luận cứ cụ thể của người đối thoại. Thế mới thật là “vô nghĩa vô duyên”!

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3