Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1213 - 1227

§ 1213. Kiến thức ngày nay, số 603

ĐỘC GIẢ: Xin giới thiệu bài “Xuân nhật tuý khởi ngôn chí” của Lý Bạch và bản dịch của Tản Đà.

AN CHI: Sau đây là nguyên văn tiếng Hán (phiên âm):

Xuân nhật tuý khởi ngôn chí

Xử thế nhược đại mộng.

Hồ vi lao kỳ sinh?

Sở dĩ chung nhật tuý.

Đồi nhiên ngoạ tiền doanh.

Giác lai miện đình tiền.

Nhất điểu hoa gian minh.

Tá vấn thử hà nhật?

Xuân phong ngữ lưu oanh.

Cảm chi dục thán tức,

Đối tửu hoàn tự khuynh.

Hạo ca đãi minh nguyệt.

Khúc tận dĩ vong tình.

Ngày xuân say rượu dậy nói chí mình

Ở đời như giấc chiêm bao

Cái thân còn đó, lao đao làm gì?

Cho nên suốt buổi say lì

Nằm lăn trước cộ t, biết gì có ta.

Tỉnh thôi đưa mắt sân nhà.

Một con chim hót bên hoa ngọt ngào.

Hỏi xem: nay đó ngày nào?

Ngày xuân gió mát, vui chào tiếng oanh.

Ngậm ngùi cám cảnh sinh tình,

Nghiêng bầu, mình lại với mình làm vui.

Hát ran, chờ tấm trăng soi,

Thoạt xong câu hát thời rồi đã quên.

(Ngày Nay, số 91, 26-12-1937)

Dịch nghĩa:

Ngày xuân say rượu tỉnh dậy nói chí mình

Ở trên đời giống như ở trong giấc mộng lớn.

Làm chi cho vất vả thân mình.

Cho nên suốt ngày ta say sưa,

Nằm lăn quay ra ngủ trước hiên.

Lúc tỉnh dậy ngó ra phía trước sân,

Thấy một con chim hót trong khóm hoa.

Ướm hỏi người ta, hôm nay là ngày gì,

Mà con chim oanh bay chuyền học nói trong gió xuân?

Xúc cảm trước cảnh ấy, ta muốn thở than.

Đối cảnh ấy ta tự nghiêng bầu rượu.

Ta cất tiếng ca vang, đợi chờ trăng sáng.

Ca hát xong, ta quên cả mối tình buồn lúc trước*.

§ 1214. Kiến thức ngày nay, số 603

ĐỘC GIẢ: Xin giới thiệu bài “Viếng bạn” (Khóc bạn) của Tú Xương.

AN CHI: Sau đây là nguyên văn, chép theo Tú Xương – Tác phẩm, giai thoại (Hội Văn nghệ Nam Định, 1987).

Viếng bạn

Đêm qua trằn trọc không yên,

Vắng người cùng bạn bút nghiên sao đành!

Ngựa xe là thói tỉnh thành,

Nào người vui thú học hành là ai?

Nhớ khi thảo sách soạn bài,

Tựa trong khóm trúc, dạo ngoài hồ sen.

Ngậm ngùi dưới nguyệt trước đèn,

Ta vui ai biết, ta phiền ai hay?

Của trời như nước như mây,

Lũ ta như dại, như ngây, như khờ.

Đi đâu một bước một chờ,

Vắng nhau một khắc một giờ khôn khuây.

Tháng năm tết đến sau này,

Cùng ai lên núi hái cây xương bồ?

Há rằng thiếu níp không bồ

Tri âm đã vắng.

Bồng hồ cũng thôi

Qua năm hương hội đến rồi,

Cùng ai vượt bể đến nơi kinh kỳ?

Dẫu cho vui thú Phụng trì.

Khi vui mà vắng cố tri thêm sầu.

Bạn đàn chưa dễ tìm nhau,

Bạn nghiên, bạn bút có đâu được nhiều!

§ 1215. Kiến thức ngày nay, số 604

ĐỘC GIẢ: Một ông bạn có cho tôi hay rằng tên của siêu sao bóng đá Zinedine Zidane đã được đặt cho một vườn hoa ở bên Pháp, mà lại là “square” mới lạ. Tôi cứ ngỡ “square” là tiếng Anh. Vậy xin nhờ ông An Chi “rà” lại xem đây là chuyện thiết thật hay thất thiệt.

AN CHI: Chuyện đã diễn ra vào ngày 1-5-2007 và được nhiều phương tiện truyền thông của Pháp nói đến, chẳng hạn:

– Le Figaro.fr (1-5-2007): “Le petit village de Pégomas honore Zidane” (Ngôi làng Pégomas nhỏ bé vinh danh Zidane).

– Yahoo! Actualités France (1-5-2007): “Le plaque du square “Zinédine Zidane”, à Pégomas” (Tấm biển của công viên Zinedine Zidane ở Pégomas).

– Maville.com (Thứ hai, 7-5): “Yazid est revenu aux sources” (Yazid (tên đệm của Zidane – AC) đã về nguồn).

– Médias MCTL (Thứ bảy, 5-5): “Zinédine Zidane, un square à son nom” (Zinedine Zidane, một công viên mang tên anh) v.v. và v.v..

Chẳng là ngay từ buổi tối của trận bán kết cúp bóng đá Thế giới 2006 tại Đức vừa qua, vị xã trưởng của Pégomas đã ngẫm nghĩ đến chuyện vinh danh Zidane bằng cách này rồi. Nghĩa là, đối với ông, việc Zidane húc đầu vào ngực Materrazzi chẳng có ảnh hưởng gì đến hoà bình thế giới cả.

Thế là lễ đặt tên “Zinedine Zidane” cho công viên của ngôi làng Pégomas sáu ngàn dân đã được tiến hành ngày 1-5-2007 vừa qua, với sự có mặt của khoảng 3.000 người, đặc biệt là của ông bà Elineau, Jean-Claude và Nicole, những người đã cho anh ở nhờ khi anh đến thử việc tại Câu lạc bộ AS Cannes hồi 1987. Ông Gilbert Pibou, vị xã trưởng nói về Zidane: “Anh đã chinh phục công chúng chẳng những bằng tài nghệ, mà còn bằng cả sự tốt bụng và sự giản dị của mình nữa. Yazid, Pégomas là nhà của bạn”. Sau đó, Zidane ký tặng cho người hâm mộ.

Tấm biển ghi mấy dòng chữ: “Square Zinedine Zidane Inauguré le ler Mai 2007 en présence de Gilbert Pibou Maire de Pégomas et du Conseil Municipal” (Công viên Zinedine Zidane, khánh thành ngày 1 tháng 5 năm 2007 trước sự hiện diện của Gilbert Pibou, xã trưởng Pégomas và Hội đồng xã).

Ở đây, square là một danh từ tiếng Pháp, có nghĩa là công viên, thường có vòng rào. Đây là một từ mượn ở tiếng Anh square, có nghĩa là quảng trường. Nhưng chính danh từ này của tiếng Anh thì lại được mượn từ tiếng Pháp trung đại esquarre (nay là équerre), có nghĩa là… ê-ke, tức thước đo góc vuông. Từ đây mới ra những cái ý khác, dẫn đến cái nghĩa vừa nói, là “quảng trường”. Khởi sự là tiếng La Tinh quattor, có nghĩa là bốn; từ đó ta có quadrus, là vuông; rồi từ quadrus, ta lại có quadrare, là làm cho vuông; rồi với tiền tố ex- để làm cho tăng nghĩa, ta mới có *exquadrare, nghĩa là đẽo cho vuông.

Hình thái La Tinh này đã cho ra tiếng Pháp trung đại esquarrer (nay là équarrir), cùng nghĩa. Esquarre, với biến thể esquerre, nay là équerre (cái ê-ke), chẳng qua chỉ là một hình thái phân từ quá khứ của esquarrer mà thôi. Vậy xét theo từ nguyên thì trong square, ta vừa có ý “vuông”, vừa có ý “bốn”. Đây chính là những ý mà ta có thể thấy trong cái nghĩa “hình vuông” của danh từ square (là hình có bốn cạnh bằng nhau và có bốn góc vuông). Đây cũng chính là những ý mà ta có thể thấy trong cái nghĩa “quảng trường” của danh từ square (là nơi bốn (ngã tư) hoặc nhiều (ngã ba, ngã năm, v.v.) con đường giao nhau (vuông góc với nhau), thường dùng làm công viên). Có thấy được như thế thì ta mới khỏi ngạc nhiên vì có nơi tuy chẳng phải là quảng trường mà vẫn được gọi là “square”, chẳng hạn Times Square ở New York (City). Rất nhiều tác giả người Việt đã dịch Times Square thành “Quảng trường Thời đại”. Chẳng có quảng trường nào cả. Đây thực ra chỉ là một giao lộ nơi mà đại lộ Broadway, rồi đại lộ số 7, cắt ngang con đường (phía Tây) số 42 của khu Manhattan ở New York mà thôi.

§ 1216. Kiến thức ngày nay, số 605

ĐỘC GIẢ: Cách đây mấy tháng, đi dự đám cưới, tôi ngồi cạnh bàn của dân kiến trúc (tôi đoán thế, qua câu chuyện của họ) và nghe lỏm được rằng một kiến trúc sư người Brazil (tôi không nhớ tên) tuổi đã ngoài 90 mà mới lấy vợ 60 tuổi. Liệu chuyện này có thực hay không và nếu có thực thì ông già đó là ai mà “quái” đến thế? Ông ta có công trình kiến trúc nào đặc biệt không?

AN CHI: Ông già “quái” đó là kiến trúc sư người Brazil Oscar Niemeyer (Ảnh 1), đến ngày 15-12-2007 thì sẽ trọn… bách niên. Ông ta sinh ngày 15-12-1907 tại Rio de Janeiro. Oscar Niemeyer nổi tiếng khắp thế giới và có công trình ở nhiều nước như Mỹ, Pháp, Cuba, Đức, Ý, Algeria, v.v.. Oscar Niemeyer “khai” về thành phần dân tộc của mình như sau:

“Tên thật của tôi là Oscar Ribeiro de Almeida de Niemeyer Soares. Ribeiro và Soares là hai cái họ có nguồn gốc Bồ Đào Nha, Almeida là Á Rập còn Niemeyer thì là Đức. Ngoài ra, như mọi gia đình Brazil khác, tôi còn có một chút máu da đen và da đỏ. Chúng tôi là những người lai như thế và tôi hãnh diện về điều đó.

Oscar Niemeyer (Ảnh 1)

Năm 1928, ở tuổi 21, Niemeyer kết hôn với Anita Baldo, con gái của một gia đình người Ý di cư. Hai ông bà sống với nhau 76 năm cho đến tháng 10 năm 2004 thì bà Anita qua đời. Họ có một người con gái, năm cháu ngoại, mười ba chắt, năm chít. Tháng 11 năm 2006, ở tuổi 99, Oscar Niemeyer đã tái hôn với cô thư ký của mình là Vera Lucia Cabrera, 60 tuổi, ít hơn ông 39 tuổi. Hôn lễ cử hành một cách kín đáo, chỉ với sự hiện diện của hai người làm chứng và một vị quan toà.

Chỉ ngày hôm sau, gia đình hai bên mới biết tin. Các phương tiện thông tin địa phương cho biết con gái của Niemeyer là Ana Maria, một người buôn tranh nổi tiếng, đã phản đối cuộc hôn nhân này.

Nếu được phép dùng lối nói của khẩu ngữ bình dân ở trong Nam thì chúng tôi sẽ nói rằng Oscar Niemeyer là một “ông già gân”. Ông già gân này khẳng định rằng mình cảm thấy như đang ở tuổi 30 và làm… tình mỗi ngày. Ông ta đã nói như thế trong một cuộc phỏng vấn đăng trên tờ tuần báo Istoé. Trước khi tái hôn khoảng một tháng, Niemeyer đã bị ngã và bị nứt xương chậu nhưng xem ra đó chỉ là chuyện nhỏ. “Thiên nhiên đã ưu ái tôi. Tôi rất ít khi bị bệnh”, ông ta nói như thế với nhà báo.

Cái làm nên đặc trưng cho các công trình kiến trúc của Oscar Niemeyer là những đường cong và, như ông nói, ông dùng những đường cong này để tôn vinh thân hình của người phụ nữ Brazil. Bằng chứng mới nhất cho lời nói này của Niemeyer là hình dáng bên ngoài của Nhà hát Nhân dân ở Niteroi (Teatro Popular de Niterói), vừa khánh thành hôm 15-4-2007 (Ảnh 2). Niemeyer cho biết rằng Nhà hát Nhân dân gợi dáng một người phụ nữ Brazil đang nằm trên thảm cỏ. Bên trong nó có 300 chỗ ngồi còn sân khấu thì có thể quay ra phía ngoài cho mười ngàn khán giả. Đây là công trình mới nhất của Niemeyer. Còn trong những tác phẩm trước đây, ta cũng nên nhắc đến một số công trình toạ lạc tại Brasilia, thủ đô mới của Brazil (sau Rio de Janeiro), như Cung Alvorada (Palacio Alvorada), Nhà thờ lớn ở Brasilia, Toà nhà Quốc hội, Bảo tàng Oscar Niemeyer, Cung Planalto (Palacio do Planalto) v.v..

(Ảnh 2)

Thế là như đã nói, đến ngày 15-12-2007 thì Oscar Niemeyer sẽ tròn 100 tuổi. Nhưng con đường sáng tạo của ông thì còn dài. Chẳng hạn, ông đã nhận lời của Tổng thống Hugo Chavez (Venezuela) thực hiện đồ án cho một tượng đài cao 100m để tôn vinh và tưởng niệm Simon Bolivar, Nhà giải phóng của nhiều nước Mỹ La Tinh. Và còn Con đường Niemeyer, con đường thật, Caminho de Niemeyer khởi công từ 2001, dọc theo đó là các công trình văn hoá và tâm linh như: Catedral Batista (Nhà thờ phái Baptist), Fundação OscarNiemeyer (Quỹ Oscar Niemeyer), Centro de Memória (Trung tâm Tưởng niệm), Teatro Popular (Nhà hát Nhân dân, đã khánh thành), Catedral Católica (Nhà thờ Công giáo), Barcas-Estacionamento (Bến thuyền), Praça JK (Quảng trường JK (Juscelino Kubitschek)), Museu BR do Cinema (Bảo tàng Điện ảnh Brazil) và Museu de Arte Contemporânea (Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại, khánh thành từ 1995).

Nếu muốn bắt chước cách đặt tên quyển Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính thì chúng tôi sẽ gọi Oscar Niemeyer là một “Ba Tây dị nhân”. Đúng là một con người khác thường. Niemeyer là một đảng viên cộng sản. Nhưng chính ông lại nói rằng mình thông cảm với niềm tin của con người về thế giới bên kia. Ông là một kiến trúc sư lừng danh thế giới. Nhưng ông lại nói: “Cuộc đời chỉ là một thoáng mà thôi, nó quan trọng hơn kiến trúc. Cần phải biết rằng ta chỉ sống gởi, rằng cuộc đời đầy lạc thú mà cũng là bể khổ. Phải sống sao cho lương thiện”. Ông còn nói với một nữ phái viên đặc biệt của tờ L’Humanité: “Tôi xin nhắc lại rằng kiến trúc không phải là cái đáng kể hơn cả. Có lúc tôi nghĩ rằng cái anh thanh niên đi phản đối sự bất công của thế giới trên đường phố là đang làm một việc còn quan trọng hơn công việc của tôi. Và khi tôi nói với các nhà báo như thế thì họ đã trố mắt kinh ngạc”.

Đấy, cái “ông già quái” mà ông đã hỏi là một con người như thế.

§ 1217. Kiến thức ngày nay, số 606

ĐỘC GIẢ: Trong một số văn bản ngày xưa viết bằng chữ Hán, ở dòng (hàng dọc) ghi niên đại, ta thấy thỉnh thoảng có xen vào hai chữ “long phi”, mà tôi hiểu theo nghĩa đen là “rồng bay”. Xin cho biết trong văn cảnh chung đó, hai chữ “long phi” thực tế có nghĩa là gì.

AN CHI: Trong văn cảnh đó, long phi có nghĩa là “năm”. Long phi cũng từng được dịch thành “rồng dậy” như có thể thấy trong câu mở đầu Sứ trình tân truyện của Nguyễn Tông Quai:

Cảnh Hưng rồng dậy thứ ba

(Tháng thu ngày tám sứ Hoa khởi trình)

Cảnh Hưng rồng dậy thứ ba có nghĩa là “Năm Cảnh Hưng thứ ba”.

*Chúng tôi chép hai câu thơ trên đây từ bài “Nguyễn Tông Quai, đường đi sứ – đường thơ” của Bùi Duy Tân (Tạp chí Hán Nôm, số 2 (81)-2007, tr. 4).

§ 1218. Kiến thức ngày nay, số 606

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết người Trung Quốc gọi “hoa hậu” và “nam khôi” là gì? Có lẽ “hoa khôi” là “nửa kia” của “nam khôi” chăng? Ta có thể dùng “nam vương” để chỉ “nửa kia” của “hoa hậu” được không?

AN CHI: Trong tiếng Hán, hoa khôi có nghĩa là “(người) ca kỹ nổi tiếng”. Ở ta, trước đây người ta có dùng hai tiếng hoa khôi theo nghĩa “Miss (…)” nhưng có lẽ về sau đã thấy ra cái nghĩa gốc không mấy hay ho của nó nên đã thay bằng hoa hậu (nhưng hoa khôi vẫn còn tồn tại trong khẩu ngữ hoặc lối nói thân mật). Người Trung Quốc gọi hoa hậu là “tiểu thư” và nam khôi là “tiên sinh”. Miss World là “Thế giới Tiểu thư” còn Mr (Mister) World là “Thế giới Tiên sinh”. Hai yếu tố “hậu” và “vương” không phản ánh được cái nghĩa tế nhị và chính xác của Miss và Mr (Mister).

§ 1219. Kiến thức ngày nay, số 606

ĐỘC GIẢ: Qua loạt bài bàn về hai câu đối của cụ Vũ Phạm Hàm và một số bài nói đến niên biểu và ngữ nghĩa của Truyện Kiều trước đây giữa ông và một số vị khác, tôi nhận thấy chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây không còn là chuyện Đông chuyện Tây như ý nghĩa ban đầu của nó nữa, mà lần lượt trở thành một diễn đàn để ông phổ biến cái chủ quan của mình như để dạy người khác vậy! Rồi khi cái chủ quan lên đến đỉnh điểm và sai sót, gặp sự tranh luận của độc giả, ông xoay ra hơn thua một cách lố bịch và cuối cùng là thái độ hàm hồ quá đáng y chang của kẻ hợm mình. Đây cũng là ý kiến của một số đông độc giả từng yêu thương tờ tạp chí.

Cái hàm hồ mới nhất là trên Kiến thức ngày nay, số 597 (trả lời ông Đinh Cao Trác), ông nhân danh trình độ thưởng thức và kinh nghiệm sống của mình trong hai mươi năm ở miền Bắc, cũng như của một người bạn thân để chê bai, bắt bẻ nhà văn Tô Hoài qua tác phẩm Ba người khác.

Cùng một đề tài, Dương Thu Hương tự nhận mình không phải nhà văn, chỉ kể lại chuyện thật (vì bức xúc) trong Vĩ nhân tỉnh lẻ, Những thiên đường mù nhưng nổi tiếng mà không bị ai vạch lá tìm sâu, chê bai chỉ trích. Ngược lại, Tô Hoài, một nhà văn chuyên nghiệp, nổi tiếng từ hơn nửa thế kỷ trước, nay viết một quyển tiểu thuyết vừa kể chuyện thật xã hội, vừa hư cấu thì ông lại bới lông tìm vết để bắt bẻ, hậm hực và thẳng thừng “không mê”. Vậy trong ông có cái “mê” hay “không mê” nào khác nhau trong đời sống hay không?

Nếu tôi nhớ không lầm, trên một số báo nào đó, để nhắc ai đó, ông đã từng dẫn câu “Trí giả thiên luận tất hữu nhất thất”. Lẽ nào ông lại quên với mình sao, hay ông không nhận mình là trí thức nhưng lại ưa chỉ vẽ cho thiên hạ?! Riêng tôi thường nhớ câu “Đa ngôn đa quá”, thưa ông!

AN CHI: Chúng tôi rất hân hạnh nhận được những lời góp ý của ông. Xin công bố để toàn thể bạn đọc của Chuyện Đông chuyện Tây nhận định xem có thật là chúng tôi đã lố bịch và hợm mình, có thật là Chuyện Đông chuyện Tây đã “biến chất”, như ông (và “một số đông độc giả” (?)) đã khẳng định hay không. Cá nhân chúng tôi thì xin miễn trả lời. Cũng xin miễn bàn về chuyện Những thiên đường mù và Dương Thu Hương mà chỉ xin nói rõ thêm về Ba người khác và Tô Hoài là những chuyện trực tiếp liên quan đến ý kiến của chúng tôi trên Kiến thức ngày nay, số 597, mà ông đã chỉ trích.

Xin nói thẳng rằng chúng tôi chẳng bới lông tìm vết mà cũng không hề hậm hực với Tô Hoài. Chúng tôi chỉ nhận xét về cách dùng từ của nhà văn này với tư cách của một người đọc muốn được tận hưởng chân, thiện, mỹ trong khi thưởng thức văn học mà thôi. Còn Tô Hoài thì chẳng có đặc ân đặc quyền gì trước sự nhận xét của công chúng, dĩ nhiên là một sự nhận xét nghiêm túc, khách quan và “có kiến thức”. Vậy, tốt nhất là ông nên dùng kiến thức của mình để phản bác những trường hợp mà chúng tôi cho là Tô Hoài đã sai về chính tả hoặc từ ngữ thay vì chỉ nói chay để quy chụp cho chúng tôi là hậm hực và bới lông tìm vết.

Ông lại còn mạnh mẽ chỉ trích chúng tôi “thẳng thừng không mê” Ba người khác của Tô Hoài; rồi lại còn hỏi vặn xem chúng tôi “có cái mê hay không mê nào khác nhau trong đời sống hay không”. Mê hay không mê cái gì đó trong đời sống là chuyện riêng của cá nhân. Còn không mê Ba người khác của Tô Hoài là quyền của chúng tôi, không ai có thể áp đặt được. Một số nhà phê bình đã tung hô tác phẩm đó đến mức mà chúng tôi cho là quá đáng và điều này, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 597, có lẽ “xuất phát một phần là từ một niềm khao khát chính đáng: những chuyện và truyện về các đề tài cấm kỵ sẽ được công bố một cách dễ dàng”. Cửu hạn phùng cam vũ mà lại!

Nhưng cái chất cam của Ba người khác, theo chúng tôi, thì lại chẳng được ngọt gì cho lắm. Chẳng qua người ta đã lăng-xê nó một cách quá đáng trong khi mà chính người lăng-xê cũng chưa hiểu rõ và đúng về tác giả và/hoặc tác phẩm. Về cái nhan đề của nó, chẳng hạn, Phạm Xuân Nguyên nói trong cuộc toạ đàm:

– Ba người khác thì nhiều người nghĩ là ba người sau cải cách, ba anh đội trở lại đời thường, ý kiến của tôi là ba người khác nhập vào và sai khiến họ.

Nhưng chính Tô Hoài thì – khi được Phạm Xuân Nguyên hỏi: “Vì sao bác đổi tên truyện từ Chuyện ba người thành Ba người khác? – đã giải thích một cách thật thà và tự nhiên:

– Vì Chuyện ba người không được in, tôi chán nên đổi văng mạng, còn cứ đem phân tích thì vẽ vời ra thôi (Chúng tôi nhấn mạnh – AC).

Ấy thế nhưng người ta cứ thích vẽ vời, mặc dù, như đã nói, người ta chưa hiểu rõ và đúng về tác giả và/hoặc tác phẩm, đặc biệt là về cái chữ “tốt” của nó. Lại Nguyên Ân, chẳng hạn, đã nói như sau, khi trả lời phỏng vấn:

– Trong Chiều chiều, người đọc thấy nhà văn “của mình” đã đi làm một ông tổ trưởng dân phố và phải làm cả cái việc là kiểm tra hố xí thùng thì ở Ba người khác, cái “tôi” ấy đã về nông thôn trong vai đội phó đội cải cách, đã ăn trộm bánh đúc ngô và ngủ với “chuỗi, rễ” (quần chúng được chọn để phát động đấu tố địa chủ) ngoài ruộng. Cách chọn vị trí thể hiện, hoá thân vào một nhân vật xưng “tôi” nào đó, giúp nhà văn “trần tình” được nhiều hơn, và cảm giác tin cậy của người đọc khi đọc ông cũng ngày một nhiều hơn là vì thế.

(“Nhà văn Tô Hoài với Ba người khác”, Diễn đàn văn học trẻ, www.thotre.com).

Ở đây, Lại Nguyên Ân đã phạm một sai lầm thô thiển là đồng nhất hoá cái “tôi” trong Chiều chiều với cái “tôi” trong Ba người khác. Chiều chiều là hồi ký nên “tôi” ở đây là chính tác giả Tô Hoài còn Ba người khác là tiểu thuyết nên “tôi” ở đây thì chỉ là anh đội Bối mà thôi. Cho dù anh đội Bối có mang đến 90% cái cốt cách của Tô Hoài thì, về nguyên tắc, ta vẫn không có quyền đánh đồng anh ta với tác giả của Ba người khác. Không riêng gì Lại Nguyên Ân, Phạm Xuân Nguyên cũng mắc sai lầm tương tự. Chẳng thế mà nhà phê bình văn học này lại hỏi thẳng Tô Hoài:

– Còn chuyện quan hệ với rễ chuỗi thì sao?

Thế mà nhà văn của chúng ta cũng xác nhận một cách thật thà và tự nhiên:

– Có khi có, có khi không. Có khi ôm ấp rễ chuỗi nhưng nó bảo nó “có tháng”.

Hoá ra Ba người khác không phải là tiểu thuyết mà là tự truyện? Và Tô Hoài đã từng ăn cắp bánh đúc, từng làm tình với rễ chuỗi ở ngoài ruộng, v.v..? Câu hỏi này cần được các nhà phê bình hữu quan và chính tác giả giải đáp. Mong lắm thay! Nếu không thì Chuyện ba người – mà bây giờ là Ba người khác – sẽ còn là chuyện mơ màng (Đây là hai tiếng mà Tô Hoài sính dùng) dài dài. Tô Hoài đã “mơ màng” tự nhận trong cuộc toạ đàm:

– Tôi (…) bao giờ cũng viết bằng cái thực tế nhất định cộng với một chút mơ màng. Ba người khác cũng thế, tôi chỉ là anh Bối thôi. Anh Bối không biết gì nhưng anh Bối đi cải cách ba lần nên viết được.

Thế đấy, thưa ông Lê Xuân Thới (Quảng Ngãi)! Với Ba người khác và cuộc toạ đàm về tác phẩm này, ta mới biết rằng cái ranh giới giữa tự truyện và tiểu thuyết đôi khi làm cho người đọc phải “mơ màng”. Chính cái sự “mơ màng” này là một trong những lý do quan trọng khiến chúng tôi không thể mê Ba người khác của Tô Hoài vì, cứ theo lời của các vị đó thì chúng tôi cũng khó lòng biết được nó có phải đích thực là tiểu thuyết hay không.

§ 1220. Kiến thức ngày nay, số 607

ĐỘC GIẢ: Tên nước “Nga” được phiên âm ra chữ Hán là “Nga La Tư”. Tôi đoán “La Tư” là chữ Russ, vậy “Nga” là phiên âm từ chữ gì?

AN CHI: Ông đã nêu một câu hỏi rất thích đáng và thú vị. Nhiều tác giả đã giải thích một cách rất tự tin rằng cả ba âm tiết Nga La Tư đều là những tiếng dùng để phiên âm địa danh Russia của tiếng Anh. Các vị đó chẳng cần quan tâm xem nếu quả đúng như thế thì tiếng (âm tiết) “Nga” tương ứng với âm hoặc âm tiết nào của Russia. Đó là còn chưa kể rằng khi ba tiếng Nga La Tư ra đời trong tiếng và chữ Hán để chỉ quốc gia mà tiếng Anh gọi là Russ, rồi về sau là Russia, thì người Trung Quốc thậm chí còn chưa tiếp xúc với tiếng Anh. Quả đúng như thế thật vì danh xưng (Nga) La Tư xuất hiện trong thư tịch của Trung Hoa vào cuối đời Nguyên (1206 – 1368) đầu đời Minh (1368 – 1644), nghĩa là vào khoảng giữa thế kỷ XIV Lúc bấy giờ, người Trung Hoa gọi nước Nga là La Tư 羅斯 hoặc La Sát 羅刹. Âm Bắc Kinh (Quan thoại) của La Tư là luósì còn của La Sát là luóshà, phản ánh gần đúng danh xưng Ross(ia) của tiếng Nga mà người Trung Quốc biết được nhờ tiếp xúc với các bộ lạc sinh sống ở phía Tây của nước mình. Đến đời Thanh thì nhà cầm quyền xem ra lại thích phiên âm tên của nước Nga từ tiếng Mông Cổ, mà nhiều từ ngữ cũng đã từng được biết đến từ đời Nguyên. Một đặc điểm quan trọng của tiếng Mông Cổ là nó không có từ nào bắt đầu bằng l- hoặc r-; nói một cách khác, hai phụ âm l- và r- không thể đứng đầu âm tiết đầu tiên của từ trong thứ tiếng này. Vì vậy nên người Mông Cổ không thể chấp nhận cách phát âm “Rossia” (có r- khởi đầu). Họ đã xử lý bằng cách lặp lại nguyên âm chính của ros là “o” làm âm tiết đầu tiên cho hình thức phiên âm. Do đó mà Rossia của tiếng Nga đã trở thành Orossia trong tiếng Mông Cổ.

Ban đầu Orossia được phiên âm sang tiếng Trung Quốc thành Oát La Tư 斡羅斯 (âm Bắc Kinh là Wòluósì) hoặc Ngạc La Tư 鄂 羅斯 (âm Bắc Kinh là Èluósì). Về sau, khi biên soạn Đại Thanh nhất thống chí, người ta lại phiên Orossia thành Nga La Tư 俄羅斯 (âm Bắc Kinh là Éluósì), rồi hình thức này trở thành thông dụng cho đến tận ngày nay và Nga La Tư đã được nói tắt thành “Nga”.

Chữ nga 俄 không chỉ dùng để phiên âm “o” trong Orussia, mà còn dùng để phiên âm “o” trong nhiều địa danh hoặc nhân danh khác, chẳng hạn:

– Obadiah thành Nga Ba Để Á.

– Ohio thành Nga Hợi (Hãi) Nga.

– Oklahoma thành Nga Khắc Lạp Hà Mã.

– Ophir thành Nga Phỉ.

– Oregon thành Nga Lặc Cương.

– Ostrava thành Nga Tư Đặc Lạp Phát, v.v..

§ 1221. Kiến thức ngày nay, số 607

ĐỘC GIẢ: Các rạp vừa chiếu bộ phim Hàn Quốc “Sắc đẹp ngàn cân” mà theo lời giới thiệu thì tên gốc là “200 Pounds Beauty”. Xin cho biết tại sao 200 pounds lại thành ra tới “ngàn cân”?

AN CHI: Có lẽ vì dịch giả của ngành điện ảnh và một số nhà báo cho rằng 200 pounds chỉ mới là 9 yến, nghĩa là 90 cân, tức kí-lô (một pound bằng khoảng 450 gam), chưa đầy một tạ (100 kí) nên một sắc đẹp như thế cũng chưa đáng gọi là đẹp chăng? Có lẽ vì thế nên họ mới dùng đến “ngàn cân”, nghĩa là đến một “kí-lô kí-lô”, để diễn tả nó chăng?

Thật ra, dù có diễn đạt thành “sắc đẹp ngàn cân”, “sắc đẹp một tạ” hay “sắc đẹp hàng tấn”, v.v. thì đó cũng đều là những lối nói vô nghĩa. Lý do: giữa sắc đẹp và “ngàn cân”, “một tạ”, “hàng tấn”, v.v. không hề có sự tương hợp ngữ nghĩa. Nói toạc ra, chẳng làm gì có sắc đẹp mà lại cân bằng kí-lô. “Sức mạnh ngàn cân” thì còn tạm được, mà cũng chỉ là tạm được chứ “sắc đẹp ngàn cân” thì chỉ là một lối nói vô duyên. Điều tai hại là ở chỗ các vị không ngờ rằng beauty không chỉ có nghĩa là sắc đẹp, mà còn có nghĩa là người đẹp, là mỹ nhân nữa. 200 Pounds Beauty chẳng qua là “người đẹp (nặng) một tạ” (Chúng tôi làm tròn “9 yến” thành “một tạ” cho dễ nghe). Chẳng là ở trong phim, ta có hai người đẹp, một người thon thả mà hát tồi, hát dở còn người hát hay, hát giỏi thì lại nặng đến cỡ 200 pounds. Vì thế nên mỗi lần nàng thon thả ra trình diễn thì nàng “có da có thịt” đứng bên cánh gà để hát thay. Chuyện còn dài nhưng đại khái là như thế.

Cũng với cái nghĩa đã nói, ta còn có một tên phim khác có thể lấy làm thí dụ là Beauty and the Beast, mà tên tiếng Pháp là La Belle et la Bête. Beauty, la Belle, ở đây là Người đẹp, là Mỹ nhân, chứ không phải là “sắc đẹp”!

§ 1222. Kiến thức ngày nay, số 607

ĐỘC GIẢ: Trên mạng của báo Quốc tế điện tử, www.mofa. gov.vn/quocte, tác giả Nguyễn Năng Lượng (Hai Bà Trưng, Thái Bình) đã khẳng định rằng “Cáp Nhĩ Tân” là tên bằng tiếng Trung Quốc của Cape Town ở Nam Phi. Xin cho biết có đúng không?

AN CHI: Cáp Nhĩ Tân 哈爾濱 là một địa danh ở Trung Quốc mà người Anh gọi là Harbin, còn Cape Town thì người Trung Quốc phiên âm thành Khai Phổ Đôn 開普敦 đọc theo âm Bắc Kinh là Kàipǔdùn.

§ 1223. Kiến thức ngày nay, số 607

ĐỘC GIẢ: Xin giới thiệu bài “Quan san nguyệt” của Lý Bạch và bản dịch thơ của thi sĩ Tản Đà.

AN CHI: Sau đây là bài thơ và bản dịch mà ông yêu cầu, chép theo Thơ Đường do Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Nhà xuất bản Trẻ và Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh, ấn hành năm 1989, trang 57 – 58:

Quan san nguyệt

Minh Nguyệt xuất Thiên San

Thương mang vân hải gian

Trường phong kỷ vạn lý,

Xuy độ Ngọc Môn quan.

Hán hạ Bạch Đăng đạo,

Hồ khuy Thanh Hải loan.

Do lai chinh chiến địa,

Bất kiến hữu nhân hoàn.

Thú khách vọng biên sắc,

Tư quy đa khổ nhan.

Cao lâu đương thử dạ,

Thán tức vị ưng nhàn.

Trăng quan san

Vừng trăng ra núi Thiên San,

Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.

Gió đâu muôn dặm chạy dài,

Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.

Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,

Vụng kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.

Từ xưa bao kẻ chinh phu,

Đã ra đất chiến, về ru mấy người?

Buồn trông cảnh sắc bên trời,

Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.

Lầu cao, đêm vắng, ai mà,

Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.

§ 1224. Kiến thức ngày nay, số 607

ĐỘC GIẢ: Cách đây khá lâu, ông có nói rằng ren trong ren rua bắt nguồn từ tiếng Bồ Đào Nha. Còn ben thì do thứ tiếng nào mà ra hay là thuần Việt? Chị em chúng tôi khi đi may áo, người thì đòi “nhấn ben”, người thì không chịu “làm ben” (cứ để cho tự nhiên!) nhưng hầu như chẳng ai biết từ này do đâu mà ra.

AN CHI: Ben là do tiếng Pháp pince mà ra.

Từ điển Pháp – Việt do Lê Khả Kế làm tổng biên tập và do Agence de Coopération Culturelle et Technique của Pháp ấn hành năm 1981 đã dịch danh từ này là:

“6. đường [khâu] chiết (ở áo…, cho bớt rộng)”.

§ 1225. Kiến thức ngày nay, số 607

ĐỘC GIẢ: Có người giảng hai câu:

Nhẫn nhất thời phong bình lãng tĩnh.

Nhượng tam bộ hải khoát thiên cao.

Là:

Nhịn một khắc gió lặng sóng yên

Nhường ba bước biển rộng trời cao.

Nhưng có người lại cho rằng câu thứ hai sai ở chữ “cao” (chữ cuối cùng). Vậy để cho chính xác, hai câu đó phải đọc là:

Nhẫn nhất thời phong bình lãng tĩnh

Nhượng tam bộ hải khoát thiên không.

Và phải hiểu là:

Nhìn một lúc gió lặng sóng yên

Nhường ba bước biển rộng trời quang.

Xin cho biết cách hiểu nào đúng?

AN CHI: Trong trường hợp này thì chữ không mới đúng (tuy tiếng Hán cũng có thành ngữ hải khoát thiên cao). Nhưng ở đây ta không thể hiểu phong bình lãng tĩnh là “gió lặng sóng yên” và hải khoát thiên không là “biển rộng trời quang” vì đây chỉ mới là nghĩa đen của hai thành ngữ đang xét. Thực ra phong bình lãng tĩnh ở đây là bình yên vô sự còn hải khoát thiên không là phóng khoáng, không câu nệ. Hán Đại thành ngữ đại từ điển giảng thành ngữ trước là “bình an vô sự” còn thành ngữ sau là “hào phóng bất câu (nệ)”.

§ 1226. Kiến thức ngày nay, số 608

ĐỘC GIẢ: Gần đây tôi có hỏi ông An Chi về xuất xứ của đôi câu đối:

Chén tân khổ nhắp ngon mùi chánh khí

Ngọn quang minh hun mát tấm trung can.

và ông đã trả lời cho tôi ngắn gọn mà rành mạch trên Kiến thức ngày nay, số 601. Nhưng mới đây, trên Kiến thức ngày nay, số 607, trong bài “Về một câu trả lời” (nhận xét về câu trả lời của ông), tác giả Tôn Nữ Trầm Hương đã khẳng định rằng đó không phải là hai câu đối mà là hai phần vế của câu thứ 9 trong bài “Văn tế Phò mã chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ thượng thư Ngô Tòng Châu” của Đặng Đức Siêu. Xin thưa với ông An Chi và bà Tôn Nữ Trầm Hương rằng bài “Văn tế (…)” của Đặng Đức Siêu thì tôi có biết còn cái tôi không biết thì lại là xuất xứ của đôi câu đối đã nêu – Tôi nhấn mạnh là đôi câu đối – mà bà Tôn Nữ Trầm Hương không công nhận. Vậy xin vui lòng cho biết ý kiến của ông đối với ý kiến của bà Trầm Hương.

AN CHI: Có lẽ do bị bài “Văn tế” của Đặng Đức Siêu ám ảnh quá nặng nề nên tác giả Tôn Nữ Trầm Hương không thể “tưởng tượng” được rằng hai câu mà ông đã nêu để hỏi là một đôi câu đối hoàn chỉnh và đặc sắc do Phạm Quỳnh tận dụng lời lẽ trong bài “Văn tế (…)” của Đặng Đức Siêu để ghép thành mà không cần nhắc đến tên của tác giả gốc. Sở dĩ không nhắc tên của tác giả gốc là vì, cho đến lúc bấy giờ, “Văn tế Phò mã (…)” của Đặng Đức Siêu vẫn còn được quan niệm là một bài văn được nhiều người biết đến nên tất nhiên người ta sẽ biết rằng hai câu đó không phải là văn của Phạm Quỳnh. Nhưng cái công “tuyển trạch” thì chắc chắn thuộc về ông ta. Nếu không có Phạm Quỳnh đem chúng ra đặt cạnh nhau thì ta làm sao có được một đôi câu đối súc tích và ý nhị để nói về cái khí phách của Võ Tánh và Ngô Tòng Châu như:

Chén tân khổ nhắp ngon mùi chánh khí

Ngọn quang minh hun mát tấm trung can?

Đối với nhau chan chát ở từng chữ, từng ngữ, từng thành phần câu như thế mà bảo không phải câu đối thì rõ ràng là chẳng thực tế một chút nào! Nói rằng đây không phải là câu đối do Phạm Quỳnh làm thì nghe còn được; đến như nói rằng đây không phải là câu đối thì nghe khó lọt lỗ tai.

§ 1227. Kiến thức ngày nay, số 608

ĐỘC GIẢ: Tôi nghe nói có người đã tập Kiều để vịnh xe ô tô. Xin cho biết bài vịnh đó như thế nào?

AN CHI: Có văn bản chỉ có hai câu:

Thênh thang đường cái thanh vân

Một xe trong cõi hồng trần như bay*.

Lại có văn bản bốn câu:

Lạ gì một cốt một đồng

Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần

Thênh thang đường cái thanh vân

Một xe trong cõi hồng trần như bay*.

Có thể còn có văn bản khác nữa mà chúng tôi chưa biết đến; xin tạm chép như trên để ông và bạn đọc đọc cho vui.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3