Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1203 - 1212

§ 1203. Kiến thức ngày nay, số 598

ĐỘC GIẢ: Tôi nhớ ông có giải thích rành rọt rằng cây mai Tết ở trong Nam không phải là cây mai trong văn thơ xưa (chữ Hán). Nay mạn phép hỏi ông về tên của cây điệp ở trong Nam mà nghe nói có tác giả còn gán cho cái tên là kim phượng. Tại sao lại gọi là điệp? Rồi tại sao lại phải gọi là kim phượng? Tôi năm nay 89 tuổi, từ thuở cha sanh mẹ đẻ đến nay, chưa nghe tới cái tên “kim phượng” bao giờ. Tên khoa học của cây điệp là gì? Tên tiếng Hán, tiếng Anh và tiếng Pháp của nó như thế nào? Tôi chỉ biết có điệp vàng, điệp đỏ nhưng nghe nói hình như còn có cả điệp hường (hồng) nữa, không biết có đúng không?

AN CHI: Phân theo màu thì điệp có ba loại: đỏ, vàng và hồng. Loại đỏ thì cánh hoa có viền màu vàng; viền có khi chiếm gần hết bề mặt của cánh hoa. Khi hoa vừa bung ra hết cỡ, thì màu vàng rất tươi và đó là màu vàng cam. Màu này dần dần ngả thành đỏ rồi đến khi hoa héo thì ta sẽ có những cánh hoa toàn màu đỏ. Loại vàng thì chỉ toàn một màu vàng từ khi nở cho đến khi tàn. Còn loại hồng thì cánh hoa có viền màu trắng rồi màu trắng cũng ngả dần sang hồng và khi héo thì đó cũng sẽ là những cái bông toàn hồng. Chúng tôi cũng chưa thấy điệp hồng nhưng không có bằng chứng gì để khẳng định rằng ở Việt Nam chưa từng có loại điệp màu này.

Tên khoa học của điệp là Caesalpinia pulcherrima. Đây là một loại thuộc chi Caesalpinia, có tên bắt nguồn từ họ của nhà thực vật học người Ý thế kỷ XVI là Andrea Caesalpini (1524 (?) – 1609). Trong chi này thì điệp được xem là loài rất đẹp nên mới được gọi là Caesalpinia pulcherrima. Pulcher là đẹp, còn pulcherrima (rất đẹp) là giống cái của pulcherrimus, hình thái tối cao (superlativus) về nghĩa của pulcher. Tên (khoa học) cũ của nó là Poincinia pulcherrima và ngay trong chi Poicinia thì điệp cũng được xem là một loài rất đẹp (pulcherrima). Chính vì thế nên tại nhiều nước người ta mới trồng nó ở sân, ở vườn để làm cảnh.

Ở miền Nam nước ta trước kia cũng vậy. Cho đến thập kỷ 1950, tại vùng Sài Gòn – Gia Định, nhiều nhà cũng trồng điệp làm kiểng và nhân tiện người ta cũng cắt bông điệp để cúng vào những ngày rằm, ngày giỗ. Vì vậy nên mới có tác giả (khoa học) gọi đó là “điệp cúng” mặc dù dân gian chỉ cần dùng một tiếng “điệp” đã là đủ. Tiếc rằng hiện nay (2007), một số người ở các trại bông và một số người có biết sơ sơ về điệp đã bắt đầu gọi nó là “điệp đồng”, ý muốn nói rằng đó là “điệp nhà quê”, “điệp thôn dã”, chẳng đáng trồng làm kiểng ở thành phố! Có lẽ các vị này không biết rằng tại quê hương của nó là Barbados thì điệp là “quốc hoa” (National Flower), là biểu tượng quốc gia trong quốc huy của nước này. Đó là vị trí của điệp trên quốc huy của Barbados còn tại đảo quốc rộng 431km² này, nơi mà tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, thì tên của cây điệp là Pride of Barbados, nghĩa là “niềm tự hào của Barbados”. Một số dân tộc ở các nước châu Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha đã dịch đúng nghĩa gốc của cái tên này thành Orgullo de Barbados nhưng trong tiếng Pháp thì chẳng biết tự bao giờ người ta đã thay tên nước Barbados bằng tên nước Trung Hoa mà gọi cây điệp là Orgueilde Chine, nghĩa là “niềm tự hào của Trung Hoa”. Dù sao, đây cũng chỉ là sự nhầm lẫn trong cách gọi đã “chết tên” chứ người ta vẫn xác định rằng quê hương của “niềm tự hào Trung Hoa” là… Barbados, một tiểu đảo quốc nằm ở cực Đông của quần đảo Antilles, gần nơi giáp giới giữa phía Đông biển Caribbe và phía Tây Đại Tây Dương.

Tên tiếng Anh của điệp là pride of Barbados (như đã thấy ở trên), Barbados pride, Barbados flowerfence, flowerfence poinciana, peacock flower, dwarf poinciana, prettiest Caesalpinia, redbird-of-paradise. Tiếng Pháp thì gọi nó là orgueil de Chine (như đã thấy ở trên), flamboyant nain, petit flamboyant, fleur de paon, baraguette, césalpinie la plus belle. Còn trong tiếng Hán thì điệp là giáp điệp hoa, hoàng hồ điệp, hồng hồ điệp, giáp thiền hoa, hươnghồ điệp, phiên hồ điệp, v.v..

Về tên cây điệp trong tiếng Việt, trước hết xin nhấn mạnh rằng đó là một yếu tố Hán Việt, một từ gốc Hán và là hình thức nói tắt của hồ điệp, có nghĩa là bướm. Ở đây, giữa tên hoa và hình dáng của hoa có một mối liên hệ rất dễ thấy: sở dĩ gọi thứ hoa này là (hồ) điệp, nghĩa là bướm, là vì hoa điệp rất giống hình một con bướm (xin quan sát ảnh). Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng “cây điệp” là “thứ cây nhỏ, bông đỏ mà có kiến (sic) giống kiến (sic) con bướm”.(Xin xem chữ “điệp”), “Kiến” ở đây chính là cánh hoa (và lẽ ra phải viết thành “kiếng”, với -ng). Như đã nói, dân gian chỉ cần gọi điệp đã là đủ. Sở dĩ có người muốn gọi rõ là “điệp ta” hay “điệp cúng” là để phân biệt với phượng vĩ (thường gọi tắt là phượng, tên khoa học là Delonix regia), mà một số người ở trong Nam đã gọi nhầm thành điệp.

Đến như cái tên “kim phượng” dành cho cây điệp thì chúng tôi cho rằng đây chỉ là chuyện ghi trong sách vở chứ cách gọi này không lưu hành trong dân gian. Nhân tiện, xin nêu một điều để chất chính với hai vị KS. Nguyễn Đại Hương và Lê Thị Thuỳ Trang, đồng tác giả cuốn Sổ tay tra cứu danh pháp khoa học (STTC) do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2002. Theo chúng tôi tra cứu thì cả Caesalpinia pulcherrima lẫn Poinciana pulcherrima đều là tên khoa học của cây điệp, mà có tài liệu gọi là kim phượng. Nhưng STTC thì ghi riêng biệt hẳn Caesalpinia pulcherrima là điệp cúng còn Poinciana pulcherrima là kim phượng.

Vậy xin vui lòng cho biết cây điệp và cây kim phượng khác nhau như thế nào?

§ 1204. Kiến thức ngày nay, số 599

ĐỘC GIẢ: Tại sao lại gọi là “Tây sình” để chỉ những người hay học đòi theo Tây (Pháp)?

AN CHI: Tây sình là một danh ngữ ăn theo danh ngữ đầm sình. Đầm sình là một lối nói để chê những người phụ nữ Việt Nam học theo đầm, tức đàn bà Pháp. Đầm sình là một cấu trúc đồng nghĩa với đầm lầy. Ở đây người ta đã đồng nhất hoá đầm là đàn bà Pháp với đầm là ao, hồ trong cấu trúc đầm sình mà nhờ tiếng sình (= bùn, chỉ ý dơ bẩn) để chê bai những người đàn bà Việt Nam học đòi theo phụ nữ Pháp mà quê vẫn hoàn quê (dĩ nhiên là theo cách nhìn của một thời). Do đầm sình, người ta mới loại suy mà nói tây sình, chứ đây không phải là chữ sình trong sình bụng, chết sình, v.v. của phương ngữ Nam Bộ.

§ 1205. Kiến thức ngày nay, số 599

ĐỘC GIẢ: Chữ “Cồ” trong quốc hiệu Đại Cồ Việt là Hán hay Nôm và nghĩa của nó là gì?

AN CHI: Về chữ Cồ trong quốc hiệu Đại Cồ Việt, cách đây gần 6 năm, chúng tôi đã trả lời vắn tắt như sau:

“Một số người cho rằng đó là một tiếng “Nôm”, có nghĩa là to lớn như trong gà cồ, bự cồ, v.v. của phương ngữ Nam Bộ. Thực ra, cồ chỉ là âm Hán Việt xưa của chữ 巨, mà âm Hán Việt hiện đại là cự, có nghĩa là to lớn mà thôi. Mối quan hệ ô ~ư giữa cồ và cự không phải là điều khó hiểu và một dẫn chứng lý thú là các chữ ư 於, hồ 乎, vu 于 đều là những đồng nguyên tự (chữ cùng gốc) qua đó có thể thấy mối quan hệ ư ~ô ~u một cách rõ ràng. Còn về mối quan hệ giữa thanh 2 (dấu huyền) với thanh 6 (dấu nặng) thì thanh 2 (cồ) xưa hơn thanh 6 (cự) đồng thời cự 巨 còn có một đồng nguyên tự là cừ 渠, cũng có nghĩa là to lớn, như trong cừ suý (soái), cừ khôi, v.v.”. (Kiến thức ngày nay, số 353, ngày 1-6-2000).

Câu trả lời trên đây của chúng tôi chưa triệt để; nó chỉ nương theo câu hỏi để chứng minh rằng cồ, với nghĩa “to, lớn”, vẫn cứ là một yếu tố gốc Hán (chứ cũng chẳng phải là Nôm). Kỳ này, xin nói kỹ như sau:

Đối với chữ Cồ 瞿 trong Đại Cồ Việt 大瞿越 mà nói rằng đây là một yếu tố Nôm có nghĩa là “to, lớn” thì thật là chẳng còn gì nhẹ dạ cho bằng. Với cách hiểu quá đỗi hời hợt này, người ta đã gây ra trong ba tiếng Đại Cồ Việt một cái lỗi quá thô thiển về trùng ngôn (pleonasm): đã đại mà lại còn cồ. Chẳng những thế, cách hiểu rất ít chiều sâu đó còn biến ba tiếng Đại Cồ Việt thành một thứ ngôn ngữ “ba rọi” (vừa Tàu vừa ta) không thể chấp nhận được cho một quốc hiệu nghiêm túc và đáng kính trọng. Nên nhớ rằng Đinh Tiên Hoàng đặt ra quốc hiệu này còn là để chơi với nhà Tống nữa chứ đâu có phải để “giỡn chơi”. Mà đã “chơi” với nhà Tống trong những điều kiện lịch sử xã hội thời bấy giờ thì phải “chơi” bằng chữ Tàu (dĩ nhiên là đọc theo tiếng ta bên nước ta). Trước Đinh Tiên Hoàng đến hơn 400 năm, Lý Bôn đã đặt tên nước là Vạn Xuân. Thì cũng là chữ Tàu đọc theo âm ta đấy thôi. Làm sao mà Cồ lại có thể là Nôm cho được!

Vì hai lý do trọng yếu trên đây nên chúng tôi xin khẳng định rằng ở đây, Cồ 犍 là một yếu tố Hán chính tông. Về mặt này, và chỉ riêng về mặt này, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với tác giả Kỳ Quảng Mưu 祁广谋 (Qí Guăngmóu) trong bài “Đại Cồ Việt quốc danh thích” (大 瞿 越 国 名 释) đăng trên tập san Đông Nam Á tung hoành (东南亚纵横) số 1, năm 2000 (tr. 35 – 38). Tác giả này đã xét hoàn cảnh nước Đại Cồ Việt lúc bấy giờ một cách tổng hợp để khẳng định rằng trong những điều kiện đã nêu thì Cồ (trở xuống xin miễn ghi kèm chữ Hán) phải là một yếu tố Hán. Chỉ tiếc rằng phần ngữ nghĩa mà ông ta đã nêu thì lại không đủ sức thuyết phục, chủ yếu là vì nó quá mơ hồ. Họ Kỳ khẳng định rằng chữ cồ, cũng đọc cù, có hai nghĩa, mà ông dẫn theo Từ nguyên, là: 1. dáng nhìn sợ hãi; 2. kinh ngạc, lo sợ. Ông ta cho rằng trong quốc hiệu Đại Cồ Việt thì chữ cồ vẫn giữ nguyên nghĩa mà nó vốn có trong tiếng Hán và Cồ Việt là một cách gọi dùng để phân biệt người Việt của nước Đại Cồ Việt với các tộc Việt khác trong nhóm Bách Việt. Ta thử xét xem cái lý của họ Kỳ có thể đứng vững được hay không.

Thứ nhất, ở nửa sau của thế kỷ X (của Công nguyên) thì tính thời sự của việc phân biệt tộc Việt này với tộc Việt kia trong nhóm Bách Việt đã trở nên nguội lạnh ít nhất là đã 1.000 năm.

Thứ hai, nếu cần phân biệt thì những yếu tố dùng để phân biệt phải là Âu hoặc là Lạc chứ nếu là Cồ thì ta khó lòng biết được Đinh Tiên Hoàng đã “khai quật” nó từ đâu ra.

Thứ ba, với cái nghĩa mà họ Kỳ cho là chữ Cồ vẫn còn giữ được thì hoá ra Cồ Việt sẽ là những người Việt luôn luôn lo sợ, luôn luôn nơm nớp dòm ngó chung quanh mình ư? Ông Kỳ Quảng Mưu đã quên rằng, trước đó chưa lâu, Ngô Quyền đã đánh tan tác quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng chăng? Đinh Tiên Hoàng có điên hay không khi gọi dân mình là bọn Việt sợ hãi trong khi chính ông ta lại tự xưng là Đại thắng Đinh Hoàng đế? Cách giải thích của họ Kỳ làm chúng tôi nhớ lại cách giải thích của ông Đào Văn Phái cho rằng Annamite(s) là (những) người An Nam ốm yếu, bệnh hoạn (mà chúng tôi đã nhận xét trên Kiến thức ngày nay, số 336).

Tóm lại, bài viết của Kỳ Quảng Mưu đã góp thêm một tiếng nói mang tính sô-vanh nước lớn vào việc tìm hiểu chữ Cồ trong Đại Cồ Việt chứ với bài này thì vấn đề vẫn còn treo để cho ta quan sát thêm. Vậy Cồ là gì? Trước khi trả lời câu hỏi này chúng tôi xin mời ông và bạn đọc tìm hiểu về một đặc điểm quan trọng của nước Đại Cồ Việt thời Đinh Tiên Hoàng mà Đào Duy Anh đã mô tả:

“Đinh Bộ Lĩnh chỉ có thể dựa vào tập đoàn phong kiến tôn giáo là thành phần xã hội có uy tín nhất trong xã hội bấy giờ để duy trì trật tự và kỷ cương. Nhưng trong hai tôn giáo, phật và đạo, đều thịnh hành trong dân gian, thì phật giáo có tổ chức và quy củ vững vàng hơn, có kinh điển và lễ nghi nghiêm trang hơn, chứ đạo giáo thì chỉ là một mớ phương thuật và mê tín. Về tổ chức cũng như về tinh thần, phật giáo là yếu tố thống nhất đắc lực nhất thời bấy giờ. Bởi thế Đinh Bộ Lĩnh lấy phật giáo làm quốc giáo, định phẩm cấp tăng nhân để giao cho họ lãnh đạo phật giáo trong toàn quốc. (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) (…) Khuông Việt đại sư tham dự triều chính gần như một vị tể tướng. Các chùa (tự viện) của Nhà nước do các tăng quan trụ trì đều được cấp ruộng làm tự điền. Các tự viện có những đại điền trang không kém gì đại điền trang của bọn vương công đại thần”*.

Xem thế đủ thấy vai trò của đạo Phật trong xã hội Đại Cồ Việt quan trọng đến thế nào. Cũng vẫn là Đào Duy Anh đã viết như sau:

“Nước mới dựng, kỷ cương chưa vững, trật tự xã hội chưa ổn định, Bộ Lĩnh lấy hình phạt ghê gớm để uy hiếp nhân dân, sai đặt vạc dầu ở giữa điện đình và nuôi cọp trong chuồng, kẻ phạm tội nặng thì bắt bỏ nấu trong vạc dầu hay bỏ cho cọp ăn”*.

Nhiều sử gia khác cũng đã công nhiên hay mặc nhiên đánh giá rằng đó là những việc làm dã man, tàn bạo. Về khách quan, thì quả có đúng như thế nhưng thực tế thì lại chẳng hề đơn giản như người ta đã chê bai một cách quá dễ dàng. Đinh Tiên Hoàng muốn xây dựng xã hội Đại Cồ Việt theo tinh thần của Phật giáo. Vì vậy, ta phải thấy rằng vạc dầu, chuồng cọp ở đây chẳng qua chỉ là hình ảnh sinh động và cụ thể của địa ngục mà thôi. Phật giáo chẳng đã lấy hình ảnh của địa ngục để khuyến thiện giới ác đó sao?

Trên đây, ta đã thấy vai trò của đạo Phật trong xã hội Đại Cồ Việt mà khi đã thấy được điều này thì ta cơ hồ không còn khó khăn gì trong việc tìm hiểu nghĩa của chữ Cồ trong Đại Cồ Việt cả. Trong kinh Phật, khi thấy mấy chữ Cồ lão ((ông) Già Cồ) hoặc Cồ thị (họ Cồ) thì ta phải hiểu rằng đó là Đức Phật Thích Ca. Phải, Cồ là họ của Đức Thích Ca, mà hình thức đầy đủ là Cồ Đàm, phiên âm từ tiếng Sanskrit là Gautama. Vậy Cồ là một từ dùng để chỉ Đức Thích Ca, rồi dùng theo hoán dụ, để chỉ tôn giáo của Ngài, tức đạo Phật. Và Cồ Việt chẳng qua là nước Việt theo đạo Phật, chứ chẳng phải là “nước Việt to bự” hoặc “người Việt sợ hãi” gì cả. Tóm lại, trong Đại Cồ Việt thì chữ Cồ đóng vai trò chỉ cái thể chế tôn giáo của nước ta thời đó y chang như hai chữ Hồi giáo trong cấu trúc Cộng hoà Hồi giáo Iran bây giờ vậy.

Lai lịch và ý nghĩa của chữ Cồ trong Đại Cồ Việt là như thế đấy.

§ 1206. Kiến thức ngày nay, số 600

ĐỘC GIẢ: Cách đây chưa lâu, ông có giải đáp rằng cùng một chữ Hán nhưng nếu đọc thành quan thì có nghĩa là mũ, nón còn nếu đọc thành quán thì có nghĩa là đội mũ, đội nón. Ông còn nói rõ lễ đội mũ phải đọc là quán lễ. Nhưng mới đây, trên Văn nghệ (Trung ương), số 12, ngày 24-3-2007, tác giả Nguyễn Sĩ Hoàng có trích Giáo trình Cổ văn Trung Quốc của Đặng Đức Siêu (tủ sách Đại học Sư phạm Hà Nội, 1970), nguyên văn như sau:

“(…) Người đời xưa coi trọng quan lễ, bởi vì lễ này xác nhận sự trưởng thành về mọi mặt của một con người (…)”.

Vậy xin ông vui lòng cho biết tôi nên tin theo ai?

AN CHI: Xin ông cứ tin theo người nào mà ông cho là đã nói đúng. Chỉ xin mạo muội lưu ý ông rằng không phải đã là giáo trình thì không bao giờ sai. Ngay trong cái câu mà ông trích dẫn thì ta còn thấy thêm một cái sai thô thiển nữa trong ngữ đoạn “sự trưởng thành về mọi mặt của một con người”. Con người thì có cả đàn ông, đàn bà. Mà quán lễ thì chỉ thực hiện cho các chàng trai đã đến tuổi. Vậy cái ngữ đoạn kia phải được sửa thành “sự trưởng thành của một người con trai”.

§ 1207. Kiến thức ngày nay, số 600

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 382, ông có giải thích về cách dịch tên con chim mà báo Tuổi trẻ ngày 24-2-2001 (mục “Tin học lý thú”) gọi là “chim giáo chủ”. Nhưng có lẽ do nội dung câu hỏi lúc đó không yêu cầu nên ông đã không bàn kỹ. Lần này, xin ông vui lòng cho biết thêm về loài này: tên khoa học, tên trong một số ngôn ngữ quen thuộc, hình dạng và tập tính, sự phân bố trên thế giới, v.v.. Có người nói rằng tên khoa học của chim hồng tước (theo cách gọi của ông) là Cardinalis nhưng tôi tìm trong Sổ tay tra cứu danh pháp khoa học của KS. Nguyễn Đại Hương và KS. Lê Thị Thuỳ Trang (Nxb. Trẻ, 2002) thì chỉ thấy có mục từ Carduelis carduelis, được dịch là “chim sẻ cánh vàng, – chim Kim oanh”. Vậy giữa Cardinalis và Carduelis có mối quan hệ nào không? Tại sao cách dịch cardinal thành “giáo chủ” lại không ổn?

AN CHI: Đúng như ông đã viết, vì câu hỏi lần trước không yêu cầu chi tiết nên trên Kiến thức ngày nay, số 382, chúng tôi đã không trình bày về những điểm mà ông hỏi lần này. Còn bây giờ xin trả lời ông và bạn đọc như sau:

Xin nói ngay rằng không những “chim giáo chủ” là một cách dịch không thoả đáng để gọi tên một loài chim mà ngay cả cách dịch tên giáo phẩm “cardinal” thành “hồng y giáo chủ” – mà chúng tôi cũng đã có lần nhỡ nói theo – cũng là một cách dịch hoàn toàn không thoả đáng.

Người Trung Quốc có dịch cardinal thành hồng y chủ giáo nhưng cách dịch này hoàn toàn không có vấn đề gì (vì chủ giáo khác với giáo chủ). Còn có vấn đề thì lại là cách “chuyển” thành “hồng y giáo chủ” của tiếng Việt. Có vấn đề là vì, trong tiếng Việt thì giáo chủ đồng nghĩa với giáo hoàng. Ta có thể thấy rõ điều này tại mục từ sau đây trong Từ điển Công giáo Anh Việt của Nguyễn Đình Diễn (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2002).

“Pope, pope. dt. Đức Giáo Hoàng, Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha, Đức Giáo Chủ, Giáo Chủ (chúng tôi nhấn mạnh – AC), Đức Giáo Tông, Giáo Tông (…)”.

Rõ ràng là cách dịch đang xét đã làm đảo lộn tôn ti trật tự trong các hàng giáo phẩm của Giáo hội Công giáo vì nó biến cardinal (Hồng y) thành pope (giáo chủ = giáo hoàng).

Thực ra thì cardinal tự nó cũng chẳng có nghĩa là “giáo chủ” hoặc “hồng y” gì cả. Đây là một từ bắt nguồn từ tiếng La Tinh cardinalis, vốn là một tính từ, có nghĩa là “chủ yếu”, “cốt yếu”, “chủ chốt”. Tính từ này đã được dùng trong đoản ngữ La Tinh cardinalis sanctae romanae Ecclesiae, nghĩa là “(những người) chủ yếu của Giáo hội La Mã thiêng liêng”, để chỉ hàng giáo phẩm mà ta diễn đạt bằng tiếng Việt hiện nay là hồng y. Về sau, nó được nói tắt thành cardinalis. Tiếng Pháp mượn tiếng La Tinh mà nói thành cardinal, rồi tiếng Anh đã mượn nguyên dạng từ tiếng Pháp (nhưng với cách phát âm của người Anh). Vậy ta có:

La Tinh cardinalis → Pháp cardinal → Anh cardinal = hồng y.

Nhưng cái nghĩa “(những người) chủ yếu của Giáo hội La Mã thiêng liêng” thì có liên quan gì đến hồng y là “áo đỏ”? Xin thưa là có, vì màu đỏ là màu đặc trưng trong phẩm phục của các vị hồng y. Người Trung Quốc đã dựa vào đặc trưng này mà dịch cardinal thành hồng y chủ giáo – cách dịch thông dụng hiện nay là khu cơ chủ giáo – nghĩa là “giám mục áo đỏ”. Có lẽ một số người Việt Nam đã đảo cái danh ngữ tiếng Hán này mà nói thành “hồng y giáo chủ” chăng? Còn các vị có thẩm quyền bên Công giáo thì lại chọn và chỉ chọn hai tiếng hồng y để dịch tên của giáo phẩm “cardinal”.

Chính do đặc điểm trên đây nên, trong tiếng Anh, tính từ cardinal mới mang thêm cái nghĩa phái sinh là “đỏ thắm” và danh từ cardinal mới có nghĩa là “màu đỏ thắm”. Vậy khi người ta dùng từ cardinal mà đặt tên cho con “chim giáo chủ” thì tính từ và/hoặc danh từ cardinal chỉ liên quan đến màu đỏ chứ chẳng còn dính dáng gì đến hàng giáo phẩm đã nói bên Công giáo nữa. Từ điển Anh Việt của Viện ngôn ngữ học do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu và Bùi Ý hiệu đính (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975) dịch cardinal (hoặc cardinal-bird) thành “chim giáo chủ” là đã sai đến hai lần. Có lẽ tác giả của mẩu tin trong mục “Tin học lý thú” trên báo Tuổi trẻ ngày 24-2-2001 đã căn cứ vào quyển từ điển này nên mới chuyển cardinal sang tiếng Việt thành “chim giáo chủ” cũng không biết chừng. Còn chúng tôi thì xin dịch thành hồng tước (trở xuống, xin gọi bằng cái tên này), như đã có thử dùng trên Kiến thức ngày nay, số 382.

Tên khoa học của hồng tước là Cardinalis cardinalis. Hồng tước trống có bộ lông màu đỏ thắm; đầu có chóp, đuôi dài, mỏ đỏ và chung quanh mỏ có một vầng lông màu đen. Hồng tước mái có bộ lông màu vàng, mào, cánh và đuôi phơn phớt đỏ, mỏ đỏ và chung quanh mỏ có một vầng đen nhạt. Thân hồng tước, kể cả đuôi, dài từ 21 đến 23cm, nặng từ 42 đến 48gr. Sải cánh từ 25 đến 31cm. Hồng tước thích sống ở ven rừng, ở vùng ao đầm, những vùng rừng ven sông ngòi và ở những vùng cây cối gần nhà ở của thành phố. Chúng sống phân bố chủ yếu ở miền Đông và miền Trung của Bắc Mỹ, ở Florida và Mexico, cho đến Belize và Guatemala và rải rác ở một vài vùng khác của châu Mỹ. Mùa đông, chúng đi ăn theo từng bầy, có khi đông đến 60 hoặc 70 cá thể. Hồng tước sống “một vợ một chồng”.

Chúng không di cư và sống theo lãnh địa riêng của từng cặp. Con mái đẻ một lứa từ 1 đến 5 trứng, ấp từ 11 đến 13 ngày còn con trống thì đi tìm mồi nuôi con mái. Chúng rất chung thuỷ với nhau.

Còn Carduelis carduelis là “chim sẻ cánh vàng”, là “chim Kim oanh”, như ông đã nêu, con trống có màu đẹp và sẫm, con mái có màu nhạt hơn, không có liên quan gì đến Cardinalis cardinalis là chim hồng tước cả.

§ 1208. Kiến thức ngày nay, số 601

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết đôi câu đối sau đây:

Chén tân khổ nhắp ngon mùi chánh khí

Ngọn quang minh hun mát tấm trung can.

do ai làm và để nói về ai?

AN CHI: Đôi câu đối này nằm trong một đoạn văn luận về luân lý Việt Nam cổ truyền của Thượng Chi, tức Phạm Quỳnh (1892 – 1945), nguyên văn như sau:

“Thờ gia đình, mến tổ quốc, phụng tổ tiên, tôn cổ điển, những tình cảm đó nhờ giáo dục vun trồng, thói quen bồi đắp, văn chương cùng phong tục cổ lệ tán dương, dần dần tạo thành cho người nước Nam một cái thần trí vững vàng, ngay thẳng, một cái tâm địa chắc chắn điều hoà, một cái hồn tính thiết thực và kiện toàn, có lẽ không được bay bổng cao xa lắm, nhưng khi gặp quan hệ đến vận mạng gia đình, tổ quốc thì cũng có thể tận tuỵ hy sinh được. Lòng hiếu thảo trong đạo cha con, lòng tiết nghĩa trong đạo vợ chồng, lòng trung thành với nhà vua là trạng thái đặc biệt của lòng ái quốc. Người Việt Nam cổ lai vẫn gây nên những bực anh hùng liệt nữ, hoặc hiển hách, hoặc vô danh hoặc tên đề chói lọi trong sử sách, hoặc việc chép lưu truyền trong gia phả, hay chỉ còn để lại cái bài vị trong một gian miếu nhỏ nấp dưới bóng tre xanh. Lòng vị nghĩa đó có khi siêu việt đến bậc tuẫn tử một cách oanh liệt. Như việc Ngô Tòng Châu và Võ Tánh tuẫn tử ở thành Bình Định vậy:

Một người thời:

Chén tân khổ nhắp ngon mùi chính khí.

Một người thời:

Ngọn quang minh hun mát tấm trung can”*.

§ 1209. Kiến thức ngày nay, số 602

ĐỘC GIẢ: Về hai tiếng “kinh điển” mà các nhà báo thể thao và các nhà bình luận bóng đá dùng để chỉ những trận tiêu biểu, trong bài “Về hai từ kinh điển và tiêu chí”, đăng trên Văn nghệ (Trung ương), số 14, ngày 7-4-2007, tác giả Vũ Cao Phan cho rằng đây là một cách dùng từ không chính xác. Ông Vũ Cao Phan viết:

“Kinh điển là một từ Hán-Việt. Giải nghĩa về từ này hầu như tất cả các từ điển xuất bản lâu nay tại Việt Nam (và cả Trung Quốc) đều thống nhất: 1- Tác phẩm có giá trị mẫu mực, tiêu biểu; có ảnh hưởng lớn cho một học thuyết, một chủ nghĩa, một tôn giáo. 2- Tác giả của các tác phẩm ấy (nhà kinh điển). 3- Có tính quy chuẩn, bài bản, cổ điển. Chấm hết. Vậy thì tại sao lại có cách hiểu, cách sử dụng như trên? Theo thiển ý của tôi (mà chắc đúng), nguyên do là ban đầu một vài bình luận viên bóng đá đã dịch từ classic (tiếng Anh – hoặc classique, classico… của các ngôn ngữ Ấn – Âu khác) sang tiếng Việt theo nghĩa kinh điển (chỉ không hiểu sao trước kia họ không dịch như vậy), rồi dần dà nó được “ăn theo”. Thực ra, classic (classique, classico…) trong các ngôn ngữ ấy còn có nghĩa là lớn, là hay, là có chất lượng cao…(từ kinh điển trong tiếng Việt không có nghĩa này). Do đó “a classic game of football” phải được dịch là “một trận bóng hay” hoặc “một trận đấu lớn” thì mới đúng nghĩa. Gọi là “trận đấu kinh điển” nghe có vẻ sang, có vẻ “chữ nghĩa” nhưng thực là đã làm hỏng tiếng Việt”.

Ông Vũ Cao Phan đã viết như trên. Xin hỏi ông An Chi: Các nhà báo và các nhà bình luận kia đã làm hỏng tiếng Việt hay là chưa?

AN CHI: Trong các nghĩa của hai tiếng kinh điển mà ông Vũ Cao Phan cho là đã dẫn từ “hầu như tất cả các từ điển xuất bản lâu nay tại Việt Nam (và cả Trung Quốc)” thì nghĩa 1 và nghĩa 2 là nghĩa của danh từ nên chỉ đúng với tiếng Hán và Hán văn Việt Nam. Còn tiếng Việt hiện đại thì chỉ dùng kinh điển theo nghĩa của tính từ nên chỉ có nghĩa 3 mà ông Vũ Cao Phan đã nêu mới có thể xem là thích hợp mà thôi. Chẳng những ông đã nhầm khi nêu nghĩa 1 và nghĩa 2 của kinh điển cho tiếng Việt hiện đại mà ông còn nhầm – và đây là nhầm to! – khi nêu tính từ classic (classique, classico, v.v.) ra để làm cơ sở cho sự biện luận của mình. Ông cho rằng trong trường hợp đang xét thì classic (classique, classico, v.v.) có nghĩa là lớn, là hay, là có chất lượng cao và rằng “a classic game of football” phải được dịch là “một trận bóng hay” hoặc “một trận đấu lớn” thì mới đúng nghĩa. Nhưng người Anh không nói “a classic game” để diễn cái ý “một trận đấu lớn”. Họ nói “a great match”. Cũng cái ý này, người Pháp sẽ nói “un grand match”, người Tây Ban Nha thì “un gran partido”, còn người Ý thì “una grande partita”, v.v.. Vậy người Anh không dùng “classic” thay cho great còn “a classic game of fooball” cũng chỉ là một cấu trúc do ông Vũ Cao Phan suy diễn mà đặt ra chứ tính từ classic ở đây cũng chẳng phải là cái yếu tố nguyên ngữ đã được các nhà báo thể thao và các nhà bình luận bóng đá dịch thành “(trận) kinh điển”. Cái mà họ đã dịch thì lại là danh từ classic.

Sau đây là cái nghĩa hữu quan của danh từ classic trong một số tài liệu.

Answers.com: “A traditional event, especially a major sporting event that is held annually: a golf classic”.

(Sự kiện truyền thống, đặc biệt là sự kiện thể thao trọng đại diễn ra hằng năm: một classic (sẽ dịch sau) về môn golf).

The Free Dictionary (Online): Y hệt như Answers.com.

Còn Webster’s New World College Dictionary (1997) thì:

– “noun (…)3.a famous traditional or typical event”.

– (danh từ (…)3. sự kiện điển hình hoặc truyền thống nổi tiếng).

Tương ứng với danh từ classic này của tiếng Anh là các danh từ classique của tiếng Pháp, clásico của tiếng Tây Ban Nha, classico của tiếng Ý, clássico của tiếng Bồ Đào Nha và Klassiker của tiếng Đức. Những từ này nên được chuyển sang tiếng Việt như thế nào? Các nhà báo thể thao và các nhà bình luận bóng đá đã làm một cách tự nhiên mà dịch thành “(trận) kinh điển”. Đây là sự sao phỏng (calque), một biện pháp thông thường của sự vay mượn từ ngữ khi ta cần chuyển một số khái niệm mới lạ (đối với ta) từ tiếng nước ngoài vào tiếng Việt, chẳng hạn guerre froide là “chiến tranh lạnh”, marché noir là “chợ đen”, package là “trọn gói”, v.v..

Cũng vậy, classic (classique, v.v.) mà chuyển thành “(trận) kinh điển” là điều hoàn toàn tự nhiên. Nói về một trận bóng giữa Real Madrid và Barcelona mà nhà bình luận M.T. gọi là “trận đấu kinh điển”, tác giả Vũ Cao Phan viết: “Tôi đã cố theo dõi kỹ để xem “cái sự kinh điển” ấy nó diễn ra như thế nào. Không như thế nào cả vì chẳng có gì để có thể gọi là kinh điển”. Nếu ai cũng đòi làm như kiểu lý luận của tác giả Vũ Cao Phan thì hẳn là người ta phải dùng nhiệt kế để đo xem “chiến tranh lạnh” đã xuống đến bao nhiêu độ âm chăng? Huống chi, muốn biết nó “kinh điển” như thế nào thì phải phân tích chi tiết về đội hình, về chiến thuật, về nhiệm vụ và tài nghệ của từng cầu thủ, v.v. tóm lại là về đấu pháp của hai bên, về sự đấu trí của hai huấn luyện viên, chứ đâu có thể hạ một câu đơn giản là “chẳng có gì để có thể gọi là kinh điển”. Thật là không công bằng khi nói như thế về những trận kinh điển giữa hai câu lạc bộ đã nêu. Xin hãy đọc một đoạn của FIFA.com (bằng tiếng Pháp mà chúng tôi dịch sang tiếng Việt) ngày20-10-2006 dưới nhan đề “Trận kinh điển: Real Madrid – FC Barcelona”:

“Mỗi khi Real Madrid và FC Barcelona giao tranh, tất cả mọi con mắt đều hướng về Tây Ban Nha. Cứ mỗi lần hai câu lạc bộ này gặp nhau, hàng ngàn hàng ngàn người say mê quả bóng tròn đều nín thở, dù họ đang ở trên bán đảo Iberia hay ở nơi nào trên hành tinh. Bên kia dãy Pyrénées (Người Pháp ở bên này dãy Pyrénées – AC), sự kiện này có sức mê hoặc mạnh đến nỗi ngay cả những ai bàng quan nhất cũng trưng ra biểu hiệu của một trong hai câu lạc bộ. Chủ nhật này, tại sân Santiago Bernabéu, 80.000 khán giả may mắn sẽ hoà nhịp tim vào cuộc biểu diễn do một nhóm cầu thủ xuất sắc nhất hành tinh trình bày”.

Chưa kể đến diễn tiến của trận đấu, chỉ mới nói về cái không khí chung quanh, ta cũng đã có thể cảm nhận được sơ sơ cái tính kinh điển của sự kiện thể thao đang xét rồi.

Điểm duy nhất – thực ra cũng rất quan trọng – mà chúng tôi hoàn toàn nhất trí với tác giả Vũ Cao Phan là ta không nên lạm dụng hai tiếng kinh điển. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả rằng 3 trường hợp mà tác giả đã dẫn ra từ 3 tờ báo khác nhau, là những thí dụ về cách dùng từ tuỳ tiện. Nếu ta quan sát rộng hơn, ta sẽ thấy có những cách dùng bất hợp lý khác nữa, chẳng hạn cái nhan đề “Những trò lừa kinh điển qua e-mail”, tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng lại có vấn đề. Vấn đề là ở chỗ kinh điển là một đơn vị từ vựng mang sắc thái biểu cảm: nó chỉ dùng cho cái gì tốt, tích cực chứ không phải cho cái gì xấu, tiêu cực. Trò lừa thì làm sao có thể “kinh điển” cho được?

Trở lại với hai tiếng kinh điển dùng cho một số trận bóng, như ông đã đặt vấn đề, chúng tôi thấy đây là một cách dịch thích hợp (đối với từ classic của tiếng Anh) mà các nhà báo thể thao và các nhà bình luận bóng đá đã thực hiện để góp vào tiếng Việt một lối nói mới và một khái niệm mới.

§ 1210. Kiến thức ngày nay, số 602

ĐỘC GIẢ: Xin giới thiệu bài Trường can hành của Thôi Hiệu và bản dịch của Ngô Tất Tố.

AN CHI:

Trường can hành

I.

Quân gia hà xứ trú?

Thiếp trú tại Hoành Đường.

Đình thuyền tạm tá vấn,

Hoặc khủng thị đồng hương.

II.

Gia lâm Cửu Giang thuỷ,

Lai khứ Cửu Giang trắc.

Đồng thị Trường Can nhân,

Sinh tiểu bất tương thức.

Bản dịch thơ của Ngô Tất Tố:

I.

Nhà chàng đâu tá chàng ơi,

Nhà em thì ở phía ngoài Đê Ngang.

Dừng thuyền hỏi chuyện nào! Chàng!

Đôi ta may ở cùng làng cũng nên.

II.

Nhà anh ở bến Cửu Giang,

Bên con sông ấy anh thường lại qua.

Trường Can cùng quán đôi ta

Xa nhau từ nhỏ, hoá ra lạ lùng*.

§ 1211. Kiến thức ngày nay, số 603

ĐỘC GIẢ: Ngoài những cuộc thi Hoa hậu thế giới (Miss World) hàng năm, nhiều năm gần đây, người ta còn sanh ra cái sự thi tuyển Mr. World (Mister World) dành cho phái “đực rựa” nữa. Xin hỏi ông An Chi mấy tiếng Mr. World (Mister World) nên được chuyển sang tiếng Việt như thế nào cho hợp lý?

AN CHI: Nhiều phương tiện truyền thông đã dịch Mr. World thành “Nam hậu Thế giới”. Chẳng hạn trên mạng 24h.com.vn ngày 10-4-2007, dưới nhan đề “Truyền hình trực tiếp cuộc thi “Mr. World” trên VTC1”, ta đọc thấy:

“Theo thông báo mới nhất của Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC, cuộc thi “Nam hậu Thế giới” – Mr. World 2007: nơi hội tụ của những người đàn ông trẻ đẹp nhất hành tinh, sẽ được phát sóng vào 20h ngày 14-4-2007 trên kênh VTC1”.

Trước đó, trong thông báo số 24 TB/HSV ngày 6-3-2007 về việc “Tham gia đợt hội trại chào mừng 76 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh” của Hội sinh viên trường Đại học Công nghệ (thuộc Hội sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội) gửi sinh viên các lớp do chánh văn phòng Bùi Thị Thu Hương ký, ta cũng đọc thấy:

“I. Nội dung:

(…)

–Thi Nam Hậu (Cuộc thi dành cho phái mạnh để chọn ra các danh hiệu “Người đàn ông có nụ cười quyến rũ nhất, người đàn ông đẹp nhất…)”.

Trên Tienphong Online ngày 15-3-2007, dưới nhan đề “Hồ Đức Vĩnh dự thi Mr. World 2007”, ta cũng đọc thấy:

“Từ 12-3, cuộc thi “Nam hậu thế giới 2007” rục rịch khởi động với 50 người đàn ông, là những sinh viên, giáo viên, người mẫu…từ khắp nơi trên thế giới, tại đảo Hải Nam, Trung Quốc”.

Còn nhiều tác giả và phương tiện truyền thông khác nữa cũng gọi Mister World (của từng năm) là “Nam hậu thế giới” nhưng đáng buồn là cách gọi này chẳng mang lại cho họ một chút vinh dự nào. Ngược lại, nó đã biến họ thành những người “lại cái” Hậu 后 là một yếu tố Hán Việt, có nghĩa là vợ vua, như có thể thấy trong các cấu trúc hoàng hậu, thái hậu, mẫu hậu, v.v. nghĩa là đặc dụng để chỉ một nhân vật thuộc phái đẹp, có chồng là vua. Vậy đã là nữ thì còn là nam thế nào được mà gọi là “nam hậu”?

Chữ nam chỉ có thể đi chung với những danh từ hay danh ngữ dùng cho cả hai giới như: nam công nhân (đối với nữ công nhân), nam công trình sư (đối với nữ công trình sư), nam doanh nhân (đối với nữ doanh nhân), v.v.. Còn hậu thì không.

Trong điều kiện hiện tại, chúng tôi cho rằng hợp lý nhất là dịch Mr. World (Mister World) thành “Nam khôi thế giới”, như một số tác giả đã làm, chẳng hạn Trần Thuyên trên Kiến thức ngày nay, số 601.

§ 1212. Kiến thức ngày nay, số 603

ĐỘC GIẢ: Tôi nghe người ta nói trong thiên “Hương đảng” của sách “Luận ngữ”, Khổng Tử có dạy về phương pháp ẩm thực. Xin cho biết ngài đã dạy như thế nào, qua cả nguyên văn và lời dịch.

AN CHI: Sau đây là nguyên văn của đoạn hữu quan và lời dịch của Nguyễn Hiến Lê:

“Tự bất yếm tinh, khoái bất yếm tế. Tự ế nhi ái, ngư nỗi nhi nhục bại bất thực. Sắc ác bất thực, xú ác bất thực. Thất nhẫm bất thực, bất thời bất thực. Cát bất chính bất thực, bất đắc kì tương bất thực. Nhục tuy đa, bất sử thắng tự khí. Duy tửu vô lượng, bất cập loạn. Cô tửu, thị bô, bất thực. Bất triệt khương thực. Bất đa thực. Tế ư công, bất túc nhục. Tế nhục bất xuất tam nhật, xuất tam nhật, bất thực chi hĩ. Thực bất ngữ, tẩm bất ngôn. Tuy sơ tự, thái canh, tất tế, tất trai như dã”.

Dịch. – Cơm càng trắng tinh càng tốt, (càng thích), gỏi thái càng nhỏ càng tốt. Cơm hẩm và thiu, cá ươn mà thịt đã nhão thì không ăn. (Thức ăn mà) sắc đã biến, hư rồi, không ăn: mùi hôi cũng không ăn. Nấu mà chưa chín hay chín quá, không ăn. Không đúng bữa không ăn. (Có sách dịch là không ăn những vật trái mùa). Cắt không ngay ngắn (hoặc không đúng cách), không ăn. Nước chấm không thích hợp, không ăn. Dù có nhiều thịt, (Khổng Tử) cũng ăn ít thịt hơn cơm. Duy có rượu là không hạn chế, nhưng không uống tới say. Rượu bán ở cửa hàng không uống, thịt mua ở chợ không ăn. Bữa nào cũng ăn gừng. Không ăn tới quá no. Tế ở công miếu rồi, được phần thịt thì ông phân phát ngay, không để cách đêm. (Vì thịt tế vào buổi sáng thì làm vào hôm trước, nếu để cách đêm nữa, qua ngày hôm sau là ba ngày, thịt ôi đi. Thịt cúng tổ tiên, không để quá ba ngày, quá ba ngày thì không ăn. Khi ăn, không đàm luận, khi ngủ không nói chuyện. Tuy là cơm thô, canh rau, mà trước khi ăn cũng cung kính cúng vái như lúc trai giới.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3