Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1194 - 1202
§ 1194. Kiến thức ngày nay, số 590
ĐỘC GIẢ: Đồng xu có ảnh kèm theo đây có phải là tiền của Korea hay không? Và nó được đúc từ năm 971? Hay nó được đúc năm 1971 mà ai đó đã làm mờ chữ số “1” ở đầu? Những chữ khắc trên đó có nghĩa là gì?
AN CHI: Như bạn đã biết, nếu là năm 971 thì người Triều Tiên (Korean) chưa có thể biết đến cái danh ngữ “The bank of Korea” để đúc trên đồng tiền của mình. Đây là năm 1971, như có thể thấy trong Ảnh 1, mà chúng tôi chọn trên mạng để in lại cho bạn và bạn đọc quan sát. (Ảnh 1 )
(Ảnh 1)
Nói đó là đồng tiền của Korea thì cũng không đúng hẳn vì, hiện nay, có đến hai nước Korea: North Korea là Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên và South Korea là Hàn Quốc. Đồng tiền của bạn là đồng tiền của Hàn Quốc. Bank of Korea, viết tắt là BOK, là ngân hàng của Hàn Quốc.
Trong Ảnh 1, ở bên trái là mặt phải, tức mặt ngửa (obverse (Anh), avers (Pháp), còn bên phải là mặt trái, tức mặt sấp (reverse (Anh), revers (Pháp)). Ở bên trái và phía trên của mặt phải là hai chữ sip won 십원, nghĩa là 10 won. Ở phía dưới, vòng theo vành của mặt ngửa, là bốn chữ Hanguk eunhang 한국은행, nghĩa là Ngân hàng Hàn Quốc. Còn ở bên phải hai chữ sip won và bên trên bốn chữ Hanguk eunhang là hình của Dabotap, tức Đa Bảo tháp (Ảnh 2), một toà tháp nổi tiếng, nằm trong phạm vi chùa Bulguksa, tức Phật Quốc tự, một khu danh lam ở Gyeongju, tức Khánh Châu.
(Ảnh 2)
Mặt có hình tháp Dabotap mới là mặt phải (mặt ngửa) của đồng 10 won này nhưng một số người sưu tập tiền cứ cho đó là mặt trái (mặt sấp).
§ 1195. Kiến thức ngày nay, số 591
ĐỘC GIẢ: Một số nhà nghiên cứu văn học nhận định rằng một nét nổi bật trong văn của Tô Hoài là “việc tìm tòi sáng tạo mới mẻ, độc đáo về từ ngữ, phương ngữ”.
Ông An Chi có cảm nhận như thế không?
AN CHI: Chúng tôi cũng có cảm nhận như thế, nhất là khi đọc xong Ba người khác của Tô Hoài mà Nhà xuất bản Đà Nẵng vừa ấn hành (nộp lưu chiểu tháng 12-2006). Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn nói là sự tìm tòi, sáng tạo về từ ngữ và phương ngữ, dù có mới mẻ và độc đáo đến đâu thì cũng không phải là sửa đổi những gì vốn có của tiếng Việt. Sự tìm tòi và sự sáng tạo đó phải nhằm tạo ra những cách nói hoàn toàn mới của chính tác giả bằng những qui tắc cú pháp chung, chứ không phải bằng cách “cải biên” những đơn vị từ vựng cố định vốn có của ngôn ngữ, đặc biệt là những thành ngữ. Có vẻ như nhà văn Tô Hoài chưa chú trọng đến vấn đề này. Sau đây là một số dẫn chứng.
Ở trang 25, tác giả viết “quần xắn móng heo” còn thành ngữ vốn có của tiếng Việt thì lại là xắn móng lợn. Đã đành rằng heo chính là lợn nhưng xưa nay dân ta vẫn dùng lợn trong trường hợp này thì có lẽ nhà văn cũng nên tôn trọng. Mà hình như chữ “heo” ở đây là biểu hiện của một sự cố trong ý nghĩ của tác giả chứ sang đến trang 34 thì ông đã dùng trở lại bốn tiếng xắn quần móng lợn. Thế mới phải lẽ vì thành ngữ, quán ngữ là những đơn vị có hình thức cố định, chặt chẽ chứ không phải là những cấu trúc mà nhà văn, dù có nổi tiếng đến mấy, lại có thể “sửa chữa” được. Cũng như xưa nay dân ta vẫn nói nói toạc móng heo thì có lẽ nào ta lại “cách tân” mà đổi thành “nói toạc móng lợn”!
Ở trang 189, tác giả viết “ngứa ghẻ đòn ghen”. Thì cũng là một cách cải biên thành ngữ. Đã đành là có những quyển từ điển cũng ghi nhận như thế, chẳng hạn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân nhưng nhà văn có lẽ cũng nên sử dụng từ điển một cách có phê phán chứ không thể viết theo cái sai của nó được. Thành ngữ chính xác ở đây là ngứa ghẻ hờn ghen, như ta có thể thấy một cách cụ thể nơi câu 1609 của Truyện Kiều. Mà có lẽ chính hai vế tiểu đối chặt chẽ này vốn là văn riêng của Nguyễn Du đã được dân chúng vận dụng lâu ngày và rộng rãi nên mới vô hình trung trở thành thành ngữ cũng không biết chừng. Vị từ hờn đối nhau chan chát với vị từ ngứa ở vế trước mà ta lại biến nó thành danh từ “đòn” thì còn đâu là đối!
Cũng như vị từ ghẻ ở vế trước đối nhau chan chát vị từ ghen ở vế sau mà ta lại biến nó thành danh từ (để chỉ một loại mụn ngoài da do ký sinh trùng gây ra) thì còn đối ở chỗ nào? Không biến ghẻ thành danh từ thì tại sao Đào Duy Anh, chẳng hạn, lại giảng ngứa ghẻ hờn ghen là “hờn ghen cũng khó chịu đến cuồng lên như ngứa ghẻ” còn Nguyễn Lân thì giảng là “bực bội chẳng khác nào khi ghẻ bị ngứa ran”? Nhưng đây nào phải chuyện ghẻ chốc. Ghẻ ở đây là đối xử lạnh nhạt, là bỏ bê, là không ngó ngàng đến, như còn có thể thấy trong từ tổ đẳng lập ghẻ lạnh. Mà ngứa ở đây cũng chẳng phải là cảm thấy khó chịu ở ngoài da nên có nhu cầu gãi cho dịu đi. Ngứa ở đây chính là tức, là giận. Ngứa ghẻ là một từ tổ vị từ chính phụ diễn tả cái tâm lý của người phụ nữ trong chế độ đa thê, đức lang quân không thể nào chiều năm bảy bà trong một lúc. Đấng trượng phu mà sang phòng nhì thì làm sao bà cả khỏi “ngứa ghẻ”, nghĩa là khỏi ghen tức vì bị bỏ bê. Ngược lại, ông nhà mà chỉ lo quấn quít chung quanh cô hầu non mới rước về thì bảo sao năm ba bà hoặc năm bảy bà trước đừng “ngứa ghẻ”. Vậy, xin trả lại cho hai tiếng ngứa ghẻ cái hàm nghĩa đích thực của nó chứ ai lại đưa mụn nhọt ra mà đối với sự ghen tuông.
Trở lên là chuyện thành ngữ. Bây giờ xin nói đến một đơn vị nhỏ hơn là cái mà người ta vẫn sính gọi là từ láy. Chúng tôi muốn nói đến hai tiếng “tròng lọng” mà tác giả đã dùng đến 8 lần (tr. 176 (tròng in sai thành “chòng”), tr. 219 (2 lần), tr. 220, tr. 232 (2 lần), tr. 247 (2 lần)).
Ông đã dùng “tròng lọng” thay cho thòng lọng. Chúng tôi không biết xuất xứ của hai tiếng “tròng lọng” nhưng dù cho đây là lối nói của một phương ngữ nào hay là một lối nói do chính Tô Hoài “cải biên” thì đó cũng không phải là một đơn vị từ vựng của ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ toàn dân. Nhưng cái sự bất ổn của hai tiếng mà Tô Hoài đã dùng là ở chỗ tiếng thứ hai (lọng) hoàn toàn thừa thãi: chỉ một mình chữ tròng thôi cũng đã có nghĩa là thòng lọng rồi. Xin hãy đọc Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (in lần thứ chín, 2003):
– “Thòng lọng. Đoạn dây có một đầu buộc lỏng thành vòng để có thể mắc vào vật và thít chặt lại khi rút mạnh”, và
– “Tròng. Thòng lọng buộc vào đầu gậy, dùng để mắc vào cổ chó, lợn mà bắt”.
Cứ như trên thì chẳng phải là ở trong tròng đã có “thòng lọng” rồi hay sao? Và cứ như trên thì chẳng phải trong tròng lọng thì “lọng” là một âm tiết thừa? Thực ra, cách tân ngôn ngữ không phải là “sửa chữa” những đơn vị từ vựng sẵn có của nó, những đơn vị mà mọi người đều hiểu và dùng một cách hoàn toàn nhất trí. Trong ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ văn học, thòng lọng là một đơn vị cố định. Ta có thể không dùng nó nhưng hễ đã dùng đến thì phải để nguyên.
Sự nắm vững các qui luật của ngôn ngữ sẽ giúp ích cho nhà văn rất nhiều và nó chỉ làm cho sự sáng tạo của nhà văn tăng thêm giá trị mà thôi. Nhưng hình như một số nhà văn của ta nghĩ rằng mình chỉ cần kinh nghiệm hành văn có thâm niên cao là đủ. Chúng tôi mạo muội cho rằng đó là một quan niệm sai lầm. Nếu ta nhìn một cách nghiêm túc theo giác độ ngữ học thì những lối nói như “láu tôm” (tr. 112, 161), “mỗi lúc một đùng đùng” (tr. 209), v.v. đều sai. Láu tôm là kết quả của một sự “ngắt khúc” từ bốn tiếng láu tôm láu cá, trong đó “tôm” chỉ có tính chất đưa đẩy chứ không có nghĩa thực. “Láu tôm” không thể thay cho láu cá cũng như “chính em” không thể thay thế cho chính trị mặc dù ta vẫn có lối nói đưa đẩy chính trị chính em. Cũng như ta không thể lấy “văn gừng” thay cho văn nghệ mặc dù ta vẫn có thể nói văn nghệ văn gừng. Đùng đùng là hai tiếng phỏng thanh (onomatopoeia) nên không có mức độ tăng giảm. Vậy ta không thể nói “mỗi lúc một đùng đùng”, cũng như không thể nói “mỗi lúc một gâu gâu”, “mỗi lúc một meo meo”, v.v..
Ngoài ra, ở một vài chỗ, Tô Hoài còn sử dụng những từ ngữ “chõi” nhau, nghĩa là không thể dung hợp với nhau. Chẳng hạn như ông đã viết “mây trắng lờ đờ từng tảng vần vụ trong nắng nhạt” (tr. 142), “lặng lẽ sôi sùng sục” (tr. 170), “phừng phừng hớn hở” (tr. 206), v.v.. Vần vụ chỉ dùng để nói về mây đen, mây báo hiệu mưa giông, chứ không thể nói về “mây trắng lờ đờ”. Đã “lặng lẽ” thì còn “sùng sục” thế nào được? Còn “phừng phừng” thì chỉ sự giận dữ mà “hớn hở” lại chỉ sự tươi cười; vậy làm sao “phừng phừng” có thể đi chung với “hớn hở”?
Trở lên, chúng tôi mạo muội nêu vài nhận xét về ngôn ngữ trong tiểu thuyết Ba người khác của Tô Hoài. Sở dĩ chúng tôi mạo muội nêu lên mấy nhận xét trên đây chẳng qua là vì muốn đạt đến cái đỉnh cao của sự thưởng thức văn chương mà thôi.
§ 1196. Kiến thức ngày nay, số 592
ĐỘC GIẢ: Quê tôi ở xã Tân Thành, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Trường cấp III tôi học ở sát hàng rào Nhà thờ Đá và từ nhỏ tôi vẫn quen gọi thị trấn soi mình xuống con sông đào là thị trấn Phát Diệm. Nhưng tôi nhớ thuở bé tôi có nghe ông bác tôi nói tên thị trấn này là Phát Diễm. Mối nghi ngờ của tôi càng lớn hơn khi nghe một số người gốc Kim Sơn di cư vào Nam cũng nói như ông bác. Người ta giải thích rằng Phát là phát đạt còn Diễm là diễm lệ. Quyển Đội Công an số 6 viết về thị trấn này trong những năm chống Pháp vẫn gọi nó là Phát Diệm. Trong các văn bản chính thức, con dấu cũng ghi là Phát Diệm.
Vậy xin hỏi: Thị trấn nằm dọc bờ con sông đào của huyện Kim Sơn tên là Phát Diệm hay Phát Diễm? Cái tên này có từ bao giờ và do đâu mà ra?
AN CHI: Địa danh Phát Diệm 發豔 là do Nguyễn Công Trứ đặt ra trong công cuộc khai khẩn vùng đất nay là Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) hồi 1828 – 1829. Ý nghĩa của địa danh này hoàn toàn đúng như ông đã nêu. Cách đọc chính xác xưa nay vẫn là Phát Diệm. Diệm 豔 là đẹp đẽ, sáng sủa, như đã cho trong Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Tuy cũng có quyển như Việt Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp, và cả Đào Duy Anh trong mục phụ của chữ đang xét, ghi cho nó âm diễm nhưng trong thư tịch bằng chữ Hán, xưa nay nó chỉ có thanh khứ (diệm) chứ không bao giờ có thanh thượng (diễm). Vậy diễm chỉ là một âm hậu khởi, nay đã trở nên phổ biến, như có thấy trong diễm lệ, kiều diễm, diễm tình, diễm thi, v.v.. Xét về lịch sử của hệ thống âm Hán Việt thì diệm mới là âm gốc chứ không phải diễm. Ông bác của ông và một số người gốc Kim Sơn đã loại suy theo âm hậu khởi (như trong các thí dụ kể trên) nên mới nói đó lẽ ra phải là “Phát Diễm” chứ Phát Diệm mới chính là cách đọc chính xác ban đầu còn lưu truyền cho đến tận ngày nay.
§ 1197. Kiến thức ngày nay, số 594
ĐỘC GIẢ: Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng bộ sậu là “tổng thể nói chung những người, những bộ phận làm thành một bộ máy nào đó”. Vậy chữ bộ ở đây có phải cũng là chữ bộ trong bộ phận, toàn bộ, v.v. hay không?
AN CHI: Chữ bộ 步, trong bộ sậu 步驟 có nghĩa là bước, bước đi, hoàn toàn khác với chữ bộ 部 trong toàn bộ, bộ phận, v.v.. Bộ sậu có nghĩa gốc chính xác là bước ngựa đi, rồi thứ tự, trình tự, v.v. Mathews’ Chinese-English Dictionary dịch là “rate of progress; sequence; order; series”. Người ta đã nhầm chữ bộ 歩 này với chữ bộ 部 trong bộ phận, toàn bộ, v.v. nên mới gán cho hai tiếng bộ sậu cái nghĩa như đã thấy trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên. Đây là một cách hiểu theo từ nguyên dân gian, dĩ nhiên là do sự thiếu hiểu biết mà ra. Việc hiểu sai, hiểu nhầm nhiều yếu tố gốc Hán trong tiếng Việt đang trở thành một cái nạn mà ta không thể xem nhẹ, nếu ta thực sự muốn giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Tuy là một phổ niệm (universal), nghĩa là một hiện tượng có thể gặp trong mọi ngôn ngữ nhưng từ nguyên dân gian chẳng phải là cái gì tất yếu như có người đã từng khẳng định. Hậu quả mà nó gây ra chỉ là làm cho nguồn gốc đích thực của từ ngữ thêm mờ mịt mà thôi. Ta sẽ chỉ phải chấp nhận cách hiểu theo từ nguyên dân gian khi không còn cách nào để xoay chuyển tình thế chứ không thể hài lòng với nó một cách vô nguyên tắc, càng không thể vỗ tay đón tiếp nó ngay từ đầu như có tác giả đã viết trên tờ tạp chí của một hội chuyên ngành.
Trở lại với hai tiếng bộ sậu, xin nhấn mạnh rằng cái nghĩa đã cho trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên chỉ là hệ quả của một cách hiểu theo từ nguyên dân gian. Chữ bộ ở đây viết là 歩, chứ không liên quan gì đến chữ bộ 部 trong bộ phận hoặc toàn bộ cả.
§ 1198. Kiến thức ngày nay, số 594
ĐỘC GIẢ: Có người nói rằng chữ bèn (thí dụ: Ưng ý, bèn mua ngay) là do chữ tiện 便 mà ra. Xin cho biết giải thích như thế có đúng không?
AN CHI: Đó là một lời giải thích chính xác. Bèn là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 便,mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là tiện nhưng theo cách phát âm xưa thì lại có phụ âm đầu là một âm môi, như vẫn còn lưu tích trong tiếng Bắc Kinh (biàn), tiếng Quảng Đông (pìn) và nhiều phương ngữ khác của tiếng Hán. Ngay trong tiếng Việt, ta cũng có những cứ liệu về mối tương ứng b- ~ t-, chẳng hạn: -bì (trong so bì) cùng gốc với tỉ 比 (trong tỉ lệ); -bệ (trong bệ rạc) cùng gốc với tệ 敝 (trong tệ hại); -bêu (trong bêu riếu) cùng gốc với tiêu 標 (trong tiêu biểu); v.v..
Vậy chẳng có gì lạ nếu bèn cùng gốc với tiện, biết thêm rằng thanh điệu 2 tương ứng với thanh điệu 6 và vần -iên tương ứng với vần -en là chuyện thường thấy.
Nhân tiện, xin nói rằng từ bèn không đi chung với những vị từ chỉ hành động hoặc diễn biến xảy ra ngoài ý muốn hoặc không phụ thuộc vào sự quyết định của chủ thể. Vì thế mà một câu như câu sau đây nghe sẽ rất lạ tai. Trong mục “Danh nhân đất Việt”, phát hình trên VTV1 tối 27-12-2005, sau khi say sưa kể chuyện và phân tích, nhà sử học Lê Văn Lan đã nói trước khán giả truyền hình như sau:
“Trần Nhật Duật bèn khỏi bệnh”.
Hẳn ai ai cũng biết rằng sự khỏi bệnh không phụ thuộc vào ý chí của Trần Nhật Duật. Vậy ta không thể dùng “bèn” ở đây mà chỉ có thể nói:
– Trần Nhật Duật liền khỏi bệnh.
§ 1199. Kiến thức ngày nay, số 596
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 475, ông đã có trả lời về từ nguyên của địa danh Cửa Lò. Mới đây, Văn nghệ (Trung ương), số 2, ngày 13-1-2007, có đăng bài “Cửa Lò, đất chuộng khách” của Nguyễn Uyển. Tác giả này có nhắc đến ý kiến của GS. Đinh Xuân Lâm như sau:
“Căn nguyên hai tiếng Cửa Lò cũng được giáo sư cắt nghĩa kỹ càng. Theo dân gian, ấy là: Từ Cửa Gió lùa, người ta nói gọn lại thành Cửa Lùa, rồi thành Cửa Lò như bây giờ. Giải thích có tính chất hàn lâm học, giáo sư dẫn Bình Nguyên Lộc (Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam) cho rằng: “Cửa Lò là địa danh gốc Malayo-pôlynêdiêng có nghĩa là Cửa sông. Trong ngôn ngữ của các cư dân Malayo-pôlynêdiêng có từ Kuala để gọi tên nơi một con sông đổ ra biển …Dần dần, danh từ Kuala với nghĩa là cửa sông chuyển thành danh từ riêng Kuala/Kualo và cuối cùng địa danh hoá thành Cửa Lò – Cửa Lò là tên gọi để chỉ nơi con sông Lạch Lò đổ nước ra biển…”.
Xin ông cho biết ý kiến của mình về vấn đề này.
AN CHI: Trước nhất, xin nhận xét về cách giải thích hai tiếng Cửa Lò theo dân gian, như GS. Đinh Xuân Lâm đã nêu. Đây chính là từ nguyên dân gian mà đã là từ nguyên dân gian thì thường không đúng. Chẳng cần biện luận xa xôi, chỉ xin phân tích về sự chuyển biến từ lùa thành lò để chỉ ra sự phi lý. Hiện nay, thổ ngữ Nghệ An còn có hai từ ló và rò, tương ứng với lúa và rùa của tiếng Việt toàn dân. Trong sự tương ứng đó thì -o của Nghệ An xưa hơn -ua của tiếng Việt toàn dân; đồng thời -o trong ló và rò chính là lưu tích của thời kỳ Việt -Mường chung (chưa tách thành tiếng Việt và tiếng Mường). Từ điển Mường-Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nguyễn Văn Khang chủ biên (Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 2002) ghi nhận hai từ lúa và rùa trong tiếng Mường là lõ và rò. Xem thế đủ biết -o trong tiếng Nghệ An là một âm rất xưa; đồng thời trong sự chuyển biến ngữ âm chung của tiếng Việt, ta chỉ có thể có hiện tượng “-o → -ua” chứ không có hiện tượng ngược lại (-ua → -o). Vậy nếu Nghệ An từng có địa danh *Cửa Gió lùa thì có nghĩa là khi nó xuất hiện, vị từ lùa đã được phát âm thống nhất với tiếng Việt toàn dân rồi và nó không thể “thoái hoá” thành *lò, như từ nguyên dân gian đã giải thích. Hẳn là GS. Đinh Xuân Lâm cũng chẳng tin vào chuyện “Cửa Gió lùa” và chuyện “lùa biến thành lò” nên ông mới đưa ra “cách giải thích có tính chất hàn lâm học” mà Nguyễn Uyển đã ghi lại.
Thực ra, ông Đinh Xuân Lâm không phải là người đầu tiên nhắc lại ý kiến của Bình Nguyên Lộc để giải thích nguồn gốc của địa danh Cửa Lò. Người đầu tiên, theo chúng tôi biết, chính là Trần Trí Dõi mà về kiến giải của tác giả này thì chúng tôi đã đề cập trên Kiến thức ngày nay, số 475. Ở đây, chỉ xin phân tích một vài điểm chính liên quan đến lập luận của Bình Nguyên Lộc, mà theo lời thuật của Nguyễn Uyển, thì ông Đinh Xuân Lâm mặc nhiên xem là chính xác.
Xin nói rằngtoàn bộ mục E (Ngôn ngữ tỷ hiệu, tr. 455 – 658), chương V trong cuốn sách của Bình Nguyên Lộc, với 175 biểu đối chiếu của nó, rất xa lạ với phương pháp lịch sử – so sánh chân chính vì đó chỉ là kết quả của một sự biện luận mang tính tài tử. Bình Nguyên Lộc nói rằng “danh từ Việt giống Mã Lai lại có từ thuở dân ta…mới biết nói tiếng người”(tr. 456). Trong cái nhan đề cuốn A Study of Middle Vietnamese Phonology của Kenneth J. Gregerson thì Middle Vietnamese là tiếng Việt trung đại (thời gian) mà ông cứ ngỡ đó là “tiếng Việt miền Trung” (không gian) (Xem tr. 476). Người ta chia tiếng Hán thành các phương ngữ như Quảng Đông, Phúc Kiến, Bắc Kinh, v.v. thì ông chê rằng đó là chuyện buồn cười (Xem tr. 484 – 485). Vì không có ý thức về ngữ học lịch sử và về phương ngữ học như trên nên Bình Nguyên Lộc mới dám hình dung rằng sau khi Mã Viện bình định xong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng mà bọn đô hộ đã dạy dân ta học tiếng Tàu theo âm Bắc Kinh hiện đại, chẳng hạn một câu như “Wò txửa fál” (tr. 494), v.v. và v.v..
Trở lên là một vài nhận xét tổng quát về sở đắc ngữ học của Bình Nguyên Lộc còn bây giờ xin trở lại với địa danh Cửa Lò mà tác giả này cho là cùng gốc với Kuala (Bình Nguyên Lộc viết “Kưala”) của tiếng Mã Lai. Bình Nguyên Lộc khẳng định rằng “cách đây 300 năm, dân ta không nói cửa mà nói pan do p’pan của Mã Lai mà ra” (tr. 528), rằng “danh từ cửa chắc chắn xuất hiện ra sau năm 1792, tức chỉ mới đây thôi” và “cửa là tiếng Mã Lai Kưala” (tr. 529), rằng “Kưala của Mã Lai chỉ để gọi cửa sông (…) và Việt Nam chỉ mới đồng hoá Kưala để chỉ cửa nhà không lâu” (tr. 530). Nhưng sự thật hoàn toàn không phải như Bình Nguyên Lộc đã khẳng định.
Người Việt không bao giờ gọi cửa là pan còn papan (Bình Nguyên Lộc viết p’p an) trong tiếng Mã Lai chỉ có nghĩa là ván, bảng, kệ, giá chứ không hề có nghĩa là cửa (cửa là pintu). Danh từ cửa của tiếng Việt cũng chẳng phải sau năm 1792 mới ra đời vì trước đó 20 năm nó đã được Pigneaux de Béhaine ghi nhận trong Dictionarium Anamitico Latinum (1772 – 1773). Còn xa hơn nữa, vào nửa đầu thế kỷ XV, nó đã xuất hiện với một tần số cao trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (1380 – 1442): cửa quyền (các bài 6, 20, 27), cài cửa (b.20), cửa song (b.21), cửa Nho (b.27), cửa vương hầu (b.30), cửa nhà (b.30), cửa ngọc (b.40), v.v.. Thế là danh từ cửa đã tồn tại trong từ vựng của tiếng Việt tự đời nào rồi và người ta đã dùng nó để tạo ra những danh ngữ thông thường mà nó là một thành tố (như đã thấy trong thơ Nguyễn Trãi) hoặc để tạo ra những danh ngữ đặc xưng (địa danh) như: Cửa Bạng (Thanh Hoá), Cửa Cấm (Hải Phòng), Cửa Đáy (Ninh Bình), Cửa Hội (Nghệ An), Cửa Sót (Hà Tĩnh), Cửa Tùng (Quảng Trị), v.v.. Cửa Lò cũng nằm trong cùng một trục đối vị đó.
Vậy ta chẳng nên nhiễu sự mà đi tìm nguồn gốc của Cửa Lò trong tiếng Mã Lai Kuala, mà Bình Nguyên Lộc cố ý bóp méo thành “kưala” để cho âm tiết thứ nhất càng gần với âm “cửa” của tiếng Việt hơn. Ta càng không nên đưa một lối giải thích mang nặng tính tài tử như thế vào trong luận văn của mình vì nó chỉ có thể làm giảm giá trị của áng luận văn đó mà thôi. Bất kể nguồn gốc của Lò trong Cửa Lò ra sao, ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng đó là một cái tên do người Việt Nam đặt ra bằng chất liệu của chính tiếng Việt chứ tuyệt đối chẳng có liên quan gì đến tiếng Mã Lai. Rất có thể đó chính là âm xưa của Lô trong Lô sơn, có nghĩa là núi Lò, một ngọn núi cùng địa phương. Nhưng ngay trước mắt, ta có thể vận dụng thẳng một dữ kiện do Đinh Xuân Lâm đưa ra và Nguyễn Uyển đã thuật lại:
“Cửa Lò là tên gọi để chỉ nơi con sông Lạch Lò đổ nước ra biển”.
Để cho dễ thấy, ta có thể đẳng thức hoá cái câu trên đây của GS. Đinh Xuân Lâm thành:
– Cửa Lò = cửa của lạch Lò, y hệt như: Cửa Bùng = cửa của sông Bùng (Diễn Châu, Nghệ An).
– Cửa Cạn = cửa của sông Cạn (ở đảo Phú Quốc).
– Cửa Cấm = cửa của sông Cấm (thành phố Hải Phòng).
– Cửa Gianh = của của sông Gianh (Quảng Bình), v.v..
Thế là Lò nằm trong một cái thế đối vị với Bùng, Cạn, Cấm, Gianh, v.v. và đây đều là những danh từ riêng bằng tiếng Việt chính tông chứ Lò chẳng có dây mơ rễ má gì với -la trong kuala cả.
Tóm lại, ý kiến của Bình Nguyên Lộc không phải là kết quả của những thao tác nghiêm túc và chính xác trong phương pháp lịch sử – so sánh. Nó không thể là căn cứ để ta có thể dựa vào mà đi tìm từ nguyên của địa danh Cửa Lò.
§ 1200. Kiến thức ngày nay, số 596
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn bài Tầm ẩn giả bất ngộ của Giả Đảo và bản dịch của Tản Đà.
AN CHI: Sau đây là nguyên văn chữ Hán, phần phiên âm, phần dịch nghĩa bài Tầm ẩn giả bất ngộ của Giả Đảo và bản dịch của Tản Đà, dẫn từ quyển Thơ Đường do Tản Đà dịch và do Nguyễn Quảng Tuân biên soạn (Nxb. Văn học, 2003):
Tầm ẩn giả bất ngộ
Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn sự thái dược khứ.
Chỉ tại thử sơn trung,
Vân thâm bất tri xứ.
Dịch nghĩa:
Tìm người ở ẩn, không gặp
Dưới cây thông, hỏi chú tiểu đồng,
Chú em nói: “Thầy tôi đi hái thuốc, vắng nhà,
Chỉ ở nội trong núi này thôi,
Nhưng mây mờ đặc không biết đang ở chỗ nào”.
Tìm nhà ẩn dật không gặp
Gốc thông hỏi chú học trò,
Rằng: “Thầy hái thuốc lò mò đi xa.
Chỉ trong dãy núi đây mà,
Mây che mù mịt biết là nơi nao?”.
§ 1201. Kiến thức ngày nay, số 597
ĐỘC GIẢ: Tham ô nghĩa là gì? Có phải trong chữ tham có chữ kim là vàng, ý nói ham tiền ham của hay không? Dân chúng có tham ô được không? Hủ hoá là gì mà lại đi chung với tham ô thành tham ô hủ hoá?
AN CHI: Đúng là trong chữ tham 貪 có chữ kim nhưng chữ kim 今 này có nghĩa là nay (trong xưa nay) chứ không có nghĩa là vàng. Chữ kim là vàng, Hán tự là 金.
Tham 貪 là một hình thanh tự mà thanh phù là kim 今 còn nghĩa phù là bối 貝, có nghĩa là tiền của. Vậy chính chữ bối này mói nói lên cái ý ham tiền ham của của chữ tham.
Ban đầu, hai tiếng tham ô chỉ có nghĩa chung chung là tham lam nhớp nhúa nhưng trong tiếng Hán (rồi cả tiếng Việt) do áp lực của thành ngữ tham quan ô lại nên nó mới có cái nghĩa hiện hành. Tham quan ô lại là một thành ngữ gồm có hai danh ngữ đẳng lập là tham quan và ô lại. Tham quan là quan tham lam còn ô lại là bọn thuộc hạ nhớp nhúa (của quan). Vậy thành ngữ này vốn dùng để nói về bọn quan lại nhớp nhúa của nha môn thời xưa. Nghĩa hiện hành của hai tiếng tham ô là một nghĩa phái sinh từ nghĩa của thành ngữ này. Trong Hán ngữ hiện đại, tham ô có nghĩa là lợi dụng sự thuận tiện do chức quyền tạo ra mà chiếm lấy của cải. Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên soạn từ điển thuộc Sở nghiên cứu ngôn ngữ của Viện khoa học xã hội Trung Quốc (Thương vụ án thư quán, Bắc Kinh, 1992) giảng tham ô (tànwù) là:
“Lợi dụng chức vụ thượng đích tiện lợi phi pháp địa thủ đắc tài vật”.
Đây chính là cái nghĩa mà chúng tôi đã dịch ở trên. Từ hải bản tu đính 1989 còn giảng cái nghĩa này kỹ hơn bằng cách đi sâu vào mặt pháp lý (mà chúng tôi không nhắc lại ở đây). Vậy, trong tiếng Hán hiện đại, nghĩa của hai tiếng tham ô đã bị thu hẹp chứ không còn chung chung như trước kia nữa. Đây là cái nghĩa đang lưu hành chính thức để chỉ hành động tham nhũng của cán bộ (trước 1949) rồi của các quan chức trong bộ máy nhà nước hiện nay. Với nghĩa này, hai tiếng tham ô còn đi chung với hai tiếng hủ hoá để làm nên thành ngữ tham ô hủ hoá mà Hán Đại thành ngữ đại từ điển giảng là:
“Lợi dụng chức quyền xâm thôn quốc gia tài vật hoặc tiếp thụ hối lộ, quá mi lạn đoạ lạc đích sinh hoạt”.
(Lối sống sa đoạ thối nát (bằng cách) lợi dụng chức quyền mà ăn cắp tài sản quốc gia hoặc nhận của hối lộ).
Thành ngữ này đã đi vào tiếng Việt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp nhưng chỉ có cái nghĩa của hai tiếng tham ô là được giữ nguyên còn hủ hoá thì đã bị biến nghĩa một cách…khôi hài. Nghĩa gốc của hai tiếng hủ hoá trong tiếng Hán là trở nên hư hỏng nói chung, còn nghĩa hiện hành là trở nên hư hỏng so với tiêu chuẩn của cán bộ cách mạng và đảng viên (cộng sản).
Trong Hán ngữ hiện đại, người ta chỉ xài hai tiếng hủ hoá với cái nghĩa này nhưng sang đến ta thì không hiểu vì lý do gì mà nó lại dùng để chỉ sự ăn nằm lén lút hoặc bất chính giữa nam và nữ của cán bộ với nhau hoặc với dân! Trong tiếng Việt thì nghĩa của hủ hoá cũng trải qua hai giai đoạn: trước 1945 thì đó là trở nên hư hỏng, không còn tốt đẹp và sau 1945, trong vùng giải phóng và ở những môi trường mà sinh hoạt trực tiếp chịu ảnh hưởng của kháng chiến, thì đó là thực hiện mối quan hệ bất chính đã nói ở trên. Vì không phân biệt được hai giai đoạn này nên Trương Chính mới phê bình Trần Trọng Kim dùng sai nghĩa của hủ hoá và cũng chính vì cái sai này của Trương Chính nên trước đây chúng tôi đã viết:
“Trần Trọng Kim hoàn toàn đúng khi dùng hai tiếng hủ hoá theo nghĩa “hư hỏng, không còn tốt đẹp nữa”. Còn cái nghĩa “quan hệ nam nữ bất chính về xác thịt” mà Trương Chính nêu lên thì lại chỉ bắt đầu được dùng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) nhưng cũng không phải là rộng rãi trong cả nước mà chỉ ở vùng chiến khu và vùng tự do. Sau 1954, nó mới được dùng rộng rãi trên cả miền Bắc và ở một số vùng căn cứ của miền Nam. Sau 1975, chưa kịp trở nên thông dụng ở những vùng còn lại của miền Nam thì hình như nó đã chết”*.
Bây giờ thì nó đã chết thật, có lẽ vì hủ hoá chỉ là chuyện nhỏ: mại dâm, mãi dâm và sex nói chung mới là chuyện đại sự.
Trở lại với hai tiếng tham ô, xin nói rằng cả trong tiếng Hán lẫn tiếng Việt hiện đại, hai tiếng này chỉ dùng để nói về cán bộ, nói chung là các vị có chức có quyền, như đã cho trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003):
“Lợi dụng quyền hạn hoặc chức trách để ăn cắp của công”.
Vì vậy nên nói rằng dân mà “tham ô”, cho dù người dân đó có là cò đất, cò nhà, thì chỉ là làm trò khôi hài một cách… vô duyên.
§ 1202. Kiến thức ngày nay, số 597
ĐỘC GIẢ: Ông đã phê bình ngôn ngữ của nhà văn Tô Hoài trong tiểu thuyết Ba người khác trên Kiến thức ngày nay, số 591. Tôi lo, không biết rồi đây ông sẽ còn phê bình ngôn ngữ của nhà văn nổi tiếng nào khác nữa?
AN CHI: Nổi tiếng không có nghĩa là tuyệt đối không có một khuyết điểm nào.
Trở lại với ngôn ngữ của Ba người khác, xin nói rằng trên Kiến thức ngày nay, số 591, chúng tôi cũng chưa nêu hết nhận xét của mình được. Nói chung là bên cạnh sự tìm tòi, sự trau chuốt, vẫn còn những chỗ thô ráp. Chẳng hạn:
– Tôi để ý cái xương bánh chè hai bên hông Duyên (tr. 141).
Xương bánh chè thì ở hai đầu gối chứ ở hai bên hông thế nào được?
– (…) máu chảy ròng ròng xuống chân tường, vệt rỏ giọt dài ra đến chỗ trụ cột (tr. 158).
Tác giả kể chuyện lão Tư Nhỡ trốn khỏi chỗ bị giam. Khi người ta đến nơi thì Tư Nhỡ đã biệt tăm. Mà đây đã là sáng hôm sau. Thế thì làm sao có chuyện “máu chảy ròng ròng”? “Chảy ròng ròng” là chuyện của đêm đã qua chứ vì hai tiếng ròng ròng chỉ dùng với những vị từ ở thể tiến hành, nghĩa là đang diễn ra, mà thôi.
– (…) máy bay Mỹ bắn bom (tr. 221).
Người ta chỉ nói ném bom, liệng bom, bỏ bom, rải bom, rắc bom (kiểu B52) vì một lẽ đơn giản là bom không phụt ra từ nòng súng.
Về chính tả, chúng tôi thấy có những cái lỗi có vẻ như là chính tả đặc trưng của Tô Hoài.
– Chái trong chái nhà bị viết thành “trái” (tr. 56, 58,194).
– Trát trong trát tường bị viết thành “chát” (tr. 58).
– Sướng trong sướng mạ bị viết thành “xướng” (tr. 155).
– Giẻ trong giẻ rách bị viết thành “rẻ” (tr. 174).
– Tru tréo bị viết thành “chu chéo” (tr. 174).
Chính tả là hình thức của hình thức; vậy có lẽ ta cũng nên chăm chút cho đúng chuẩn chăng?