Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1185 - 1193

§ 1185. Kiến thức ngày nay, số 585

ĐỘC GIẢ: Mục “Tin văn nghệ thế giới” tại trang 15 của một tờ báo ra ngày thứ hai 30-10-2006, có mẩu tin:

“Đến Ấn Độ tuần qua, Angelina Jolie bị một tai nạn bất ngờ do xe của cô đụng vào một chiếc xe máy do một thanh niên 19 tuổi điều khiển (…). Có nguồn tin cho rằng, Jolie đang đọc sách thì cô lái xe và gặp tai nạn. Liên tục nhiều sự cố không hay cho vợ chồng nhà Pitt khi đến quay phim nơi đây. (E Online)”.

Xin nhờ ông An Chi kiểm tra lại tính xác thực của cái tin “xe đụng” này. Bộ Angelina Jolie đã chán cái cuộc sống ăn sung mặc sướng và đầy danh vọng của cô ta rồi hay sao mà lại vừa lái xe vừa đọc sách?

AN CHI: Chúng tôi đã vào E Online và thấy có bài “Angelina’s Driver Swipes Biker” của Natalie Finn, đưa lên mạng lúc 5g14 giây (giờ mùa hè Thái Bình Dương (PDT)) chiều ngày thứ tư 11-10-2006. Có lẽ tác giả của mẩu tin mà ông dẫn lại trên đây đã lấy chi tiết từ bài này. Nhưng chẳng làm gì có chuyện Angelina Jolie đọc sách khi đang lái xe cả, trừ phi cô ta mất trí. Liên quan đến chuyện này, Natalie Finn đã viết, nguyên văn như sau:

“Police confirmed to the network that 19-year-old Mittal Rawat was hit by the vehicle while Jolie was riding in the car, reading”.

(Cảnh sát xác nhận với mạng lưới truyền thông rằng Mittal Rawat, 19 tuổi, đã bị chiếc xe tông vào trong khi Jolie đang ngồi trên xe đọc sách). (Xin xem ảnh)

Rõ ràng là Jolie đang ngồi đọc sách trên xe chứ không hề lái xe. Tác giả của mẩu tin tiếng Việt đã hiểu nhầm nghĩa của động từ (to) ride (đi xe, ngồi xe). Huống chi, ngay trong câu tiếp theo, Natalie Finn còn nói đến người lái xe:

“The bruised teen-ager was the one who pointed out that the actress, driver was looking to escape some eager paparazzi”.

(Chàng trai tuổi teen bầm mình tím mẩy chính là người đã nói rõ rằng lúc đó anh lái xe của Jolie đang lo tránh né mấy kẻ paparazzi háu tin).

Rõ ràng là trong chuyện này thì Angelina Jolie không có lỗi. Chỉ đáng tiếc là có nhiều chuyện không hay xảy đến cho cặp Brangelina trong thời gian họ lưu lại Ấn Độ để làm phim, có chuyện do chính họ gây ra, có chuyện thì hoàn toàn ngoài ý muốn của họ. Ngoài ý muốn của họ, chẳng hạn, tính cho đến khi chúng tôi viết những dòng này, Angelina đã bị ngất xỉu đến ba lần, do nhiều nguyên nhân: nhiệt độ và độ ẩm ở Pune (Ấn Độ), áp lực của đám paparazzi và những cảnh quay gây xúc động mạnh. Lần thứ ba trong tháng (mười), theo Canalstars. com, là sau khi Jolie vào vai Mariane trong cảnh nhân vật này vừa hay tin chồng mình đã bị bọn khủng bố sát hại. Còn chuyện mới nhất do chính họ gây ra khi chúng tôi viết những dòng này là họ đã làm cho giới chức hàng không thành phố Jodhpur nổi giận. Họ được Gaj Singh, một vị hoàng thân, mời đến dinh thự của ông ta để dự lễ hội Ánh sáng (Diwali) của người Ấn Độ. Theo lời tường thuật của Sarah Hall trong bài “Brad and Angelina’s Chopper Controversy” của E Online, đưa lên mạng lúc 12g33ph23 (giờ mùa hè Thái Bình Dương) ngày 27-10-2006 thì họ đã đi trên một chiếc trực thăng thuê. Chiếc máy bay này đã đáp xuống một khách sạn sang trọng của Jodhpur hôm thứ hai 23-10 mà không có phép. Tờ Times of India thuật rằng chiếc báy may đã đáp xuống bãi đậu tư của khách sạn Umed Bhawan Palace, sau khi nêu yêu cầu được đáp xuống khẩn cấp. Một viên chức của Jodhpur, ông Bhura Ram Delu, cho biết rằng lẽ ra họ phải xin phép trước và nói tiếp: “Chúng tôi sẽ truy cứu sự việc. Sau khi trao đổi với ban quản lý khách sạn Umed Bhawan Palace, chính quyền địa phương sẽ yêu cầu bộ phận kiểm soát không lưu của Jodhpur báo cáo về vụ này”. Chưa biết cặp Jolie – Pitt có bị xử phạt hay không. Xem ra, xài tiền thì dễ nhưng nhập gia tuỳ tục lại khó.

Sự hiện diện của cặp Brangelina tại Pune ít nhiều đã khuấy động cuộc sống thường nhật ở đây, từ bungalow 223 đến khách sạn Le Méridien và một số địa điểm hữu quan khác. Tuy an ninh cho đoàn làm phim và bí mật các cảnh quay được thực hiện chặt chẽ nhưng ta cũng có được một vài bức ảnh …chưa nguội tính thời sự. Trên Kiến thức ngày nay, số 583, chúng tôi có nhắc đến chuyện một vệ sĩ của cặp Brangelina hành hung một nhà nhiếp ảnh. Và dù có bí mật đến đâu thì cũng không thể ở một chỗ. Như đã nói, lẽ ra, A Mighty Heart phải được quay ở Pakistan nhưng thực tế thì hầu như mọi việc đều được tiến hành ở Ấn Độ vì những lý do tế nhị, trong đó có việc giữ gìn an toàn cho diễn viên. Ngay cả ở Ấn Độ, hiện nay người ta cũng đang tăng cường an ninh chung quanh Jolie và Pitt vì lo rằng họ có thể bị bọn khủng bố sát hại. Còn Jolie thì cứ tiếc rẻ vì phim không được quay ở Pakistan, là đất nước mà cô đã đến thăm ba lần và ca ngợi về sự tươi đẹp, nhất là vì Pakistan mới chính là nơi mà Daniel Pearl bị sát hại. Vả lại, chính Jolie cũng khẳng định:

“A Mighty Heart không phải là một bộ phim về chủ nghĩa khủng bố hoặc về xung đột; đó là một câu chuyện về những người thuộc tất cả các tín ngưỡng cùng làm việc với nhau để tìm ra lẽ phải”.

§ 1186. Kiến thức ngày nay, số 586

ĐỘC GIẢ: Trong một bài viết rất bổ ích và đầy chi tiết lý thú nhan đề “Giải mã về nơi an táng Hùm xám Yên Thế”, đăng trên An ninh Thế giới, số 600, ngày 28-10-2006 và số 601, ngày 1-11-2006, tác giả Đỗ Doãn có sao lại (đúng bút tích trong hiện vật) nguyên văn bài thơ Nôm sau đây:

Theo tác giả thì bài thơ này đã được Bảo tàng Bắc Giang đọc như sau:

Cờ nghĩa bao năm nay lỡ vận.

Hậu thế nghìn năm ai biết không?

Yên Ngựa nghỉ vào đây lòng đất

Thế sự Hoàng Hoa ai rõ chăng?

Một nghìn chín trăm mười ba

Tháng năm ngày mồng chín Loan.

Còn chuyên gia hàng đầu về Hán Nôm ở Việt Nam, ông Nguyễn Tá Nhí, phất phơ đầu bạc, dùng kính lúp cùng Thạc sĩ Nguyễn Xuân Diện, ngồi tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, “lục vấn” từng chữ – vẫn là lời của Đỗ Doãn – rồi Cụ Tá Nhí rành rọt giải thích và đọc:

Cờ nghĩa bao năm lanh lẹ (hoặc nhanh nhẹ) vần

Hậu thế ngàn năm ai biết không

Yên Ngựa ngờ (ghi, nghi) vào nơi lòng đất

Thế sự Hoàng Hoa ai dẫu (thấu) chăng?

Xin hỏi: Giữa cách đọc của Bảo tàng Bắc Giang và cách đọc của cụ Tá Nhí, cách nào hợp lý hơn? Và riêng ông An Chi thì ông đọc như thế nào?

AN CHI: Trước nhất, để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin sao lại đúng nguyên văn bài thơ Nôm đang xét bằng chữ in vi tính như sau:

Bài thơ Nôm trên báo ANTG

Bài thơ Nôm vi tính

Với chúng tôi thì cách đọc của Bảo tàng Bắc Giang (BTBG) hợp lý hơn cách đọc của cụ Nhí.

Nhưng đây là nói chung, chứ cũng có chỗ thì BTBG lại sai, chẳng hạn chữ thứ năm của câu thứ ba, chữ 尼, lẽ ra phải đọc nơi – như cụ Nhí đã đọc – thì BTBG lại đọc thành “đây”. Bây giờ xin đi vào từng câu cụ thể.

Về câu thứ nhất, chúng tôi cho rằng BTBG đã đọc hoàn toàn đúng:

Cờ nghĩa bao năm nay lỡ vận.

Còn cách đọc của cụ Nhí thì chỉ là một thứ tiếng Việt quá yếu ớt. Cờ nghĩa bay phất phới, cờ nghĩa tung bay trước gió, v.v. thì phải quá chứ “cờ nghĩa lanh lẹ (nhanh nhẹ) vần” thì chúng tôi e rằng chẳng có người Việt nào hiểu đó là gì. Cờ bay thì bình thường; cờ rũ cũng bình thường chứ “cờ vần” thì cũng chỉ là một thứ “châu dệt” mà thôi (như chúng tôi đã phân tích trên Kiến thức ngày nay, các số 400, 401 và 439). Trong câu này, bốn chữ đầu chắc chắn là cờ nghĩa bao năm không sai chậy đi đâu được. Chữ thứ bảy, cũng không sai chậy đi đâu được, là chữ vận. Chữ thứ sáu, chữ 侣, mà đọc thành lẹ (hoặc nhẹ) như cụ Nhí, thì hoàn toàn vô lý. Đó là chữ lỡ rõ mồn một. Vậy chữ thứ sáu và chữ thứ bảy chắc chắn là lỡ vận. Bây giờ ta thử xét xem trong một ngôn cảnh bảy tiếng mà bốn tiếng đầu đã là cờ nghĩa bao năm và hai tiếng cuối là lỡ vận thì chữ thứ năm, chữ 份 có thể hoặc phải đọc là gì. Từ điển chữ Nôm của Viện nghiên cứu Hán Nôm do Nguyễn Quang Hồng chủ biên đã ghi cho nó 7 âm: lanh, lành, lềnh, lình, ranh, rành, rảnh. Không có bất cứ âm nào thích hợp với ngôn cảnh đang xét. Ta có quyền nghĩ rằng đó là một chữ viết sai. Có lẽ cũng do nghĩ như thế mà BTBG đã đọc chữ thứ năm thành nay vì cho rằng ở trong 伶 thì chữ kim 今 là “nay” đã bị viết sai thành 令. Điều này hoàn toàn có lý. Với chúng tôi thì 伶 chính là chữ nay đã bị viết sai. Chữ này nguyên dạng là 今尼, có thể đảo lại mà viết thành 尼今. Ta biết rằng khi người ta cần viết cho nhanh thì những chữ (bộ thủ) hoả 火, thuỷ 氵, mịch 糸, kim 金, túc 足, thực 食, v.v. ở bên trái đều có thể viết tắt thành 刂.

Ở đây, chữ “nay” cũng bị viết như thế nên cả chữ mới thành , rồi chữ này mới bị viết nhầm thành 伶. Điều này hoàn toàn không có gì lạ. Vậy câu đầu là:

Cờ nghĩa bao năm, nay lỡ vận.

Câu thứ hai hoàn toàn không có vấn đề gì. Đó là:

Hậu thế nghìn năm ai biết không?

Câu thứ ba vướng mắc ở chữ thứ ba và chữ thứ năm. Chữ nơi 尼, mà cụ Nhí đã đọc hoàn toàn đúng thì không biết tại sao BTBG lại đọc thành “đây”. Vậy bốn chữ cuối là vào nơi lòng đất. Chữ ở đây mà đọc thành ngờ, ghi (thanh mẫu của nó là ng- nên không thể là “ghi”) hoặc nghi thì đều không thích hợp. Đó rõ ràng là chữ nghỉ và câu này là:

Yên Ngựa nghỉ vào nơi lòng đất.

Câu cuối thì vướng mắc ở chữ thứ sáu mà BTBG đọc là rõ còn cụ Nhí đọc thành dẫu hoặc thấu. Ở đây mà đọc thành “dẫu” thì vô nghĩa. Còn đọc thành thấu thì thấu đồng nghĩa với rõ nhưng âm lý thì không xuôi (thanh mẫu của 油 là -d nên không dùng để ghi th-). Chúng tôi cho rằng đây là chữ rõ bị viết nhầm thành 油. Huống chi, chỉ riêng về mặt âm lý mà thôi, đã có thể đọc thành “dẫu” thì tại sao lại không thể đọc thành rõ? Vậy câu cuối là:

Thế sự Hoàng Hoa ai rõ chăng?

Và cả bài là:

Cờ nghĩa bao năm nay lỡ vận.

Hậu thế nghìn năm ai biết không?

Yên Ngựa* nghỉ vào nơi lòng đất.

Thế sự Hoàng Hoa ai rõ chăng?

§ 1187. Kiến thức ngày nay, số 586

ĐỘC GIẢ: Paul Mauriat là ai mà mới mất thì đã có phương tiện truyền thông của ta đưa tin và tỏ lòng thương tiếc?

AN CHI: Trong phần “Cáo phó” đăng ngày 9-11-2006, Le Monde.fr đã viết:

“Paul Mauriat là ông hoàng của nhạc êm dịu, khẽ khàng, lãng mạn, diễn tấu trên những thảm vĩ cầm mịn mượt; biết bao lứa đôi đã khiêu vũ theo nhịp của nó sau buổi dạ yến.

Người soạn bản L’amour est bleu (Tình yêu (mang) màu xanh) đã từ trần hôm thứ sáu 3 tháng 11 tại Perpignan (Đông Pyrénées). Ông thọ 81 tuổi. Sinh tại Marseille ngày 4 tháng 3 năm 1925, Paul Mauriat nổi tiếng khắp thế giới nhờ bản nhạc này, mà tên tiếng Anh là Love is Blue, soạn năm 1968, do André Popp viết (nhạc) và ban đầu là do Vicky Leandros hát để ghi âm”.

Nói Paul Mauriat nổi tiếng khắp thế giới hoàn toàn không có gì ngoa. Love is Blue đứng đầu bảng xếp hạng tại Mỹ trong sáu tuần liền. Riêng tại Nhật Bản và Hàn Quốc thì dàn nhạc của ông đã đến trình diễn trên 1.200 lần. Ở Trung Quốc thì hai lần. Lần cuối cùng ông chỉ huy dàn nhạc diễn tấu tại Nhật là vào năm 1998 tại Osaka. Nhưng Le Grand Orchestre de Paul Mauriat vẫn tiếp tục lưu diễn ở các nước châu Á và các nước khác dưới sự chỉ huy của Gilles Gambus.

§ 1188. Kiến thức ngày nay, số 587

ĐỘC GIẢ: Trước đây xem báo, đài, tôi chỉ thấy và nghe nói đến tổng thống Philippines là bà Arroyo. Đùng một cái, đến APEC 2006 tại Hà Nội, lại thấy xuất hiện thêm một vị nữ tổng thống nữa là bà Michelle Bachelet. Tôi chưa nghe nói đến vị này bao giờ; ông An Chi có thể giới thiệu vài nét chăng?

AN CHI: Thực ra thì trên thế giới hiện nay, ta thấy có đến mười vị phụ nữ làm nguyên thủ quốc gia hoặc thủ tướng. Còn sở dĩ ông biết đến bà Gloria Macapagal Arroyo mà chưa nghe nói đến bà Michelle Bachelet là vì hai lý do: Thứ nhất, bà Arroyo là nguyên thủ của một quốc gia Đông Nam Á, có nhiều liên hệ với Việt Nam vì đều cùng nằm trong khối ASEAN nên ta thường nghe nói đến nhiều hơn. Thứ hai, bà Arroyo đắc cử tổng thống nhiệm kỳ đầu tiên là vào ngày 20-01-2001, rồi tái đắc cử nhiệm kỳ hiện nay vào ngày 10-5-2004, nghĩa là tính đến nay bà đã làm tổng thống được gần 6 năm, còn bà Bachelet thì mới nhậm chức tổng thống Chile từ ngày 11-3-2006, chưa đầy một năm. Vì thời gian hãy còn ngắn nên ta ít nghe nói đến vị này. Đây là nói theo cái lý thông thường chứ thực ra thì bà Michelle Bachelet cũng là một nhân vật nổi bật và nổi tiếng (Ảnh 1).

Michelle Bachelet Jeria

Tổng thống nước Cộng hoà Chile.

Verónica Michelle Bachelet Jeria sinh ngày 29-9-1951 tại Santiago, Chile. Cha bà là tướng không quân Alberto Bachelet còn mẹ là nhà nhân loại học Angela Jeria. Bà thông thạo năm thứ tiếng: Tây Ban Nha, Anh, Đức, Bồ Đào Nha, Pháp và cũng biết đôi chút về tiếng Nga. Năm 2006, Michelle Bachelet được tạp chí Forbes xếp hàng thứ 17 trong 100 người phụ nữ có thế lực nhất thế giới. Bà đã từng là Bộ trưởng Bộ Y tế (2000), rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (2002) trong chính phủ của tổng thống tiền nhiệm Ricardo Lagos.

Kết thúc bậc trung học, cô gái Michelle đỗ tú tài năm 1969 rồi tiếp tục theo học ngành y tại trường Đại học Chile từ năm 1970. Năm 1973, tướng Pinochet làm đảo chính, lật đổ chính phủ của tổng thống Salvador Allende. Là người thân cận với tổng thống, cha của Michelle cũng bị phe đảo chính bắt giam, tra tấn rồi qua đời trong trại giam hồi tháng 3-1974 vì một cơn đau tim. Michelle và mẹ cũng bị bắt giam và tra tấn trong một trại khác ở Santiago. Được trả tự do năm 1975, bà Angela Jeria và con gái phải sang sống tị nạn ở Australia. Rồi Michelle đến Leipzig (Cộng hoà Dân chủ Đức) để học tiếng Đức; sau đó tiếp tục theo học ngành y tại trường Đại học Humbold ở Berlin. Michelle trở về Chile năm 1979 để hoàn tất việc học và năm 1982 thì đạt được văn bằng về giải phẫu.

Khi trở về Chile (1979), Michelle nguyện sẽ phục hồi nền dân chủ đã bị tướng độc tài Pinochet huỷ hoại. Khi nền dân chủ được phục hồi và Pinochet bị phế truất (1990), Michelle làm việc ở Bộ Y tế. Nhưng vì quan tâm đến quân sự nên Michelle lại theo học ở Học viện quốc gia về chính trị và chiến lược rồi đứng đầu cả khoá, nhờ đó có được học bổng để theo học tại Inter-American Defense College của Mỹ. Năm 1998, Michelle trở về Chile, làm cố vấn cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Michelle Bachelet đã gia nhập Đảng xã hội Chile từ những năm 1970 rồi trở thành uỷ viên trung ương năm 1995. Ngày 11-3-2000, bà được Tổng thống Ricardo Lagos bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Y tế, rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày 7-1-2002, trở thành người phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ này ở châu Mỹ La Tinh. Năm 2005, cảm nhận được uy tín của mình trước quần chúng, bà đã quyết định từ nhiệm để ra tranh cử vào chức vụ tổng thống. Vòng 1 diễn ra ngày 11-12-2005 với 4 ứng cử viên.

– Sebastián Pinera, thuộc cánh trung hữu;

– Michelle Bachelet, thuộc cánh trung tả;

– Tomás Hirsch, thuộc cánh tả; và

– Joaquin Lavin, thuộc cánh hữu.

Không ứng cử viên nào đạt được đa số tuyệt đối nên hai người có số phiếu cao nhất là Michelle Bachelet và Sebastián Pinera phải tranh cử vòng 2. Và Michelle Bachelet trở thành tổng thống với 53,5% số phiếu bầu, so với 46,5% của đối thủ cánh hữu là Sebastián Pinera.

Michelle Bachelet là người phụ nữ thứ năm được bầu làm tổng thống ở châu Mỹ La Tinh và là người đầu tiên của Chile. Lễ nhậm chức của bà diễn ra thật long trọng, với sự hiện diện của nguyên thủ (hoặc đại diện) nhiều quốc gia, đặc biệt là của châu Mỹ La Tinh.

Trong khi vận động tranh cử, bà Michelle Bachelet đã hứa rằng chính phủ của bà sẽ gồm có 10 nam và 10 nữ và bà đã giữ lời.

Bà cũng hứa: “Tôi sẽ nói (với các bạn) những gì tôi nghĩ; và tôi sẽ làm những gì tôi nói”. Theo tinh thần này, sau chuyến đến thăm Việt Nam (và dự APEC) và New Zealand, ngày 21-11-2006, trên đường về, bà đã ghé thăm đảo Pascua để nhắc lại lời hứa xây dựng một bệnh viện mới cho hòn đảo này.

§ 1189. Kiến thức ngày nay, số 588

ĐỘC GIẢ: Một vị giáo sư của ta đã viết như sau: “Cuốn (từ điển của) Huình-Tịnh Của vẫn là một cuốn từ điển tiếng Việt toàn quốc, nó có thể thu thập cả MÌ và SẮN; thu thập cả HEO và LỢN; thu thập cả NA và MẢNG CẦU, v.v.. Cuốn của A. de Rhodes cũng vậy: nó ghi chép cả niên hiệu LONG THÁI của nhà Mạc ở Cao Bằng, cả tên gọi ĐỨC BÀ THÁI QUỐC LÃO mẹ chúa Trịnh ở Kẻ Chợ, xứ Đàng Ngoài; nó cũng ghi chép cả địa danh HOÀI PHỐ (= FAÏFO), cả cách nói kị huý NGUYÊN thành NGUÔN của xứ Đàng Trong”.

Xin hỏi ông An Chi có nhận xét gì về đoạn biện luận trên đây của vị giáo sư đó.

AN CHI: Đoạn văn trên đây của vị giáo sư nọ có hai chỗ sai và một chỗ không ổn.

Cái danh từ sắn mà vị ấy ngỡ là của phương ngữ miền Bắc dùng để chỉ khoai mì của miền Nam thực ra là một danh từ mà phương ngữ Nam Bộ dùng để chỉ cái mà miền Bắc gọi là củ đậu. Huình-Tịnh Paulus Của giảng đó là “loài dây có trái như trái đậu, củ nó có nhiều nước, vị thuốc giải khát, ăn sống được ăn chín cũng được, thổ sản Bình Thuận”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng rõ hơn:

“Loại dây leo, lá kép gồm ba lá phụ hình tim, hoa tím, trái dài có nhiều hột dài lối 6mm, mỗi dây có nhiều củ hình tròn giẹp hoặc bong-vụ có khía cạn, được dùng ăn sống hay xào nấu: Củ sắn (Pachyrrhizus)”.

Chẳng phải cố gắng gì nhiều ta cũng có thể khẳng định rằng đây chính là cái mà phương ngữ miền Bắc gọi là củ đậu. Vậy Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của không hề ghi nhận danh từ sắn mà phương ngữ miền Bắc dùng để chỉ khoai mì ở trong Nam, như vị giáo sư đó đã ngỡ.

Đó là cái sai thứ nhất. Vị giáo sư đó cũng đã nhầm khi viết rằng từ điển của A. de Rhodes ghi nhận “cả cách nói kị huý NGUYÊN thành NGUÔN của xứ Đàng Trong”.

Thực ra, cái mà Đàng Ngoài phát âm thành nguyên thì dân Đàng Trong phát âm thành nguơn, (với “ơ” sau “u”) chứ không phải “nguôn” (với “ô” sau “u”). Đàng Ngoài nói nguyên đán, nguyên soái, thượng nguyên, trạng nguyên, v.v. thì Đàng Trong nói nguơn đán, nguơn soái, thượng nguơn, trạng nguơn, v.v.. Mà cũng chẳng phải là vô điều kiện. Sự tương ứng giữa nguyên và nguơn chỉ diễn ra với những danh ngữ cố định mà nguyên/nguơn làmột thành phần hoặc khi nguyên/nguơn đứng một mình mà có một trong hai nghĩa sau đây: 1. chu kỳ 60 năm; 2. đơn vị tiền tệ đồng nghĩa với “đồng”. Chứ với nghĩa “vốn là” hoặc “trọn vẹn” thì, dù là dân Đàng Trong, người ta vẫn phải phát âm thành nguyên. Chẳng ai nói:

– Nó ăn nguơn cả một con gà;

hoặc:

– Nguơn thằng ấy là một tay ăn chơi; v.v..

Dĩ nhiên đây chỉ là nói chuyện đời xưa, chứ ngày nay, dù là người Nam Bộ, cũng chẳng ai – trừ một số ông già bà cả tuổi ngoại 80 – nói nguơn, ngay cả trong những điều kiện đã nêu ở trên.

Từ điển của A. de Rhodes chỉ có mục từ “Nguôn mới làm” là liên quan đến cái ý mà vị giáo sư nọ muốn nói đến nhưng đây là nguôn chứ không phải nguơn nên ta dứt khoát không thể xem đó là một hình vị của tiếng Việt ở Đàng Trong được. Đó là cái sai thứ hai.

Còn điểm bất ổn là ở chỗ vị giáo sư của chúng ta đã đưa những danh xưng Long Thái, Đức Bà Thái Quốc Lão, Hoài Phố ra để chứng minh cho sự hiện diện của “tiếng Việt toàn quốc” trongtừ điển của A. de Rhodes. Nếu lập luận kiểu này thì chẳng những ta có “tiếng Việt toàn quốc” (chung cho cả Đàng Ngoài, Đàng Trong và Đàng Trên) mà ta còn có cả “tiếng Việt quốc tế” nữa vì A. de Rhodes còn ghi nhận cả những mục từ như: “Lào, nước Lào”, “Mên, Cao Mên”, “Minh (…) Đại Minh”, v.v. nữa. Những danh xưng như thế này không thuộc về từ vựng của một ngôn ngữ nên ta không thể dựa vào đó mà chứng minh cho “tiếng Việt toàn quốc” như vị giáo sư nọ đã làm.

§ 1190. Kiến thức ngày nay, số 589

ĐỘC GIẢ: Tôi nhớ ở đâu đó: “Người trí nói một trăm câu cũng có một câu sai, người ngu nói một trăm câu cũng có một câu đúng”. Tôi nghĩ sai sót gắn liền với thân phận con người. Nếu không sai sót thì ông đâu phải là… người, mà là… thần nhân rồi. Nói vậy, ý tôi là tôi quí ông. Vậy xin hỏi: ở trang 51, cột 3, Kiến thức ngày nay, số 584, từ nhân tình ông dùng có chuẩn không?

AN CHI: Chắc ông cũng sẵn sàng thông cảm rằng ở đây, chúng tôi chỉ dùng hai tiếng nhân tình để đối dịch danh từ maîtresse của tiếng Pháp chứ không phải là dùng nó trong cách hành văn chính thức của mình. Còn sở dĩ chúng tôi chọn hai tiếng đó là vì hai lý do quan trọng: Một là cả nhân tình lẫn maîtresse đều là những cách nói có tính chất cũ xưa và hai là chúng đều có tính chất xấu nghĩa (péjoratif).

Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (in lần thứ chín, 2003, tr. 711) ghi về hai chữ nhân tình: “(cũ). Người tình (thường nói về quan hệ yêu đương không đứng đắn)”. Lời giảng này cho phép ta khẳng định hai tính chất nói trên.

Còn Le Petit Robert thì ghi nhận về từ maîtresse như sau: “2. Vieilli. La maîtresse d’un homme, femme qui a des relations amoureuses et sexuelles plus ou moins durables avec lui sans être son épouse”. (Cũ xưa. Nhân tình của một người đàn ông, người đàn bà có quan hệ yêu đương và tính dục lâu bền hay ngắn ngủi với anh ta mà không phải là vợ (của anh ta)).

Lời giảng này của Le Petit Robert cho ta thấy một cách rõ ràng hai tính chất đã nói của từ maîtresse.

Với sự tương đồng về tính cũ xưa và tính xấu nghĩa như trên giữa Việt và Pháp thì việc lựa chọn hai tiếng nhân tình để đối dịch danh từ maîtresse sẽ là một việc làm hoàn toàn thích hợp. Huống chi, ngay cả Từ điển tiếng Việt (đã dẫn) cũng ghi nhận hai tiếng nhân tình thành một mục từ chính thức. Mà Từ điển Pháp Việt của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế làm tổng biên tập cũng đã dịch maîtresse là “nhân tình”. Nếu ta dịch maîtresse thành “người yêu” thì ta sẽ không chuyển tải được tính xấu nghĩa của danh từ maîtresse vì người yêu là một danh ngữ mang sắc thái trung hoà, nếu không nói là trang trọng.

Thực ra, nhân tình đã từng là một lối nói phổ biến trong tiếng Việt để diễn tả cái mà tiếng Pháp gọi là maîtresse. Chẳng những thế, nó còn lây nghĩa cho danh ngữ nhân ngãi, làm cho cấu trúc này không còn chỉ một khái niệm về đạo đức nữa mà lại dùng để chỉ một kiểu quan hệ nam nữ không minh bạch, như trong “Già nhân ngãi, non vợ chồng”. Thì cũng là một kiểu nhân tình đó thôi, nhưng là nhân tình – maîtresse chứ không phải là nhân tình thế thái, như trong câu thứ hai truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu:

Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.

Từ chuẩn mà ông dùng ở đây liên quan đến mặt từ vựng ngữ nghĩa mà, về mặt này, chỉ có dùng nhân tình để dịch maîtresse mới thực sự thích hợp mà thôi. Vậy có lẽ nào đó lại không phải là một việc làm đúng chuẩn?

§ 1191. Kiến thức ngày nay, số 589

ĐỘC GIẢ: Về chữ thứ ba và chữ thứ tư trong câu Kiều thứ 2826 (cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe), một tác giả có giải thích rằng “tõi trong tìm tõi là do dõi trong tìm dõi láy theo tìm mà thành”.

Xin cho biết ông có ý kiến gì về kiểu giải thích trên đây?

AN CHI: Sự thật lại chẳng hề quanh co, rắc rối đến như thế. Hai tiếng đẳng lập tìm tõi chỉ có mặt trong một ngôn cảnh duy nhất là câu 2826 của Truyện Kiều. Đó tuyệt đối không phải là một đơn vị độc lập trong từ vựng của tiếng Việt. Ta sẽ chẳng bao giờ có thể tìm thấy nó ở một lời nói nào khác của người Việt. Cho nên cất công đi tìm nguồn gốc của tõi trong tìm tõi là một việc làm chẳng những vô ích mà còn hoàn toàn vô nghĩa. Đào Duy Anh đã giải thích một cách đơn giản mà hoàn toàn chính xác:

“TÌM (…) Tìm tõi: Tức là tìm tòi, từ tõi nói theo giọng trắc cho đúng niêm luật. Ví dụ: Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe (câu 2826)”*.

Cái lý do ở đây cũng hoàn toàn giống như ở trường hợp án chuyển thành an trong câu:

Trên an bút giá thi đồng. (c.397)

hoặc câu:

Trên an sẵn có con dao. (c.799)

hoặc như trường hợp chẳng chuyển thành chăng trong câu:

Dầu chăng xét tấm tình si. (c.339)

hoặc câu:

Sao chăng biết ý tứ gì. (c.1861)

Cái lý do đích thực của sự “bút tre hoá” tòi thành tõi chẳng qua chỉ là chuyện niêm luật hoàn toàn đúng như Đào Duy Anh đã nêu chứ thực chất của vấn đề chẳng phải như tác giả nọ đã giải thích.

§ 1192. Kiến thức ngày nay, số 589

ĐỘC GIẢ: Lần này (Kiến thức ngày nay, số 588) thì ông An Chi đoán đúng: Ông Hugo Chavez đã đắc cử. Nhưng tôi nghe nói người anh hùng của ông đã phạm một cái gaffe* (danh từ của một tờ báo Pháp dành cho Chavez) không nhỏ. Tại Đại hội đồng Liên Hiệp quốc, ông ta đã giới thiệu với thiên hạ một quyển sách của Noam Chomsky mà không biết là tác giả hãy còn sống. Chẳng là ở một chỗ khác ông ta đã nói với người phỏng vấn rằng ông ta rất tiếc vì mình đã không được gặp mặt Chomsky trước khi Chomsky qua đời, báo hại cái ông tác giả người Mỹ này phải nhận đến hàng ngàn thư, điện hỏi thăm vì ngạc nhiên. Liệu chi tiết này có ảnh hưởng gì đến sự ngưỡng mộ của ông đối với người anh hùng của ông không?

AN CHI: Vâng, lần này thì chúng tôi đã đoán đúng. Hugo Chavez đã đắc cử nhiệm kỳ 2007 – 2013 và đã tuyên bố thắng cử trên balcon Dinh Miraflores ngay trong đêm 3-12, trước hàng ngàn người ủng hộ đến chào mừng dưới trời mưa tầm tã.

Ông hỏi cái gaffe của Chavez có ảnh hưởng gì đến sự ngưỡng mộ của chúng tôi đối với ông ta hay không. Không hề! Errare humanum est*.

Đúng là tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Hugo Chavez có giới thiệu quyển sách của Noam Chomsky nhan đề Hegemony or Survival: The Imperialist Strategy of the United States (Xin xem ảnh). Thậm chí ông ta còn khuyên “các anh chị em người Mỹ” nên đọc quyển sách này hơn là cứ ở đó mà xem Superman. Nhưng cái “gaffe” kia là do tờ New York Times bịa đặt, rồi đó đây một số tờ báo khác cũng “nói theo”. Thực ra, Hugo Chavez đã tỏ lời hối tiếc là mình không được gặp John Kenneth Galbraith trước khi tác giả này qua đời (hồi tháng 4-2006 ở tuổi 97). Tờ NYT đã xuyên tạc mà đổi Galbraith thành Chomsky để hạ thấp Chavez về mặt hiểu biết.

Đối với các yếu nhân, ta chẳng bao giờ nên nghe chỉ một chiều mà thôi.

Dân chúng Venezuela thường hô câu “Chávez no se va” (Chavez không đi đâu cả (= vẫn làm tổng thống)). Đúng thật! Ít nhất ông ta cũng còn ở lại đến năm 2013.

§ 1193. Kiến thức ngày nay, số 590

ĐỘC GIẢ: Câu 628 của Truyện Kiều xưa nay vẫn được đọc thành:

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao,

nghe chẳng những quen tai mà còn êm tai nữa. Đùng một cái, học giả Hoàng Xuân Hãn công bố cách đọc của mình bằng cách thay đổi tiếng thứ tư của nó và câu này đã trở thành:

Mày râu nhẵn trụi, áo quần bảnh bao,

nghe rất lạ tai và hình như cũng có phần thô thiển. Nhưng cụ Hãn là một học giả nổi tiếng nên có lẽ nào… Vì vậy nên ông Vũ Đức Phúc mới biện hộ:

“Ông Hãn phiên âm “Mày râu nhẵn trụi, áo quần bảnh bao” là đã vận dụng kiến thức về chữ Nôm và tiếng Nghệ Tĩnh (.). Nguyên là các cụ ta ngày xưa rất có thành kiến với người lớn không râu, cho là tướng bất nhân, “nam tu, nữ nhũ”. Bởi vậy viết “mày râu nhẵn trụi” tỏ ý khinh bỉ, thực hay. Còn “nhẵn nhụi” chính là để chỉ cái gì bóng mượt trơn tru, tuyệt đối không có ý gì chê trách, khinh bỉ. Bởi vậy, Hoàng Xuân Hãn phiên âm “nhẵn trụi” là rất có lý”. (Tạp chí Văn học, số 4-1999, tr. 19).

Tôi nghe ra cũng có lý. Nhưng ông An Chi đã phân tích kỹ chữ “trụi” và tính cách của nhân vật Mã giám sinh rồi khẳng định:

“Nguyễn Du đã có công trau chuốt cho ta câu 628 với hai vế tiểu đối hài hoà và xứng đôi như thế (mày râu nhẵn nhụi – áo quần bảnh bao) để cực tả cái sự diện toàn diện của Mã giám sinh thì ta nỡ lòng nào biến hắn ta thành một gã đàn ông “mày râu nhẵn trụi”. Làm sao mà một tay bợm già như họ Mã lại có thể ngu xuẩn đến mức đi cạo trụi hết cả râu lẫn lông mày để tước đi những cái nét nam tính trời cho? “Mày râu nhẵn trụi” thì chỉ có nước ứng tuyển vào hậu cung làm thái giám chứ đi “mua ngọc đến Lam Kiều” thế nào được?”.

Thì nghe ra cũng có lý. Nhưng đề cập đến ý kiến trên kia của Vũ Đức Phúc và ý kiến trên đây của ông An Chi, một vị giáo sư của ta đã viết:

“Đấy chỉ là chuyện hai người có hai cách nhìn khác nhau mà thôi. Cũng như cùng một hiện tượng ngữ âm cả mà nhà âm vị học mô tả khác, nhà ngữ âm học mô tả khác. Đứng trước các bản Kiều Nôm cổ, nhà nghiên cứu chữ Nôm nói những chuyện khác với những nhà nghiên cứu văn học. Mà cũng có 2 hướng giữa các nhà biên khảo về văn học: người thì quan tâm đến việc nay nên phiên Nôm thế nào để phục vụ sự thưởng thức của các độc giả hiện đại; người thì muốn tìm xem xưa kia cụ Nguyễn Du viết thế nào? Công việc nào cũng cần tiến hành thấu đáo cả. Trong tự vị Annam Latinh và Taberd chưa có NHẴN mà chỉ có LẴN. Không biết cụ Nguyễn Du viết chữ gì? Các bản Kiều Nôm thế kỷ XIX thì đã ghi NHẴN. TRỤI cũng vậy thôi: không biết đến lúc nào thì nó láy theo NHẴN và chuyển thành NHỤI?”.

Vị giáo sư đó đã viết như thế. Nghe ra càng có lý hơn. Ông An Chi nghĩ thế nào?

AN CHI: Đoạn văn trên đây của vị giáo sư nọ có hai vấn đề: một liên quan đến chuyện lý thuyết, một liên quan đến chuyện từ ngữ cụ thể.

Xin nói về chuyện cụ thể trước. Nói “tự vị Annam Latinh và Taberd chưa có nhẵn mà chỉ có lẵn” thì không đúng. Ta nên nhớ rằng hai quyển từ điển này lấy phương ngữ Nam Bộ làm nền tảng. Trong phương ngữ này, lẵn đối với nhẵn của phương ngữ Bắc Bộ cũng y hệt như lài đối với nhài, lát đối với nhát, lạt đối với nhạt, lầm đối với nhầm, lẽ đối với nhẽ, lọ đối với nhọ, lời đối với nhời, v.v.. Vậy khi Pigneaux de Béhaine và Taberd ghi nhận từ lẵn trong từ điển của họ thì ở ngoài Bắc, người ta vẫn xài nhẵn đối với lẵn, cũng như xài nhài đối với lài, xài nhát đối với lát, xài nhạt đối với lạt, v.v. một cách bình thường. Ở ngoài Bắc cũng như trong ngôn ngữ của Nguyễn Du, lúc bấy giờ, nhẵn vẫn là một đơn vị từ vựng hành chức một cách bình thường và tự nhiên, chứ đâu phải lúc bấy giờ chỉ có lẵn mà chưa có nhẵn. Vậy ta chẳng cần phải thắc mắc cụ Nguyễn Du viết chữ gì (ý nói “lẵn” hay “nhẵn”) mà làm chi.

Còn về chữ nhụi mà vị giáo sư đó cho là do trụi bị đồng hoá theo nh- của nhẵn trong nhẵn trụi (!) mà ra, thì chúng tôi lại nghĩ khác. Đó là âm xưa của chữ nhị (trong tế nhị). Nhị (nhụi) là trơn, bóng. Vậy nhụi (↔ nhị) là một từ cổ, ít ra cũng là một hình vị cổ, đi chung với nhẵn trong một cái thế đẳng lập rất hợp lý về trường nghĩa. Ngay trước mắt, nghĩa là trong phạm vi của những gì đã được cả hai bên trình bày, chưa ai có căn cứ gì để nói rằng vị giáo sư nọ đã đúng còn chúng tôi thì sai.

Bây giờ xin nói đến chuyện lý thuyết. Về chữ thứ tư của câu 628 mà nói như vị giáo sư nọ, rằng “đây chỉ là hai người có hai cách nhìn khác nhau”, rằng “cùng một hiện tượng ngữ âm mà nhà âm vị học mô tả khác, nhà ngữ âm học mô tả khác”, thì chỉ là nguỵ biện mà thôi. Ở vị trí thứ tư của câu 628, Nguyễn Du đã viết hoặc là nhụi, hoặc là trụi. Giữa hai âm đó, ta chỉ có thể chọn một mà thôi; rồi trên cơ sở đó “nhà âm vị học” và “nhà ngữ âm học” mới phân tích theo cách riêng của mình được. Chứ dù là nhà âm vị học thì cũng không thể nói rằng /a/, chẳng hạn, là một nguyên âm hẹp còn /i/ là một nguyên âm tròn môi, rồi viện lý rằng vì mình làm âm vị học nên nói khác nhà ngữ âm học. Dù có là “nhà” gì, thì cũng phải khẳng định một cách dứt khoát xem chữ thứ tư của câu Kiều đang xét là nhụi hay là trụi, chứ tuyệt đối không thể nói với cách nhìn này thì đó là nhụi mà với cách nhìn khác thì đó lại là trụi. Đây là một kiểu thoả hiệp hoàn toàn phi lý và vô nguyên tắc. Mà chúng tôi thì khẳng định đó là nhụi, như đã phân tích ở những chỗ khác; còn trụi thì chỉ là một cách đọc nhiễu sự vì lập dị mà thôi.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3