Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1174 - 1184
§ 1174. Kiến thức ngày nay, số 579
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp của diễn viên điện ảnh Audrey Hepburn.
AN CHI: Audrey Hepburn, tên gốc là Audrey Kathleen Ruston, sinh ngày 4-5-1929 tại Brussels (Bỉ), mất ngày 20-11993 tại Tolochenaz (Thuỵ Sĩ). Cha là Joseph Anthony Ruston, một chủ ngân hàng mang hai dòng máu Anh và Ireland; mẹ là Ella van Heemstra, một nữ quý tộc Hà Lan, có một đời chồng trước cũng là quý tộc người Hà Lan. Audrey đã trải qua một tuổi thơ đầy khó khăn: bị ho gà tưởng chết lúc mới được ba tuần tuổi, cha mẹ chính thức ly dị lúc cô chín tuổi nhưng ông bố đã bỏ nhà ra đi hồi cô mới lên sáu. Năm 1939, Thế chiến II bùng nổ, bà Ella đem Audrey từ Anh về Hà Lan, nghĩ rằng ở đây an toàn hơn. Họ sống ở Arnhem và không ngờ là tháng 5-1940 thì quân Đức kéo đến. Arnhem bị tàn phá và tài sản của gia đình Van Heemstra quý tộc bị tịch thu từ đất đai, nhà cửa và tài khoản ngân hàng cho đến tư trang. Audrey chứng kiến cảnh bọn Đức đàn áp, giết chóc dân lành, những người yêu nước và chính cô đã làm liên lạc cho kháng chiến.
Ngay từ năm 11 tuổi, Audrey đã chọn nghiệp múa. Cô vào Nhạc viện Arnhem và học tại đây cho đến giữa năm 1944. Cô trợ giúp cho việc giảng dạy những học sinh trẻ hơn và kiếm thêm tiền cho gia đình. Cuộc chiến thực sự bắt đầu tại Arnhem ngày 17-9-1944. Bọn Đức ra lệnh cho dân chúng phải rời khỏi đây trong 24 giờ hoặc bị tàn sát. Tuy mới ở tuổi thiếu niên nhưng trừ những lúc không quá yếu ớt vì suy dinh dưỡng, cô vẫn biểu diễn, lấy tiền đóng góp cho kháng chiến. Sau chiến tranh, ông bố tìm thấy giấy tờ cũ của tổ tiên, theo đó họ chính thức của ông là Hepburn. Vì vậy, ông đã chính thức đổi tên con gái thành Audrey Kathleen Hepburn-Ruston (còn ông là Joseph Anthony Hepburn-Ruston).
Audrey và mẹ sang London sinh sống. Cô vừa học vừa làm người mẫu. Năm 1951, cô kiếm được mấy vai phụ trong những bộ phim xoàng, với nghệ danh Audrey Hepburn. Sau đó cô được nhà văn Pháp Colette chú ý và được chọn để thể hiện vai chính trong vở Gigi của bà ở Broadway (Mỹ).
Năm 1953, Audrey được giao vai quan trọng đầu tiên về điện ảnh trong phim Roman Holiday, cùng với nam diễn viên Gregory Peck và đoạt được giải Oscar nữ diễn viên xuất sắc nhất với vai này. Audrey Hepburn bắt đầu nổi lên từ đây. Cô tiếp tục diễn chung với các nam diễn viên gạo cội của Hollywood, như với Humphrey Bogart trong Sabrina (1954), với Henry Fonda trong Warand Peace (1956), với Fred Astaire trong Funny face (1957), với Gary Cooper trong Ariane (1957), với Cary Grant trong Charade (1963), v.v.. Audrey Hepburn diễn vai điện ảnh cuối cùng của mình trong bộ phim Always của Steven Spielberg.
Audrey Hepburn lập gia đình lần đầu tiên năm 1954 với Mel Ferrer, người đàn ông đã hai lần ly dị và cha của bốn đứa con, diễn viên, đạo diễn, lớn hơn Audrey mười hai tuổi. Họ có với nhau một đứa con, Sean Ferrer (sinh năm 1960). Tháng 9-1967, họ ly thân, rồi ly dị ngày 21-11-1968. Ngày 18-1-1969, Audrey cưới Andrea Dotti, một nhà thần kinh học người Ý và sống ở Roma. Con trai của họ, Luca Dotti, sinh ngày 8-2-1970. Rồi Dotti bị tai tiếng vì quan hệ lăng nhăng. Tháng 9-1980, họ chấm dứt sống chung và năm 1982 thì chính thức ly dị. Audrey đã làm quen với Robert Wolders và tuy không hợp thức hoá quan hệ với người chồng này nhưng đã sống những ngày hạnh phúc nhất với ông cho đến cuối đời.
Năm 1988, Audrey Hepburn được cử làm Đại sứ thiện nguyện của UNICEF, một trách nhiệm cao cả mà bà đã toàn tâm toàn ý hoàn thành. Với vai trò này, ba đã đến nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam (1993).
§ 1175. Kiến thức ngày nay, số 580
ĐỘC GIẢ: Tôi đã thấy từ lâu, tên một quyển (hay là bộ) sách thiếu nhi khá buồn cười: Mít Đặc và Biết Tuốt. Rồi cũng từ lâu, biết và tuốt trong biết tuốt là gì thì tôi “biết tuốt” nhưng mít và đặc trong mít đặc là gì thì tôi “mít đặc”. Nay may mắn gặp được Chuyện Đông chuyện Tây nên xin mạn phép thắc mắc.
AN CHI: Cả mít lẫn đặc trong mít đặc đều là những yếu tố gốc Hán. Cả hai đều có nghĩa là không biết, là dốt, xuất phát từ cái nghĩa gốc là kín, là không thông (hơi, gió, v.v.). Sự chuyển nghĩa ở đây giống hệt sự chuyển nghĩa của từ bí. Bí là một yếu tố Hán Việt chánh cống, mà Hán tự là 祕 (bộ thị 示), cũng viết 秘 (bộ hoà 禾). Bí là kín. Kín là không thông, không lọt ra ngoài được. Ta dễ dàng thấy được cái nghĩa này trong các cấu trúc như: bí kế, bí lục, bí mưu, bí phủ, bí tàng, bí thuật, bí truyền, v.v.. Cái nghĩa này đi vào khẩu ngữ và ta có: bí đái, bí ỉa (ít nhất là ở trong Nam) bí hơi, v.v..; rồi “xẹt” qua lĩnh vực tinh thần, như trong: bí thế, bí vần, bắt bí, chiếu bí, v.v..
Bây giờ ta chuyển sang từ mít. Trước nhất, mít là một điệp thức của mịt trong mù mịt, tối mịt, mịt mờ, v.v.. Về sự tương ứng giữa thanh 5 (dấu sắc) và thanh 6 (dấu nặng), ta có thể minh hoạ bằng nhiều cặp điệp thức khác:
– dấy (binh, nghĩa, quân, v.v.) ~ dậy (đất, sóng, thì, v.v.).
– mức (độ, lương)~ mực (nước, thước, v.v.).
– ói ~ọi.
– thiếp ~ thiệp (thiệp mừng, thiệp cưới).
– tí ~ tị (một tí = một tị); v.v..
Vậy mít ~ mịt là chuyện bình thường và cặp song thức này bắt nguồn ở một từ Hán ghi bằng chữ 密 mà âm Hán Việt hiện đại là mật, có nghĩa là kín. Còn từ kín đến dốt thì ta đã nói ở trên.
Nhưng đặc thì sao? Thì cũng là dốt, là không biết, như có thể thấy trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa:
Soạn làm chữ cái chữ con
San bản lưu truyền ai đặc thì thông.
Đây là một yếu tố Hán Việt mà Hán tự là *. Chữ này được Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) giảng là “độn” 鈍 (nghĩa 2). Độn là ngu dốt, như còn có thể thấy trong đần độn, ngu độn, v.v..
Vấn đề như thế là đã rõ ràng.
§ 1176. Kiến thức ngày nay, số 580
ĐỘC GIẢ: Trên báo An ninh thế giới, số 579, ngày 16-8-2006, bài “Tiết lộ mới về âm mưu khủng bố vừa bị phá vỡ tại Anh” do Lệ Đào tổng hợp có đoạn:
“Thoạt đầu, Jaish-e-Mohammed có tôn chỉ là đấu tranh vì quyền lợi người da đỏ trong khu vực rừng núi Kashmir, sau đó bị Chính phủ Mỹ chính thức liệt kê trong danh sách nhóm khủng bố vì có những hoạt động tấn công mờ ám. Vẫn nhóm này bị nghi ngờ có liên quan đến vụ bắt cóc và giết chết Daniel Pearl, phóng viên tờ Wall Street Journal”.
Xin cho biết khu vực rừng núi Kashmir, nơi có người da đỏ sinh sống, nay thuộc tiểu bang nào của nước Mỹ. Jaish-e-Mohammed có phải là một tổ chức của người da đỏ và người da đỏ có phải là những người bị nghi ngờ đã giết Daniel Pearl hay không? Xin hỏi thêm: Có phải vợ Daniel Pearl có viết một cuốn sách về chồng mình?
AN CHI: Kashmir (tiếng Pháp: Cachemire) chẳng phải là một địa phương nào của nước Mỹ cả. Đó là một vùng rộng lớn nằm trên tiểu lục địa Ấn Độ, Bắc giáp Afghanistan và Trung Quốc, Đông giáp Trung Quốc, Nam giáp Ấn Độ, Tây (và một phần nhỏ Tây Nam) giáp Pakistan. Đây là một vùng đang tranh chấp gồm có ba phần: Azad Kashmir (Azad Cachemire) do Pakistan chiếm giữ, Jammu Kashmir (Jammu Cachemire) do Ấn Độ chiếm giữ và Aksaï Chin do Trung Quốc chiếm giữ.
Kashmir vốn là một vương quốc xưa thuộc Đế quốc Anh. Về sau, người Anh bán vùng đất này cho một hoàng thân người Ấn Độ. Sau khi Ấn Độ giành được độc lập thì nó trở thành miếng mồi cho sự tranh chấp, đưa đến nhiều cuộc chiến tranh giành giật lãnh thổ giữa Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc. Kashmir vẫn được mệnh danh là Thuỵ Sĩ của châu Á và một triết gia của thế kỷ XVI đã nhận xét: “Nếu thiên đường có tồn tại ở đâu đó, thì đó phải là ở đây”. Còn Srinagar (thủ phủ mùa hè của Jammu Kashmir) thì được ví với Venice nhưng thay vì thuyền gondola thì đó lại là những chiếc thuyền – nhà (houseboat).
Kashmir tươi đẹp
Chẳng có người da đỏ nào sinh sống ở Kashmir cả. Sở dĩ người tổng hợp bài báo đã viết “người da đỏ trong khu vực rừng núi Kashmir” có thể là do hiểu lầm danh từ Indian (hoặc Indien) trong tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp). Thực ra thì, trước khi được dùng để chỉ người da đỏ ở châu Mỹ, danh từ Indian/Indien vốn đã dùng để chỉ người Ấn Độ. Mà đã nói đến Thuỵ Sĩ của châu Á thì phải khẳng định rằng đây là người Ấn Độ.
Nhưng Jaish-e-Mohammed (JEM) chẳng những không phải là một tổ chức của người da đỏ mà cũng chẳng phải là của người Ấn Độ. Jaish-e-Mohammed có nghĩa là Đạo quân của (nhà tiên tri) Mahomet và đây là một tổ chức của vài trăm phiến quân Hồi giáo cực đoan người Pakistan mà mục đích là hợp nhất cả vùng Kashmir vào Pakistan. Nói về con người, thì chính các lãnh tụ chính trị và các quan chức chính phủ của Ấn Độ mới là những đối tượng mà JEM muốn sát hại. Tuy nhóm này bị nghi ngờ đã bắt cóc rồi sát hại Daniel Pearl nhưng đâu mới thực sự là kẻ đã giết hại nhà báo này thì một nhà phân tích chính trị người Pháp là Bernard-Henri Levy đã viết một cuốn sách nhan đề Qui a tué Daniel Pearl? (Ai đã sát hại Daniel Pearl?) để đặt vấn đề. Nhưng người ta cho rằng tác giả này không nghiêm túc và khách quan.
Đúng là sau cái chết của Daniel, Mariane Pearl đã viết về chồng mình trong quyển A Mighty Heart: The Brave Life and Death of My Husband, Danny Pearl (Một con tim mãnh liệt: Cuộc sống và cái chết dũng cảm của Danny Pearl, chồng tôi).
Còn bây giờ thì, như các báo đã đưa tin, A Mighty Heart sẽ lên phim. Cặp đôi Brangelina sẽ “đồng diễn”: Brad Pitt, sẽ là nhà sản xuất còn Angelina Jolie, sẽ vào vai Mariane. Daniel thì chưa biết nam tài tử nào sẽ thủ vai.
§ 1177. Kiến thức ngày nay, số 581
ĐỘC GIẢ: Utopia là tên một quyển sách của tác giả người Anh Thomas More. Về cách dịch cái tên này, trên một tờ báo điện tử ngày 30-8-2006, ông Cao Xuân Hạo đã chủ trương:
“Theo ý chúng tôi, cách dịch tốt nhất là dùng chữ Utopia mà More muốn coi như một quốc hiệu, và theo đúng tập quán ngữ pháp của tiếng Việt, bổ sung cho nó một danh từ làm trung tâm đặt trước Utopia là nước Utopia hay là xứ Utopia”.
Nhưng cũng trên số báo ấy, người đã chuyển ngữ quyển Utopia sang tiếng Việt là dịch giả Trịnh Lữ thì lại cho biết:
“Tôi không Việt hoá cái đầu đề này thành nước UTOPIA hoặc xứ UTOPIA như giáo sư Cao Xuân Hạo gợi ý, vì thực ra không có cái nước ấy, cái xứ ấy, và bản thân chữ UTOPIA chỉ có nghĩa là “no place” 一 không có chỗ nào như thế cả”.
Vậy ta nên dịch cái tên sách này như thế nào, và thực ra Utopia có nghĩa là gì?
AN CHI: Dịch giả Trịnh Lữ không chịu Việt hoá cái tên Utopia thành nước (hoặc xứ) Utopia chỉ vì, theo ông thì “thực ra không có cái nước ấy, cái xứ ấy, và bản thân chữ Utopia chỉ có nghĩa là “no place” – không có chỗ nào như thế cả”.
Nhưng đây đâu phải là chuyện thật hay không thật, có hay không có ở chỗ nào mà là chuyện Thomas More quan niệm Utopia là cái gì. Với More thì đây là một nước, một quốc gia hẳn hoi. Chẳng những thế, đó còn là một phản mô hình đối với nước Anh Cát Lợi của chính More nữa. Huống chi Utopia đâu chỉ có nghĩa là “no place” như Trịnh Lữ đã khẳng định vì nói như thế là đã quên mất sự hiện diện của hậu tố -ia. Quyển Origins của Eric Partridge (Routledge & Kegan Paul, London, 1961) đã phân tích cái tên này một cách đơn giản và rành mạch:
“Utopia”, an imaginary paradisal island: SciL, from LGr.
* Outopia: ou, not + top (os), a place + -ia, suffix connoting ‘region’”.
(Utopia, một hòn đảo cực lạc tưởng tượng: Tiếng La Tinh khoa học, từ tiếng Hy Lạp vãn kỳ.
* Outopia: ou, không + top (os), nơi chốn + -ia, hậu tố hàm ý “vùng”).
Ta có hàng loạt địa danh cấu tạo với hậu tố -ia trong tiếng Anh: Australia, Austria, Bohemia, Russia, Slovakia, v.v. trong đó, -ia đều hàm ý “vùng” hoặc “nước”, “xứ”. Utopia không phải là một ngoại lệ. Vậy đó là một địa danh và vì địa danh này là tên của một nước, dù là một nước tưởng tượng, nên ta có lý do hoàn toàn chính đáng để chuyển nó sang tiếng Việt bằng một danh ngữ do xứ hoặc nước làm trung tâm thành nước Utopia hoặc xứ Utopia. Đây thực ra cũng là cách mà chính Trịnh Lữ đã làm trong quyển Utopia Địa đàng trần gian của Thomas More do ông chuyển ngữ (Nxb. Hội Nhà văn, 2006) khi ông dịch địa danh Nolandia từ tiếng Anh sang tiếng Việt thành “xứ Nolandia” (tr. 68). Nolandia là gì? Xin hãy đọc:
“Nolandia – trong nguyên bản tiếng Latin là Achoriorum populus – nghĩa là dân không có thật, nước không có thật”*.
Tuy biết là nó không có thật nhưng ông Trịnh Lữ cũng đã sẵn sàng gọi Nolandia là “xứ” đấy thôi. Vậy sẽ chẳng có gì là b ất thường nếu ta dịch nhan đề quyển sách của Thomas More thành nước (hoặc xứ) Utopia. Người Trung Quốc dịch Utopia thành Ô Thác bang vì bang là nước. Từ điển của Pháp cũng gọi nó là pays (= nước), chẳng hạn trong Dictionnaire Hachette, ed. 2005 (mục utopie). Nhưng đó chỉ là nêu thêm một vài dẫn chứng cụ thể chứ nếu nói cho cùng kỳ lý thì trong truyện cổ tích, chẳng hạn, món kia vật nọ đều không có thật nhưng tất cả đều được gọi đúng tên.
Còn về nội dung thì, cứ theo cấu tạo của nó, Utopia có thể được hiểu như thế nào? Đó là “xứ không chỗ (nào có), “the” no-place land” (tiếng Anh), le “lieu de nulle part” (tiếng Pháp). Nhưng chữ nghĩa dĩ nhiên chẳng đơn giản như thế vì còn có thể có cả ẩn ý của tác giả ở phía sau. Mục “Utopia (book)” trên Wikipedia tiếng Anh (tính đến ngày 18-9-2006 – vì có thể còn được sửa chữa) có gợi ý rằng Utopia có thể ẩn giấu một sự chơi chữ: đó có thể do tiếng Hy Lạp outopeia (xứ không chỗ), mà cũng có thể là do eutopeia (xứ tốt chỗ) mà ra (eu- = tốt). Cả hai đều có thể đưa đến hình thức La Tinh hoá là utopia. Về vấn đề này, trên Lire, tháng 6-2004, Jean Montenot có viết:
“Cũng như mọi nhà nhân văn ưu việt khuynh Hy Lạp thời Phục hưng, More là người ưa chuộng các hình thức chơi chữ và các lối diễn đạt nhị nghĩa bác học: ông chơi chữ trên sự hoà vận giữa utopia và eutopia. Thật vậy, trong tiếng Hy Lạp, tiền tố -eu chỉ “cái gì tốt” – hạnh phúc trong tiếng Hy Lạp là eudaimonia (…) Vậy utopia cũng là một “eutopia”. Cái gì “không có ở đâu cả”, cái “chỗ không có ở đâu cả”, cũng là “chỗ của cái tốt”, chỗ mà sự hoà hợp và hạnh phúc đã được thực hiện”.
(Lire: fr, Ecrivains. Portrait, Thomas More)
Còn trong bản dịch tiếng Pháp (L’ Utopie) của Marie Delcourt, do Simone Goyard – Fabre giới thiệu và chú giải, văn bản điện tử của Jean – Marie Tremblay, ta đọc được tại cước chú 1, trang 15:
“Trong bài thơ sáu câu làm đề từ cho hai lần ấn hành ở Bâle năm 1518, More đặt tên cho hòn đảo của mình là Eutopia: đây là đảo của hạnh phúc”
Đó chính là bài thơ mà Trịnh Lữ đã dịch từ bản tiếng Anh, in tại trang 14 của quyển Utopia Địa đàng trần gian và ghi (theo bản tiếng Anh) là của Anemolius. Đây thực ra chính là Thomas More.
Xin in kèm theo đây bản sao nguyên văn bài thơ đó bằng tiếng La Tinh, chụp từ trang 11 quyển Utopia, ấn hành tại Bâle (Basel) tháng 12-1518, do Thư viện trường Đại học Bielefeld (UB Bielefeld) của Đức đưa lên mạng.
Bài thơ đề từ
Dòng đầu tiên là:
Utopia priscis dicta, ob infrequentiam, nghĩa là: Xưa, do hoang vắng, ta được gọi là Utopia. Còn dòng chót là:
Eutopia merito sum vocanda nomine, nghĩa là: Nay ta đường đường được gọi bằng cái tên Eutopia.
Trở lên dù sao cũng là đã có bàn xa tán rộng chứ cách hiểu cái tên Utopia thực ra còn đơn giản hơn nhiều. Thomas More đã giải thích nó trong quyển thứ hai một cách rất rõ ràng: Utopia xưa kia gọi là Abraxa mà cũng chẳng phải là đảo. Một người tên là Utopus đến chinh phục vùng đất này và chỉ huy dân chúng đào b ỏ cái eo đất mười lăm dặm nối liền Abraxa với lục địa để biến nó thành một hòn đảo. Rồi Utopus lên làm vua và lấy tên mình mà đặt cho Abraxa.
Vậy Utopia chẳng qua là “hòn đảo của Utopus”.
§ 1178. Kiến thức ngày nay, số 581
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Ngôn từ thời hội nhập”, đăng trên Văn nghệ (Trung ương), số 37, ngày 16-9-2006, nói về chuyện bóng đá, tác giả Cao Thị Thịnh có viết:
“Ở các nước mà người dân quen với tiếng Anh hơn người Việt ta rất nhiều như Pháp, Ý, Anh, Đức…người ta gọi giải vô địch bóng đá quốc gia của họ theo cách của mỗi nước (mà đài truyền hình của ta vẫn nói theo như Première ligne, série A …)chứ nào phải Ép lích, Ai lích, Đi lích…(F-league, I-league, D-league)!”.
Xin cho biết Première ligne là gì và Première ligne gắn với “lích” (league) nào?
AN CHI: Première ligne là hàng đầu tiên, dòng đầu tiên, tuyến đầu tiên, v.v.. Chúng tôi đoán có lẽ tác giả Cao Thị Thịnh viết ligue (là liên đoàn) nhưng chữ ligue đã bị in sai thành ligne.
Nhưng điểm lại các giải hạng nhất ở những quốc gia mà tác giả đã nhắc đến, ta thấy của Pháp là Ligue 1, của Ý là (Calcio) Serie A, của Tây Ban Nha là Primera Liga, của Đức là Bundesliga, còn của Anh là Premier League. Người Pháp có khi gọi Premier League của Anh là Première Ligue nhưng “première ligue” của họ thì họ lại thường gọi là Ligue 1.
§ 1179. Kiến thức ngày nay, số 583
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 577, ông An Chi có giải thích cõi trong cõi thọ là không gian, e rằng chưa ổn lắm. Tôi hiểu nôm na thì cõi/cảnh/chốn, v.v. trong trường hợp này là thế giới – một thế giới khác với thế giới chúng ta đang sống, ở ngoài không gian và thời gian của chúng ta. Nó là thế giới tưởng tượng hay có thật thì không ai biết, nó có thời gian hay không cũng chẳng ai hay. Vì có ai từ đó trở về để chứng thực đâu. Nhưng ít nhất là nó có thật trong niềm tin của một số người…
AN CHI: Về mặt ngôn ngữ thì cõi, cảnh, chốn và cả…thế giới đều là những đơn vị từ vựng chỉ không gian. Ta không biết niết bàn có tồn tại hay không và nếu có thì nó như thế nào nhưng ta biết chắc chắn rằng trong danh ngữ cõi niết bàn thì cõi là một từ chỉ không gian. Ta chẳng biết có thế giới bên kia hay không và nếu có thì nó như thế nào, nhưng ta cũng biết chắc rằng thế giới là một đơn vị từ vựng chỉ không gian. Cõi, cảnh, chốn, thế giới, v.v. đều là những đơn vị từ vựng chỉ không gian, nói nôm na là…nơi chốn.
§ 1180. Kiến thức ngày nay, số 583
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 580, ông có cho biết quyển A Mighty Heart của Mariane Pearl sẽ lên phim với Angelina Jolie trong vai Mariane nhưng Daniel (chồng của Mariane) thì chưa biết nam tài tử nào sẽ thủ vai. Vậy bây giờ đã có thể biết được chưa và bao giờ thì bấm máy?
AN CHI: A Mighty Heart (Một con tim mãnh liệt) là một quyển sách mà Mariane Pearl viết để nói về cuộc đời và cái chết dũng cảm (The Brave Life and Death) của chồng mình, Daniel Pearl, phóng viên của tờ Wall Street Journal, đã bị bọn khủng bố bắt cóc rồi sát hại tại Pakistan năm 2002.
Trên Kiến thức ngày nay, số 580, khi chúng tôi nói rằng A Mighty Heart sẽ lên phim thì ta chỉ mới biết được người sẽ đóng vai Mariane Pearl là Angelina Jolie. Còn bây giờ, ta đã có thể biết thêm tên một số diễn viên khác của bảng phân vai: Archie Panjabi, vai Asra; Denis O’Hare, vai Bussey; Irfan Khan, vai đại úy; Sajid Hasan, vai Zubair; Will Patton, vai Randall; đặc biệt là Dan Futterman, vai Daniel Pearl (theo IMDb, Earth’s Biggest Movie Database, A Mighty Heart (2007)).
– Brad Pitt và Angelina Jolie cùng các con đã đến Ấn Độ. Hai người có vẻ hối hả, vội vàng, một phần vì công việc, một phần vì cũng muốn tránh các tay săn ảnh. Họ đã đến Mumbai (Bombay) và rời Mumbai để đến Pune, là nơi sẽ quay các cảnh chính, bằng máy bay riêng.
Pune là một thành phố nằm cách Mumbai khoảng 170km về phía Nam, được chọn vì có những cảnh giống như ở Karachi (Pakistan) là nơi lẽ ra bộ phim A Mighty Heart phải được quay. (Daniel Pearl bị sát hại tại Pakistan và đã sống cùng Mariane ở Karachi để làm phóng sự trước khi bị giết). Ngôi nhà được chọn làm chỗ ở của vợ chồng Pearl (trong phim) là bungalow 223, nằm tại một địa điểm phía Tây thành phố, là nơi mà không khí sinh hoạt và các toà bungalow giống như ở Karachi.
Mấy chục công nhân đã sửa sang, dọn dẹp toà nhà này để chuẩn bị cho các cảnh quay và tất cả những người giúp việc đều được lệnh tuyệt đối giữ bí mật về những gì có thể thấy nếu không muốn bị đuổi việc.
Sau gia đình Brangelina, “nhân vật” chính của bộ phim, Dan Futterman, cũng đã đến Pune ngày 7-10-2006. Dĩ nhiên là nam tài tử này cũng bị săn đón chẳng kém gì cặp đôi Brad và Angie, tại khách sạn 5 sao Le Meridien là nơi mà hai người này trú ngụ và được bảo vệ cẩn mật. Ta cũng đã nghe tin một vệ sĩ của cặp vợ chồng này hành hung nhà nhiếp ảnh Sam Relph, làm việc cho Barcroft Media.
Và tạp chí USA Today cũng đã công bố bức ảnh đầu tiên của Angelina Jolie trong vai Mariane Pearl đang mang thai.
Ta cũng được biết thêm rằng trong ngày thứ ba 3-10-2006 thì Angelina Jolie, cũng với cái bụng bầu giả, đang có mặt tại Marseille (Pháp), gần con đường La Canebière, trong y phục toàn trắng, để quay những cảnh lúc Mariane Pearl đang ở Pháp.
Dự kiến, A Mighty Heart sẽ công chiếu trong năm 2007.
§ 1181. Kiến thức ngày nay, số 583
ĐỘC GIẢ: Xin giới thiệu sơ lược về giải Booker Prize, cũng gọi là Man Booker Prize. Người được giải năm 2006 là ai và tại sao gọi là “Man” (Đàn ông) mà nữ tác giả cũng được tặng thưởng?
AN CHI: Giải này được gọi bằng những cái tên: Booker, Booker Prize (tên thông dụng), Man Booker, Man Booker Prize, Man Booker Prize for Fiction (tên chính thức). Man ở đây không phải là “đàn ông” mà cũng chẳng phải là “người”. Đó là họ của James. Cách đây 200 năm hơn, James Man đã khởi nghiệp bằng công việc môi giới. Công việc ngày càng phát đạt và đưa đến việc thành lập tập đoàn Man Group hiện nay. Năm 1969, công ty Booker-McConnell sáng lập và tài trợ giải Booker-McConnell (Booker-McConnell Prize), thường gọi tắt là giải Booker (Booker Prize). Khi giải này được chuyển cho Quỹ giải thưởng Booker (Booker Prize Foundation) vào năm 2002 và nhà tài trợ chính của nó trở thành Công ty đầu tư Man Group, giải thưởng được đổi tên thành Man Booker Prize for Fiction. Tiền thưởng ban đầu là 21.000 bảng Anh, từ năm 2002 tăng thành 50.000 bảng. Giải Man Booker Prize dành cho tác giả còn tại thế của khối Thịnh vượng chung (Commonwealth), Ireland, Pakistan và Nam Phi.
Giải 2006 thuộc về nhà văn nữ Kiran Desai của Ấn Độ, với tác phẩm The Inheritance of Loss, như báo đã đưa tin.
§ 1182. Kiến thức ngày nay, số 584
ĐỘC GIẢ: Hai chữ giả đò trong tiếng Nam Bộ có nghĩa là gì thì chắc ai cũng hiểu nhưng riêng chữ đò có nghĩa là gì thì…Rất mong ông giải thích hộ.
AN CHI: Đò là âm xưa của chữ độ 度 trong thái độ, y hệt như chữ độ 渡 là bến đò cũng có âm cổ Hán Việt là…đò. Chữ độ ở đây có nghĩa là cái vẻ, cái dáng dấp, cái cử chỉ bên ngoài; do đó mà giả đò cũng đồng nghĩa với giả bộ, làm bộ trong phương ngữ Nam Bộ. Vậy đò là một từ cổ chứ không phải là một yếu tố vô nghĩa.
§ 1183. Kiến thức ngày nay, số 584
ĐỘC GIẢ: Ho he: he là gì?
AN CHI: He là âm xưa của chữ ha 呵, có nghĩa là hà hơi. Vậy ho he là một cấu trúc đẳng lập gồm hai từ gần nghĩa chứ không phải là một từ láy.
§ 1184. Kiến thức ngày nay, số 584
ĐỘC GIẢ: Ngoài bìa, và cả trong bìa giả, quyển Utopia của Thomas More do Trịnh Lữ dịch, Nhã Nam và Nxb. Hội Nhà văn ấn hành, những người làm sách (chứ không phải dịch giả) đã thêm vào dưới nhan đề chính một “phụ đề” là “Địa đàng trần gian”. Về cái phụ đề này, trong một bài nhận xét đăng trên báo Lao động ngày 4-9-2006, Cao Xuân Hạo đã viết:
“Địa đàng trần gian là một trùng ngữ (pleonasm), một lỗi ngữ pháp và ngữ nghĩa học không thể nào dung thứ được trong tiếng Việt, chẳng khác nào ánh nắng mặt trời hay bóng Nguyệt của chị Hằng”.
Ông còn nhấn mạnh: “Cho nên bốn chữ “Địa đàngtrần gian”, dù có dễ tính đến mấy, cũng không thể nào chấp nhận được”.
Ý của Cao Xuân Hạo thì như thế, còn ý ông An Chi thì thế nào?
AN CHI: Đáp lại lời khẳng định của Cao Xuân Hạo, nhân danh những người làm sách, ông Nguyễn Nhật Anh có viết hai bài khá tỉ mỉ, đăng trên một tờ báo điện tử, ngày 20-9-2006 (số 360) và 1-10-2006 (số 363) để biện hộ cho bốn tiếng địa đàng trần gian.
Trước nhất, ông Nguyễn Nhật Anh đã đưa ra và biện hộ cho một số cách nói mà ông cho là bình thường nhưng có thể có người sẽ cho là trùng ngữ. Chúng tôi xin nhắc lại một số thí dụ của ông bằng cách quy chúng vào một số loại để thuận tiện cho sự biện luận:
Loại 1: cố gắng, gắn kết, tra khảo, truất phế, truy đuổi, v.v..
Loại 2: trái tính trái nết, đàn bà con gái, đàn ông con trai, v.v..
Loại 3: sông Hoàng Hà, sông Hồng Hà, sông Trường Giang, thành phố Mexico City, v.v..
Loại 4: người nghệ sĩ, kẻ triết gia, nhà học giả, người khán giả, người tài tử, người nôngphu, người diêm dân, v.v..
Loại 5: tiền học phí, tiền cước phí, tiền lộ phí, v.v..
Loại 6: (cái) nết lành tính, (cái) nết nóng tính, (cái) nết cục tính, (cái) tính nết na, (cái) tính tốt nết, v.v..
Cuối cùng, ông Nguyễn Nhật Anh có dẫn ra một câu trong Nhị độ mai:
Bất thình lình bỗng trong bàn mất vui.
mà ông cho là lệ ngoại cũng như loại 3, loại 4 và vì là lệ ngoại nên không phải là những hiện tượng khó lý giải. Khó lý giải là loại 1, loại 2, loại 5 và loại 6: tại sao người ta vẫn nói được như thế (mà đó không phải là trùng ngữ)?
Sau đây là ý kiến của chúng tôi.
Loại 1 là những thí dụ rất quan trọng cho thấy một đặc trưng của tiếng Việt là nó thích kiểu cấu tạo từ tổ đẳng lập bằng cách ghép hai từ cùng từ loại, đồng nghĩa hoặc cùng trường nghĩa với nhau. Loại này thực ra cũng không hạn chế ở vị từ động (như các thí dụ mà ông Nguyễn Nhật Anh đã nêu), mà cả ở vị từ tĩnh (như: bằng phẳng, cao cả, thấp bé, v.v. ), và danh từ (như: nhà cửa, giấy bút, sách vở, v.v.). Người có nhận thức đúng về tiếng Việt, không ai coi đây là trùng ngôn cả. Huống chi, các thí dụ của loại này thuộc về ngôn ngữ (langue) chứ không thuộc về lời nói (parole) nên cũng chẳng thể xem là trùng ngôn (pleonasm).
Loại 2 là những thành ngữ; rồi vì là thành ngữ nên cũng thuộc về ngôn ngữ chứ không phải thuộc về lời nói. Vậy ta cũng chẳng có lý do gì để xem đây là những thí dụ về hiện tượng trùng ngôn.
Loại 3 là những cấu trúc địa danh mà yếu tố thứ hai của địa danh (hà, City) đồng nghĩa với danh từ trung tâm (sông, thành phố) lại là những hình vị không được dùng độc lập trong tiếng Việt nên ta cũng không thể xem loại này là những thí dụ về hiện tượng trùng ngôn. Việc sử dụng hay không sử dụng danh từ bị xem là trùng ngôn (sông, thành phố) ở đây phụ thuộc vào trình độ của người nói, người viết trong mối quan hệ với trình độ của người nghe, người đọc. Nó không có tính chất bắt buộc.
Loại 4 thì đòi hỏi một cái nhìn tế nhị hơn nhiều. Khác với loại 3 mà trung tâm là những danh từ khối, ở đây trung tâm lại là những danh từ đơn vị. Nhưng loại 4 cũng giống loại 3 ở chỗ yếu tố thứ hai trong định ngữ (sĩ, gia, giả, tử, phu, dân (khác hẳn với dân trong người dân)) đồng nghĩa với danh từ trung tâm (người, kẻ, nhà) là những hình vị không được dùng độc lập trong tiếng Việt. Vậy ở đây ta cũng không thể đặt thành vấn đề trùng ngôn. Ngược lại, việc sử dụng danh từ trung tâm ở đây thể hiện một sự trau chuốt, một sự quan tâm đến tính minh xác của lời nói, mà sau đây là một thí dụ:
– Cung Trung là một nghệ sĩ piano tài ba. Người nghệ sĩ này đã có một quá khứ cay đắng và tủi nhục thời bao cấp.
Người trong danh ngữ người nghệ sĩ nằm trong một mối quan hệ đối vị với anh, với chàng, với gã, với tay, với thằng, v.v. trong anh nghệ sĩ này, chàng nghệ sĩ này, gã nghệ sĩ này, tay nghệ sĩ này, thằng nghệ sĩ này, v.v.. Cái mối quan hệ này cấp cho danh từ đơn vị người trong người nghệ sĩ một thứ quyền công dân chính đáng và chắc chắn chứ ở đây làm gì có chuyện trùng ngôn.
Loại 5 chỉ thể hiện trình độ của người nói, người viết mà thôi. Cước phí, học phí, lộ phí tự nó đã là tiền trong văn viết, bên cạnh tiền cước, tiền học, tiền đi đường chứ tiền cước phí, tiền học phí, tiền lộ phí thì chỉ nên được chấp nhận trong lối nói bình dân mà thôi.
Loại 6 liên quan đến mặt ngữ dụng của tính và nết mà ông Nguyễn Nhật Anh đã không để ý đến. Đây không phải là hai từ đồng nghĩa tuyệt đối. Ta có thể nói đến tính toàn dân của một ngôn ngữ chứ không thể nói đến “nết toàn dân” của nó. Đồng thời, nết phải là cái tính tốt. Trong hư thân mất nết thì nết là tính tốt. Vậy nết nóng tính, nết cục tính là những cách dùng từ không thích hợp. Đồng thời, trong tính tốt nết thì nết thừa mà trong nết lành tính thì tính thừa. Nếu có dễ dãi thì cũng phải nhận rằng ở đây đã có trùng ngôn cỡ …đờ-mi và chỉ nên dành cho khẩu ngữ mà thôi.
Sở dĩ chúng tôi phải phân tích dài dòng là vì chính ông Nguyễn Nhật Anh đã đưa ra những thí dụ trên đây chứ dù cho những thí dụ này có phải là trùng ngôn hay không thì nó cũng chẳng có liên quan gì đến sự trùng ngôn trong bốn tiếng địa đàng trần gian mà tác giả (hoặc người đại diện cho tác giả) của nó đã ra sức phủ nhận.
Ông Nguyễn Nhật Anh đã đưa ra hai luận cứ chính:
1. Trong địa đàng và địa ngục đều có địa. Vậy đã nói được địa ngục trần gian thì cũng có thể nói địa đàng trần gian.
2. “Cái đàng trong địa đàng với đàng trong thiên đàng, thì đều xuất phát từ paradis (tiếng Pháp), hay paradisus (tiếng La Tinh) tức là thiên đàng, vườn cực lạc, vườn diệu quang, và cả địa đàng nữa”. Ông còn nói rõ thêm: “Địa đàng (hoặc vườn địa đàng) trong hầu hết các từ điển cái, quan trọng (…) đều tương đương với khái niệm Paradisus hay paradisus terrestris trong tiếng La Tinh, và với Paradis hoặc paradis terrestre trong tiếng Pháp, tức là đều trỏ rõ là thiên đàng”.
Nghĩa là ông đã đánh đồng địa đàng với thiên đàng. Vì ông thấy rằng chỉ một từ Paradis của tiếng Pháp hoặc Paradisus của tiếng La Tinh thôi, cũng vừa có nghĩa là thiên đàng, vừa có nghĩa là địa đàng.
Ông Nguyễn Nhật Anh đã nhầm.
1. Tuy trong địa đàng và địa ngục đều có địa nhưng địa ngục thì ở dưới âm phủ nên ta mới có thể dùng ẩn dụ mà nói địa ngục trần gian chứ địa đàng đã ở trên cõi trần rồi thì còn nói địa đàng trần gian làm gì cho thừa từ dư chữ?
2. Paradis có hai nghĩa (không kể những nghĩa không trực tiếp liên quan đến vấn đề đang bàn) nhưng tuỳ theo ngôn cảnh mà phải hiểu đó là paradis céleste (thiên đàng) hay paradis terrestre (địa đàng) chứ tuyệt đối không thể vì thế mà đưa ra cái đẳng thức:
Địa đàng = thiên đàng
Maîtresse có ba nghĩa: bà chủ – cô giáo – nhân tình nhưng ta đâu có thể vì thế mà lăng-xê cái đẳng thức:
Bà chủ = cô giáo = nhân tình!
Ông Nguyễn Nhật Anh muốn chứng minh rằng Paradis = thiên đàng = địa đàng; hàm ý của ông là tuy nói địa đàng trần gian, nhưng lại dính dáng đến thiên đàng nên làm gì có chuyện trùng ngôn.
Nhưng không có người Việt nào lại chịu hiểu rằng địa đàng là thiên đàng! Vì vậy nên vừa nghe đến mấy tiếng địa đàng trần gian thì “bất thình lình bỗng trong lòng mất vui”.