Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1161 - 1173
§ 1161. Kiến thức ngày nay, số 573
ĐỘC GIẢ: Trong Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002), Nguyễn Tài Cẩn đã phiên âm chữ thứ nhất câu 782 là “giọt” (tr. 142 – 143) rồi cho biết chỉ có bản Đào Duy Anh 1974 ghi “lệ” còn các bản Kiều Oánh Mậu 1902 (bản B), Thịnh Mỹ Đường 1879 (bản C) và Liễu Văn Đường 1871 (bản D) đều ghi “giọt”. Xin ông An Chi cho biết thực hư ra sao.
AN CHI: Ta không được biết Đào Duy Anh căn cứ vào đâu mà phiên chữ đang xét thành “lệ” nhưng chúng tôi thì có căn cứ để khẳng định rằng chữ giọt 湥 của các bản B, C, D chỉ là do nhầm lẫn mà ra. Cái chữ gốc phải là lệ 淚 thì mới đúng. Chẳng qua do tự dạng của hai chữ này na ná nhau nên thợ khắc ván hoặc người chép mới nhầm từ lệ 淚 thành giọt 湥 mà thôi.
Nhưng dựa vào đâu mà khẳng định rằng chữ đang xét phải là lệ? Ta hãy phân tích câu 782 như Nguyễn Tài Cẩn đã phiên (dĩ nhiên là phiên đúng):
Giọt rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm.
Câu này có hai vế tiểu đối: Giọt rơi thấm đá – tơ chia rũ tằm, trong đó giọt đối với tơ. Nhưng trong khi tơ là một danh từ khối thì giọt lại là một danh từ đơn vị. Trái cựa chính là ở chỗ này. Trong một ngôn cảnh như câu 782, bản thân từ giọt không chỉ được cái gì cụ thể cả. Đó có thể là “giọt máu rơi thấm đá”, “giọt mỡ (!) rơi thấm đá”, “giọt mưa rơi thấm đá”, “giọt nước rơi thấm đá”, “giọt sương rơi thấm đá”, v.v.. Rõ ràng chữ giọt rất mơ hồ. Lệ thì hoàn toàn cụ thể:
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm.
Danh từ khối đối với danh từ khối thì mới xứng lứa vừa đôi chứ nếu người chép hoặc anh thợ khắc có quyền đổi lệ thành “giọt” thì ta cũng có quyền đổi tơ thành “sợi” mà nói:
Giọt rơi thấm đá, sợi chia rũ tằm!
May thay, bản của Tiểu Tô Lâm (Noạ Phu), một bản rất đáng tin, đã chép cho ta:
Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm.
(Truyện Kiều – Bản Kinh đời Tự Đức, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2003, tr. 160 – 161).
§ 1162. Kiến thức ngày nay, số 575
ĐỘC GIẢ: Chú thích cho bức ảnh kèm theo đây (Ảnh 1), in tại trang 9 của tạp chí Xưa & Nay, số 262, Ban biên tập đã ghi: “Phố cổ Chợ Lớn – Triệu Quang Phục”. Xin cho biết ghi chú như thế có đúng hay không?
AN CHI: Chúng tôi in lại bức ảnh trên trang 9 của tạp chí Xưa & Nay, số 262 để bảo đảm tính khách quan, nhưng vì ảnh không rõ nên xin in thêm bức ảnh chúng tôi mới chụp (Ảnh 2), cũng cùng một góc nhìn, để dễ bàn luận và nhất là để cho bạn đọc khác dễ quan sát.
Chỉ cần thoáng nhìn thì đã có thể biết rằng “Phố cổ Chợ Lớn – Triệu Quang Phục” là một lời ghi chú sai. Bất cứ ai đã từng ở Chợ Lớn trước đây hoặc thường lui tới Quận 5 hiện nay cũng có thể thấy đường Triệu Quang Phục không thể rộng như thế được. Đó thực ra là đường Hải Thượng Lãn Ông. Ngay căn nhà mặt tiền, nhìn ra góc đường, hiệu Hồng Phúc, như có thể thấy rõ ràng trong ảnh, cũng thuộc đường Hải Thượng Lãn Ông. Đây là một con đường rộng hàng mấy chục mét, chia làm hai chiều, ở giữa hiện nay là một khoảng trống (còn ngày trước là chợ Gaudot). Chiều có dãy phố cổ mà ta thấy trong ảnh là chiều đi từ Bưu điện Quận 5 tới. Còn đối diện ở phía bên kia, có một toà nhà lớn và kiên cố nay là văn phòng của Trung tâm giáo dục thường xuyên, Hội bảo trợ tiếng Hoa và Câu lạc bộ giáo viên tiếng Hoa thì trước đây là toà nhà trung tâm của trường Nghĩa An của người Triều Châu, nổi tiếng là mạnh về môn bóng rổ trong tất cả các trường của Sài Gòn – Chợ Lớn.
Đường Hải Thượng Lãn Ông, Quận 5 xưa (Ảnh 1) và nay (Ảnh 2).
Còn đường Triệu Quang Phục thì lại cắt ngang đường Hải Thượng Lãn Ông, như ta cũng có thể thấy được ở bảng tên đường (tiếc rằng trong ảnh thì lại quá nhỏ), gần cột đèn, ở về phía trước và bên trái (nhìn theo ảnh, tức ở ngoài nhìn vào) của hiệu Hồng Phúc.
Xin nhân tiện bàn thêm đôi chút về khái niệm phố cổ mà Ban biên tập Xưa & Nay – và có lẽ cả nhiều vị ở một số lĩnh vực khác – đã dùng để chỉ dãy phố của người Hoa mà ta thấy trong ảnh. Thực ra, có “cổ” lắm thì dãy phố này cũng chỉ mới thọ bách niên (nói có “chiếu cố”) mà thôi: đây chẳng qua chỉ là “phố Tàu thời Tây: làm sao bì được với phố cổ chính danh của Hội An và Hà Nội, cũng như những gì còn sót lại của Phố Hiến. Vậy, xin ngành bảo tồn bảo tàng vui lòng cho người dân biết quan niệm chính xác và chính thức của mình về cái khái niệm được gởi gắm trong hai tiếng “phố cổ”.
§ 1163. Kiến thức ngày nay, số 575
ĐỘC GIẢ: Còn nhớ hồi 2003, khi bàn về cách đọc chữ (trong câu Kiều thứ 2128, bản Duy Minh Thị 1872) của GS. Nguyễn Tài Cẩn, ông có nói rằng một vị ở Chợ Lớn có hứa với ông là vị ấy sẽ tìm tài liệu để “minh chứng” rằng chữ này có tồn tại. Từ bấy đến nay đã gần 3 năm, xin ông vui lòng cho biết vị ấy đã tìm được chưa?
AN CHI: Chúng tôi thì không dám nhắc vị ân nhân ở Khánh Vân Nam Viện (Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh) vì mình là người đi nhờ vả nhưng xin trân trọng cám ơn ông đã nhắc chúng tôi về một trường hợp của Chuyện Đông chuyện Tây mà, có lẽ, theo ý ông, chưa được giải quyết dứt khoát. Xin thưa để ông thông cảm cho rằng chưa giải quyết dứt khoát chỉ là chuyện chữ của tiếng Hán, chứ còn cái chữ Nôm thì chúng tôi đã kết luận rõ ràng và dứt khoát trên Kiến thức ngày nay, số 471 rồi. Nhưng có lẽ ông, và một số bạn đọc khác (?), chưa tin ở cách giải quyết đó nên lần này chúng tôi xin đưa ra những bằng chứng hoàn toàn chắc chắn để ông và những bạn đọc đó tham khảo.
Mới đây, Nhà xuất bản Giáo dục có ấn hành quyển Tự điển chữ Nôm (TĐCN) của Viện nghiên cứu Hán – Nôm (NCHN) do Nguyễn Quang Hồng chủ biên (in xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2006). Về những dẫn chứng từ Truyện Kiều, TĐCN dùng bản Kim Vân Kiều tân truyện của Phúc Văn Đường tàng bản, khắc in năm Khải Định thứ 3 (1918). Tại trang 1001, mục SẮM, TĐCN cho nguyên văn như sau:
“ SẮM. Loại chữ C2 (hv. Sám).
Sửa soạn, chuẩn bị. Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân (Kiều, 1b) – Sắm sanh níp tử xe châu (Kiều, 2b) – Sắm sanh xe ngựa vội vàng (Kiều, 62a)”.
Ở tờ 1b của bản Phúc Văn Đường là câu 66; ở tờ 2b là câu 77 còn ở tờ 62 là câu 2951. Sự có mặt của chữ đang xét trong 3 câu này của bản Phúc Văn Đường cho phép khẳng định:
Chữ là một chữ Nôm chính cống bất kể nó là một chữ mượn từ một chữ Hán cận âm và cùng tự hình hay nó là một chữ mà người Việt tạo ra một cách hoàn toàn độc lập với cái chữ Hán kia. Đó cũng chính là chữ thứ 7 trong câu 2128 của bản Duy Minh Thị 1872 chứ chữ này không phải gồm có bộ tâm 忄 (hoặc ), chữ thiên 千 và dấu cá 亇; như Nguyễn Tài Cẩn đã suy diễn.
Mặc dù chúng tôi vẫn còn nợ ông và bạn đọc về dẫn chứng cho sự hiện diện của chữ đang xét trong kho Hán tự nhưng các nhà biên soạn của TĐCN đã khẳng định rằng chữ là một chữ Nôm thuộc loại C2, nghĩa là một chữ mượn từ chữ Hán mà đọc trại âm, thì chắc là các vị ấy phải có bằng chứng đáng tin cậy về sự tồn tại của nó trong kho Hán tự.
§ 1164. Kiến thức ngày nay, số 575
ĐỘC GIẢ: Tôi và mấy ông bạn cũng là người yêu thích Truyện Kiều nên tuy một chữ Nôm bẻ đôi cũng không biết nhưng lại thích sưu tầm các bản Kiều để trao đổi cho nhau xem và trao đổi ý kiến. Ông A mua bản Liễu Văn Đường 1871, ông B mua bản Kinh đời Tự Đức, tôi mua bản Duy Minh Thị 1872, v.v.. Thấy ông thường nhận xét về Truyện Kiều nên xin hỏi ông có ý kiến gì về một số chỗ phiên âm của Nguyễn Tài Cẩn trong bản Duy Minh Thị mà tôi đang có trong tay. Mong ông quan tâm và xin trân trọng cám ơn.
AN CHI: Thực ra thì về bản Duy Minh Thị 1872, do Nguyễn Tài Cẩn phiên âm và khảo dị, chúng tôi cũng đã có nhận xét một vài lần về một số điểm chi tiết, đặc biệt là về chữ Nôm miền Nam (Xin xem Kiến thức ngày nay, số 464). Nhưng ông đã có lòng quan tâm đến Chuyện Đông chuyện Tây mà đặt vấn đề thì chúng tôi cũng mạn phép nhận xét thêm về một số chỗ phiên âm không hợp lý của Nguyễn Tài Cẩn.
1. Câu 81 được Nguyễn Tài Cẩn phiên là:
Lòng đâu sẵn mỏn thương tâm.
Chữ * được phiên thành mỏn (tr. 72) với lý do “chắc phải đọc thành mỏn với ý nghĩa là “yếu đuối, kiệt sức, buồn thảm” (tr. 403). Hình như Nguyễn Tài Cẩn quên để ý rằng nếu chữ thứ hai của nó là một vị từ thì cấu trúc sẵn mỏn thương tâm không còn là tiếng Việt thật chuẩn nữa. Để cho cấu trúc này thật sự phù hợp với quy luật của tiếng Việt và cảm nhận của người Việt, chữ thứ hai của nó phải là danh từ: món, mối, v.v.. Còn chúng tôi thì lại đọc thành mớn, như đã nói ở một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây gần đây. Mớn là một từ của phương ngữ Nam Bộ, có nghĩa là “sức chứa của một chiếc thuyền” (Từ điển Lê Văn Đức). Mớn thương tâm là cái trữ lượng của tình thương chất chứa ở trong lòng. Nhưng nếu không phải là mớn thì cũng phải là một danh từ khác chứ “mỏn” thì không ổn.
2. Câu 677 được Nguyễn Tài Cẩn phiên là:
Thè rằng liều một thân con.
Chữ 時 được Nguyễn Tài Cẩn đọc thành thè (đây là chữ của Nguyễn Tài Cẩn chứ không phải lỗi in ấn). Ở câu 664 tuy viết thà nhưng Nguyễn Tài Cẩn lại nhận xét: “Riêng ở bản này thì chẳng thè, chữ thè ghi bằng thì” (tr. 427, chú thích 236) và “Ở câu này (câu 677 – AC) thà cũng khắc thành thè (…)” (tr. 428, chú thích 242). Thực ra, chữ 時 cũng được dùng để ghi thà (Xin xem chẳng hạn, Tự điển chữ Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm do Nguyễn Quang Hồng chủ biên) nên ở đây nó không thể đọc thành “thè” như Nguyễn Tài Cẩn đã phiên.
3. Câu 789 được Nguyễn Tài Cẩn phiên là:
Phẩm tiên thuở đến tay hèn.
Chữ 裸 được Nguyễn Tài Cẩn đọc là “thuở” vì ông tưởng rằng đó là chữ khoá 課 của tiếng Hán. Thực ra, đây là chữ loã 裸, dùng làm Nôm để ghi âm lỡ. Vậy câu 789 là:
Phẩm tiên lỡ đến tay hèn.
Vì khuôn khổ có hạn nên xin tạm dừng ở đây; mong ông và bạn đọc thông cảm.
§ 1165. Kiến thức ngày nay, số 576
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Trao đổi thêm về chữ tầy trong câu tục ngữ Học thầy không tầy học bạn”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (129)-2006, tác giả Lê Hữu Bắc Sơn đã bác bỏ ý kiến cho rằng “chữ tầy do chữ tề đọc chệch mà ra”. Tác giả này viết:
“Hiện tượng “ê” đọc chệch sang “ây” rất ít thấy vì “ê” là nguyên âm hơi hẹp ở hàng trước còn “â” lại là nguyên âm hơi hẹp ở hàng sau. Hai nguyên âm đó rất khó chuyển đổi cho nhau. Vì thế lập luận tề đọc chệch thành tầy rất khó chấp nhận”. (Bđd, tr. 44)
Vậy, theo ông An Chi, ý kiến này có thể chấp nhận được hay không?
AN CHI: Tầy là âm Hán Việt xưa của chữ 薺 mà âm Hán Việt hiện đại là tề. Nếu không phải là âm Hán Việt xưa thì đó cũng là âm “Hán Việt Việt hoá”, nhưng chắc chắn là ở đây tầy và tề có quan hệ nguồn gốc với nhau. Về mối tương ứng ây ~ ê, ta còn có những dẫn chứng đầy sức thuyết phục khác.
Chữ 西, vẫn còn đọc theo âm thông dụng là tây, lẽ ra phải đọc thành tê vì nó thuộc vận bộ tề 薺. Thiết âm của nó trong Quảng vận là tiên kê thiết. Rõ ràng là lẽ ra nó phải được đọc thành tê. Vậy mối quan hệ Tây Ü ~ tê là chỗ dựa để ta khẳng định mối quan hệ tầy ~tề 薺.
Cái chỗ dựa này sẽ được củng cố thêm gấp bội nếu ta biết thêm rằng chữ tê 屖 trong tê giác cũng có một điệp thức là tây. Trước đây, cái con thú mà tiếng Việt miền Bắc trước 1975 và tiếng Việt toàn dân sau 1975 gọi một cách ngộ nghĩnh là tê giác, thì tiếng Việt miền Nam gọi là tây, như đã được ghi nhận từ cuối thế kỷ XVIII trong Tự vị Annam – Latinh của Pigneaux de Béhaine, rồi nửa đầu thế kỷ XIX trong Từ điển An Nam – Latinh của J. L. Taberd, và đầu nửa sau thế kỷ XX trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức. Dẫn từ điển Lê Văn Đức là để chứng tỏ rằng miền Nam giữ lại cái âm tây lâu hơn miền Bắc chứ xưa kia thì miền Bắc cũng gọi con “tê giác” là con tây như có thể thấy trong Dictionarium Latino – Annamiticum của M. H. Ravier, in tại Ninh Phú năm 1880, tại các mục:
– “Rhinoceros. 1. Con tây; tê ngưu (…)3. Bình bằng tây giác (…)”.
– Rhinoceroticus. (sự gì) Thuộc về con tây”.
Cái âm tây này còn được ghi nhận trong Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh:
“Tê ngưu. Con tê ngưu, mình nhỏ hơn voi một chút, da dầy (sic), sừng mọc ở mũi, ở rừng, tục gọi là tây ngu (rhinocéros)”.
Ngoài các trường hợp trên, ta lại còn có chữ tẩy 洗 có nghĩa là rửa. Đây là một chữ thuộc vận bộ tễ 薺. Thiết âm của nó là “tiên lễ thiết”. Tiên lễ thiết thì phải đọc thành tể nhưng đây lại là một cái âm chưa bao giờ được sử dụng đến. Người ta chỉ nói: tẩy não, tẩy nhĩ, tẩy oan, tẩy uế, v.v.. Chẳng ai nói: tể não, tể nhĩ, v.v..
Thế là ta có:
– tây (trong tây phương) ~ tê;
– tây (ngu) ~ tê (ngưu);
– tẩy ~ tể.
Ba tiền lệ này là những chỗ dựa chắc chắn để ta khẳng định rằng tầy (trong Học thầy không tầy học bạn) là một biến thể ngữ âm, một điệp thức, của tề.
§ 1166. Kiến thức ngày nay, số 576
ĐỘC GIẢ: Có một bài hát nhan đề “Chờ đợi ai”, trước đây nữ ca sĩ K. L. từng trình bày rất truyền cảm và thành công. Lời bài hát có những câu:
Chờ đợi ai
Thao thức
Đêm hay ngày
Mong chờ ai
Không nguôi
Người có hay
Chờ đợi ai
Như cánh chim
Bay vút cao…
Và cuối cùng là:
Còn trái tim
Thì xin vẫn
Chờ đợi em.
Tôi tìm mãi mà không biết bài này của nhạc sĩ nào.
AN CHI: Đó là một ca khúc lời Việt nhạc… Tây và cái tên Tây của nó là J’attendrai (Em sẽ chờ).
Thật ra thì lai lịch của bài hát này hơi lòng vòng. Thoạt đầu, đó là một điệu nhạc trong vở nhạc kịch Madame Butterfly của Puccini. Điệu nhạc này là nguồn cảm hứng cho Dino Olivieri sáng tác ca khúc Tornerai (Anh [ngôi thứ 2] sẽ về) do Nino Rastelli viết ca từ (bằng tiếng Ý). Sau đó Louis Poterat mới viết lời bằng tiếng Pháp với nhan đề J’attendrai (Em sẽ đợi). Poterat đã viết lời cho 1.500 bài hát nhưng J’attendrai mới thuộc vào số những bài thành công nhất và, trong phần tiểu sử của Louis Poterat, Hall de la Chanson đã gọi đây là một bài célébrissime (lừng danh). Tuy có nguồn gốc như đã nói nhưng người ta mặc nhiên xem J’attendrai là một ca khúc của nước Pháp, rồi do giai điệu du dương và ca từ thống thiết của nó gợi liên tưởng đến người chinh phu mà bài hát này cơ hồ đã trở thành một bài ca yêu nước được hát đi hát lại trong suốt thời gian phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp. Ca từ có đoạn:
Les fleurs pâlissent
Le feu s’ éteint
L’ombre se glisse
Dans le jardin
L’ horloge tisse
Des sons très bas
Je crois entendre ton pas
Le vent m’apporte
Des bruits lointains
Guettant ma porte
J’écoute en vain
Hélas, plus rien
Plus rien ne vient.
Tạm dịch:
Hoa nhạt dần
Lửa bếp tắt
Bóng đêm lẻn
Vào vườn
Đồng hồ điểm
Những tiếng
Khẽ khàng
Em tưởng như
nghe bước
Chân chàng
Gió đưa đến em
Những tiếng xào xạc
Xa xôi
Dõi ra cửa
Em nghe vô vọng
Ôi, còn gì đâu
Còn có gì
Hiển hiện nữa đâu!
Đoạn trên đây thật là thống thiết nhưng tiếc rằng nhiều trang web cung cấp ca từ bài J’attendrai đã bỏ sót 7 câu đầu, làm cho nó nghèo nàn hẳn đi.
J’attendrai từng được một số danh ca lớp trước như Tino Rossi, Jean Sablon trình bày, còn gần đây hơn thì có Dalida (trình bày năm 1975), nhưng người đầu tiên giới thiệu nó ngay từ năm 1938 và góp phần làm cho nó trở thành célébrissime chính là Rina Ketty, một danh ca người Pháp gốc Ý, sinh ngày 1-3-1911 tại Torino và mất ngày 23-12-1996 tại Cannes.
Ông và bạn đọc có thể vào: http://www.chanson.udenap.org/50-chansons/50-chansons-05.htm để nghe bài J’attendrai qua giọng ca của Rina Ketty, thu âm năm 1938.
§ 1167. Kiến thức ngày nay, số 577
ĐỘC GIẢ: Trong một pho từ điển, sau khi phân tích một cách đọc Nôm của học giả Hoàng Xuân Hãn mà mình cho là sai, tác giả Vũ Văn Kính viết tiếp:
Và ngay bây giờ, cũng có quyển sách mà đa số các nhà nghiên cứu vẫn đọc là “Ngọc Âm Chỉ Nam” hay “Chỉ Nam Ngọc Âm: chúng tôi cũng nghĩ rằng có lẽ chữ ngọc 玉 là do chữ quốc 國. Viết đá thảo 壬 mà vì lẽ gì đó đã mất một nét chấm nhỏ bên trái nên đã đọc thành chữ ngọc. Nếu trông vào tự hình chữ 玉 thì đúng là ngọc, nhưng chúng tôi không hiểu Ngọc Âm là gì mà chỉ Quốc Âm mới có nghĩa. Nhưng đây cũng chỉ là ý kiến của riêng chúng tôi thôi, còn độc giả sẽ tìm hiểu và đoán đọc”.
Trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây, ông đã có giới thiệu quyển sách trên và cũng đọc chữ đang bàn là “ngọc”. Vậy lần này, xin ông cho biết ông có ý kiến gì khác không.
AN CHI: Như chúng tôi đã nói trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây trước đây, quyển Chỉ nam này chính là một loại từ điển Hán Việt trong đó tác giả đã giảng chữ Hán bằng chữ Nôm. Vậy chỉ với mục đích này thôi chứ chưa vội bàn đến mặt chữ, ta cũng đã có thể thấy rằng cái đối tượng mà tác giả đã ám chỉ bằng hai chữ ngọc âm ở đây chính là tiếng Hán. Mà đã thế thì đây không thể nào lại là “quốc âm” như ông Vũ Văn Kính đã suy đoán.
Vậy ngọc âm là gì? Trước nhất xin hãy nói về chữ ngọc. Đầu tiên là nghĩa đen, cũng là nghĩa gốc của nó, như trong ngọc khí (đồ trang sức bằng ngọc), ngọc đái (đai ngọc), ngọc hoàn (vòng (tay bằng) ngọc), ngọc trâm (trâm ngọc), ngọc trợ (đũa ngọc), v.v.. Rồi đến nghĩa bóng (dùng theo ẩn dụ) như trong ngọc lộ (giọt sương như hạt ngọc), ngọc tâm (tấm lòng trong sáng như ngọc), ngọc mễ (hạt ngô (bắp) mà nếu nhìn kỹ thì có vỏ là một cái màng mỏng trắng bóng), v.v.. Rồi cái nghĩa bóng đã đi rất xa nên chỉ còn là tươi đẹp, quý báu, đáng giá, đáng trân trọng, trong nhiều cấu trúc, đã trở thành đồng nghĩa với tôn (như: ngọc chỉ: bước chân ngài, ngọc nữ: con gái ngài, v.v.), với ngự (như: ngọc phi: phi của vua, ngọc thực: lương thực dành cho vua, v.v.). Tóm lại, cái công dụng của nó ở đây thực ra chỉ là để.…“nịnh”. Đây cũng chính là trường hợp của chữ ngọc trong ngọc âm. Ngọc âm là cái âm cao quý, đáng trân trọng. Ta hãy đọc mấy câu quan trọng trong phần mở đầu của sách Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa:
Tụng kinh đọc sách thánh hiền,
Tải thông ba giáo dơ lên sách bày.
Bèn luận quyển Chỉ nam này,
Đã thông thiên địa lại hay nhân tình.
Thánh xưa đặt chữ xem hình,
Lấy bàng làm nghĩa, lấy mình làm tên.
Giáo ra muôn nước thừa truyền,
Khác nước khác tiếng chữ in một lề.
Nói nôm tiếng thị tiếng phi,
Đến lập văn tự lại y thánh hiền.
Hồng Phúc danh hương, chân Pháp tính,
Bút hoa bèn mới đính nên thiên,
Soạn làm chữ cái chữ con
San bản lưu truyền ai đặc thì thông*.
Rõ ràng cái đối tượng trung tâm là chữ Hán, là những chữ được soạn làm chữ cái (chữ lớn, chữ chính) để giảng bằng chữ Nôm, là những chữ con (chữ khắc nhỏ hơn). Chẳng hạn, trong một câu như:
Kim ô mặt trời sáng hồng thì Kim ô là những chữ cái còn mặt trời sáng hồng là những chữ con. Hoặc như trong câu:
Thiềm luân nguyệt sáng trên không làu làu thì thiềm luân là những chữ cái còn nguyệt sáng trên không làu làu là những chữ con, v.v. và v.v..
Cứ như trên thì hai chữ ngọc âm ở đây chính là cái ngôn ngữ dùng để chuyển tải sách vở của thánh hiền, nghĩa là chữ Hán, tuy vẫn được thừa nhận là quốc gia văn tự – đây là chuyện hoàn toàn hiển nhiên – nhưng bao giờ cũng được phân biệt với quốc âm là bộ phận văn chương được sáng tác bằng chính tiếng nói của dân tộc và được ghi chép bằng chữ Nôm.
§ 1168. Kiến thức ngày nay, số 577
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết trong cấu trúc cõi thọ, chữ cõi chỉ không gian hay thời gian?
AN CHI: Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng cõi thọ là “cảnh vui vẻ (sic), cảnh trường sanh” (Xin xem ở chữ cõi), là “cõi tiên, cõi hưởng phước” (Xin xem ở chữ thọ). Còn Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức thì giảng là “nơi con người khi chết, linh hồn được ở đời đời, không phải đầu thai xuống trần chịu khổ nữa”. Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa có câu:
Trẻ từng vả đáng khoa danh,
Già lên cõi thọ tầm doành bụt tiên.
Cứ như trên thì, trong cõi thọ, cõi vẫn là một từ chỉ không gian.
§ 1169. Kiến thức ngày nay, số 577
ĐỘC GIẢ: Cùng một câu thành ngữ mà mỗi quyển từ điển ghi một khác. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh ghi: “Lộng dả thành chân 弄假成眞, làm cho cái hư thành ra cái thực” Còn Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán của Viện Ngôn ngữ học do Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành biên soạn (Nxb. Văn hoá, 1994) thì lại ghi: “Lộng giả thành chân. Đùa mà rồi thành thật. Lộng: làm, chơi, chân: thật”. Cùng một chữ Hán mà quyển trước phiên thành “dã” còn quyển sau phiên thành “giả”. Cùng một chữ lộng mà quyển trước giảng là “làm cho” còn quyển sau thì lại giảng là “đùa”. Vậy xin ông vui lòng cho biết quyển nào đúng, quyển nào sai?
AN CHI: Quyển sau giảng lộng ở đây là “đùa” thì sai còn quyển trước phiên chữ 假 thành “dả” thì không đúng.
Liên quan đến các phụ âm đầu “d-” và “gi-”, Hán việt từ điển của Đào Duy Anh có 4 mục ghi sai chính tả:
1. “DÁ 駕 Buộc ngựa vào xe-Cỡi ngựa-Xe của vua (…)”.
2. “DẢ 假 Vay mượn – Không thực – Nghỉ – Ví như”.
3. “DÁC 角 Sừng thú – Góc nhọn – Cạnh tranh nhau – Một thứ trong ngũ âm (…)”.
4. “GIÃ 也 Ấy là. Cũng dùng như chữ diệc 亦”.
Các trường hợp 1, 2, 3 lần lượt phải là giá, giả, giác còn trường hợp 4 thì lại phải là dã mới đúng. Vậy câu thành ngữ đang xét phải viết là lộng giả thành chân thì mới đúng chính tả và phải giảng là “làm cho cái hư thành ra cái thực” thì mới đúng nghĩa.
§ 1170. Kiến thức ngày nay, số 577
ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây có nói rằng một trong những người bạn của Joséphine Baker là Grace Kelly. Có phải đây cũng chính là Bà Hoàng Rainier, xuất thân là diễn viên điện ảnh hay không?
AN CHI: Grace Patricia Kelly sinh ngày 12-11-1929 tại Philadelphia (Mỹ), mất ngày 14-9-1982 tại Monte Carlo, Monaco vì một tai nạn xe hơi do chính mình gây ra. Cha là một người gốc Ireland còn mẹ là một người gốc Phổ.
Năm 1947, Grace Kelly rời Philadelphia, đến New York làm người mẫu để theo học ở Học viện kịch nghệ. Năm 1949, cô bắt đầu nghề diễn trong vở Người cha của August Strindberg, rồi năm 1951 cô bắt đầu nghiệp điện ảnh bằng một vai phụ trong phim Mười bốn giờ đồng hồ của Henry Hathaway. Năm 1952, cô bắt đầu nổi tiếng với bộ phim Còi tàu hú ba lần của Fred Zinneman.
Năm 1955, Grace Kelly là khách danh dự của Liên hoan phim Cannes, tại đây cô gặp ông hoàng Rainier Grimaldi III nhưng phải trở về Mỹ để đóng trong một bộ phim khác. Năm 1956, họ lại gặp nhau ở New York, tại đây ông hoàng Rainier được gia đình Kelly mời dự tiệc Noël và cũng trong năm đó tin về hôn nhân của họ được công bố. Sau đó, hôn lễ được tổ chức linh đình và được 30 triệu khán giả truyền hình trên thế giới theo dõi.
Cuộc sống lứa đôi rất hạnh phúc nhưng tai nạn xe hơi năm 1982 đã cướp đi sinh mạng của bà hoàng. Ông hoàng không tái hôn, sống trong buồn nhớ và qua đời ngày 6-4-2005.
§ 1171. Kiến thức ngày nay, số 578
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 103, ngày 1-3-1993, ông có trả lời câu hỏi: “Tại sao người Việt Nam lại gọi người Trung Hoa là Tàu?”. Sau khi đọc câu trả lời của ông, tôi đã tìm hiểu thêm ở những người khác và nhận được email của một người bạn lớn tuổi hơn đang sống ở Mỹ, nội dung như sau:
1. “Tàu”, “Tầu” là tiếng thuần Việt. Tào là từ Hán nhưng không có nghĩa là quan. Có một nghĩa là “department in an office” (phòng, ban của một công thự). Và tào ty là viên chức làm trong phòng, ban đó. Giải thích tào là quan là một cách giải thích gượng ép của mấy nhà sính cổ ham giải thích nhưng không truy cứu nghiêm túc.
2. Người Hoa, tạm gọi như thế, đô hộ nước ta cả nghìn năm nhưng ngày xưa người Việt không gọi họ là người Tàu mà gọi là giặc Ngô vì tự thời Liệt Quốc đến thời Tam Quốc, nước Sở (một trong những tiền thân của nước Việt và Bách Việt) luôn bị nhà Đông Ngô đàn áp, cướp bóc và thống trị. Mãi đến khi Mã Viện sang đánh Hai Bà Trưng mà ta vẫn còn quen miệng gọi họ là giặc Ngô. Trong tiếng Việt hiện đại vẫn còn sót cụm từ “đầu Ngô mình Sở”, ý nói chuyện chẳng ăn khớp vào đâu. Từ nguyên của cụm từ cổ này dùng để trỏ những cuộc hôn nhân dị chủng của người Hoa và người Việt cổ.
3. Đến tận nhà Lê, nước ta vẫn còn ở phía Bắc sông Gianh. Chúa Nguyễn, chúa Trịnh vẫn tranh chấp ở miền Bắc cho đến khi chúa Nguyễn Hoàng mở mang bờ cõi về phía Nam theo lời khuyên của Trạng Trình. Khi đó người Việt vẫn gọi người Hoa là “khách trú”, “người khách”. Người Hoa vẫn vào nước Việt lẻ tẻ bằng cả hai đườngthuỷ bộ. Khi ấy vẫn chưacó chữ “người Tàu”.
Cụm từ “mấy người Ba Tàu”, “dân Ba Tàu” đầu tiên xuất hiện ở miền Nam dùng để chỉ đám người Hoa ồ ạt di cư tị nạn vào thời nhà Thanh và được chúa Nguyễn cho định cư ở phía Nam. Họ đi bằng tàu với số lượng lớn. Người bản xứ (miền Nam) không biết họ nhiều lắm nên gọi họ là người Tàu: người đến bằng tàu, người tị nạn vượt biển bằng tàu (boat people).
Nên nhớ nghệ thuật hàng hải của Trung Hoa đã lên đến đỉnh cao của châu Á lúc bấy giờ. Các đội thương thuyền của họ thường đi theo từng nhóm ba chiếc theo hình tam giác. Vì thế, khi đám người Minh Hương chạy sang Việt Nam bằng tàu, họ cũng đi theo đội hình “ba tàu” (chứ không phải họ đến Việt Nam chỉ với 3 chiếc tàu), làm cho người bản xứ rất ngạc nhiên mà gọi họ là dân Ba Tàu, người Ba Tàu.
Trở lên là nội dung bức thư của người bạn. Mong được nghe thêm ý kiến của ông và các nhà nghiên cứu khác.
AN CHI: Chúng tôi xin hân hạnh trả lời bạn và ông bạn của bạn (ÔB) như sau.
1.1. ÔB cho rằng tàu (tầu = thuyền) là một từ “thuần Việt”. Thực ra, đây là một từ gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 艚 mà âm Hán Việt hiện đại là tào, cũng có nghĩa là… thuyền. Về mối tương ứng -au ~ -ao, ta còn có:
– tàu (trong tàu ngựa) ~ tào 槽 (máng cho súc vật ăn).
– tàu (= sơn, cũ, phai màu) ~ tào (xấu, thô, kém).
Ba tiền lệ trên đây là chỗ dựa chắc chắn để khẳng định rằng chữ tào 曺 là quan cũng có thể có một biến thể ngữ âm là tàu.
1.2. Về cái nghĩa “quan” của chữ tào 曺, Mathews’ Chinese - English Dictionary ghi là “an official” còn Dictionnaire classique de la langue chinoise thì ghi là “juge, officier”. Từ nguyên, bộ mới, ghi tại nghĩa 4: “Quận huyện chi thuộc quan diệc viết tào”, nghĩa là “thuộc quan ở quận, huyện cũng gọi là tào”. Từ hải, bộ mới, ghi tại nghĩa 4: “Hựu cổ đại châu quận sở trí đích thuộc quan dã xưng tào”, nghĩa là “thêm nữa, thuộc quan được bố trí ở châu quận thời xưa cũng gọi là tào”. Tại nghĩa 5 của chữ này, Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) ghi: “Dã dụng lai xưng hô quản mỗ sự đích chức quan: nghĩa là “cũng dùng để gọi viên chức đảm nhiệm một công việc nhất định”. Để làm cho rõ hơn, quyển tự điển này còn dẫn “Đỗ Quỳnh truyện: phần “Thục chí” trong Tam Quốc chí:
“Cổ giả danh chức quan bất ngôn tào; thuỷ tự Hán dĩ lai, danh quan tận ngôn tào, lại ngôn thuộc tào, tốt ngôn thị tào”.
Nghĩa là: “Người xưa không gọi quan là tào; từ đời Hán trở đi, gọi quan đều dùng từ tào, gọi quan giúp việc là thuộc tào, gọi lính là thị tào”.
Cứ như trên thì, tào có nghĩa là “quan” hay không, bạn và ÔB đã có thể tự mình rút ra kết luận.
2.1. Ở đây ta bắt gặp một cách hành xử rất tài tử về mặt niên đại. Nếu là Đông Chu liệt quốc thì thời kỳ này bắt đầu từ năm Cộng hoà thứ nhất (841 tr. CN) và kết thúc vào năm Tần Thuỷ Hoàng thống nhất thiên hạ (221 tr. CN).
Nếu là Chiến Quốc thì thời kỳ này bắt đầu từ năm 475 tr. CN và kết thúc vào năm 221 tr. CN. Còn Đông Ngô chỉ tồn tại trong thời Tam Quốc (220 đến 280 (của) CN) thì làm sao có thể “đàn áp, cướp bóc và thống trị” nước Sở, là một nước tồn tại vào thời Chiến Quốc, rồi đã bị tiêu diệt trước khi nhà Đông Ngô ra đời ít nhất là 450 năm?
2.2. Ngô trong câu đầu Ngô mình Sở là nước Ngô thời Chiến Quốc của Phù Sai chứ không phải Đông Ngô thời Tam Quốc của Tôn Quyền. Về câu này, chúng tôi đã có phân tích trên Kiến thức ngày nay, số 151. Chẳng làm gì có chuyện “hôn nhân dị chủng giữa người Hoa và người Việt” ở đây cả.
2.3. Nói rằng nước Sở là “một trong những tiền thân của nước Việt và Bách Việt” thì cũng chỉ là phát biểu một cách tài tử mà thôi. Bách Việt gồm có những tộc người nói các ngôn ngữ thuộc những họ khác nhau: Miêu Dao có, Đồng Thái có, Tạng Miến có, v.v. (di duệ của họ hiện vẫn còn ở miền Nam Trung Quốc). Làm sao mà một mình nước Sở lại là tiền thân của Bách Việt cho được?
3. Trên 28 năm trước khi những người Tàu tị nạn của ÔB đến miền Nam “bằng tàu” (năm 1679) thì danh xưng “Tàu” đã có mặt trong quyển Từ điển Việt Bồ La của A. de Rhodes ấn hành tại Roma năm 1651 rồi (Xin xem mục “Tàu. Mực tàu”). Nó chẳng có liên quan gì đến những “chiếc tàu” và đội hình “ba tàu” của ÔB cả.
4. Xin nhắc lại và nói rõ thêm ý kiến của chúng tôi. Thời Bắc thuộc của nước ta chính thức bắt đầu từ nhà Hán.
Từ nhà Hán trở đi, gọi quan đều dùng từ tào, gọi quan giúp việc là thuộc tào, gọi lính là thị tào. Thế là trong thời kỳ này, dân ta khi đi vào cửa quan đều gặp tào (từ tào cho đến thuộc tào, rồi thị tào), mà âm xưa là tàu. Tất cả các ông “tàu” này đều là người Hán. Do đó mà trong con mắt của dân ta thì: Hán = Tàu.
Rồi về sau những người Hán (Trung Hoa) không làm quan, cũng “ăn theo” mà được gọi là “Tàu”, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 103. Tàu là một cái tên có tuổi thọ đã trên 2.000 năm.
§ 1172. Kiến thức ngày nay, số 578
ĐỘC GIẢ: Bài “Những nghệ sĩ Hoa tài danh” trên số trước đã cung cấp nhiều chi tiết thú vị và bổ ích về nữ minh tinh Củng Lợi. Nhưng tôi còn tò mò vì muốn biết thêm vài điểm: Tên chồng của Củng Lợi chữ Hán viết thế nào và đọc theo âm Hán Việt ra sao (Củng Lợi cũng là âm Hán Việt)? Nghe nói cặp vợ chồng này đã bắt đầu “cơm không lành, canh không ngọt” vì cô vợ đã ra ngoài “gia cang” để đi đóng phim “mát mẻ”. Xin cho biết có đúng không?
AN CHI: Tên chồng của Củng Lợi bằng chữ Hán là 黄 和 祥, đọc theo âm Hán Việt là Huỳnh Hoà Tường.
“Cơm không lành, canh không ngọt” chỉ là chuyện đồn đại của một vài tờ báo “nhiều chuyện”. Năm ngoái, ông Huỳnh Hoà Tường đã kiện tờ Sudden Weekly (Hốt nhiên nhất chu) của Hong Kong vì đã đưa tin xúc phạm đến danh dự của gia đình ông. Tờ này nói do thất bại về kinh tế và thiếu hụt về tài chính nên ông đã phải để cho bà đi “mài tài páo” (bán bánh bao – “bánh bao”, ở đây là một ẩn dụ về mặt hình dáng). Toà đã phán quyết buộc tờ báo đó bồi thường cho gia đình ông Huỳnh 200.000 đôla Hong Kong và phải đăng lời cải chính trên trang nhất.
Bây giờ lại đến tờ The Daily Mirror của Anh tung tin về Củng Lợi và Colin Farrell. Rồi Yahoo! Actualités (6-8-2006) cũng dẫn public. fr (một site chẳng lấy gì làm danh giá!) mà khẳng định chuyện hai nhân vật này cùng nhau “ra khỏi khách sạn Sanderson ở trung tâm Luân Đôn với dáng vẻ đồng loã”! Xin nhớ rằng chuyện gia cang của người ta, nhất là đối với người châu Á, không phải là chuyện có thể đem ra đùa một cách rẻ tiền.
§ 1173. Kiến thức ngày nay, số 579
ĐỘC GIẢ: Về chữ bố trong bố ráp, Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000) giảng là “ruồng bố nói tắt”. Còn về chữ ráp thì có người nói là do tiếng Pháp rapt, có nghĩa là “vụ bắt cóc” mà ra. Xin cho biết giảng như thế có đúng không?
AN CHI: Nguyễn Lân đã đi ngược chiều lịch sử của từ ngữ nên mới giảng bố là “ruồng bố nói tắt”. Lý do rất đơn giản: trước khi có động từ bố riêng lẻ thì cũng chẳng làm gì có từ tổ động từ đẳng lập ruồng bố. Bố là một từ của phương ngữ Nam Bộ và ai có sống ở Nam Bộ, đặc biệt là ở Sài Gòn – Chợ Lớn từ 1945 đến 1954, mà lại có quan tâm đến tình hình chính trị ở đây, cũng đều có điều kiện để biết rằng bố là do khủng bố nói tắt mà ra, hoàn toàn đúng như đã ghi nhận rõ ràng trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức:
“Bố: Khủng bố nói tắt, tra xét, bắt bớ, đánh, đập, cướp bóc, khuân, dọn hết đồ vật trong nhà”, và
“Khủng bố (…) Nghĩa rộng: Cũng gọi bố. Bắt bớ, đánh đập, giết chóc, cướp bóc, hảm dâm: Dẫn Chà chóp về khủng bố”.
Vấn đề rất rõ ràng và rõ ràng nếu không phải là “dân tại chỗ” thì thường gặp trở ngại trên con đường đi tìm bản chất của hiện tượng phương ngữ, thậm chí có khi còn nói sai nữa là đằng khác. Chẳng hạn, liên quan đến chữ bố này, ta còn bắt gặp một cách hiểu rất ngộ nghĩnh của Nguyễn Kim Thản trong quyển Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt do Nhà xuất bản Khoa học ấn hành ở Hà Nội năm 1963. Trong phần “kết luận” của “Chương thứ hai”, Nguyễn Kim Thản đã viết:
“Khuynh hướng tạo từ hai âm tiết theo kiểu liên hợp cũng vẫn còn phát triển, ví dụ gần đây, ta có: lứa đôi, tươi đẹp, chăm sóc, cảm nghĩ, vây lùng, càn quét (thậm chí vây ráp, bao bố…), trường sở, hầm mỏ, khác biệt, sai sót, v.v..”*.
Cứ như trên, thì Nguyễn Kim Thản cho rằng bao bố là một “từ hai âm tiết theo kiểu liên hợp”, nghĩa là một từ tổ đẳng lập theo cách gọi hiện nay, rằng đây là một từ tổ động từ cùng một trường nghĩa với vây lùng, càn quét, vây ráp, gồm có bao trong bao vây và bố trong bố ráp! Rất tiếc rằng một từ tổ như vậy không hề tồn tại trong tiếng Việt toàn dân còn trong phương ngữ Nam Bộ thì bao bố lại là một từ tổ danh từ chính phụ (bao là trung tâm còn bố là định ngữ), đồng nghĩa với bao tải trong tiếng Việt toàn dân, mà Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng là “bao dệt bằng sợi đay, thường dùng để đựng lương thực”. Nhưng do cớ sự nào mà ông Nguyễn Kim Thản lại làm một cuộc đại nhảy vọt từ danh từ sang động từ và từ một thứ đồ đựng sang hành động vây ráp? Hẳn là ở miền Bắc xa xôi, ông đã từng nghe nói rằng ở miền Nam, trong những cuộc bố ráp, Tây thường cho những kẻ đầu thú hoặc phản bội trùm bao bố (cho khỏi bị lộ mặt) mà nhận diện những cán bộ kháng chiến cho chúng nó bắt.
Nhưng có thể do chỉ nghe loáng thoáng hoặc nghe mà chưa nắm vững thực chất của sự việc và/hoặc từ ngữ nên ông mới đánh đồng từ tổ danh từ chính phụ bao bố với các từ tổ động từ đẳng lập bố ráp, vây ráp, càn quét, v.v. về mặt ngữ nghĩa.
Bao trong bao bố là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 包 mà âm Hán Việt hiện đại là…bao và cũng có nghĩa là…“(cái) bao” Còn bố cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 布 mà âm Hán Việt hiện đại cũng là bố, có nghĩa là vải nhưng lại được phương ngữ Nam Bộ dùng để chỉ một loại vải thô. Loại vải thô này thường được dệt bằng sợi đay nên cây đay cũng được phương ngữ này gọi là cây bố. Vậy bố trong bao bố chẳng có liên quan gì với bố trong bố ráp về mặt từ nguyên.
Còn bố trong bố ráp thì, như đã nói, là hình thức nói tắt từ hai tiếng khủng bố và đây cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 怖, mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là phố – như đã được ghi nhận trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu – nhưng vẫn đọc thành bố theo thói quen, và có nghĩa là sợ hoặc làm cho sợ. Ráp ở đây không có liên quan gì đến rapt là sự bắt cóc, mà bắt nguồn từ rafle – cũng là tiếng Pháp – có nghĩa là cuộc bắt bớ đột xuất và ồ ạt nhắm vào nhiều đối tượng ở một địa điểm bị tình nghi.