Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1147 - 1160

§ 1147. Kiến thức ngày nay, số 568

ĐỘC GIẢ: Trong bài phỏng vấn nhan đề “Chữ nghĩa Truyện Kiều cần nhiều người tranh luận” do Giao Hưởng thực hiện, đăng trên báo Lao Động, ngày 22-1-2006, GS. Nguyễn Tài Cẩn có nói về chuyến đi giảng dạy của ông tại Đại học Paris 7 hồi đầu thập niên 1980. Theo lời Giáo sư, tại Pháp, ông đã “bám riết cụ Hoàng Xuân Hãn để thu thập Truyện Kiều”. Rồi ông nhắc lại lời của cụ Hoàng:

“Ở bên nhà từ đầu thế kỷ XX đến nay chỉ dựa vào bản Kiều Oánh Mậu in năm 1902, thoáng có nhắc tới bản Liễu Văn Đường 1871 nhưng không có trong tay, vậy ta phải dựa vào những bản thế kỷ XIX, càng xưa càng tốt, càng nhiều càng tốt”. Về phần mình, GS. Nguyễn Tài Cẩn khẳng định: “Và tôi đã nghiên cứu 8 bản Kiều đời Tự Đức có tại nhà cụ Hãn”.

Xin ông An Chi cho biết, 8 bản Kiều đời Tự Đức mà GS. Nguyễn Tài Cẩn đã có vinh dự nghiên cứu tại nhà của học giả Hoàng Xuân Hãn (bên Pháp) là những bản nào. Giáo sư cũng nhắc đến chủ trương của học giả Hoàng Xuân Hãn là “phải dựa vào những bản (Kiều) càng xưa càng tốt”. Xin ông An Chi cho biết có phải học giả họ Hoàng là người đầu tiên và/hoặc duy nhất có chủ trương như thế hay không.

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 329, ngày 1-10-1999, chúng tôi đã đặt vấn đề nghi ngờ “8 bản Kiều đời Tự Đức của Hoàng Xuân Hãn”. Rồi trong bài “Học giả Hoàng Xuân Hãn đã dùng mấy bản Kiều đời Tự Đức để làm quyển Kiều tầm nguyên?”, đăng hai kỳ trên Tài hoa trẻ (số 292 và số 293, tháng 12-2003), chúng tôi đã phân tích và khẳng định dứt khoát rằng Hoàng Xuân Hãn chẳng làm gì có đến 8 bản. Đây chẳng qua chỉ là một lời nói nhầm mà ta hoàn toàn có thể đính ngoa bằng lời nói của chính Hoàng Xuân Hãn ở một đoạn khác của cuộc phỏng vấn. Vị học giả này chỉ có 5 bản đời Tự Đức nếu là những bản Nôm và 6 bản nếu kể cả bản Quốc ngữ “ăn theo” đời Tự Đức mà thôi. Người đã giúp cho ta có thể khẳng định điều này một cách chắc chắn không phải ai khác mà chính là ông Nghiêm Xuân Hải, con rể của Hoàng Xuân Hãn. Theo lời của vị nghĩa tế thì sau đây là 8 bản Kiều mà Hoàng Xuân Hãn đã dùng để làm Kiều tầm nguyên:

1. Bản D, tức Duy Minh Thị 1872;

2. Bản T, tức Trương Vĩnh Ký 1911;

3. Bản K, tức Kiều Oánh Mậu 1902;

4. Bản P, tức Phạm Kim Chi 1975;

5. Bản H, tức bản Huế, microfilm của EFEO;

6. Bản L, tức Liễu Văn Đường 1871;

7. Bản M, tức Thịnh Mỹ Đường 1879; và

8. Bản V, tức Thịnh Văn Đường 1882.

Trong 8 bản trên đây, ta thấy rõ mồn một rằng T (1911), K (1902) và P (1975) không phải là những bản đời Tự Đức (1848 – 1883). Ngay H, mà Hoàng Xuân Hãn không cho biết năm in, ta cũng chẳng thể nào biết được đó có phải là một bản đời Tự Đức hay không. Vậy chắc chắn nhất, ta chỉ có thể khẳng định rằng Hoàng Xuân Hãn chỉ nhắc đến 4 bản đời Tự Đức là: D, L, M và V mà thôi.

Nhưng đây chỉ là nhắc đến, chứ bản L thì Hoàng Xuân Hãn cũng chẳng có vì “bản này có ở INALCO mà chưa xin được” (Lời của Nghiêm Xuân Hải) còn bản V thì Hoàng Xuân Hãn càng chẳng làm gì có được vì ông chỉ được thấy ở nhà của ông Hoàng Huấn Trung hồi trước chiến tranh mà thôi. Nói một cách hoàn toàn nghiêm túc và chính xác thì Hoàng Xuân Hãn chỉ có vẻn vẹn 2 bản đời Tự Đức là D (Duy Minh Thị) và M (Thịnh Mỹ Đường). Vậy không biết hồi thập kỷ 1980, khi sang Paris, thì GS. Nguyễn Tài Cẩn lấy đâu ra 8 bản Kiều đời Tự Đức tại nhà của Hoàng Xuân Hãn mà nghiên cứu?

Trong vòng 9 năm nay, từ ngày tạp chí Văn học đăng bài “Học giả Hoàng Xuân Hãn nói về Truyện Kiều” (tháng 3-1997), một vài tác giả cứ nhắc đi nhắc lại lời nói nhầm của học giả Hoàng Xuân Hãn về “8 bản Kiều đời Tự Đức” mà chúng tôi đã cải chính một cách rành mạch trên Tài hoa trẻ. Tiếc thay, chẳng ai trong mấy người “nói theo” cái nhầm của Hoàng Xuân Hãn quan tâm đến sự cải chính đó. Rồi trong bài phỏng vấn của Giao Hưởng trên báo Lao Động, ngày 22-1-2006, GS. Nguyễn Tài Cẩn lại còn “vui miệng” nói rằng mình đã “nghiên cứu 8 bản Kiều đời Tự Đức có tại nhà cụ Hãn”. Nhưng Hoàng Xuân Hãn làm gì có được 8 bản Kiều đời Tự Đức?

Đến như chuyện “phải dựa vào những bản càng xưa càng tốt” thì Hoàng Xuân Hãn cũng chẳng phải là người đầu tiên và/hoặc duy nhất biết chủ trương như thế. “Ông phán Sài Gòn” Phạm Kim Chi đã làm như thế từ năm 1917 khi cho xuất bản Kim Tuý tình từ theo bản chép tay mà ông Nghè Mai đã cho vì “thấy chắc gốc” rằng cháu của Nguyễn Du (Nghè Mai là cháu Nguyễn Du) có thể lưu giữ “bổn chánh”, nghĩa là bản xưa nhất chưa bị ai “nhuận sắc”. Đó là nói chuyện đời xưa. Còn gần đây hơn thì trong Truyện Kiều 1965 của nhóm Nguyễn Văn Hoàn do Nhà xuất bản Văn học ấn hành, ta cũng lại đọc thấy như sau:

“Để có thể khôi phục lại nguyên tác Truyện Kiều, biện pháp căn bản nhất vẫn là cần phải tiếp tục công việc phát hiện, sưu tầm các bản Kiều cổ một cách có hệ thống và sâu rộng hơn nữa. Hiện nay trong hoàn cảnh công việc phát hiện, sưu tầm di sản văn hoá cổ mới được bước đầu tiến hành ở miền Bắc, chúng ta không nên mặc nhiên coi rằng đã hoàn toàn hết hy vọng tìm thêm được một vài bản Kiều Nôm khác cổ hơn (trước bản Liễu Văn Đường 1871 – AC) và có giá trị hơn. Rất có thể là ở trong nhân dân ta, vùng Nghệ – Tĩnh quê hương Nguyễn Du, vùng Bắc Ninh, quê mẹ Nguyễn Du, vùng Hải Dương, quê hương Phạm Quý Thích…vẫn còn có thể tìm được một vài bản Kiều quý. Đó là chưa kể đến các thư viện công và thư viện gia đình ở miền Nam nước ta, ví dụ ở Huế, Sài Gòn, hay các thư viện Đông phương học ở nước ngoài, ví dụ như ở Pa-ri (Pháp), Rô-mơ (Ý), Tô-ki-ô (Nhật), v.v..*

Cứ như trên thì chuyện “phải dựa vào những bản càng xưa càng tốt” đâu có phải là chuyện do Hoàng Xuân Hãn khởi xướng, vì nó chỉ là chuyện …tự nhiên phải làm mà thôi. Có ai đi tìm nguyên tác mà lại dựa vào những bản “mới toanh”!

§ 1148. Kiến thức ngày nay, số 568

ĐỘC GIẢ: Trong Tư liệu Truyện Kiều từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu (Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2004), tác giả Nguyễn Tài Cẩn đã viết tại trang 17:

“GS. Hoàng Xuân Hãn cho biết đã soạn xong bản Kiều tầm nguyên sau gần nửa thế kỷ nghiên cứu (…)”.

Tôi nghe nói có nhiều người đóng tiền ủng hộ việc ấn hành bản Kiều tầm nguyên, nếu cụ Hãn đã soạn xong thì sao đến nay vẫn chưa thấy ra sách? Nghe nói có một vị giáo sư toán học là bác của một pianist nổi tiếng cũng đang nóng lòng chờ đợi quyển Kiều tầm nguyên. Ông An Chi có nghe ngóng được tình hình gì không?

AN CHI: “Đã soạn xong bản Kiều tầm nguyên sau gần nửa thế kỷ nghiên cứu” là lời của Nguyễn Tài Cẩn chứ Hoàng Xuân Hãn thì lại nói:

“Như quyển Kiều của tôi, nó 50 năm rồi, nó cứ nằm thế, không có khi nào có một thời gian khá dài để viết ra thành một quyển sách cả. Những cái tôi đã viết về Kiều bây giờ tôi đọc cũng không được nữa. Mực nó đã nhờn đi, nhiều khi đã 40, 50 năm rồi, mờ đi cả rồi, mắt lại kém nữa”*.

Vậy, cứ như lời của chính Hoàng Xuân Hãn thì Kiều tầm nguyên của ông hãy còn là một công trình dở dang. Chứ nếu nó đã hoàn thành thì việc sắp xếp để cho in ấn có lẽ sẽ dễ dàng hơn nhiều, đâu có phải để cho những người đóng tiền ủng hộ phải nóng lòng chờ đợi…bấy lâu.

Riêng cá nhân chúng tôi thì xin nói thẳng rằng chúng tôi chẳng tin ở quyển Kiều tầm nguyên của Hoàng Xuân Hãn, mà ông còn gọi là Bát Kiều. Lý do của chúng tôi rất đơn giản: Hoàng Xuân Hãn đưa bản V tức bản Thịnh Văn Đường 1882 vào Kiều tầm nguyên làm bản thứ 8 trong khi ông chỉ nhìn thấy nó tại nhà của ông Hoàng Huấn Trung trước năm 1945. Vậy thì ông khảo dị ra sao, so sánh thế nào? Ngay cả bản Liễu Văn Đường 1871 mà ông còn chưa xin được từ INALCO mặc dù ông sống ở Pháp, trong khi ông Nguyễn Quảng Tuân và ông Đào Thái Tôn đều có được mỗi người một bản photocopy từ Pháp gởi về. Tóm lại, với cá nhân chúng tôi thì đây hãy còn là chuyện…“Bát Kiều nghi án”.

§ 1149. Kiến thức ngày nay, số 568

ĐỘC GIẢ: Joséphine Baker là người Pháp hay người Mỹ?

AN CHI: Joséphine Baker vốn là người Mỹ, tên gốc là Freda Josephine McDonald, sinh ngày 3-6-1906 tại Saint Louis (Mỹ), mất ngày 12-4-1975 tại Paris. Năm 1937, bà lấy một người Pháp và trở thành công dân Pháp. Joséphine Baker đã tham gia tổ chức kháng chiến chống phát xít Đức và đã từng kết giao với Grace Kelly, Maurice Chevalier cũng như De Gaulle và Fidel Castro.

§ 1150. Kiến thức ngày nay, số 569

ĐỘC GIẢ: Mục “Lăng kính tự nhiên” trên báo Tuổi trẻ mới đây có đưa ảnh một con vật và viết: “Con thú có vú này sống ở quần đảo Philippines, có tên là Philippine tarsier (tên khoa học là Tarsius syrichta), từng là nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhân vật ET của đạo diễn Steven Spielberg”.

Tôi thì lại thấy có vẻ như con vật này giống với Gollum mà ông An Chi đã đưa ảnh trên Kiến thức ngày nay, số 559. Vậy không biết ET là một nhân vật như thế nào (vì báo không đưa ảnh)?

AN CHI: Gollum (Ảnh 1) là nhân vật trong bộ phim The Lord of the Rings (Chúa tể của những chiếc nhẫn) của đạo diễn Peter Jackson, mà chúng tôi có giới thiệu trên Kiến thức ngày nay, số 559, đúng như ông đã viết. Còn E.T. (Ảnh 2), chứ không phải “ET”, thì lại là nhân vật trong phim E.T. the Extra – Terrestrial (E.T. người (sinh vật) ngoài Trái đất) của đạo diễn Steven Spielberg, đúng như đã nói trên báo Tuổi trẻ. Chính E.T. mới giống với con Tarsius syrichta (Ảnh 3).

Ảnh 1

§ 1151. Kiến thức ngày nay, số 569

ĐỘC GIẢ: Tôi nghe nói có một bài thơ kiểu hồi văn của Tần Quan gởi cho Tô Thức, chỉ có 14 chữ xếp liên hoàn theo vòng tròn thành một bài thất ngôn tứ tuyệt. Xin nhờ ông An Chi tìm giúp và giới thiệu bài thơ đó.

AN CHI: Chúng tôi chưa tìm được một xuất xứ chắc chắn nào để khẳng định “tác quyền” của bài thơ mà ông hỏi vì đây có lẽ chỉ là… giai thoại. Có nguồn thì nói là của Tần Quan gởi Tô Thức, có nguồn thì nói ngược lại, là của Tô Thức gởi cho Tần Quan. Không biết có nguồn nào nói là của một tác giả khác nữa hay không.

Ở đây, xin giới thiệu với ông và bạn đọc văn bản mà một thân hữu là LAM đã lấy trên mạng để cung cấp cho chúng tôi.

Ở phía ngoài vòng tròn, ta đếm được đúng 14 chữ đọc thuận theo chiều kim đồng hồ. Câu thứ nhất bắt đầu từ chữ đánh số 1 là chữ thưởng; câu thứ hai, từ chữ đánh số 2 là chữ khứ; câu thứ ba, từ chữ đánh số 3 là chữ tửu; câu thứ tư, từ chữ đánh số 4 là chữ tỉnh. Toàn bài thơ được trình bày bên trong vòng tròn theo hàng ngang, đọc theo lối ngày nay từ trái sang, rồi từ trên xuống:

Tần Quan ký Tô Thức

Thưởng hoa quy khứ mã như phi

Khứ mã như phi tửu lực vi*

Tửu lực vi tỉnh thời dĩ mộ

Tỉnh thời dĩ mộ thưởng hoa quy.

Tạm dịch:

Tần Quan gởi Tô Thức

Thưởng hoa về ngựa phóng như bay

Ngựa phóng như bay uống đã say

Uống say rồi tỉnh ra đà tối

Tỉnh ra đà tối thưởng hoa về.

§ 1152. Kiến thức ngày nay, số 569

ĐỘC GIẢ: Vừa rồi, Chuyện Đông chuyện Tây có giới thiệu sơ lược về Joséphine Baker. Tôi nghe nói nữ nghệ sĩ này có một ngôi nhà rất đặc biệt, không biết có phải như thế hay không?

AN CHI: Vâng, đúng như thế. Và đó là cả một lâu đài. Người ta gọi đây là tình yêu thứ ba (troisième amour) của bà để nhắc khéo đến bài J’ai deux amours (Tôi có hai tình yêu), bài hát “ruột” của Joséphine Baker.

Tháng 7 năm 1940, Joséphine chạy khỏi Paris và đi về phía Tây Nam nước Pháp, tới vùng Périgord. Tại đây, bà đã mê mẩn ngắm nhìn một toà lâu đài lộng lẫy, từ đó được cả thế giới biết đến – và ông đã nghe nói – vì là một trong những ngôi nhà của ngôi sao nổi tiếng làng ca vũ nhạc: lâu đài Mirandes, từ đây chính thức được gọi là Milandes theo cách phát âm của Joséphine.

Theo sách hướng dẫn du lịch của địa phương thì lâu đài này được François de Caumont bắt đầu xây dựng từ năm 1489 nhưng đến cuối thế kỷ XIX thì mới thực sự hoàn tất. Ngày nay, nó được xem là một kỳ quan về kiến trúc tân gothic ở trong vùng. Joséphine Baker đã làm tất cả để tân trang toà lâu đài trung cổ này theo kiểu xưa nhưng vẫn không quên trang bị cho nó những tiện nghi của thế kỷ XX từ phòng tắm cho đến mạng lưới điện, nhà bếp, sân tennis, sân bóng chuyền và cả một cái bể bơi hình chữ “J”.

Như đã nói kỳ trước, Joséphine đã tham gia kháng chiến chống Đức quốc xã nên ta cũng sẽ không lấy làm lạ được biết thêm rằng lâu đài Milandes còn là nơi che giấu binh sĩ và đài phát thanh của Đồng minh. Bà đã được tưởng thưởng xứng đáng từ Huy chương kháng chiến, Huy chương nước Pháp tự do cho đến Bắc đẩu bội tinh. Thế nhưng một vài khách sạn của Mỹ lại không chịu đón tiếp bà chỉ vì bà là người da đen.

Vì không có con, Joséphine đã nhận 12 người con nuôi thuộc nhiều quốc tịch khác nhau trong những chuyến viễn du và họ đã lớn lên tại toà lâu đài này.

Cuối cùng, vì những chi phí về quản lý và về mọi mặt quá nặng nề, Joséphine không kham nổi và toà lâu đài Milandes đã bị đem ra bán đấu giá. Joséphine rời khỏi lâu đài của mình năm 1969. Bà bị sạt nghiệp và được bạn bè giúp đỡ, trong đó có Grace Kelly, như đã nói kỳ trước. Grace Kelly đã cho bà ở trong nhà tại Monaco, nơi bà đã qua đời và được chôn cất vào năm 1975.

§ 1153. Kiến thức ngày nay, số 570

ĐỘC GIẢ: Một ông bạn của tôi đã phát hiện rằng vào cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI mà nhà sư Vạn Hạnh đã đi trước thời đại để đề cập đến “điện ảnh” trong một bài thơ. Xin cho biết có chuyện này không. Nếu có thì phải chăng Vạn Hạnh cũng là một Nostradamus của nước Việt thời xưa?

AN CHI: Đúng là cách đây mười thế kỷ, sư Vạn Hạnh đã đề cập đến “điện ảnh” trong một bài thơ nhan đề “Thị đệ tử” (Bảo đệ tử):

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Tạm dịch:

Thân như ánh chớp hiện rồi tan

Xuân cỏ cây tươi thu héo hon

Đã mang lấy mệnh đừng ngao ngán

Thịnh suy như ngọn cỏ sương phơi.

Nhưng, như đã thấy trong lời dịch, điện ảnh ở đây chỉ là “ánh chớp” theo cái nghĩa bình thường của từ ngữ, chứ không phải là “cinéma”.

Dù sao, những bài thơ hoặc lời nói ít ỏi còn ghi lại được của Vạn Hạnh thiền sư cũng mang tính chất của những bài sấm hoặc bài kệ.

§ 1154. Kiến thức ngày nay, số 570

ĐỘC GIẢ: Tại sao người ta lại gọi các cầu thủ của Inter Milan là nerazzurri, của A.C. Milan là rossoneri còn các tuyển thủ quốc gia của Ý là azzurri?

AN CHI: Nerazzurri là số nhiều của nerazzurro. Đây là một từ ghép gồm có: nero (= đen) + azzurro (= xanh da trời). Các cầu thủ của Inter Milan mặc áo truyền thống sọc xanh đen.

Rossoneri là số nhiều của rossonero. Đây là một từ ghép gồm có rosso (= đỏ) + nero (= đen). Các cầu thủ A.C. Milan mặc áo truyền thống sọc đỏ, đen.

Còn azzurri là số nhiều của azzurro, có nghĩa là xanh da trời. Đây là màu truyền thống của tuyển quốc gia Ý.

§ 1155. Kiến thức ngày nay, số 571

ĐỘC GIẢ: Từ “cirro-cumulus” được dịch là “mây ti tích”, “strato-cumulus” là “mây tầng tích”, “alto-stratus” là “mây trung tầng”. Vậy tại sao từ “alto-cumulus” lại được Lạc Việt từ điển và cả Wikipedia cùng dịch là “mây dung tích”. Tôi nghĩ nên dịch là “mây trung tích” mới đúng”. Nhờ ông An Chi giải thích hộ tại sao lại như thế, hai tiếng “trung” và “dung” có gì giống nhau?

AN CHI: Chúng tôi chưa rõ những người dịch altocumulus thành “dung tích” đã dùng hình vị dung theo nghĩa nào và đây là chữ dung nào của tiếng Hán nên không dám có ý kiến. Nhưng xét theo hệ thống, và nhất là đối với thuật ngữ, thì chúng tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của bạn. Nếu trong alto-stratus, alto đã được dịch là trung thì trong alto-cumulus nó cũng nên được dịch như thế (thành trung tích).

Sách Tìm hiểu Trái Đất của Nguyễn Hữu Danh (Nxb. Giáo dục, tái bản lần thứ tư, 2002) đã giới thiệu cho ta một bảng phân loại mây theo độ cao và hình dáng đám mây như sau:

“A. Mây tầng cao:

1. Mây ti

2. Mây ti tích

B. Mây tầng giữa:

3. Mây trung tích

4. Mây trung tầng

C. Mây tầng thấp:

5. Mây tầng tích

6. Mây vũ tầng

7. Mây tầng”*.

Tên các loại mây của bảng trên đây tương ứng một đối một với các thuật ngữ bằng tiếng La Tinh dưới đây:

1. Cirrus

2. Cirrocumulus

3. Altocumulus

4. Altostratus

5. Stratocumulus

6. Nimbostratus

7. Stratus.

Sổ tay thuật ngữ địa lý của Nguyễn Dược – Trung Hải (Nxb. Giáo dục, tái bản lần thứ năm, 2003) cũng dịch altocumulus là (mây) trung tích (Xin xem tr. 128).

Hai nguồn thư tịch trên đây cho ta thấy hình vị alto đã được dịch một cách thống nhất thành trung. Chúng tôi cho rằng cách dịch này phù hợp với tính chặt chẽ của thuật ngữ hơn cách dịch thành “dung” đối với trường hợp của altocumulus mà bạn đã nêu.

Cuối cùng, xin nói thêm rằng, thực ra, trong tiếng La Tinh, thì alto (< altus), có nghĩa gốc là cao, rồi nghĩa bóng là cao cả, và cả cao ngạo nữa. Vậy nếu muốn dịch cho thật sát nghĩa gốc của hình vị đang xét trong tiếng La Tinh thì:

– Altocumulus phải là (mây) cao tích; còn

– Altostratus phải là (mây) cao tầng.

Các nhà khí tượng học người Việt Nam đã thực hiện kiểu “ta làm theo cách của ta” nên mới dịch alto thành “trung” vì họ cho rằng mây “trung tích” và mây “trung tầng” dù sao cũng còn thấp hơn là mây ti tích (khoảng 9.000m) và mây ti (từ 6.000 đến 12.000m). Thực ra, trong bảng phân loại mây bằng tiếng La Tinh, thuật ngữ altocumulus (mây tích cao) được đặt ra trong thế đối lập với cumulus (mây tích (hiểu là thấp hơn altocumulus)) còn altostratus (mây tầng cao) được đặt ra là để đối lập với stratus (mây tầng (hiểu là thấp hơn altostratus)), như có thể thấy trong sơ đồ Classifi cation des Nuages par Altitude (Bảng phân loại mây theo độ cao) dưới đây:

Rõ ràng là altocumulus và altostratus ở tầng trung bình (Moyen) còn cumulus và stratus thì ở tầng dưới (Inférieur). Nghĩa là altocumulus cao hơn cumulus còn altostratus cao hơn stratus. Chính vì thế nên từ điển tiếng Hán, Từ hải, bản tu đính 1989 (Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 1997), chẳng hạn, mới gọi altocumulus là cao tích vân còn altostratus là cao tầng vân (Xin xem tr. 2299). Anh – Hoa đại từ điển của Zheng Yili và Cao Chengxiu (The Commercial Press, Beijing, 1996) cũng dịch altocumulus là cao tích vân còn altostratus là cao tầng vân.

Vậy, đúng nhất thì hình vị alto phải được dịch thành cao, chứ cũng chẳng phải là “trung”. Xài của người mà cứ đòi ta làm theo cách của ta thì nhiều khi rất dễ dẫn đến chuyện… tréo ngoe.

§ 1156. Kiến thức ngày nay, số 571

ĐỘC GIẢ: Haiku là một danh từ tiếng Nhật dùng để chỉ một thể thơ ngắn 17 tiếng làm thành 3 câu (5-7-5). Điều này thì chắc là nhiều người biết. Rắc rối là ở chỗ người thì nói danh từ này bắt nguồn từ hai chữ Hán đọc theo âm Hán Việt là “hài cú”; người lại nói hai chữ Hán đó là “bài cú”(“bài” chứ không phải “hài”). Vậy xin ông An Chi vui lòng cho biết đây là “bờ” hay là “hờ” và dù là “bờ” hay “hờ” thì chữ Hán viết ra làm sao.

AN CHI: Nhiều tác giả đã khẳng định rằng haiku là hài cú nhưng không biết các vị căn cứ vào đâu vì cũng chẳng thấy họ đưa ra chữ Hán nào để làm bằng. Còn sự thật thì haiku lại là bài cú, mà Hán tự là 俳句.

Dictionnaire j aponais – français của G. Cesselin (2366 pp., Tokyo, 1957) đã cho nguyên văn như sau:

“haiku (俳句): Vers comique, poésie comique en 3 vers de 5, 7 et 5 syllabes”.

(haiku (bài cú): Câu thơ khôi hài, bài thơ khôi hài với 3 câu 5, 7 và 5 tiếng).

Một số từ điển tiếng Hán cũng có ghi nhận hai chữ bài cú 俳句, chẳng hạn Từ hải, cả bộ cũ lẫn bộ tu đính 1989.

Còn về ngữ âm mà bài lại thành hai (ku) trong tiếng Nhật thì cũng chẳng phải chuyện lạ:

– Ba là sóng, tiếng Nhật đọc thành ha.

– Bá đạo, tiếng Nhật đọc là hadò.

– Bài trong môn bài, tiếng Nhật đọc là hai.

– Bái trong bái kiến, tiếng Nhật đọc là hai.

– Bán là một nửa, tiếng Nhật đọc là han.

– Biến trong biến hoá, tiếng Nhật đọc là hen; và đặc biệt

– Nhật Bản thì tiếng Nhật đọc là Nihon; v.v..

Cứ như trên thì bài cú mà lại thành ra haiku trong tiếng Nhật cũng chẳng phải là chuyện lạ.

§ 1157. Kiến thức ngày nay, số 571

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 541, ngày 20-82005, ông An Chi đã phủ nhận việc kỵ huý chú củaNguyễn Du trong việc khắc in bản Kiều Duy Minh Thị 1872 (DMT 1872). Nhưng mới đây, trong bài “Bàn lại với anh Nguyễn Quảng Tuân về niên đại Truyện Kiều” (Nghiên cứu Văn học, 5-2006, tr. 119 – 123), GS. Nguyễn Tài Cẩn vẫn nhấn mạnh:

“Gần đây Tiến sĩ Ngô Đức Thọ đã chứng minh cách viết các chữ TRỌNG khác cũng đều có sự thay đổi tự dạng cả. Hơn nữa, cụ Hoàng Xuân Hãn đã cất công vào tận Tiên Điền điều tra điền dã, hỏi cụ Nghè Mai và cụ Nghè Mai đã khẳng định. Việc kỵ huý trong gia đình mà gia đình đã công nhận thì chúng ta phải tin theo thôi”.(Bđd, tr. 122)

Xin ông An Chi cho biết ông nghĩ thế nào về cái lý của GS. Nguyễn Tài Cẩn.

AN CHI: Ông Nguyễn Tài Cẩn nói như thế nhưng chính gia đình khẳng định rằng sau khi đi sứ về Nguyễn Du mới viết Truyện Kiều thì ông ấy có nghe theo đâu.

Còn việc kỵ huý chú Nguyễn Du trong văn bản Duy Minh Thị 1872 thì chúng tôi xin nhắc lại rằng “cái gia huý của Nguyễn Du mà ông Ngô Đức Thọ “tìm thấy” chỉ là một chữ huý ảo”. Chúng tôi đã phân tích một số chữ để chứng minh cái thuyết “kéo vai xuống”(Xin xem lại Kiến thức ngày nay, số 541) của ông Ngô Đức Thọ không có giá trị. Để ông và bạn đọc dễ quan sát, chúng tôi xin in lại phần trên của trang 38B bản DMT 1872 trong đó chữ chác 卓 của câu 1459 cũng bị kéo vai xuống thành mặc dù nó chẳng kỵ huý ai cả (dĩ nhiên là rải rác còn có những chữ khác nữa cũng bị “kéo vai xuống” như thế).

Sự thật là như thế nên thiết tưởng ta có thể từ bỏ không chút lưu luyến cái thuyết “kéo vai xuống” của ông Ngô Đức Thọ để cho nhiều chữ khỏi bị hàm oan vì cái “gia huý” của Nguyễn Du. (Xin xem thêm ở câu 1160).

§ 1158. Kiến thức ngày nay, số 572

ĐỘC GIẢ: Vòng đấu bảng của World Cup 2006 sẽ kết thúc vào ngày 23-6 với hai trận của bảng H, sau 3 lượt trận. Xin ông cho biết vòng tiếp theo sẽ là vòng “một phần bao nhiêu”. Tôi hỏi như thế là vì khi tường thuật và bình luận trực tiếp các trận đấu trên HTVC, cùng ngồi với nhau nhưng một vị bình luận viên gọi đây là vòng 1/16 còn một vị khác thì nói khéo để cải chính rằng đó là vòng 1/8. Rồi đọc một tờ báo ra ngày 21-6, tôi lại thấy hai bài tại trang 15, một bài của T.P., một bài của N.K. Cả hai tác giả này đều gọi đó là vòng 1/16. Rồi bản tin nhanh cùng ngày của tờ báo đó cũng gọi đây là vòng 1/16, chẳng hạn ở cuối cột 5 của trang nhất hoặc ở cột 1, trang 2. Hồi 2002, một số vị cũng gọi vòng này là vòng 1/16. Thật chẳng còn biết đây là vòng “một phần bao nhiêu”. Nhưng dù là “một phần bao nhiêu” thì giới truyền thông cũng phải nói cho chính xác; có phải không, thưa ông?

AN CHI: Vâng, đúng là phải nói cho chính xác. Mà vấn đề thực ra cũng chẳng có gì là phức tạp.

Chung kết (một trận) thì có 2 đội; bán kết (hai trận) có 4 đội; tứ kết (bốn trận) có 8 đội. Với 16 đội còn lại sau ba lượt của vòng bảng, ta chỉ có 8 trận mà thôi. Vậy đây là vòng 1/8 chứ không thể là 1/16. Tiếng Anh có gọi vòng này là round of 16 nhưng round of 16 là vòng 16 đội chứ không phải là vòng 1/16.

§ 1159. Kiến thức ngày nay, số 572

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 570, ông có dự đoán về World Cup 2006. Hơn nửa chặng đường đã qua, vậy ông có thu lượm được điều gì tâm đắc không?

AN CHI: Thực ra thì điều tâm đắc mà chúng tôi thu lượm được từ World Cup 2006 lại không trực tiếp liên quan đến bóng đá mà đến hoạt động nhân đạo của FIFA và tổ chức phi chính phủ Làng Trẻ em SOS – trong đó có cuộc vận động “6 Làng (Trẻ em) cho năm 2006” – đặc biệt là về một cầu thủ của Tuyển quốc gia Ecuador.

Đó là Ulises de la Cruz, một trong 100 cầu thủ lớn của thế giới, đã nhận làm đại sứ của FIFA/Làng Trẻ em SOS.

Ulises lớn lên ở Piquiucho, một ngôi làng ở miền Bắc Ecuador. Ở đây thiếu nước, điện thì đắt đỏ còn hệ thống giáo dục thì kém cỏi. Được hỏi tại sao anh nhận làm đại sứ cho FIFA/Làng Trẻ em SOS, Ulises de la Cruz cho biết:

– Hiện nay, tôi đang chơi tại Anh. Ở đây tôi có một cuộc sống trước kia tôi chưa hề mơ đến. Tôi muốn tận dụng cơ hội của mình để giúp đỡ người khác. Tôi yêu trẻ con. Và tôi rất hãnh diện là đại sứ của Làng Trẻ em SOS.

Chính Ulises de la Cruz cũng đã thành lập một quỹ cứu trợ tại quê hương của mình. Anh cho biết trước kia quê mình không có trung tâm y tế; muốn chữa bệnh thì phải đến Ibarra cách đó 40 phút xe. Giáo dục miễn phí không đến được với nhiều đứa trẻ. Bây giờ đã có một trung tâm y tế, một y sĩ, một nha sĩ, một nữ y tá. Có cả một trường tiểu học với gần 200 học sinh. Người ta cũng đang tiến hành hiện đại hoá một số cơ sở khác. Và đang có một đề án mở rộng trung tâm y tế để có thể đón tiếp người bệnh của các làng chung quanh.

Ulises de la Cruz

§ 1160. Kiến thức ngày nay, số 572

Bổ sung cho câu trả lời về “gia huý” của Nguyễn Du trên Kiến thức ngày nay, số 571.

Trên số 571, vì khuôn khổ còn lại cho câu trả lời về “gia huý” của Nguyễn Du quá hạn hẹp nên chúng tôi chỉ có thể nói một cách vắn tắt. Nhưng cũng chính vì thế nên chúng tôi cảm thấy mình chưa làm hết trách nhiệm với bạn đọc. Vậy xin nói kỹ thêm như sau.

Ngay ở trang 38B của bản Duy Minh Thị 1872 mà chúng tôi đã cho in lại tại cột 2 và 3, trang 43 của Kiến thức ngày nay, số 571, ta thấy có chữ trọng 重 mà ông Ngô Đức Thọ cho là bị “kéo vai xuống” thành . Đó là chữ thứ 4 của dòng thứ 6 (tính từ trên xuống), nghĩa là của câu thứ 1469 trong Truyện Kiều (Thương vì nết, trọng vì tài). Nhưng chữ chác 卓, tức chữ thứ 3 của dòng thứ nhất, cũng bị “kéo vai xuống” thành rõ mồn một, như đã nói trên số 571. Lần này xin nói thêm rằng, ngay ở dòng thứ nhất đó, phía dưới chữ chác, chữ mua 模 cũng bị “kéo vai xuống” thành . Và đây cũng là chuyện rõ mồn một mà bất cứ ai có một chút tinh thần khách quan cũng đều dứt khoát phải thừa nhận. Vậy thì hai chữ chác và mua ở đây kỵ huý của ai? Chưa hết. Nếu cứ theo cách lập luận của Ngô Đức Thọ thì ta còn nhiều chữ “kỵ huý” khác nữa. Ở dòng thứ 3 (Dâu con trong đạo gia đình), chữ con 昆 đã bị khắc thành trong đó phần bên trái của chữ tỷ 比 là đã bị khắc thành . Rồi cũng ở dòng đó, chữ trong 冲 đã bị khắc thành trong đó chữ trung 中 đã bị khắc thành cân 巾. Vậy không biết những chữ này kỵ huý của nhân vật nào đây vì cũng bị khắc “khác nét”?

Trở lại với cái sự “kéo vai xuống: lần này chúng tôi mạn phép bàn cho “triệt để” bằng cách phân tích thêm một số chữ hữu quan ở trang 21B của bản Duy Minh Thị 1872 (tức trang 143 trong Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 của Nguyễn Tài Cẩn, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2002) mà chúng tôi cho sao in lại dưới đây:

Cũng như những trang khác của bản Duy Minh Thị 1872, trang này chia làm hai phần: phần trên là những câu 6 còn phần dưới là những câu 8. Riêng phần trên đã có đến 9 chữ bị “kéo vai xuống” (Xin tạm dùng cách nói này để chỉ những chữ có một bộ phận bị “kéo vai xuống”) còn phần dưới thì có 4 chữ.

Xin phân tích phần trên trước.

1. Chữ người * (chữ thứ 5, dòng 1) bị “kéo vai xuống” thành .

2. Chữ tối 最 (chữ thứ 5, dòng 2) bị “kéo vai xuống” thành .

3. Chữ rước 逴 (chữ thứ 1, dòng 3) bị “kéo vai xuống” thành .

4, 5, 6. Ba chữ đến 旦 (chữ thứ 4, dòng 3; chữ thứ 4, dòng 5 và chữ thứ 3, dòng 6) đều bị “kéo vai xuống” thành 且.

7. Chữ thuở 课 (chữ thứ 3, dòng 5) bị “kéo vai xuống” thành .

8. Chữ trùng 重 (chữ thứ 1, dòng 8) bị “kéo vai xuống” thành .

9. Chữ trên * (chữ thứ 1, dòng 10) bị “kéo vai xuống” thành .

Trở lên là 9 chữ bị “kéo vai xuống” của phần trên còn sau đây là 4 chữ của phần dưới:

10. Chữ dầm 潭 (chữ thứ 6, dòng 2) bị “kéo vai xuống” thành .

11. Chữ xa 車 (chữ thứ 5, dòng 4) bị “kéo vai xuống” thành .

12. Chữ người 㝵 (chữ thứ 6, dòng 6) bị “kéo vai xuống” thành .

13. Chữ chung (thực ra là trên) * (chữ thứ 8, dòng 6) bị “kéo vai xuống” thành .

Đó là 13 chữ trong đó có một bộ phận bị “kéo vai xuống” mà ta có thể thấy ở trang 21B của bản DMT 1872. Một mật độ như thế trong một trang có thể được coi là cao và cho phép ta khẳng định rằng việc “kéo vai xuống” ở đây chẳng qua chỉ là một cái tật của người thợ khắc ván do sự vụng tay và không rành chữ mà ra chứ chẳng phải là do kỵ tên kỵ huý gì hết. Có lẽ nào nhà văn bản học và nhà huý học lại đành lòng gởi trọn niềm tin của mình vào sự vụng tay và không rành chữ của anh thợ khắc ván? Thực ra, chuyện “kéo vai xuống” ở đây chỉ là chuyện hiếu sự mà thôi.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3