Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1127 - 1137

§ 1127. Kiến thức ngày nay, số 558

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguyên văn (âm Hán Việt cũng được) bài “Xuân giang” của Bạch Cư Dị và bản dịch của thi sĩ Tản Đà.

AN CHI: Dưới đây là nguyên văn và bản dịch của Tản Đà đã được đăng trên báo Ngày nay, số 104, ngày 3-4-1938:

Xuân giang

Viêm lương hôn hiểu khổ suy thiên

Bất giác Trung châu dĩ nhị niên,

Bế các chỉ thinh triêu mộ cổ,

Thượng lâu không vọng vãng lai thuyền.

Oanh thanh dụ dẫn lai hoa hạ.

Thảo sắc câu lưu toạ thuỷ biên.

Duy hữu xuân giang khan vị yếm,

Oanh sa nhiễu thạch lục sàn viên.

Sông xuân

Lần thâu nóng lạnh hôm mai,

Trung châu nào biết đã hai năm tròn.

Sớm hôm bên gác trống dồn,

Trước lầu qua lại coi buồn thuyền xa.

Tiếng oanh rủ lại dưới hoa,

Cỏ non bến nước cho ta mải ngồi.

Sông xuân xem mãi chưa rồi,

Quẩn quanh sỏi đá cuốn trôi theo dòng*.

§ 1128. Kiến thức ngày nay, số 559

ĐỘC GIẢ: Trong mục “Tin văn nghệ thế giới”, một tờ báo ra ngày 8-2-2006 đã viết:

“Luciano Pavarotti trình diễn tại Bồ Đào Nha vào ngày 21-4-2006 ở tuổi thất thập cổ lai hy. Ngôi sao người Ý với giọng soprano Carmela Remiglio sẽ cùng hát với Pavarotti ở Lisbon bên bờ sôngAtlantic Pavilion. Vé để thưởng thức sự kiện này sẽ bắt đầu bán vào ngày 17-2-2006 (AFP)”.

Cứ theo lời văn trên đây thì Pavarotti sẽ hát ở ngoài trời, bên bờ sông và tên con sông là “Atlantic Pavilion”. Xin cho biết có đúng như thế không.

AN CHI: Pavarotti sẽ không hát ở ngoài trời mà nước Bồ Đào Nha cũng chẳng có con sông nào tên là “Atlantic Pavilion” cả.

Chúng tôi đã kiểm chứng ở mẩu tin hữu quan của AFP ngày 6-2-2006 do Yahoo! News đăng lại thì thấy viết như sau:

“Italian opera star Luciano Pavarotti will perform in the Portuguese capital on April 21 as part of his ongoing farewell world tour, concert organizers said. The legendary 70-year-old tenor’s tour includes 40 concerts and is to end later this year. Italian soprano Carmela Remiglio will sing with Pavarotti in Lisbon at the riverside Atlantic Pavilion (…)”.

Nghĩa là:

“Ngôi sao opera người Ý Luciano Pavarotti sẽ trình diễn ở thủ đô Bồ Đào Nha ngày 21 tháng tư như một phần của tour từ giã vòng quanh thế giới đang diễn ra – các nhà tổ chức hoà nhạc đã nói: Tour của giọng tenor 70 tuổi huyền thoại gồm có 40 cuộc hoà nhạc và sẽ kết thúc vào cuối năm nay. Giọng soprano người Ý Carmela Remiglio sẽ hát với Pavarotti tại đại sảnh đường Atlantic ven sông (…)”.

Vậy nơi mà Pavarotti sẽ trình diễn là một sảnh đường (pavilion); sảnh đường này toạ lạc ở ven sông (riverside) và có tên là Atlantic nên lời tường thuật của AFP mới gọi đó là “riverside Atlantic Pavilion”. Atlantic Pavilion, tiếng Bồ Đào Nha là Pavilhão Atlântico, là công trình của kiến trúc sư Regino Cruz, hoàn tất vào năm 1998 để chào đón Cuộc triển lãm Hoàn vũ (Exposition Universelle), tổ chức tại Lisbon vào năm đó. Đại sảnh đường này nằm bên bờ sông Tage, con sông lớn nhất của Bồ Đào Nha, ở ngay vùng cửa sông nhìn ra Đại Tây Dương (Atlantic Ocean) nên mới được đặt tên là Pavilhão Atlântico. Đại sảnh đường này được trang bị cực kỳ hiện đại, nội thất có thể thay đổi để phục vụ cho nhu cầu của từng cuộc sinh hoạt, hội họp. Đây là nơi đã tổ chức Giải vô địch thế giới các môn thể thao trong nhà (World Indoor Championships) năm 2001 và từng là trung tâm báo chí của Euro 2004 khi Giải vô địch Bóng đá châu Âu diễn ra tại Bồ Đào Nha. Trong chuyến lưu diễn châu Âu năm 2004, Madonna cũng đã từng hát tại Atlantic Pavilion.

Tóm lại, Atlantic Pavilion không phải là một con sông. Đó là tên của một công trình kiến trúc đậm đà màu sắc vị lai chủ nghĩa toạ lạc bên bờ sông Tage, con sông lớn nhất của Bồ Đào Nha, chảy ra Đại Tây Dương. Nếu cần chuyển ngữ cái tên đó sang tiếng Việt thì có thể gọi đó là Đại sảnh đường Đại Tây Dương.

§ 1129. Kiến thức ngày nay, số 559

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 551, ông có nói rằng Tổng thống Mỹ G.W. Bush cũng còn được gọi (đùa) là George “Dubya” Bush. Tôi lại mới nghe được một cái tên lạ hơn nữa: Bushgollum. Vậy Bushgollum là ai hay là gì?

AN CHI: Cái tên Bushgollum dùng để chỉ tổng thống đời thứ 43 của nước Mỹ là kết quả của một sự liên tưởng, một sự so sánh dí dỏm và dĩ nhiên là rất…“chua”. Đây vừa là một sự chơi chữ rất tế nhị, vừa là một sự “chơi hình” sinh động.

Cái sự “chơi” này bắt nguồn từ tính cách của ông Bush và tính cách của một nhân vật mà nhà làm phim Peter Jackson đã “nặn” ra trong bộ phim The Lord of the Rings (Chúa tể của những chiếc nhẫn). Xin mời ông và bạn đọc so sánh thì sẽ thấy.

Trong Ảnh 1 là Gollum của Peter Jackson còn trong Ảnh 2 thì là… Bushgollum mà ông đã nghe nói. Nói cho thật sự chính xác thì Peter Jackson chỉ có công – dù là công lớn – tạo cho ta một nhân vật Gollum cụ thể và sinh động, “bằng xương bằng thịt” trên màn ảnh chứ cái công đầu tiên thì lại thuộc về nhà văn người Anh sinh ở Nam Phi John Ronald Reuel Tolkien. Vâng, Jackson làm bộ phim The Lord of the Rings dựa theo bộ tiểu thuyết cùng tên của Tolkien. Tuy cũng có tứ chi (hai tay và hai chân) đàng hoàng nhưng với Tolkien thì Gollum có lúc giống một con nhện, có lúc giống một con sâu ngọ nguậy, có lúc giống một con cào cào (ngoài Bắc gọi là châu chấu), có lúc giống một con ếch và có lúc thì lại giống như một con chó. Còn với nhà làm phim thì Gollum giống như …ta có thể thấy trong Ảnh 1, nhờ sự tưởng tượng thêm của chính Jackson cộng với kỹ xảo và kỹ thuật hiện đại để tạo ra một nhân vật ảo. Một lời nhận xét bằng tiếng Pháp trên mạng (không thấy ký tên) đã gọi Gollum của phim là một personnage nauséabond (nhân vật đáng kinh tởm (nghĩa gốc của nauséabond là gây nôn mửa)).

Bức ảnh “Bushgollum” xuất hiện lần đầu tiên có lẽ là trên FreakingNews.com. Vì tính chất quan trọng của nó, một thân hữu đã khuyên chúng tôi nên nêu rõ xuất xứ cho cẩn thận. Ta cứ vào Yahoo! hoặc Google, v.v., gõ “Bushgollum” rồi cho tìm ảnh thì ngay trang đầu tiên ta sẽ thấy đến một chục rưỡi ảnh “Bushgollum” của nhiều web khác nhau…y chang như Ảnh 2 ở trên.

§ 1130. Kiến thức ngày nay, số 560

ĐỘC GIẢ: Từ ngày 30-12-2005, HTV7 bắt đầu phát sóng bộ phim truyền hình Thương gia của Hàn Quốc, dài 50 tập vào lúc 22g30 mỗi đêm. Tôi thấy mở đầu phim thường có hai chữ Hán, không biết đó có phải là hai chữ “thương gia” hay không. Nếu không thì đó là hai chữ gì và hai chữ này có liên quan gì đến nội dung của bộ phim?

AN CHI: Đó là hai chữ Thương đạo, như có thể thấy trên hình bìa hộp DVD (Ảnh 1) hoặc trong tranh giới thiệu trò chơi trên mạng (Ảnh 2) mà chúng tôi sao lại để giới thiệu với ông và bạn đọc.

Hai chữ Thương đạo đã được chính những nhà làm phim của hãng MBC phiên âm thành Sang Do và dịch sang tiếng Anh thành Business Ethics, có nghĩa là đạo đức trong buôn bán, kinh doanh. Cũng chính vì nghĩa của hai chữ đó là như thế nên ta thấy trong nhiều forum bằng tiếng Hán, Thương đạo đã được giảng là thương nghiệp đạo đức (mà theo cú pháp tiếng Việt thì sẽ là “đạo đức thương nghiệp”). Hai chữ này và cách hiểu này hoàn toàn phù hợp với chủ đề của bộ phim.

Ảnh 1: Sang Dao

Ảnh 2: Sangdo Game

Để nêu bật chủ đề trên đây, các nhà làm phim đã xây dựng hai nhân vật mà cách hành xử trong kinh doanh hoàn toàn đối lập với nhau: Park Ju Myung, ông chủ của Song Bang và Hong Đức Chu, ông chủ của Mãn Thương. Park Ju Myung không từ một thủ đoạn nào để triệt hạ đối phương, kể cả việc liên kết với bọn cướp đường để phá hoại cơ sở sản xuất của người khác, như cho đốt phá cả trang trại trồng sâm mà ông chủ Mãn Thương đã phải gầy dựng trong bao nhiêu năm mới có được. Hắn ta cũng không ngần ngại đút lót cho tên quan tham ô những 5 vạn lạng bạc để mua quyền buôn bán nhân sâm (nhưng không thành). Còn ông chủ của Mãn Thương thì hoàn toàn ngược lại. Đây là một doanh nhân lương thiện, chánh trực, đã dạy cho nhân vật chính là Im Sang Ok một nguyên tắc kinh doanh mà Sang Ok đã ghi tâm khắc cốt:

Buôn bán không phải cốt để lời tiền, mà để lời nhân tâm.

Chính vì vậy nên khi bị đối thủ triệt hẳn con đường buôn bán của mình đến phải “dẹp tiệm”, ông chủ này đã không quên tạo điều kiện cho những người giúp việc của mình có thể tạm thời tìm kế sinh nhai: người nào cũng nhận được của ông một tấm ngân phiếu. Trong khi đó, ông đã căn dặn và khuyên răn cô con gái rượu của mình hãy cố gắng sống gian khổ. Ông đã lời được lòng người nên không ai bỏ ông. Ở đây, chúng tôi xin lưu ý bạn đọc về cách dịch đã được nghe lặp đi lặp lại nhiều lần trong các buổi phát hình trên HTV7:

“Buôn bán không phải để kiếm tiền, mà là để tìm người”.

Cách dịch trên đây làm cho cái triết lý kinh doanh của ông chủ Mãn Thương trở nên mơ hồ. Ngành nào, nghề nào mà lại không cần tìm người (thích hợp cho ngành đó, nghề đó). Cái mà doanh nhân họ Hong nhấn mạnh không phải là yếu tố “con người”, mà là lòng người. Và ông cũng nói rõ ràng là “lời”, chứ không phải “tìm” hay “kiếm”. Vâng, triết lý kinh doanh của họ Hong là:

“Buôn bán không phải để lời tiền, mà là để lời lòng người”.

Triết lý này đã được diễn đạt, nói cho đúng là đã được chuyển ngữ, sang tiếng Hoa thành:

“Sở vị đích tố sinh ý, bất thị trảm thủ kim tiền, nhi thị trảm thủ nhân tâm”.

Như có thể thấy ở ba dòng chữ Hán, phía dưới và bên phải Ảnh 1.

Nó cũng được chuyển ngữ sang tiếng Anh thành:

“Doing business is not about profits or making money. It’s about earning the hearts of people”.

Rõ ràng vấn đề không phải là ở chỗ “tìm người”, mà là ở chỗ lời lòng người, trảm thủ nhân tâm, earning the hearts of people.

Đại diện cho triết lý này, ta thấy còn có nhân vật Im Sang Ok, nhân vật chính, do Lee Jae-rong thủ vai (Ảnh 3) và một phần, cả ở nhân vật Park Da Nyung, do Kim Hyun-ju thủ vai (Ảnh 4). Đây là những nhân vật của tương lai, nhất là Im Sang Ok, người sẽ đẩy cái triết lý của bậc tiền bối họ Hong đi đến mức tột cùng. Với cái triết lý của họ Hong và cái chủ đề chung của 50 tập phim như thế, ta thấy hai chữ “Thương đạo” hoàn toàn thích hợp, ít nhất nó cũng sát hơn hai tiếng “Thương gia” và trước nhất, nó là chữ của nhà làm phim. Hai chữ Thương đạo còn có cái ưu thế là chữ đạo còn có thể được hiểu theo nghĩa gốc là “con đường”. Đó là con đường gian khổ và dài dằng dặc mà Sang Ok đã cùng cha vượt qua để đi đến Yên Kinh mà buôn bán (Thương đạo = con đường buôn bán) rồi còn là quãng đường đời mà Sang Ok phải một mình vượt tiếp để có thể trở thành một thương gia thực thụ đầy bản lĩnh.

§ 1131. Kiến thức ngày nay, số 560

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Đoàn tụ” (Tuổi trẻ, 8-2-2006), tác giả Thanh Trúc có viết một đoạn:

“Sarah gần như tuyệt vọng vì không có một manh mối nào khác để tìm kiếm gia đình bố mình. Nhưng nhờ sự giúp đỡ của vị hôn phu, anh Johan Oeyen, cô lại tiếp tục tìm kiếm trên những trang web quân sự và hỏi han rất nhiều người. Hy vọng tìm lại được nguồn gốc người bố ngày một lớn hơn đối với Sarah khi những thông tin họ tìm được về người mang họ Alameda đều trùng hợp với người bố mà lâu nay cô chỉ gặp trong giấc mơ. Sarah và hôn phu của mình vội liên lạc với gia đình Alameda (…)”.

Xin cho biết nếu vị hôn phu là “chồng chưa cưới” thì hôn phu có phải là “chồng (đã cưới)” không. Vị ở đây có phải cũng là một với vị trong vị giáo sư, vị bác sĩ, v.v. không? Johan Oeyen là chồng chưa cưới (vị hôn phu) hay đã cưới (hôn phu) của Sarah?

AN CHI: Thực ra thì liên quan đến hai chữ “vị” này, chúng tôi đã có trả lời kỹ trên Kiến thức ngày nay, số 380, ngày1-3-2001.

Vị trong vị giáo sư, vị bác sĩ, v.v. là danh từ đơn vị, có nghĩa là “người” nên, nói chung, có thể chuyển đổi với một số danh từ đơn vị tương đương như: gã, người, tên, viên, v.v.. Vì vậy nên ta mới có thể nói tay giáo sư, gã bác sĩ, v.v.. Còn vị trong vị hôn phu thì lại có nghĩa là “chưa” (vị hôn phu = chồng chưa cưới). Vì không phải là danh từ đơn vị nên nó không thể chuyển đổi với các danh từ đơn vị chỉ người. Xin mời cô và bạn đọc vui lòng xem lại Kiến thức ngày nay, số 380 thì sẽ rõ hơn.

Vậy vị hôn phu là chồng chưa cưới nhưng trong tiếng Việt chuẩn và có tính toàn dân hiện nay thì không ai dùng “hôn phu” để chỉ chồng. Đây không phải là một đơn vị của từ vựng tiếng Việt hiện đại. Còn về nhân vật Johan Oeyen thì chúng tôi đã kiểm chứng ở Star Bulletin ngày 16-1-2006. Oeyen vẫn chỉ là chồng chưa cưới của Michel, như đã được khẳng định trong lời chú cho bức ảnh sau đây:

Cô Sarah

“Sarah Michel, her uncle Gordon Alameda and Michel’s fiancé, Johan Oeyen, talked yesterday during a Makapuu beach party”.

Nghĩa là: “Sarah Michel, người bác (hay chú?) Gordon Alameda và Johan Oeyen, vị hôn phu của Michel, trò chuyện với nhau ngày hôm qua (15-1-2006, chứ không phải “16” như tác giả bài báo đã ghi – AC) trong một buổi tiệc ở bãi biển Makapuu”.

§ 1132. Kiến thức ngày nay, số 561

ĐỘC GIẢ: Trên một tờ báo ra ngày 18-2-2006, tác giả Anh Sáu có nhận xét như sau:

“Bài của Phong Uyên (“Dịch là cái hoạ”) trích câu “Traduire, c’ est trahir”, có ý cho rằng xuất xứ câu “Dịch là phản” là của Pháp. Theo Gregory Rabassa (tác giả cuốn If This Be Treason, Nxb. New Directions, 2005) thì nguyên thuỷ câu này là ngạn ngữ của Italia “Traduttore, traditore”. Thiết tưởng cũng nên “trả lại cho Cæsar những gì của Cæsar”!

Rồi cũng trên tờ báo đó, số ra ngày 25-2-2006, trong bài “Dịch thuật: đôi điều cần đào sâu”, có lẽ do tiếp nhận ý kiến của Anh Sáu, tác giả Nguyễn Đình Thành đã viết và chú trong ngoặc đơn như sau:

“(…) Bài học đầu tiên của người học dịch là câu cảnh báo “traduire, c’est trahir” (traduttore, traditore), dịch là phản”.

Cứ như trên thì ta sẽ có đẳng thức:

Traduttore, traditore (Italia) = Traduire, c’est trahir (Pháp).

Xin cho biết có đúng như thế không.

AN CHI: Trên Chuyện Đông chuyện Tây cách đây đã lâu, chúng tôi đã có nêu câu “Traduttore, traditore” của Ý và đã dịch thành “Người dịch là người phản”. Vì nghĩa của câu tiếng Ý là như thế cho nên: Traduttore, traditore = Traduire, c’est trahir -chỉ là một đẳng thức khập khiễng mà thôi. Một đằng, trong tiếng Ý, traduttore và traditore là hai danh từ; còn đằng kia, trong tiếng Pháp thì traduire và trahir lại là hai động từ. Vậy làm sao ta có thể lấy động từ để dịch danh từ mà đặt dấu “bằng” (=) giữa hai vế cho được? Nếu vẫn muốn xài dấu “bằng” trong trường hợp này thì ta phải đổi cái đẳng thức khập khiễng trên đây thành: Traduttore, traditore = traducteur, traître (người dịch là người phản), trong đó cả traduttore, traditore của tiếng Ý lẫn traducteur, traître của tiếng Pháp đều là danh từ, như, thực ra, cũng đã thấy dịch từ lâu tại những trang hồng (pages roses) của từ điển Larousse. Còn nếu muốn tìm cái tương ứng trong tiếng Ý của traduire thì đó sẽ là tradurre và của trahir thì đó sẽ là tradire. Vâng, trong tiếng Ý thì tradurre mới là “dịch” và tradire mới là “phản”.

Vậy ta cũng nên nghe theo lời khuyến cáo của Anh Sáu mà “trả cho Cæsar những gì của Cæsar”. Vâng, ta hãy trả lại cho traduttore và traditore cái từ loại danh từ của nó và tránh dịch hai danh từ này bằng hai động từ traduire (cho từ trước) và trahir (cho từ sau).

§ 1133. Kiến thức ngày nay, số 561

ĐỘC GIẢ: Có tác giả viết sách về địa danh, cho rằng toponymie là danh từ xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa là “tên gọi các địa phương”, hay là “tên gọi địa lý”. Lại có tác giả khác không đồng tình, cho rằng toponymie không phải là tiếng Hy Lạp cổ mà là tiếng Pháp hiện đại, có nghĩa là địa danh học. Toponymie bắt nguồn từ hai từ Hy Lạp topos là “nơi chốn” và onoma là “tên gọi”.

Xin cho biết ai đúng, ai sai.

AN CHI: Tác giả trước đã nhầm toponymie (địa danh học) với toponyme. Toponyme mới là tên đất, là địa danh. Nhưng tác giả này đâu có nói rằng toponymie là tiếng Hy Lạp cổ, mà chỉ nói rằng nó “xuấ tphát từ tiếng Hy Lạp cổ”. Thì cũng giống như tác giả sau nói nó “bắt nguồn từ (…)” mà thôi. Nhưng nói toponymie “bắt nguồn từ hai từ Hy Lạp topos và onoma” thì cũng không đúng vì thực ra thì toponymie lại bắt nguồn từ toponyme. Vâng, toponymie là một danh từ phái sinh từ toponyme bằng hậu tố -ie, y hệt như antonymie (tính phản nghĩa) từ antonyme (từ phản nghĩa), homonymie (tính đồng âm) từ homonyme (từ đồng âm), synonymie (tính đồng nghĩa) từ synonyme (từ đồng nghĩa), v.v..

Chỉ có toponyme mới bắt nguồn (hoặc xuất phát) từ topos và onoma. Nói cho hoàn toàn chính xác, chỉ có toponyme mới gồm có hai hình vị bắt nguồn từ hai danh từ topos và onoma của tiếng Hy Lạp cổ mà thôi. Dĩ nhiên là tác giả sau có thể biện bạch rằng mình đã căn cứ vào từ điển, mà lại là từ điển của Pháp hẳn hoi. Chẳng hạn Le Petit Larousse Illustré 2002 đã ghi chú như sau:

“Toponymie.n.f. (gr. topos, lieu, et onuma, (sic), nom)”, nghĩa là: “Toponymie, danh từ giống cái (do Hy Lạp topos, nơi chốn, và onuma (sic), tên gọi).

Nhưng, như đã phân tích, ghi chú như thế thì sai, mà lại sai đến hai chỗ. Thứ nhất là onoma không đưa đến -onymie, mà đưa đến -onyme và thứ hai là đã nhầm onoma thành “onuma”. Chính quyển từ điển này đã hoàn toàn đúng khi gắn -onyme với onoma như đã ghi chú ở các mục: antonyme, homonyme, paronyme, synonyme.

Tóm lại, toponymie là một danh từ của tiếng Pháp hiện đại, có nghĩa là địa danh học. Đây là một từ phái sinh (dérivé) bằng hậu tố -ie từ danh từ toponyme, có nghĩa là địa danh. Toponyme gồm hai hình vị căn tố (top (o) và onyme) bắt nguồn từ hai danh từ Hy Lạp cổ là topos (có nghĩa là nơi chốn) và onoma (có nghĩa là tên).

§ 1134. Kiến thức ngày nay, số 561

ĐỘC GIẢ: 1. Tạp chí Thế giới số Tết Bính Tuất có bài giải thích về hai từ chó và má. Theo tác giả Ba Duy (Thành phố Hồ Chí Minh), má cũng là chó; phân biệt là ở chỗ: chó thì không ăn thịt chó, còn má thì ăn cả thịt, cả xương chó nếu ta vứt cho nó. Tôi đã tra cứu:

– Từ điển Khai trí tiến đức,

– Tự điển Việt Hoa Pháp của G.Hue,

– Đại từ điển tiếng Việt (Nxb. Văn hoá – Thông tin, 1999),

– Từ điển phương ngữ tiếng Việt (Đặng Thanh Hoa),

– Từ điển phương ngữ Nam Bộ (Nguyễn Văn Ái chủ biên),

– Từ điển từ cổ của Vương Lộc, v.v..

thì không thấy sách nào nói có con má (một loại chó ăn thịt chó) cả mà đó chỉ là một hậu tố (suffixe). Ví dụ: chó má, lúa má, giống má, thuế má, giấy má, v.v.. Ngoài ra, má còn là mẹ trong phương ngữ Nam Bộ:

Má ơi đừng đánh con đau,

Để con hát bội làm đào má coi.

(Ca dao)

hoặc còn là mạ trong tiếng Trung Bộ:

Em về đếm má trữa nương,

Thì anh đây đếm được mấy xương con cá kình.

(Hát phường vải Nghệ Tĩnh)

Thế thôi! Không thấy có con “má” kia.

2. Cuốn Dân tộc qua các câu ví, tục ngữ, phương ngôn, phong dao, ca vè…của Nguyễn Đình Thông có ghi câu:

Bụt Nam Sang lại từ xôi chiêm.

Nhưng Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân thì lại ghi:

Bụt Nam Sang lại từ oản chiêm.

và giải thích: “Vùng Nam Sang ở Nam Định là vùng chiêm trũng. Phê phán người khó tính coi thường những thứ mình sẵn có mà đòi hưởng những thứ cao xa.

Còn Thành ngữ tiếng Việt (Nxb. Khoa học Xã hội, 1978) thì lại ghi:

Bụt lại từ oản chiêm.

và giải thích: “Từ chối cái vẫn rất ưa thích, từ chối một cách không bình thường”.

Xin nhờ ông An Chi cho biết ý kiến.

AN CHI: 1. Có thể cách hiểu của Ba Duy là một cách hiểu có phần “tài tử”. Dù sao, cách hiểu này cũng có một ưu điểm quan trọng: nó cho rằng má trong chó má là một từ, dĩ nhiên là có nghĩa, chứ không phải là một yếu tố vô nghĩa.

Má ở đây không phải là một hậu tố trong chó má, lúa má, giống má, giấy má, thuế má, cũng không phải là tiếng đệm. Trong những trường hợp này và những trường hợp khác tương tự, mỗi tiếng đều là một từ vốn có nghĩa.

Có ý kiến cho rằng má trong chó má là một từ của các ngôn ngữ Tày- Thái mà chúngtôi thì lại tin ở điều này vì chính chúng tôi cũng chủ trương rằng tiếng Việt là một ngôn ngữ Tày – Thái. Trong các ngôn ngữ Tày – Thái thì má vẫn còn có nghĩa là chó nhưng trong tiếng Việt hiện đại thì nó đã trở thành một từ cổ (nên không còn được dùng và vì thế nên mới bị mất nghĩa).

2. Trước nhất, xin nói rằng địa danh hữu quan là Nam Xang chứ không phải “Nam Sang” vì cách ghi âm bằng chữ Hán của nó là 南昌, mà âm Hán Việt hiện đại là Nam Xương. Xang chẳng qua là biến thể ngữ âm của Xương.

Chúng tôi cho rằng Bụt Nam Xang lại từ oản chiêm mới là câu gốc; Bụt Nam Xang lại từ xôi chiêm là một dị bản. Oản mà đi với Bụt thì mới đẹp đôi về mặt từ ngữ chứ xôi thì đã hơi lạc lõng. Còn “Bụt lại từ xôi chiêm” thì chỉ là kết quả của một sự cắt xén tuỳ tiện mà thôi.

Câu này có ý chê những kẻ không biết chấp nhận hoàn cảnh cụ thể của mình mà lại đòi hỏi những gì hoàn cảnh đó không cho phép mình có.

§ 1135. Kiến thức ngày nay, số 562

ĐỘC GIẢ: Trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 70, tác giả Nguyễn Khắc Bảo có bài “Châu dệt trong một câu Kiều”. Bài này có nhiều chỗ sai mà ông An Chi đã phân tích trên Kiến thức ngày nay, số 400 và số 401. Sau đó, ông Nguyễn Khắc Bảo lại có bài trả lời nhan đề “Lại bàn về châu dệt trong một câu Kiều”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 77. Bài này đã được ông An Chi trả lời trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 82, để chỉ ra tiếp những chỗ sai trong bài trả lời của ông Nguyễn Khắc Bảo. Tôi tán thành những lời phân tích của An Chi nhưng lại thấy có một điểm rất quan trọng do ông Nguyễn Khắc Bảo nêu lên mà ông An Chi lại lờ đi.

Số là ông Nguyễn Khắc Bảo khẳng định rằng “ông An Chi đã không đọc kỹ cuốn sách Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt của học giả Nguyễn Tài Cẩn nên đã vô tình trích dẫn thiếu một ý quan trọng” vì chỉ trích dẫn có phần sau. Vì vậy nên ông Nguyễn Khắc Bảo mới dẫn lại phần đó để phân tích rồi khẳng định:

“Vậy việc ông An Chi chỉ trích dẫn đoạn sau lời của học giả Nguyễn Tài Cẩn thì có khác chi chỉ dẫn độc giả quan sát cái đuôi con voi rồi lấy đó để nói rằng bức vẽ con voi là sai”.

Rồi ông Nguyễn Khắc Bảo thách thức:

“Ông An Chi quy cho tôi nhiều điều “ông Nguyễn ngỡ là” thế này thế nọ, nhưng rốt cuộc cũng không dám hạ bệ toàn bộ bài viết ngắn của tôi (…)”.

Tôi xin hỏi: “Có phải ông An Chi cam chịu sờ cái đuôi voi mà không dám hạ bệ toàn bộ bài viết của ông Nguyễn Khắc Bảo hay không?”.

AN CHI: Những điểm chủ yếu và trực tiếp liên quan đến chữ nghĩa thì chúng tôi đã nói hết trên Kiến thức ngày nay, số 400 và số 401, rồi Ngôn ngữ & Đời sống, số 82 còn những điều ông hỏi lần này lại là những cái thứ yếu mà thực lòng chúng tôi cũng có ý định trả lời nhưng chưa có dịp. Nay ông đã hỏi, mà lại hỏi một cách rất thẳng thắn thì chúng tôi cũng xin thưa như sau:

Người ta chỉ nên tranh luận với nhau một cách thẳng thắn, thậm chí có khi gay gắt nữa, để tiếp cận với chân lý chứ người làm học thuật chân chính ai lại chờ chực cơ hội để hạ bệ người khác bao giờ. Nhưng vì, trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 77, ông Nguyễn Khắc Bảo đã thách chúng tôi “hạ bệ” ông ấy nên chúng tôi mới mạo muội có bài trả lời trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 82. Không biết như thế đã có thể coi là đạt yêu cầu của ông Nguyễn Khắc Bảo được chưa vì sau đó chúng tôi không thấy ông Nguyễn có ý kiến gì tiếp.

Còn “cái đuôi con voi” của ông Nguyễn Khắc Bảo thì lại là một ẩn dụ tuy đầy ý vị châm biếm nhưng lại chẳng may mắn tí nào! Ông có ý nói rằng chúng tôi là một anh xẩm sờ voi nhưng rủi thay, cái ẩn dụ đó chỉ thích hợp với việc lấy cách phiên âm tiếng phổ thông (Bắc Kinh) trong Vương Vân Ngũ đại từ điển và tiếng Quảng Đông trong Quảng Châu âm tự điển làm âm Hán Việt mà thôi. Huống chi, ví phần cuối của một thiên khảo luận hoặc một đề mục lớn với cái đuôi của một con vật chỉ là một sự so sánh khập khiễng vì phần cuối thường là phần thâu tóm những ý chính, phần toát yếu nên rất quan trọng chứ đâu có phải là thứ…đầu thừa đuôi thẹo!

Trở lại với chữ thứ tư của câu 1316, xin nói rằng các bản Tiểu Tô Lâm 1870, Duy Minh Thị 1872, TrươngVĩnh Ký 1875, Abel des Michels 1884 và Kiều Oánh Mậu 1902 đều chép là ngọc 玉 (nên cả câu là Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu). Nhưng chữ thứ tư của câu 1384, mà nhiều bản chép là ngọc 玉 thì ba bản Tiểu Tô Lâm 1870, Duy Minh Thị 1872 và Abel des Michels 1884 lại chép thành nguyệt 月 (nên cả câu là Càng sôi vẻ nguyệt, càng lồng màu sen). Ta đặc biệt chú ý đến bản Tiểu Tô Lâm (trước đây thường gọi là Lâm Noạ Phu, còn tên thật là Nguyễn Hữu Lập), là một bản chép tay rất đẹp mà người chép cũng phải là một người có học vấn cao. Vậy việc Nguyễn Hữu Lập chép chữ thứ tư của câu 1316 thành ngọc 玉 là một việc mà ta phải xem trọng và cân nhắc cẩn thận, chứ không thể phủ nhận một cách quá dễ dãi như ông Nguyễn Khắc Bảo đã làm để lăng xê cái danh ngữ “châu dệt” vô nghĩa, như chúng tôi đã chỉ ra trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 82.

§ 1136. Kiến thức ngày nay, số 562

ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây có nhắc đến bản nhạc Auld lang syne mà cái tên quen thuộc với nhiều người Việt Nam trước đây là Au revoir, scout. Xin ông An Chi cho biết thêm đôi điều về bài hát này (tác giả, thời điểm xuất hiện, v.v.).

AN CHI: Auld lang syne là một bài hát ra đời cách đây hơn 200 năm (1788), do công của Robbie Burns (1759 – 1796), một nhà thơ lớn của Scotland. Burns đã chỉnh lý nó trên cơ sở một giai điệu dân gian mà ông đã nghe một người hành khất già hát trên đường phố. Còn ngày nay thì nó đã trở thành một bài hát truyền thống để tiễn đưa năm cũ và đón chào năm mới ở các nước nói tiếng Anh. Nó trở thành bài hát từ biệt của hướng đạo sinh ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, và ở Pháp. Đặc biệt ở Triều Tiên, giai điệu của nó là nền của bài hát được xem gần như quốc ca trước khi bài Ái quốc ca (Aegukga) ra đời năm 1948. Ở Đài Loan, nó thường được dùng trong tang lễ. Đặc biệt là ở Canada, hồi tháng 10 năm 2000, nó đã được cử lên khi người ta đem thi hài của Thủ tướng Pierre Trudeau rời khỏi Đồi Quốc hội (Parliament Hill) ở Ottawa để đưa đi an táng ở Montréal. L’Encyclop édie canadienne (Bách khoa toàn thư Canada) đánh giá bài Auld lang syne là “La plus douce des musiques de ce côté-ci du paradis” (Bản nhạc êm dịu nhất trong các bản nhạc ở phía bên này của thiên đường). Và còn nói rõ thêm: “Elle évoque un parfum du passé, le souvenir des vieilles amitiés qui ne meurent j amais, les vieilles amours qui restent jeunes et les couleurs chatoyantes des rêves de jeunesse”. (Nó gợi lại hương vị của quá khứ, kỷ niệm về những tình bạn cũ không bao giờ chết, những mối tình xưa còn trẻ mãi và những sắc màu rực rỡ của những ước mơ thuở thanh xuân”.

Ở Việt Nam, Auld lang syne được biết đến với cái tên “bình dân” là Au revoir, scout, hẳn là do phong trào hướng đạo sinh từ Pháp đưa sang. Nói đến bài hát này trong lòng của phong trào hướng đạo sinh thì ta không thể không nhắc đến linh mục Jacques Sevin (1882 – 1951). Ông chẳng những là người sáng lập phong trào hướng đạo sinh Công giáo ở Pháp mà còn là người đã đặt lời cho bài Auld lang syne bằng tiếng Pháp, dưới nhan đề Ce n’est qu’un au revoir (Chỉ là tạm biệt), cũng còn được gọi là Chanson des adieux (Bài ca từ biệt) mà sau đây là điệp khúc:

Ce n’est qu’un au revoir, mes frères,

Ce n’est qu’un au revoir!

Oui, nous nous reverrons, mes frères,

Ce n’est qu’un au revoir!

Nghĩa là:

Chỉ là tạm biệt, các huynh đệ,

Chỉ là tạm biệt!

Phải, ta sẽ gặp lại nhau, các huynh đệ,

Chỉ là tạm biệt.

Đây là một bài hát rất quen thuộc với công chúng Việt Nam mà bằng chứng sinh động là lời của nó đã được trẻ con đặt ra một cách “trật vuột” và buồn cười để hát với nhau như ta vẫn thường được nghe:

Ò e, Tarzan đánh đu,

Thằng Tây nhảy dù,

Zorro bắn súng…

Dĩ nhiên là những lời hát trên đây chẳng đáng được ghi chép vào sử sách. Chúng tôi nhắc đến nó chỉ để chứng minh rằng Auld lang syne là một bài hát thực sự phổ biến ở Việt Nam, ít ra cũng là ở miền Nam.

§ 1137. Kiến thức ngày nay, số 562

ĐỘC GIẢ: Trong phim Thương gia, khi sang đến Yên Kinh, nhờ chép tặng cho một nhà buôn cự phú người Hán một bài thơ của Ngô Uy Nghiệp mà Im Sang Ok đã chiếm được cảm tình của người này. Xin vui lòng cho biết Ngô Uy Nghiệp là ai.

AN CHI: Trước nhất, xin thưa rằng nhà thơ này là Ngô Vĩ Nghiệp 吳偉業 (1609 – 1671), chứ không phải “Ngô Uy Nghiệp”. Ngô Vĩ Nghiệp tự là Tuấn Công, hiệu là Mai Thôn, đỗ tiến sĩ năm Sùng Trinh thứ 4 (1631) đời nhà Minh, rồi làm Tư nghiệp Quốc tử giám. Khi nhà Minh mất về tay nhà Thanh, do hoàn cảnh cá nhân, Ngô Vĩ Nghiệp đã ra làm quan cho nhà Thanh, đảm nhiệm chức Tế tửu Quốc tử giám nhưng chẳng bao lâu thì cáo lui. Ông là một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Minh, rồi nhà Thanh. Tác phẩm hiện còn Mai Thôn gia tàng cảo 梅村家藏稿.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3