Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1111 - 1126

§ 1111. Kiến thức ngày nay, số 553

ĐỘC GIẢ: Hai tiếng Bố Cái trong Bố Cái Đại Vương có phải là hai từ thuần Việt, có nghĩa là “cha mẹ” hay không? Theo ông thì nghĩa chính xác của hai tiếng đó là gì?

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 552, chúng tôi cũng đã bàn về hai tiếng Bố Cái theo các khía cạnh mà ông Đỗ Lai Vỵ (Nha Trang) và ông Phạm Minh Huy (Thành phố Hồ Chí Minh) đã hỏi. Bây giờ xin trả lời cho câu hỏi của ông.

Cho đến nay, trong tiếng Việt, bố vẫn có nghĩa là “cha”, còn với nghĩa “mẹ” thì cái đã trở thành một từ cổ. Nhưng cả hai đều không phải là “thuần Việt” vì đó đều là những từ gốc Hán.

Về từ nguyên của bố, chúng tôi đã phân tích rõ trên Kiến thức ngày nay, số 170, ngày 10-4-1995. Bố là âm Hán Việt xưa của chữ 父 mà âm Hán Việt hiện nay là phụ, có nghĩa là cha. Đây cũng là một điều đã được Vương Lực khẳng định trong thiên “Hán Việt ngữ nghiên cứu”, in lại trong tập Hán ngữ sử luận văn tập (Khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1958, tr. 290 – 406), phần 7 (Cổ Hán Việt ngữ cập Hán ngữ Việt hoá), mục A (Cổ thanh mẫu), tiểu mục Bính (Cổ trọng thần âm). Vương Lực chỉ giải thích mối quan hệ bố ~phụ là do chữ 父 vốn thuộc thanh mẫu tịnh (bịnh) 並, nay đã nhập vào thanh mẫu phụng 奉 (Xin xem tr. 363). Còn chúng tôi thì muốn nêu thêm một cứ liệu văn tự học quan trọng và thú vị: chính chữ phụ 父 đã được dùng làm thanh phù cho chữ bố 布 như có thể thấy ở lối chữ triện. Vậy nếu được diễn đạt đầy đủ từ lối triện sang lối khải ngày nay thì chữ bố sẽ phải là . Cứ liệu ngữ âm học lịch sử và cứ liệu văn tự học trên đây là những bằng chứng không thể nào phủ nhận được cho mối quan hệ bố ~phụ theo nghĩa đang xét.

Còn cái thì sao? Chúng tôi cũng đã bàn về trường hợp này qua sự liên quan ngữ nghĩa giữa ba từ cái sau đây:

– Cái 1, danh từ cổ, có nghĩa là mẹ. Thí dụ: Con dại cái mang. Nàng về nuôi cái cùng con.

– Cái 2, tính từ, do danh từ cái trên đây chuyển loại và chuyển nghĩa mà thành, đối nghĩa với đực và đồng nghĩa với mái. Trường hợp này cũng giống với từ mẫu 母 là mẹ trong tiếng Hán mà Từ hải đã ghi nhận: “Cầm thú chi tẫn giả diệc viết mẫu” (Con cái/mái của loài cầm thú cũng gọi là mẫu).

– Cái 3, tính từ, có nghĩa là to, lớn, chính (đối với bé, nhỏ, phụ) so với những vật cùng loại. Tính từ cái này cũng là do danh từ cái trên đây chuyển loại và chuyển nghĩa mà thành và sự chuyển biến này cũng giống như của danh từ mẫu 母 mà Từ hải ghi nhận như sau: “Vật hữu đại tiểu, khinh trọng giả, đại giả trọng giả vi mẫu, tiểu giả khinh giả vi tử” (Vật có cái lớn, cái nhỏ, cái nhẹ, cái nặng; cái lớn cái nặng là mẫu, cái nhỏ, cái nhẹ là tử).

Trở lên là đại khái những gì chúng tôi đã phân tích trên Kiến thức ngày nay, số 197, ngày 10-1-1996 về mối quan hệ ngữ nghĩa đã nói. Mối quan hệ này cũng đã được Nguyễn Tài Cẩn thừa nhận trong bài “Về cách đọc tước hiệu Bố Cái Đại Vương”*. Nhưng đâu là từ nguyên của những từ cái này? Trong tiếng Hán, cái nghĩa “mẹ” của từ từng có lúc đọc theo âm Hán Việt là cái ngày nay không còn tìm thấy được nữa. Nhưng cái nghĩa “to, lớn” thì vẫn còn và đây là một trong những nghĩa của chữ giới 介, mà âm Hán Việt xưa là…cái (cổ bái thiết hoặc cư bái thiết). Tất cả những quyển từ điển quen thuộc như Khang Hy, Từ nguyên, Từ hải, v.v. đều có ghi nhận nghĩa này. Sự ghi nhận này cho phép ta suy ra rằng cái với nghĩa “mẹ” là một từ Việt gốc Hán mà người Việt đã mượn vào một thời rất xa xưa, nay đã không còn lưu tích gì trong tiếng Hán (mà cũng chỉ còn trong tiếng Việt với tính cách là một từ cổ). Nhưng cái nghĩa phái sinh là “to, lớn” của nó thì vẫn còn đó, cả trong tiếng Hán lẫn tiếng Việt. Thật khó mà cho rằng đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhất là khi mà cả cái từ đồng nghĩa với nó là cả (trong anh cả, kẻ cả, v.v.) cũng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 嘏, mà âm chính thống cổ xưa là cả (cổ nhã thiết) nhưng một số từ điển gia Việt Nam thì lại đọc thành “hỗ” (Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Nguyễn Quốc Hùng, v.v.).

Tóm lại, tiếng Việt có một từ bố có nghĩa là “cha” và một từ cái, nay đã trở thành từ cổ, có nghĩa là “mẹ” nhưng đây là hai từ gốc Hán chứ không phải “thuần Việt”.

Thư tịch xưa cho rằng hai từ này có mặt trong tôn hiệu Bố Cái Đại Vương (= Vua Lớn Cha Mẹ) và nhiều nhà nghiên cứu ngày nay cũng chấp nhận cách hiểu này, đặc biệt là Nguyễn Tài Cẩn (Xin xem bđd). Nhưng gần đây đã xuất hiện một cách hiểu khác cho rằng Bố Cái là “Vua Lớn” hoặc “Người đàn ông cao lớn” (nghĩa gốc) còn chúng tôi thì lại muốn mạn phép đưa ra cách hiểu cá nhân sau đây.

Theo chúng tôi thì bố ở đây chẳng qua là âm xưa của chữ phú 覆, có nghĩa là “che, trùm”. Phú cái 覆蓋 là che đậy; từ nghĩa đen, ta có thể hiểu hai từ này theo nghĩa bóng là bảo vệ, che chở. Phú Cái Đại Vương là “Vị vua lớn che chở, bảo vệ cho thần dân của mình”. Bố Cái Đại Vương là cách đọc theo truyền tụng, nghĩa là theo âm xưa, khi mà chữ phú hãy còn đọc theo phụ âm đầu [b] và nguyên âm [o] thành bố. Đến khi khi các sử gia cần ghi lại chữ bố 覆 này thì nó đã được đọc thành phú. Người chép sử không nhận thức được hiện tượng ngữ âm học lịch sử này nên mới nghĩ rằng đây là chữ bố bộ cân 巾 nên đã lấy chữ bố này mà thay cho chữ bố kia.

Sự thể là như thế chứ nếu sử gia chép đúng chữ thì ngày nay ta đã phải đọc tôn hiệu của Phùng Hưng là Phú Cái Đại Vương và đã có thể hiểu một cách rất tự nhiên rằng đó là “Vị vua lớn che chở, bảo vệ cho thần dân của mình”. Không biết đúng sai thế nào, xin cứ mạo muội góp một cách hiểu để các bậc thức giả thẩm định.

§ 1112. Kiến thức ngày nay, số 553

ĐỘC GIẢ: Tôi xin góp ý kiến về danh từ sous-culture của tiếng Pháp trên Kiến thức ngày nay, số 543.

Theo thiển ý, có một số danh từ tiếng Pháp mà thành tố thứ nhất là sous không thể dịch sang tiếng Việt thành “phân” hoặc “phó” được, chẳng hạn:

– sous-alimentation: sự thiếu ăn (ăn uốngdưới mức cần thiết);

– sous-bois: tầng dưới rừng;

– sous-consommation: sự kém tiêu thụ (tiêu thụ dưới mức);

– sous-développement: sự chậm/kém phát triển;

– sous-équipement: tình trạng trang bị thiếu;

– sous-estimation: sự đánh giá thấp;

– sous-sol: tầng hầm (tầng dưới mặt đất); v.v..

Tóm lại, thay vì dịch sous-culture thành “dưới văn hoá” (nửa Việt, nửa Hán Việt), tôi xin đề nghị dịch thành một cấu trúc toàn Hán Việt là hạ văn hoá (cũng cùng cấu trúc như hạ tầng cơ sở, hạ sách, v.v.).

AN CHI: Ông hoàn toàn có lý khi viết rằng sous không thể dịch thành “phân” hoặc “phó” trong những thí dụ mà ông đã nêu (và hàng loạt thí dụ khác cùng loại) còn chúng tôi thì lại không “rào đón” cho chặt chẽ mặc dù không phải là chúng tôi không thấy được điều đó.

Dịch sous-culture thành “dưới văn hoá” là một việc làm không thoả đáng không phải vì đã sử dụng một cấu trúc “nửa Việt nửa Hán Việt” mà vì ta không thể dùng một ngữ giới từ để dịch một danh từ được.

Chúng tôi không dịch sous-culture thành “hạ văn hoá” vì sous ở đây không có nghĩa là “thấp” hoặc “ở dưới”. Ở đây, sous dùng để chỉ một bộ phận phụ thuộc vào khái niệm do danh từ đứng sau sous biểu đạt: sous-classe (phân lớp) nằm trong classe (lớp); sous-espèce (phân loài) nằm trong espèce (loài); sous-famille (phân họ) nằm trong famille (họ); v.v.. Cũng vậy, sous-culture (phân văn hoá) nằm trong culture (văn hoá) còn lời nói thêm “le plus souvent jugée inférieure” (thường được đánh giá là thấp kém) hoặc “sometimes disapproving” (có khi là chê) chỉ là một ý phụ kèm theo chứ không phải vì sous ở đây là “dưới”, là “thấp kém” nên từ điển mới ghi như thế.

Xin trân trọng cảm ơn ông vẫn tiếp tục quan tâm đến Chuyện Đông chuyện Tây và kính chúc ông an khang.

§ 1113. Kiến thức ngày nay, số 553

ĐỘC GIẢ: Không hiểu tại sao tên của kẹo cao su bạc hà COOL AIR, các buổi quảng cáo trên tivi đều đọc là CU NE mà không đọc là CU LE.

AN CHI: Tiếng Việt không có phụ âm -l cuối âm tiết nên thường thay bằng -n khi phiên âm, thí dụ: gamelle → gà mên hoặc cà mèn; pile → pin; tôle → tôn; v.v..

Có lẽ do quán tính này nên người ta đã phát âm COOL AIR thành CUNE, ngay cả khi đọc tiếng Anh chăng?

§ 1114. Kiến thức ngày nay, số 554

ĐỘC GIẢ: “Tí dạ tứ thời ca”, có phải là “những bài ca về bốn mùa (tứ thời) làm để hát lúc nửa đêm (tí dạ)” hay không? Hình như trong chùm thơ này có một bài về mùa xuân khá “sexy” vì có cả chuyện “tốc váy” nữa. Có phải vì làm để hát lúc nửa đêm nên mới có chuyện đó không?

AN CHI: Thực ra bài đó chẳng có gì đáng gọi là sexy cả; chỉ có chuyện thơ mộng mà thôi. Nguyên văn như sau:

Xuân ca

Xuân lâm hoa đa my,

Xuân điểu ý đa ai.

Xuân phong phục đa tình,

Xuy ngã la thường khai.

Tạm dịch:

Rừng xuân hoa đẹp nhiều,

Chim xuân hót rất vui.

Gió xuân càng đa tình,

Thổi bung váy lụa em.

Xin chú ý: – my: tươi đẹp; ai: ở đây là vui tai, gợi cảm (chứ không phải là đau buồn).

Rõ ràng chẳng có gì sexy. Vả lại chuyện gió thổi bung váy lụa em là chuyện “trời cho” chứ có phải là cô gái muốn thế đâu! Khác hẳn với một vài nữ ca sĩ của ta ngày nay mặc áo xẻ đùi lên đến ngang …gò Vệ nữ hoặc cô người mẫu nọ để lộ chiếc quần lót đen nhỏ nhắn – đây là do đạo diễn? – khi trình diễn trước bàn dân thiên hạ, như có báo đã nêu mới đây.

Tí dạ ở đây không phải là một danh ngữ chỉ giờ giấc mà là tên người nên phải viết hoa thành Tí Dạ (dĩ nhiên là có thể do chào đời lúc nửa đêm nên mới được cha mẹ đặt tên như thế). Đây là một nhân danh đã được ghi nhận hẳn hoi trong Trung Quốc lịch đại nhân danh đại từ điển do Trương Huy Chi, Thẩm Khởi Vĩ, Lưu Đức Trọng chủ biên (Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1999) và trong một số quyển từ điển thông dụng khác. Tí Dạ là một người con gái sống vào đời Đông Tấn (317 – 420), tương truyền là đã đặt ra Tí Dạ ca (những bài ca của Tí Dạ), đã thấy lưu hành trong khoảng niên hiệu Thái Nguyên (376 – 397) đời Hiếu Vũ Đế (373 – 397) nhà Đông Tấn.

Vậy Tí Dạ tứ thời ca chẳng qua là “Những bài ca về bốn mùa của Tí Dạ (đời Đông Tấn)” chứ chẳng phải là “Những bài ca làm để hát vào lúc nửa đêm” (nên mới có chuyện “tốc váy”) như có người đã vô tình hay cố ý hiểu sai.

§ 1115. Kiến thức ngày nay, số 554

ĐỘC GIẢ: Có gì khác biệt giữa Seap Games và Sea Games. Tôi thấy các báo viết về sự kiện thể thao này giữa các nước Đông Nam Á từ 1969 đến 1972 thường viết Seap Games; các cuộc tranh tài về sau đó lại viết Sea Games.

AN CHI: Trước nhất, xin lưu ý rằng cách viết chính xác là SEAP Games và SEA Games (thay vì “Seap” và “Sea”).

SEAP Games là Southeast Asian Peninsular Games, nghĩa là Đông Nam Á bán đảo Vận hội, mà các thành viên sáng lập là Campuchia, Lào, Mã Lai (nay là Malaysia), Miến Điện (nay là Myanmar), Thái Lan và Việt Nam (miền Nam), sau đó thêm Singapore. Sở dĩ phải nói Peninsular (= bán đảo, viết tắt bằng chữ P) là vì ngoài những nước đã kể, Đông Nam Á (Southeast Asia) bấy giờ còn gồm có Brunei, Indonesia và Philippines, là những quốc gia hải đảo chưa tham gia.

SEAP Games lần 1 tổ chức năm 1959 tại Bangkok, Thái Lan.

SEAP Games lần 2 tổ chức năm 1962 tại Rangoon, Miến Điện.

SEAP Games lần 3 tổ chức năm 1965 tại Kuala Lumpur, Malaysia.

SEAP Games lần 4 tổ chức năm 1967 tại Bangkok, Thái Lan.

SEAP Games lần 5 tổ chức năm 1969 tại Rangoon, Miến Điện.

SEAP Games lần 6 tổ chức năm 1971 tại Kuala Lumpur, Malaysia.

SEAP Games lần 7 tổ chức năm 1973 tại Singapore.

SEAP Games lần 8 tổ chức năm 1975 tại Bangkok, Thái Lan.

Tại kỳ SEAP Games lần 8, Indonesia và Philippines được kết nạp nên từ lần thứ 9 mới đổi tên mà gọi là SEA Games (Southeast Asian Games).

SEA Games lần thứ 9 tổ chức năm 1977 tại Kuala Lumpur, Malaysia.

SEA Games lần thứ 10 tổ chức năm 1979 tại Jakarta, Indonesia, có thêm Brunei tham gia.

SEA Games lần thứ 11 tổ chức năm 1981 tại Manila, Philippines.

SEA Games lần thứ 12 tổ chức năm 1983 tại Singapore.

SEA Games lần thứ 13 tổ chức năm 1985 tại Bangkok, Thái Lan.

SEA Games lần thứ 14 tổ chức năm 1987 tại Jakarta, Indonesia.

SEA Games lần thứ 15 tổ chức năm 1989 tại Kuala Lumpur, Malaysia với sự trở lại của Lào và Việt Nam (thống nhất) sau một thời gian gián đoạn.

SEA Games lần thứ 16 tổ chức năm 1991 tại Manila, Philippines.

SEA Games lần thứ 17 tổ chức năm 1993 tại Singapore.

SEA Games lần thứ 18 tổ chức năm 1995 tại Chiang Mai, Thái Lan.

SEA Games lần thứ 19 tổ chức năm 1997 tại Jakarta, Indonesia.

SEA Games lần thứ 20 tổ chức năm 1999 tại Bandar Seri Begawan, Brunei.

SEA Games lần thứ 21 tổ chức năm 2001 tại Kuala Lumpur, Malaysia.

SEA Games lần thứ 22 tổ chức năm 2003 tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, có thêm Đông Timor tham gia.

SEA Games lần thứ 23 tổ chức năm 2005 tại Manila và Bacolod, Philippines.

Như thế là tên SEAP Games được sử dụng từ 1959 đến 1975 (chứ không phải 1969 – 1972); lúc bấy giờ chỉ mới có 7 nước Đông Nam Á lục địa tham gia. Từ 1977 (lần thứ 9) mới gọi là SEA Games và mới gồm toàn bộ các nước Đông Nam Á, mà thành viên “trẻ” nhất là Đông Timor (2003).

§ 1116. Kiến thức ngày nay, số 554

ĐỘC GIẢ: Tại sao trên đường đi mà lại có ổ gà? Cách nói này xuất phát từ đâu?

AN CHI: Ổ gà là một hình thức sao phỏng (calque) từ tiếng Pháp nid-de-poule mà ngôn ngữ này dùng để chỉ những chỗ trũng trên đường đi. Như ông đã biết, đường giao thông kiểu hiện đại, đặc biệt là có tráng nhựa, là do thực dân Pháp “khai mào” ở nước ta nên không có gì lạ nếu ta đã mượn cách nói này từ tiếng Pháp.

§ 1117. Kiến thức ngày nay, số 554

ĐỘC GIẢ: Hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng thường dùng cụm từ “mô tô xe máy”. Tôi tra Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì không tìm thấy từ “mô tô”. Vậy ông có thể cho biết nguồn gốc của từ này và nghĩa của nó. Theo ông, dùng cụm từ “mô tô xe máy” như vậy có thích hợp không?

AN CHI: Thực ra, ngay trong ấn bản lần thứ 2 năm 1992 (chúng tôi không có bản in lần đầu tiên) thì Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên cũng đã có ghi nhận từ mà ông đã nêu dưới hai dạng: mô tô và môtô. Mô tô được xếp ngay phía dưới mô típ ở trang 633 (ấn bản 2003 là trang 638) còn môtô thì được xếp ngay phía dưới môtip ở trang 639 (ấn bản 2003 là trang 643). Đây là một từ mượn của tiếng Pháp motocyclette, cũng nói tắt thành moto và có nghĩa là… mô tô. Chúng tôi cho rằng nói mô tô, xe máy cũng được vì hai đằng khác nhau ở dung tích xi-lanh là trên 125 phân khối hay là từ 125 phân khối trở xuống.

Vả lại, nếu ta quan niệm mô tô, xe máy là một cấu trúc tự do (không cố định) thì đây sẽ là chuyện hoàn toàn bình thường.

§ 1118. Kiến thức ngày nay, số 554

ĐỘC GIẢ: Trong cuốn Ngồi tù Khám Lớn của ông Phan Văn Hùm (do Nxb. Văn hoá Thông tin in lại năm 2002), trang 28 có ghi:

“Ban đầu tôi muốn nín.

Ó ré có hơi tức một chút”.

Ở cuối trang, người biên tập có chú thích:

“Ó: loại diều lớn con, rất hung ác. Ré: la lớn (la lớn như tiếng con diều hung ác) (BT)”.

Hai tiếng ó ré được hiểu và giảng như vậy có đúng không?

AN CHI: Chắc ông cũng sẵn sàng đồng ý với chúng tôi rằng đó là một cách hiểu ngộ nghĩnh. Ó ở đây thực ra là “lấy hơi trong cổ mà kêu dài”, như Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị. Từ điển gia của chúng ta còn cho thêm thí dụ:

“Ó rân. Ó dậy: Kêu lớn tiếng mà dài, reo lên om sòm, (giặc)”.

Trong Việt Nam tự điển, quyển hạ, Lê Văn Đức còn nêu nhiều thí dụ hơn: kêu ó, khóc ó, la ó, ó dậy, ó giặc, ó ré (đây chính là chữ mà Phan Văn Hùm đã dùng), ó vang. Tác giả giảng:

“Ó: Om, vang tiếng la khóc vang dậy”.

Đây mới đích thị là nghĩa của chữ ó trong ó ré.

§ 1119. Kiến thức ngày nay, số 557

ĐỘC GIẢ: Trong chương trình “Danh nhân đất Việt” phát trên VTV1 tối 27-12-2005 nói về Trần Nhật Duật, ông Lê Văn Lan đã nói một câu như sau:

– Trần Nhật Duật bèn khỏi bệnh.

Tôi ngờ ngợ mà không rõ nó không ổn ở chỗ nào.

AN CHI: Câu này không ổn ở từ bèn, mà một số quyển từ điển giảng cũng chưa ổn. Từ điển tiếng Việt, do Văn Tân chủ biên, chẳng hạn, giảng bèn là “liền ngay thời gian sau”. Quyển từ điển này đã không nêu được một đặc điểm quan trọng của động từ đi liền theo sau bèn: đây phải là một vị từ diễn đạt một hành động phụ thuộc vào sự quyết định của chủ thể. Khỏi bệnh là một ngữ vị từ thể hiện một sự diễn tiến hoàn toàn khách quan (không phụ thuộc vào sự quyết định của Trần Nhật Duật) nên ta không thể nói rằng vị danh nhân này “bèn khỏi bệnh”.

Trong hai câu:

a. Anh ta bèn trượt chân mà ngã nhào xuống đất và

b. Anh ta bèn giả vờ trượt chân mà ngã nhào xuống đất,

chỉ có câu b mới đúng vì sự giả vờ phụ thuộc vào sự quyết định của anh ta chứ sự trượt chân (câu a) thì không.

Một số vị từ chỉ trạng thái cũng không thể đi sau bèn. Chẳng hạn, ta không thể nói: bèn đau đớn; bèn sung sướng; v.v..

§ 1120. Kiến thức ngày nay, số 557

ĐỘC GIẢ: Tam dương khai thái: tại sao ba con dê (tam dương) lại có thể mở ra vận hội hanh thông (khai thái) ?

AN CHI: Dương ở đây là một trong hai nguyên lý của trời đất, vũ trụ, đối với âm, chứ không phải là dê. Ba con dê họp lại chỉ tạo thành sự hôi tanh mà thôi (ba chữ dương (= dê) làm thành chữ chiên (= hôi tanh). Câu tam dương khai thái lấy chữ trong Kinh Dịch. Thái là một quẻ kép (trùng quái) trong đó có ba hào dương (tam dương) và ứng với tháng Giêng là tháng đầu năm nên người ta mới nói tam dương khai thái. Chúng tôi đã có trình bày kỹ về câu này trên Kiến thức ngày nay, số 204, ngày 1-4-1996. Xin ông vui lòng xem lại số này.

§ 1121. Kiến thức ngày nay, số 557

ĐỘC GIẢ: Trên Chuyện Đôngchuyện Tây, ông An Chi đã nhiều lần chứng minh và khẳng định rằng Olympia, nơi diễn ra các đại hội thể thao ở Hy Lạp thời cổ đại, là một vùng đồng bằng chứ không phải một đỉnh núi như VTV3 đã dùng để đặt tên cho một chương trình thi (Đường lên đỉnh Olympia). Nhưng khi tôi “lang thang” trên mạng Webshots. com thì bắt gặp một bức ảnh chụp cảnh núi non (Xin xem Ảnh 1 – BBT) với chú thích rõ ràng là “The Heart of the Olympics” (Trung tâm của các đại hội Olympic). Vậy đây chẳng phải là “đỉnh Olympia” của VTV3 hay sao?

AN CHI: Hẳn là ông muốn đùa với chúng tôi (hay với VTV3?) cho vui lúc tất niên chứ chúng tôi đã “rà” lại trên Webshots.com thì thấy sự thật không đúng như lời của ông. Ông đã “giấu” mất danh ngữ Hart Lake nên Hart Lake, the Heart of the Olympics chỉ còn là “The Heart of the Olympics”. Lake là hồ và Hart Lake là hồ Hart. Bức ảnh ông gởi đến rõ ràng là một cảnh hồ và đó là hồ Hart. Huống chi, Olympics không chỉ là một cách nói gộp của Olympic Games (các cuộc thi Olympic) mà còn là một cách nói gộp của cả Olympic Mountains (vùng núi Olympic) ở phía Tây Bắc bang Washington của nước Mỹ, mà ngọn cao nhất là Olympus (2.428m). Vậy Hart Lake, the Heart of the Olympics là “hồ Hart, trung tâm của khối núi Olympic”, nằm trong khu Công viên quốc gia Olympic (Olympic National Park), trên bán đảo Olympic (Olympic Peninsula) nên tất nhiên chẳng có liên quan gì đến các đại hội thể thao “Olympic” cả.

Bức ảnh mà ông gởi đến là tác phẩm của Don Paulson, một nhiếp ảnh gia chuyên chụp cảnh thiên nhiên (nature photographer), sống ở gần Seabeck (Washington), đã lặn lội để khám phá thiên nhiên bằng máy ảnh hơn 30 năm, đặc biệt là vùng Tây Bắc (North West) nước Mỹ. Ông đã đặt chân đến nhiều bang của nước Mỹ; riêng ở châu Âu, ông chỉ mới đến thăm miền Nam nước Pháp, chưa hề đặt chân đến Hy Lạp nên chẳng làm sao có được bức ảnh nào về Hy Lạp (Xin xem http://www.donpaulson.com, mục “List of Subject Areas” (Danh sách các vùng (đã đến để lấy) đề tài)). Mà dù cho Paulson có chụp được bao nhiêu cảnh của Hy Lạp thì The Heart of the Olympics ở đây vẫn chỉ là “trung tâm của vùng núi Olympic” chứ không phải là “trung tâm của các cuộc thi Olympic”.

Vì là một thắng cảnh, lại nằm ở trung tâm của một công viên quốc gia nên Hart Lake được nhiều người biết đến và chụp ảnh. Do đó, ta không chỉ có ảnh “Hart Lake” của Don Paulson (Ảnh 1) mà còn có cả ảnh hồ này do những người khác chụp nữa, chẳng hạn của J. Fortner (Ảnh 2), của Halp 19 (Ảnh 3), v.v.. Chẳng những thế mà Hart Lake còn là đề tài cho hội hoạ nữa, như có thể thấy trong bức sơn dầu Hart Lake của John Budicin (Ảnh 4).

Tóm lại, the Heart of the Olympics ở đây chẳng có liên quan gì đến địa lý của Hy Lạp và các cuộc thi điền kinh của nước này ở thời cổ đại cả. Chỉ khi nào tại vùng Olympia (của Hy Lạp) có xảy ra một cuộc vận động tạo sơn ngay trong kỷ địa chất mà ta đang sống thì may ra ở đó mới có núi mà thôi. Nhưng núi (hoặc những núi) này cũng sẽ chẳng có dây mơ rễ má gì với những cuộc thi Olympic của Hy Lạp thời xưa cả.

§ 1122. Kiến thức ngày nay, số 557

ĐỘC GIẢ: Sầm Tham đời Đường có làm bài “Sơn phòng xuân sự”, thất ngôn tứ tuyệt. Có phải nhà thơ muốn vịnh cái sự gì đó, xảy ra ở một căn phòng trên núi hay không?

AN CHI: Ở đây chỉ có sự tiêu điều và cô liêu mà thôi. Sau đây là nguyên văn chữ Hán và bản dịch của Tản Đà.

Sơn phòng xuân sự

Lương viên nhật mộ loạn phi nha,

Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.

Đình trụ bất tri nhân khứ tận,

Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa.

Dịch nghĩa:

Trong vườn Lương, lúc chiều tà những con quạ bay hỗn loạn.

Trông hết cả tầm mắt cũng chỉ thấy hai, ba nhà tiêu điều.

Cây trong sân không biết rằng người ta đã đi hết.

Xuân về lại nở những bông hoa thời xưa.

Cảnh xuân nhà trên núi

Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ,

Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa.

Cây xuân chẳng biết người đi hết,

Xuân đến hoa còn nở giống xưa*.

§ 1123. Kiến thức ngày nay, số 558

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết chữ hồng trong câu Khai trương hồng phát có nghĩa là gì. Một người bạn nói với tôi rằng hồng ở đây là đỏ. Người Trung Hoa rất thích màu đỏ vì nó tượng trưng cho sự may mắn. Điều này có đúng không?

AN CHI: Đúng là đối với người Trung Hoa thì màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn, sự tốt đẹp. Hồng nhật là ngày hênh (Chúng tôi viết hênh với -nh cuối), ngày may mắn; hồng loan là ngôi sao may mắn; hồng vận là số đỏ; v.v.. Nhưng trong khai trương hồng phát thì hồng lại không phải là đỏ, mà là to, lớn. Hồng phát là phát tài to, là đại phát tài. Khai trương hồng phát là lời chúc ra Giêng (sau Tết) mở cửa hàng để tiếp tục buôn bán, làm ăn thì được phát tài to.

§ 1124. Kiến thức ngày nay, số 558

ĐỘC GIẢ: Ở Chợ Lớn, một số cửa hàng bán liễn (trướng) treo Tết, có loại ghi lời chúc là “Niên niên hữu dư” mà thêu (hoặc dệt) toàn hình cá là cá. Xin cho biết tại sao.

AN CHI: Đây là do tín ngưỡng dân gian của người Trung Hoa, như chúng tôi đã có nói đến mấy lần tại Chuyện Đông chuyện Tây. Người ta thường yêu thích, rồi đề cao và lấy làm biểu tượng cái hình của vật hoặc con vật mà tên gọi trùng (đồng âm) với tên gọi của những khái niệm tốt lành như phước, lộc, thọ, v.v.. Con dơi là biểu tượng của phước (phúc) vì danh từ có nghĩa là “dơi” đọc theo âm Hán Việt là phúc (ta quen đọc thành “bức” trong “biền bức”), đồng âm với phúc trong phúc đức, hạnh phúc, v.v.. Con nai là biểu tượng của lộc vì tên của nó đọc theo âm Hán Việt cũng là lộc (lộc nhung là nhung nai (hươu)) v.v. và v.v.. Chúng tôi lấy âm Hán Việt làm thí dụ để ông và bạn đọc dễ hình dung vấn đề nhưng xin nhấn mạnh rằng trong tiếng Hán thì các trường hợp trên cũng là đồng âm với nhau. Trường hợp hình cá thì hơi khác, vì sự ứng dụng ở đây chỉ đúng cho âm Bắc Kinh và âm của một vài phương ngữ khác của tiếng Hán chứ không đúng cho âm Hán Việt. Dư là có của ăn của để còn tên của loài cá đọc theo âm Hán Việt lại là ngư nên không đồng âm. Nhưng trong tiếng Bắc Kinh thì cả dư lẫn ngư đều phát âm thành yú còn trong tiếng Quảng Đông, chẳng hạn, thì đều là yụ (chữ u ở đây đọc như u trong tiếng Pháp). Chính vì vậy nên người Trung Quốc mới lấy hình con cá làm biểu tượng cho sự dư dả.

§ 1125. Kiến thức ngày nay, số 558

ĐỘC GIẢ: Trong bài ghi chép nhan đề “Quý nhân Quy Nhơn”, đăng trên Văn nghệ, số 2-2006, tác giả Xuân Ba đã viết:

“Nhà thơ Thanh Thảo bây giờ thì quần cư hẳn ở đất Quảng Ngãi thì phải, nhưng có hơn mười năm, Thanh Thảo tá túc hành nghề ở đất Quy Nhơn”.

Xin cho biết “quần cư” nghĩa là gì.

AN CHI: Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003) giảng quần cư là “tụ họp ở một nơi để cùng sinh sống” và cho thí dụ: Nhiều người chạy loạn đã đến quần cư ở đây. Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thuỵ, Nguyễn Đức Dương (Nxb. Văn hoá Sài Gòn, 2005) cũng giảng là “cư trú tụ họp tại một nơi” và cho thí dụ: Dân tản cư đã quần cư tại đây. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức thì giảng quần cư là “lập xóm ở chen chúc với nhau”. Nhưng đây là một cái nghĩa, cũng là một cách dùng, tương đối mới chứ cái nghĩa xưa hơn của quần cư thì đã được Từ điển Việt Nam của Ban tu thư Khai Trí giảng là “ở chung thành đoàn” còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) giảng là “tụ họp thành bầy” với chú thích “cũ”.

Nhưng dù có được dùng theo nghĩa cũ hay mới thì chủ thể liên quan đến vị từ quần cư cũng phải là một tập thể, một số đông chứ một mình nhà thơ Thanh Thảo thì không thể “quần cư” được.

§ 1126. Kiến thức ngày nay, số 558

ĐỘC GIẢ: 1. Trong Truyện Kiều, đoạn Thúc Sinh ngắm Kiều tắm và làm thơ ngợi khen (câu 1311 – 1320), thi hào Nguyễn Du có viết:

“… Rõ màu trong ngọc trắng ngà,

Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên.

Sinh càng tỏ nét càng khen,

Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.

Nàng rằng: “Vâng biết lòng chàng,

Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.

Hay hèn lẽ cũng nối điêu,

Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.

Lòng còn gởi áng mây Hàng,

Hoạ vần, xin hãy chịu chàng hôm nay”.

2. Trong bài hát nói Làm câu đối Tết, nhà thơ Tú Xương viết: “(…) Đối rằng: Cực nhân gian chi phẩm giá: phong nguyệt tình hoài; Tối thế thượng chi phong lưu: giang hồ khí cốt.

Viết vào giấy, dán ngay lên cột,

Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?

Rằng: Hay thì thực là hay,

Chẳng hay sao lại đỗ ngay Tú tài!

Xưa nay em vẫn chịu ngài...”.

Hai chữ chịu đó có cùng một nghĩa hay có nghĩa khác nhau?

* Trong Tự điển Việt Nam tân từ điển minh hoạ (Nhà sách Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1967) Thanh Nghị giải thích (tr. 337):

Chịu bt 1 (P.devoir de l’ argent à quelqu’un; à crédit).

Mắc tiền của người chưa trả được//Mua chịu: acheter à crédit. Bán chịu: vendre à crédit.

2. (P.subir, endurer, supporter; consentir).

Nhận lấy: Phong trần chịu đã ê chề (Nguyễn Du).

3. (P.céder, se soumettre, se déclarer vaincu) Không thể làm được, thua: Chàng bảo chịu, thiếp rằng chửa chịu (H.X. Hương).

Xin hỏi ý kiến ông An Chi:

* Chịu trong câu 1 là xin khất lại, “nợ” (mắc nợ) hay là thua, chịu thua? Chịu trong câu 2 là thua, chịu thua hay “phục lăn”, “chịu phép”? Hoặc còn có nghĩa nào khác?

AN CHI: Về chữ chịu trong trường hợp đầu (liên quan đến các câu 1317 – 1320), Hồ Đắc Hàm đã giảng như sau: “Có một ngày kia, Kiều tắm nước nóng ở trong buồng, lộ thân thể ra, chàng Thúc trông thấy, chàng mới nhân đó vịnh một bài thơ. Nàng đọc thơ khen hay, mà lại nói vì nỗi nhớ nhà chưa có thể hoạ thơ được”*.

Cứ theo cách diễn đạt thì Hồ Đắc Hàm hiểu chịu ở đây là hẹn, là khất đến một dịp khác. Chúng tôi cho rằng đây là một cách hiểu bình thường và chính xác. Trong Từ điển Truyện Kiều (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974), Đào Duy Anh cũng hiểu theo hướng đó nhưng lại giảng chịu là “mắc nợ”. Bổ sung và sửa chữa để “nâng cấp” Từ điển Truyện Kiều, Phan Ngọc cũng “chịu” cách giảng chịu là “mắc nợ”. Chúng tôi lạm phép cho rằng ở đây mà giảng là “khất”, “hẹn” thì nhẹ nhàng và thích hợp hơn. Mắc nợ là một ngữ vị từ thiên về vật chất, tiền bạc; còn nếu là về mặt tinh thần thì phải là một món “nợ” rất lớn, rất “nặng kí”, chẳng hạn như việc cứu vớt tính mạng chứ ở đây thì chỉ là việc hoạ thơ.

Chi tiết hơn Việt Nam tân từ điển minh hoạ của Thanh Nghị, Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003) giảng từ chịu như sau:

“1. Nhận lấy điều không hay, bất lợi. Chịu đòn. Chịu các khoản phí tổn (…). 2. Tiếp nhận một tác động nào đó từ bên ngoài. Chịu ảnh hưởng tốt của nhà trường. Chịu sự lãnh đạo (…). 3. Thích ứng với điều không lợi cho mình. Chịu lạnh (…) Không chịu nổi quả đấm. 4. Nhận mà nợ lại, chưa trả. Còn chịu một số tiền (…) Chịu ơn. 5. (kng) Thừa nhận cái hay, cái hơn của người khác; phục (…) Chịu anh là người nhớ giỏi. 6. (kng) Tự nhận bất lực, không làm nổi; hàng. Khó quá, xin chịu! 7. (thường dùng phụ trước đg.). Bằng lòng, đồng ý, tuy vốn không muốn, không thích (…) Năn nỉ mãi mới chịu giúp. 8. (dùng trước đg.) Cố gắng làm việc gì một cách tự nguyện. Chịu học cái hay của người khác. Ít chịu suy nghĩ”.

Chúng tôi cho rằng nghĩa của từ chịu trong trường hợp sau (bài hát nói của Tú Xương) là một sự kết hợp giữa nghĩa 5 và nghĩa 6 đã cho trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên vì có hiểu như thế thì mới đúng với sự hóm hỉnh của bà Tú chăng?

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3