Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1101 - 1110
§ 1101. Kiến thức ngày nay, số 548
ĐỘC GIẢ: Trước đây, người ta hay nói hoặc viết chữ TỐP trong việc chia phe, chỉ nhóm (như đua xe, chạy việt dã, v.v.) hoặc trong các hoạt động có tính chất tập thể: tốp đầu, tốp cuối, tốp giữa, tốp trước, tốp sau, v.v.. Nhưng những năm gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các hoạt động kinh doanh, nghệ thuật và cả trong các bằng danh dự, đã xuất hiện chữ TOP trong TOP TEN, mà có nơi người ta lại nói và viết thành TỐP.
Vậy TỐP và TOP có giống nhau không và trong trường hợp nào thì phải dùng từ nào mới chính xác?
AN CHI: Chữ TỐP (trong trường hợp trước) là tiếng Việt còn chữ TOP (trong trường hợp sau) thì lại là tiếng Anh. Trong tiếng Việt, tốp là một danh từ đơn vị mà Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003, tr. 1015) giảng là “Nhóm gồm một số ít người hoặc vật, cùng đi với nhau hoặc cùng có một hành động chung”.
Còn trong tiếng Anh thì top trong top ten là một tính từ phái sinh bằng phụ tố zero từ danh từ top (nên có tác giả gọi là chuyển (từ) loại (conversion). Danh từ top có nghĩa là chóp, đỉnh, ngọn, đầu, v.v. nên tính từ top có nghĩa là (thuộc loại) đứng đầu, (thuộc hàng) cao nhất, v.v.. Top ten là mười cái hàng đầu, dĩ nhiên là có thể theo cả tiêu chuẩn có ý nghĩa tiêu cực (chẳng hạn mười cái xấu nhất). Thí dụ: USA Top Ten Forenames 2004 là mười cái tên được dùng nhiều nhất để đặt cho trẻ sơ sinh ở Mỹ năm 2004 (Jacob, Michael, Joshua, Matthew, Ethan, Andrew, Daniel, William, Joseph, Christopher cho con trai và Emily, Emma, Madison, Olivia, Hannah, Abigail, Isabella, Ashley, Samantha, Elizabeth cho con gái).
Hoặc The Top Ten Languages Used in the Web là mười thứ tiếng được dùng nhiều nhất trên mạng (Anh, Hán, Nhật, Tây Ban Nha, Đức, Pháp, Triều Tiên, Ý, Bồ Đào Nha, Hà Lan), v.v. và v.v..
Còn TỐP TEN thì chỉ là một lối nói và/hoặc viết vô nghĩa.
§ 1102. Kiến thức ngày nay, số 548
ĐỘC GIẢ: Tôi xin góp ý với ông An Chi về sắc thái ý nghĩa của hai từ tiếng Anh Bubble và Hermetic (Kiến thức ngày nay, số 546). Trong quá trình sử dụng từ bubble được các kinh tế gia dùng như một thuật ngữ có nghĩa hẹp hơn và chính xác hơn trong các từ tổ như Bubble economy, Asset bubble, v.v.. Từ bubble trong các tổ hợp này chỉ một trạng thái thăng bằng mong manh, không thể tồn tại lâu dài trong thời gian. Hiểu rộng ra, nó chỉ một chính sách kinh tế, tiền tệ, một kế hoạch làm ăn dựa trên những dữ kiện sai lầm, không chính xác. Đặc tính chung của những quả “bong bóng” là dễ vỡ nên động từ thường sử dụng sau nó là “burst”. Hình ảnh một cái bong bóng vỡ tượng trưng cho kết quả tai hại của một chính sách kinh tế, ngoại giao được soạn thảo dựa trên những dữ kiện sai lầm.
Sự kiện Saddam Hussein đang có trong tay vô số vũ khí giết người hàng loạt là cái bong bóng làm cơ sở cho chính sách quân sự của đương kim tổng thống Hoa Kỳ đối với Iraq. Từ lúc xua quân xâm chiếm Iraq đến nay, quân đội Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh không tìm thấy bóng dáng một kho vũ khí giết người hàng loạt nào trên lãnh thổ Iraq. Điều này được chính Colin Powell, Bộ trưởng ngoại giao của Hoa Kỳ, xác nhận sau khi ông rời khỏi chức vụ trên trong nhiệm kỳ hai của G.W. Bush. Dù lao đã được phóng trật hướng, Bush vẫn tiếp tục theo lao. Ký giả Mike Allen tự hỏi: Người ta có thể sống mãi trong ảo mộng được chăng? (Living too much in the bubble?). Và ông tự trả lời: “Được” nhưng với một điều kiện là phải tự cô lập mình, vùi đầu dưới cát để mắt không thấy, tai không nghe những gì xảy ra ở thế giới bên ngoài. Đó là điều mà G.W. Bush đang làm và thái độ bịt mắt che tai của đương kim tổng thống được ký giả Mike Allen gọi là hermetic. Ý mà Mike Allen muốn truyền đạt cho độc giả về con người đã đẻ ra chính sách là hai chữ mù quáng.
AN CHI: Chúng tôi rất hân hạnh nhận được bài góp ý chân tình của ông. Xin trân trọng giới thiệu để bạn đọc rộng đường tham khảo và xin trao đổi thêm với ông như sau:
Xuất phát điểm của ẩn dụ ở đây không phải là “những quả bong bóng (Anh: balloon; Pháp: ballon) dễ vỡ”, mà là những cái bọt xà phòng (Anh: soap bubbles; Pháp: bulles de savon) tất yếu phải tan, tất yếu phải vỡ. Xét về nghĩa gốc là như thế, còn trong lĩnh vực kinh tế – tài chính thì bubble/bulle cũng không chỉ một “trạng thái cân bằng mong manh”, mà chính là một sự căng thẳng, vì liên quan chặt chẽ đến từng (hoặc những) cơn sốt đầu cơ (speculative fever; fièvre spéculative). Đó là tình trạng mà sự đầu cơ đẩy giá hàng lên cao đến mức không thể biện minh được, đi liền theo nó thường là sự phá sản. Đó là trạng thái thị trường mà cái lý do độc nhất làm cho giá cả lên cao ngày hôm nay là các nhà đầu tư nghĩ rằng giá bán ra sẽ còn lên cao nữa vào ngày mai trong khi các nhân tố cơ bản hình như không biện minh gì được cho một cái giá như thế (http://www. bulle-immobiliere. org: “Une bulle est un état du marché dans lequel la seule raison pour laquelle le prix est élevé auj ourd’hui est que les investisseurs pensent que le prix de vente sera encore plus élevé demain, alors que les facteurs fondamentaux ne semblent pas justifier un tel prix”).
Việc Saddam Hussein có hay không có vũ khí giết người hàng loạt không trực tiếp liên quan đến nội dung bài bình luận của Mike Allen, vì chủ đề của bài này là sự đối phó (của Bush) trước cơn bão Katrina đã bị làm hỏng ngay từ đầu (a bungled initial response to Katrina).
Hermetic ở đây không thể có nghĩa là “mù quáng” vì chẳng có ảo mộng nào lại sáng suốt, nghĩa là không mù quáng. Cả ông lẫn chúng tôi đã hiểu bubble ở đây là ảo tưởng, ảo mộng. Nhưng bây giờ thì chúng tôi đã có cơ sở để hiểu khác đi và hiểu đúng hơn. Bubble còn có một cái nghĩa là:
A metaphor for isolation (e.g., “living in a bubble”), nghĩa là:
Ẩn dụ để chỉ sự cô lập (thí dụ, “sống trong sự cô lập”).
Vậy “Living to much in the bubble?” có nghĩa là “Sống mãi trong sự cô lập chăng?”. Còn “Bush’s bubble has grown more hermetic in the second term” có nghĩa là “Sự cô lập của Bush càng thít chặt hơn trong nhiệm kỳ hai”.
Xin có đôi lời trao đổi thêm với ông như trên. Cảm ơn ông đã quan tâm đến Chuyện Đông chuyện Tây và kính chúc ông an khang.
§ 1103. Kiến thức ngày nay, số 549
ĐỘC GIẢ: Đọc Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 547, gặp lại hai câu thơ của thánh nhân Nguyễn Trãi mà mừng hết lớn. Nhưng khi đọc những lời bình của tiên sinh thì lại thấy hơi bị “chướng”. Vậy nên xin phép mạn đàm mấy ý.
Thứ nhứt, về niêm luật biền ngẫu, không thể lấy một từ “đối” với một từ trong một câu như tác giả An Chi trích dẫn và xuống bút “Mộng lớn mà chỉ gọi dậy được có nửa cánh buồm” (!?) Ngữ pháp Trung văn nói chung, Nho văn nói riêng đều có cấu trúc tính từ đặt trước để bổ nghĩa cho danh từ đứng sau. Điều này bắt buộc phải hiểu “bán phàm phong” là cánh buồm nửa gió chứ không thể hiểu là nửa cánh buồm.
“Bán phàm phong” là lúc thuyền đi trên sông mà gặp gió chướng, thổi ngang; buồm căng hết cỡ nhưng phải biết lựa thế mà điều khiển cánh buồm, để chỉ hứng nửa gió thôi và buộc phải chạy chữ “chi”, chạy chéo dòng hay còn gọi là chạy dích dắc mà không chạy thẳng theo dòng.
Thứ hai, hai câu thơ đó ra đời trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống quân Minh đã toàn thắng; đất nước bắt đầu thời kỳ hoà bình kiến thiết. Giờ đây, sự khác biệt về lợi ích không thể điều hoà giữa các tầng lớp từng tham gia kháng chiến là điều khó tránh khỏi. Nguyễn Trãi không thể không nhận biết những ung chướng trong hoàng tộc và triều đình lúc bấy giờ. Chính vì vậy, mới có được một tiếng thở dài thời đại: “Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ”; tạm dịch: Lòng muốn quét sạch tai ương, ung chướng. Nhưng ông đang rơi vào cô thế, tới mức phải chịu nỗi oan lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất kể ai trong hoàn cảnh đó cũng phải tìm ra cách ứng xử thích hợp với mình. Cuối cùng, quy luật sinh tồn đã thắng thế. Nguyễn Trãi cũng là con người mà! Ông đã lựa cách xử: “Bán phàm phong” chỉ vì “Tráng hoài” của mình, của đời. “Tráng hoài hô” nên phải “Bán phàm phong”. Tạm dịch nghĩa: Hoài bão lớn kêu gọi, đòi hỏi nên phải lựa thế, buồm chỉ đón nửa gió, thuyền phải chạy chữ “chi”.
Vì gắn bó với nghề bán báo nên có thói quen đọc, cũng học lỏm được dăm ba chữ, xin tiên sinh thứ lỗi.
AN CHI: 1. Xin hân hạnh trả lời ông về điểm thứ nhất.
1.1. Chúng tôi đã viết: “Mộng lớn mà chỉ gọi dậy được có nửa buồm gió” chứ không phải “(…) nửa cánh buồm”. Nửa cánh buồm và nửa buồm gió hoàn toàn khác nhau.
1.2. Đây không phải là việc phân tích hiện tượng từ này đối với từ khác của cùng một câu mà lại là việc phân tích tứ thơ. Bình thơ mà không phân tích tứ thơ thì chỉ còn có nước… xếp bút nghiên.
1.3. Trong tiếng Hán, các từ loại khác (danh từ, động từ, v.v.) cũng có thể đứng trước để làm định ngữ (ông gọi là “bổ nghĩa”) cho danh từ chứ chẳng riêng gì tính từ. Nhưng trong cấu trúc bán phàm phong thì chẳng có từ nào là “tính từ” cả.
1.4. Chính do quy tắc nêu ở 1.3. nên bán phàm phong là gió nửa buồm chứ không phải “(cánh) buồm nửa gió”. Nếu là “buồm nửa gió” thì tiếng Hán phải là bán phong phàm.
1.5. “Trung văn nói chung, Nho văn nói riêng” là một cách diễn đạt sai vì “Nho văn” không nằm trong “Trung văn”. Trong tiếng Việt hiện đại, người ta dùng hai tiếng Trung văn để chỉ văn tiếng Hán phổ thông hiện đại còn cái mà ông gọi là “Nho văn” thì lại là văn ngôn, nghĩa là tiếng Hán cổ đại.
1.6. “Chạy chéo dòng” và “chạy dích dắc” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. “Chạy dích dắc” là chạy theo hình chữ “Z” còn cái mà ông gọi là “chạy chéo dòng” thực chất là chạy cấn, nghĩa là “day buồm xéo để thuyền chạy gió ngang” (Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển) chứ “chạy chéo dòng” (như đò ngang) thì chỉ có nước lủi vào b ờ.
2. Bây giờ xin trả lời ông về điểm thứ hai.
2.1. “Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ” là một tiếng thét to sảng khoái chứ không phải “một tiếng thở dài”, càng không phải là “tiếng thở dài thời đại”. Cứ “xếp hạng” kiểu này thì những câu Kiều như:
Đội trời đạp đất ở đời
hoặc
Giang hồ quen thói vẫy vùng, v.v.
đều là những câu “thở dài” cả!
2.2. Dù có là “tạm dịch” thì cũng không thể chuyển ngữ câu “Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ” thành “Lòng muốn quét sạch tai ương, ung chướng” được. Lý do: thiên chướng vụ là hiện tượng thiên nhiên, còn “tai ương, ung chướng” lại là chuyện xã hội thì làm sao có thể lấy cái này mà dịch cái kia? Đã dịch thì phải sát với nguyên văn. Còn dịch xong – mà phải dịch cho đúng – rồi “tán” thì lại là chuyện khác. Ông đã “tán” chứ không phải là dịch.
2.3. Vì không nắm vững quy tắc cú pháp nên ông đã biến kết cấu gây khiến (causative construction) “Tráng hoài hô khởi bán phàm phong” thành một quan hệ nhân quả (causal relation) mà viết: “Tráng hoài hô” nên phải “bán phàm phong”. Huống chi, hai tiếng “nên phải” bắt buộc theo sau nó phải là một kết cấu động từ tính trong khi “bán phàm phong” lại là một ngữ danh từ. Vì vậy nên đây là một câu… cụt. Mà đã cụt thì chẳng nói lên được cái gì cả.
2.4. Dù trong hoàn cảnh nào, Ức Trai cũng không bao giờ chọn cách xử thế như ông đã viết. Vị anh hùng của chúng ta luôn luôn chủ trương:
Khó khăn thì mặc, có màng bao?
Càng khó bao nhiêu, chí mới hào.
(“Thuật hứng”, 21)
Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
Có nhân, có trí, có anh hùng.
(“Bảo kính cảnh giới”, 5).
Riêng về hai câu:
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,
Tráng hoài hô khởi bán phàm phong.
thì Trần Thanh Mại đã viết:
“Nói rằng đó là tả cảnh sóng gió ngoài biển khơi lúc đi thuyền thì cũng đúng; mà nếu nói đó là quyết tâm thư của người không đang tâm trốn trách nhiệm mà đã vui lòng lại ra gánh vác việc đời, bất chấp khó khăn nguy hiểm, thì cũng không phải là không có cơ sở”*.
Đó mới đích thực là “quy luật sinh tồn” của Ức Trai. Thế mà ông lại đành lòng bắt Thánh nhân Nguyễn Trãi phải “chạy chéo dòng”, “chạy chữ chi” và “chỉ đón có nửa gió” thì chẳng oan cho ông ta lắm ru?
§ 1104. Kiến thức ngày nay, số 550
ĐỘC GIẢ: “Vịnh” chuyện Lưu Bị (Tam quốc diễn nghĩa) “muốn vợ”, dân gian có câu:
Muốn sang Giang Tả cầu hôn,
Chỉ e mắc kế Tôn Quờn phục binh.
Rõ ràng là miền đất do Tôn Quyền (Quờn) làm chủ nằm ở “giang hữu”, nghĩa là ở hữu ngạn Trường Giang; tại sao lại cứ gọi đó là miền “Giang Tả”?
AN CHI: Giang Tả cũng chính là Giang Đông. Đây là một cái tên xưa, đã có trước Lưu Bị (161 – 223 CN) và Tôn Quyền (182 – 252 CN). “Hạng Vũ Kỷ” trong Sử ký của Tư Mã Thiên (sống vào nửa sau thế kỷ II tr. CN) đã nhắc đến địa danh này:
“Giang Đông dĩ định, cấp dẫn binh Tây kích Tần. Hạng Lương nãi dĩ bát thiên nhân độ Giang nhi Tây”.
(Đất Giang Đông đã dẹp yên. Ta hãy kíp đem quân sang phía Tây mà đánh Tần. Hạng Lương bèn đem tám ngàn người vượt sông Trường Giang mà đi về hướng Tây).
Về sau, vào thời Tam Quốc, Giang Đông cũng chính là cái tên mà người ta dùng để chỉ miền đất do Tôn Quyền làm chủ. Miền đất này nằm ở Giang Nam, nghĩa là phía Nam sông Trường Giang. Vậy tại sao nó có tên là Giang Đông? Sách Nhật lục tạp thuyết của Nguỵ Hy giải thích:
“Giang hữu Nam Bắc nhi vô Đông Tây. Kim Lăng, Dự Chương câu tại Giang Nam. Đối Dự Chương ngôn, tắc Kim Lăng cư Giang Nam chi Đông; đối Kim Lăng ngôn, tắc Dự Chương cư Giang Nam chi Tây. Cố Tống dĩ Kim Lăng, Thái Bình, Ninh Quốc, Quảng Đức vi Giang Nam Đông lộ, dĩ Kim Giang Tây toàn tỉnh vi Giang Nam Tây lộ”,
nghĩa là:
“Sông Trường Giang chỉ có bờ Nam bờ Bắc mà không có bờ Đông bờ Tây. Kim Lăng và Dự Chương đều nằm ở Giang Nam. Đối với Dự Chương mà nói thì Kim Lăng nằm ở phía Đông Giang Nam còn đối với Kim Lăng mà nói thì Dự Chương nằm ở phía Tây Giang Nam. Do đó mà nhà Tống đã lấy Kim Lăng, Thái Bình, Ninh Quốc và Quảng Đức làm Giang Nam Đông lộ; lấy toàn tỉnh Giang Tây ngày nay làm Giang Nam Tây lộ”.
Vậy Giang Đông là miền Đông Giang Nam, còn Giang Tây là miền Tây Giang Nam. Chuyện Đông, chuyện Tây thế là đã rõ. Nhưng chuyện này thì liên quan thế nào đến chuyện “tả ngạn, hữu ngạn”? Để trả lời, ta hãy tìm hiểu nghĩa của hai chữ tả, hữu. Từ hải, bản tu đính năm 1989, đã cho chữ tả cái nghĩa đầu tiên là:
“Phương vị danh. Dữ “hữu” tương đối. Như diện hướng Nam, tắc Tây vi hữu, Đông vi tả. Địa lý thượng dĩ Đông vi tả, như Sơn Đông xưng Sơn Tả, Giang Đông xưng Giang Tả”,
nghĩa là:
“Tên phương vị. (Trái) đối với “phải”. Nếu nhìn về hướng Nam, thì phía Tây là bên phải, phía Đông là bên trái. Trong địa lý, người ta lấy phía Đông làm bên trái, như Sơn Đông gọi là Sơn Tả, Giang Đông gọi là Giang Tả”.
Tại mục “Giang Tả”, Từ hải, bản cũ ghi: “Nhật lục tạp thuyết của Nguỵ Hy chép: “Giang Đông gọi là Giang Tả, Giang Tây gọi là Giang Hữu, vì từ Giang Bắc nhìn xuống thì Giang Đông ở bên trái còn Giang Tây ở bên phải vậy”.
Tóm lại, Giang Tả vốn là đất Giang Đông. Tên gọi này thể hiện cái nhìn từ phương Bắc xuống chứ không phải là cái nhìn từ thượng nguồn về phía cửa sông.
§ 1105. Kiến thức ngày nay, số 550
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Con cái, cái con, con và cái. Danh từ, loại từ và quán từ” đăng trên Ngôn ngữ, số 10 (197), 2005, GS.TS. Nguyễn Phú Phong đã viết:
“Cái/nước. Khôn ăn cái, dại ăn nước. Cái/nước ở đây kể như đồng nghĩa với đặc/lỏng”.
Tác giả đã gắn chữ cái ở đây với chữ cái trong con cái mà tác giả cho là “những từ đa nghĩa”. Tôi có cảm giác rằng ở đây có cái gì đó không ổn nên mới đặt vấn đề với ông.
AN CHI: Bài đã nêu của tác giả Nguyễn Phú Phong có nhiều điểm cần thảo luận, nhưng ở đây chúng tôi chỉ tập trung vào vấn đề mà ông đã nêu.
Để kết luận cho phần I trong bài của mình, Nguyễn Phú Phong khẳng định rằng “cái, con quả là những từ đa nghĩa, có khả năng nằm trong ít nhất tám thế đối lập khác nhau”* mà cái thế thứ 4, như ông đã dẫn, là:
“Cái/nước. Khôn ăn cái, dại ăn nước. Cái/nước ở đây kể như đồng nghĩa với đặc/lỏng”*.
Thực ra, cái ở đây là một từ hoàn toàn riêng biệt, chẳng có liên quan gì đến cái trong 7 cái thế còn lại của tác giả Nguyễn Phú Phong cả. Định nghĩa mà tác giả nêu lên cho cặp cái/ nước (= đặc/lỏng) cũng thực sự không ổn. Chỉ riêng việc khẳng định rằng danh từ (cái/nước) mà lại đồng nghĩa với tính từ (đặc/lỏng) cũng đã là một điều cấm kỵ trong ngữ học rồi. Hai từ chỉ có thể đồng nghĩa với nhau khi chúng cùng thuộc về một từ loại mà thôi. Huống chi, cái cũng chẳng phải là cái chất đặc riêng biệt, một mình nó. Ta hãy gọt một củ khoai tây rồi xắt ra làm tám, chẳng hạn. Tám miếng khoai tây này cùng với những nguyên liệu khác như cà-rốt, poireau, thịt bò, v.v. sẽ làm thành phần cái trong món xúp. Nhưng tám miếng khoai tây đó sẽ không được gọi là cái nếu ta đem chiên nó mà ăn với bít-tết mặc dù đó vẫn cứ là chất đặc. Điều này chứng tỏ – không kể đến vấn đề từ loại – rằng “Cái/nước đồng nghĩa với đặc/lỏng” là một mệnh đề không đúng.
Nhưng điều quan trọng nhất là cái trong “Khôn ăn cái, dại ăn nước” chẳng có họ hàng gì với những cái trong những trường hợp còn lại của Nguyễn Phú Phong cả. Về từ cái này, trên Kiến thức ngày nay, số 197, ngày 10-1-1996, chúng tôi đã nói rõ như sau:
“Cái là một danh từ mà Từ điển tiếng Việt 1992 giảng là “phần chất đặc, thường là phần chính, ngon nhất trong món ăn có nước”. Nhưng nghĩa gốc của nó thì lại không phải gì khác hơn là “cái xác”, đúng như Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị. Đây cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 介 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là “giới” nhưng âm chính thống lại là cái vì thiết âm của nó là “cổ bái thiết” (Xin xem Quảng vận, chẳng hạn). Nghĩa gốc của nó là cái vỏ cứng, cái mai, cái vảy. Từ nghĩa này đến nghĩa đã cho trong Từ điển tiếng Việt 1992 đã có một sự chuyển biến nhưng sự chuyển biến này hoàn toàn có thể giải thích được.
Ngoài ra, trong bảy cái thế đối lập còn lại, cũng còn những vấn đề có thể bàn tiếp nhưng vì không thuộc trọng tâm của câu hỏi nên chúng tôi xin không bàn đến ở đây.
§ 1106. Kiến thức ngày nay, số 550
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Không thể lại dạy chữ Nho ở trường phổ thông” (Văn nghệ, số 43, 22-10-2005), tác giả Phạm Hùng Quyết có viết: “Chữ quốc ngữ không phải chỉ biết ghép chữ ta với chữ Nho, mà còn ghép cả chữ ta với chữ Tây nữa cơ. Từ “phanh phui”, nếu tách từ “phui” ra thì người Việt không biết chữ Pháp nghe không hiểu”.
Xin cho biết có phải “phui” là một từ gốc Pháp hay không. Nếu đúng thì từ này bắt nguồn ở từ nào của tiếng Pháp?
AN CHI: Có lẽ tác giả Phạm Hùng Quyết muốn nói rằng phui trong phanh phui là một từ Việt gốc Pháp, bắt nguồn ở danh từ fouille (sự đào bới, sự lục soát, cuộc khai quật) hoặc động từ fouiller (đào, bới; lục soát; khai quật). Nhưng dù có nói rằng phui bắt nguồn ở từ nào của tiếng Pháp thì đây cũng là một ý kiến hoàn toàn sai.
Phui không phải là một từ gốc Pháp vì trước khi người Việt Nam biết đến tiếng Pháp thì từ này đã nghiễm nhiên có mặt trong tiếng Việt, muộn nhất cũng là vào gần cuối thế kỷ XVIII. Dictionarium Anamitico Latinum (1772 – 1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine đã ghi nhận ở chữ phanh:
“Phanh phui. Phung phá”.
Và ở chữ phui:
“Phanh phui. Phung phí”*.
Vấn đề đã quá rõ ràng. Nhưng ngoài chuyện này ra, tác giả Phạm Hùng Quyết còn có những quan niệm rất ngộ nghĩnh; chẳng hạn như ông đã viết:
“Thực ra, chuyện hàng ngày người ta nói sai, viết sai không phải chỉ là chuyện thường ngày xảy ra ở huyện. Nó phải là chuyện thường ngày xảy ra trên khắp hành tinh này đấy. Từ Đông sang Tây tự cổ chí kim, ngôn ngữ nào cũng có hai dòng: Dòng ngôn ngữ bình dân và dòng ngôn ngữ bác học. “Nôm na là cha mách qué” chỉ xảy ra ở dòng thứ nhất. Người ít được dạy và không chịu tự học, thì chuyện nói sai là dễ dàng chấp nhận được thôi”.
Lý thuyết gia họ Phạm viết như trên là đã công nhiên khuyến khích thiên hạ đua nhau nói sai, viết sai vô tội vạ vì đây là “chuyện thường ngày xảy ra khắp hành tinh” rồi còn gì.
§ 1107. Kiến thức ngày nay, số 551
ĐỘC GIẢ: Giữa “Vãn cảnh” và “vãng cảnh”, cách viết nào mới đúng?
AN CHI: Trong bài “Quá trình Việt hoá của từ vãn cảnh”, đăng trên Văn nghệ, số 46 (2391), 2005, tác giả Lại Thế Hiền đã đưa ra đến 14 nguồn tài liệu với 26 dẫn chứng (22 cho vãn cảnh và 4 cho vãng cảnh) rồi kết luận:
“Theo các thống kê ở trên, thấy rằng, càng về sau từ vãn cảnh được chuyển dần thành vãn vọng, vãn thiếu, vãn diếu, vãn diểu (thiếu, diếu, diểu đều cùng một nghĩa là nhìn xa, ngắm cảnh từ xa) và nói chung đều mang nghĩa là ngắm, tả cảnh chiều. Các bài thơ ngắm cảnh, tả cảnh chiều chiếm vị trí rất đặc biệt trong thơ văn Trung đại và Cận đại vì chúng có khá nhiều do các nhà thơ ngẫu thành khi đang làm công việc gì đó.
Theo thiển ý của tôi, từ vãn cảnh ban đầu chỉ mang nghĩa đơn chức năng là tả cảnh, ngắm cảnh buổi chiều, sau này, trong quá trình Việt hoá chữ Hán, nó dần dần được nâng lên nghĩa đa chức năng tức là tả cảnh, ngắm cảnh, thưởng ngoạn phong cảnh không còn phân biệt về khoảng thời gian trong một ngày nữa. Đây là một đặc điểm rất quan trọng trong quá trình Việt hoá chữ Hán. Từ vãng cảnh hầu như không có mặt trong các văn bản chữ Hán cổ theo nghĩa tả cảnh, ngắm cảnh, thưởng ngoạn phong cảnh, cho nên, đây có thể là do cách phát âm của các phương ngữ phía Nam đất nước tạo nên, thật ngẫu nhiên, từ vãng lại có nghĩa là đi, đến, nhưng có lẽ sự kết hợp từ vãng thành từ vãng cảnh xảy ra rất muộn, rất gần mà thôi”.
Tiếc rằng mặc dù tác giả đã cất công sưu tập nhiều nguồn tài liệu nhưng ý kiến của ông không thể đứng vững được. Vãn cảnh là vãn cảnh chứ không thể nào càng về sau càng được chuyển dần thành vãn vọng, vãn thiếu (vãn diếu, vãn diểu), v.v.. Đó là những cấu trúc hoàn toàn độc lập với nhau. Huống chi, vãn cảnh là một ngữ danh từ còn vãn vọng, vãn thiếu, v.v. lại là những ngữ động từ thì làm sao có thể có sự chuyển biến vô nguyên tắc như thế? Nói chung, lập luận như vậy là thiếu cơ sở. Ông viết:
“Từ vãn trong vãn cảnh nghĩa gốc của nó là chiều, muộn. Vì thế nghĩa gốc của vãn cảnh là ngắm cảnh, tả cảnh buổi chiều”.
Thực ra, nghĩa gốc của vãn cảnh chỉ đơn giản là cảnh chiều chứ tuyệt đối chẳng có liên quan gì đến việc ngắm, việc tả cả. Có chăng, việc này chỉ liên quan đến sự cấu tứ.
Còn vãng cảnh thì lại là một ngữ động từ, có nghĩa là đến một nơi nào đó để tham quan, để thưởng ngoạn. Đây mới đích thị là một cấu trúc mà ta có thể suy từ nghĩa gốc thành cái nghĩa là “thưởng ngoạn phong cảnh”, như tác giả Lại Thế Hiền đã viết. Chữ vãng trong vãng cảnh chính là chữ vãng trong vãng du tiên cảnh, vãng sinh cực lạc mà ta thường thấy trên những tấm vãn (trướng) trong các đám tang.
Tóm lại, vãn cảnh là một ngữ danh từ, có nghĩa là cảnh chiều còn vãng cảnh là một ngữ động từ, có nghĩa là đến một nơi nào đó để thưởng ngoạn. Vãng cảnh tuyệt đối không phải do phương ngữ phía Nam đọc trại từ vãn cảnh mà ra.
§ 1108. Kiến thức ngày nay, số 551
ĐỘC GIẢ: Trong quyển Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ XX (Nxb. Thanh niên, 2003), tác giả Hoàng Tiến có viết rằng công sứ là do tiếng Pháp consul mà ra. Xin cho biết có đúng không.
AN CHI: Công sứ là hai hình vị Hán Việt dùng để dịch tiếng Pháp résident, chẳng có liên quan gì về nguồn gốc với consul, mà tiếng Việt dịch là lãnh sự, cũng là hai hình vị Hán Việt.
§ 1109. Kiến thức ngày nay, số 552
ĐỘC GIẢ: Cách giải thích truyền thống cho rằng trong Bố Cái Đại Vương thì bố là cha còn cái là mẹ xem ra nay đã lỗi thời. Còn cách hiểu đã bắt đầu thịnh hành thì cho rằng cái ở đây là to, lớn. Xin ông cho biết ý kiến về chữ cái trong trường hợp này.
Trong bài “Con cái, cái con, con và cái. Danh từ, loại từ và quán từ” đăng trên Ngôn ngữ, số 10 (197), 2005, GS. TS. Nguyễn Phú Phong có viết: “Bố Cái Đại Vương là tên một ông vua ở cuối thế kỷ thứ VIII”.
Xin cho biết ông này tên thật là gì và có thật ông ta là vua hay không?
AN CHI: Ông này tên thật là Phùng Hưng và Bố Cái Đại Vương là tôn hiệu – chứ không phải là “tên” – mà người ta dùng để gọi ông sau khi ông qua đời. Không thấy sử chép Phùng Hưng tự xưng là vua sau khi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa (chống quân xâm lược nhà Đường) thành công.
Về ý kiến cho rằng cái ở đây có nghĩa là lớn (đối với con, có nghĩa là nhỏ) thì GS. Nguyễn Tài Cẩn đã bác bỏ trong một bản báo cáo (bằng tiếng Nga) tại Hội nghị Ngôn ngữ và Văn học vùng Viễn Đông và Đông Nam Á, tổ chức từ ngày 18 đến 20 tháng 1 năm 1994 tại Khoa Đông phương học, Trường Đại học tổng hợp quốc gia Saint-Petersburg, Nga. Bài này đã được Cao Xuân Hạo dịch sang tiếng Việt và in lại trong quyển Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá của Nguyễn Tài Cẩn (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001). Bác bỏ ý kiến của Mai Tổ Lân cho rằng Bố Cái là “Vua Cái”, tức “Vua Lớn”, Nguyễn Tài Cẩn viết:
“Chữ cái với nghĩa là “lớn, chính” chỉ dùng sau các danh từ không chỉ người: sông cái tức “sông lớn, dòng chính”, đường cái tức “đường lớn, đường chính” (…) Thường thường các tổ hợp này đối lập với những tổ hợp có chữ con: sông con tức “sông nhỏ, nhánh phụ”, cột con tức “cột nhỏ, cột phụ (…)”*.
Nguyễn Tài Cẩn cho biết thêm:
“Để biểu thị ý nghĩa “lớn, chính, trưởng” trong một tổ hợp danh từ chỉ người trong tiếng Việt thường dùng chữ cả. Chẳng hạn vợ cả tức “vợ chánh thất”, con cả tức “con trưởng”, anh cả tức “anh trưởng” (…)”, rồi kết luận:
“Như vậy, cách đọc Vua Cái hiểu theo nghĩa “Vua Lớn” là sai”*.
Có thật “cách đọc Vua Cái hiểu theo nghĩa “Vua Lớn” là sai hay không? Có người muốn đưa những phản thí dụ nhà cái (nhà con), tay cái (tay con) ra để bác ý kiến của Nguyễn Tài Cẩn nhưng thật ra thì nhà và tay ở đây không phải vốn là những từ chỉ người như vợ, con, anh, v.v.. Ở đây, đã xảy ra một sự chuyển nghĩa nên ta không thể dựa vào những trường hợp đó mà phản bác Nguyễn Tài Cẩn.
Cái sai quan trọng của Nguyễn Tài Cẩn là ông đã quên mất quan điểm lịch sử. Cái căn cứ ngữ nghĩa và ngữ dụng mà ông đưa ra để bác Mai Tổ Lân thì thuộc về tiếng Việt cận đại và hiện đại trong khi tôn hiệu Bố Cái Đại Vương thì lại ra đời cách chúng ta đến những 1.200 năm là ít. Hiểu biết của chúng ta về tiếng Việt thời đó là một khoảng trắng gần như tuyệt đối và cách sử dụng từ cái ở thời đó cũng là điều mà chúng ta không có chứng cứ gì trên giấy trắng mực đen. Huống chi, theo chúng tôi, cái của tiếng Việt là một từ cùng gốc với từ cải, có nghĩa là to, lớn, trong các ngôn ngữ Tày – Thái. Tiếng Tày – Nùng hiện nay vẫn nói cần cải để chỉ “người lớn”. Điều này gợi cho ta một câu hỏi: Phải chăng từ cái của tiếng Việt đã từng có lúc đi liền theo sau danh từ chỉ người để làm định ngữ cho danh từ đó, chẳng hạn như Bố Cái là “Vua Lớn”? Phải chăng đây là sự thật về cách sử dụng từ cái (= lớn) hồi thế kỷ thứ VIII, là thế kỷ của Phùng Hưng?
§ 1110. Kiến thức ngày nay, số 552
ĐỘC GIẢ: Tôi luôn giữ Nguyễn Trãi toàn tập trong nhà, nên bạo dạn có mấy chỗ nghe thấy thử góp sức với ông.
1. Thế nào là Bán phàm phong?
Xin mượn một thí dụ đơn giản nhất về thuyền buồm. Ta có một chiếc thuyền nho nhỏ (biển châu) vừa cho tác giả (Nguyễn Trãi) đứng tựa mui ngắm trời biển. Thuyền không chở nặng, đang đi đường thẳng cùng hướng gió từ Nam ra Bắc. Biển đang có gió cấp 4 không thay đổi.
Thuyền chỉ sử dụng một cánh buồm hình tam giác vuông, quen gọi là buồm cánh én (Có thuyền to cần nhiều cánh buồm, nhiều cách thao tác).
Buồm cánh én có hai cạnh góc vuông, một dài một ngắn. Người ta treo cạnh dài vào cột buồm, còn cạnh ngắn thì kết chặt với một thanh gỗ chắc, cho treo lửng cách mui thuyền vài tấc. Như thế cánh buồm có thể nằm bên trái hay bên phải của cột buồm tuỳ nhu cầu của thuyền trưởng. Có một sợi dây (gọi là dây lèo hạ) buộc chặt vào cạnh ngắn (chỗ góc nhọn) để người lái điều động cánh buồm theo ý muốn.
Bây giờ ta hình dung một đường dọc chạy thẳng từ gốc cột buồm ra sau lái, ta gọi là đường trung tâm. Nếu ta kéo dây lèo điều chỉnh cho cạnh ngắn của cánh buồm nằm dọc theo đường trung tâm, là ta đang đặt buồm ở độ 0, không hứng được gió Nam hay Bắc (theo dữ kiện đã đặt ra), nên thuyền không chạy.
Đến khi ta nới dây lèo hạ cho cánh buồm nằm qua một bên tuỳ ý, sẽ có mấy trường hợp đáng quan tâm:
a. Cho cạnh ngắn tạo với đường trung tâm một góc tối đa là 80 độ thì lập tức buồm nhận trọn lượng gió cấp 4 sẵn có. Thuyền sẽ chạy thẳng tới với tốc độ tối đa của nó (Ta giả định là buồm sẽ rách, cột sẽ gãy nếu gió quá cấp 4).
b. Trường hợp trên đây, buồm no gió chạy một mạch không gặp chướng ngại nào hết cho đến khi cặp b ến an toàn, đó là ý NHẤT PHÀM PHONG THUẬN.
Trong thực tế, chỉ khi gặp trường hợp rất đặc biệt phải chấp nhận mọi bất trắc, người ta mới vượt sóng với tốc độ tối đa, ngoại trừ những nhà hàng hải tài ba.
c. Tuy nhiên thuyền trưởng có thể cho buồm đói gió để giảm tốc độ. Bấy giờ chỉ cần kéo dây lèo hạ cho góc 80 độ trên đây hẹp lại còn 40 độ. Cánh buồm nằm chéo, không hứng trọn sức gió, tất nhiên thuyền sẽ chạy chậm. Đây là cái công thức bán phàm phong (bán phàm chi phong) như Đào Duy Anh hiểu và dịch:
Tráng hoài nổi gió nửa buồm dong.
d. Trường hợp theo công thức bán phàm phong tức phàm phong chi bán (phân nửa lực đẩy của gió vào cả cánh buồm) thì ta khỏi điều chỉnh cánh buồm (giữ y 80 độ) mà “yêu cầu” gió cấp 4 giảm còn nửa tốc độ thôi. Nếu thiên nhiên đáp ứng thì công thức này cũng cho thuyền buồm chậm lại như công thức trên.
đ. Nói theo kỹ thuật hiện đại, phàm phong được hiểu như tổng số mã lực của một “động cơ chạy bằng gió và buồm”. Cụ Ức Trai chỉ cần nửa phàm phong tức là chỉ cần phân nửa tốc độ tối đa mà thôi. Do đó ta vẫn giữ cách dịch của Đào Duy Anh mà kèm theo lời chú: gió nửa buồm ý nói điều chỉnh buồm sao cho thuyền chạy với vận tốc trung bình, căn cứ vào tốc độ tối đa của nó.
Hiểu như trên, chữ buồm có nghĩa là tốc độ tối đa (trong chừng mực an toàn) của một con thuyền. Nửa buồm là nửa tốc độ đó.
2. Tại sao nhà thơ Ức Trai chỉ cần nửa cánh buồm? Tráng hoài của cụ ở đâu? Ta biết Nguyễn Ức Trai là một nhà nho lỗi lạc đời Lê. Vậy xin thử đáp theo hai mặt:
a. Mặt thực tế: trời êm, biển tốt, thuyền nhỏ, Nguyễn Trãi đang ngắm cảnh làm thơ lúc tuổi đang xế dần. Nhà thơ đứng tựa mui thuyền, nếu có gió to thì bất lợi. Tốc độ thích hợp nhất là vừa phải, thuyền không chòng chành đe doạ nguy hiểm. Bất cứ ai ở hoàn cảnh này cũng thấy bán phàm phong là đúng.
b. Công phu hàm dưỡng của nhà thơ: Người học Nho thường điềm đạm và sống theo một số phương châm căn bản như: tri túc, trung dung,…nhất là sự chuyên cần và tính cẩn thận gói trong hai câu:
Cần vi vô giá chi bửu (Chuyên cần là của báu vô giá).
Thận thị hộ thân chi phù (Cẩn thận là lá bùa hộ mạng).
Nguyễn Trãi cũng không ngoại lệ. Cái Tráng hoài của ông hiện rõ trong câu kết bài thơ:
Trực giá kình nghê khoá hải đông.
(Thẳng cưỡi kình nghê vượt biển Đông).
Nhưng nếu có vài bạn đọc cho rằng tráng hoài phải gọi nhất phàm phong mới hợp lẽ hùng hồn, tôi e chưa được ổn. Chính cái tráng hoài ấy đã tàng ẩn ngay trong cách gọi bán phàm phong đúng như vài phương châm đã dẫn trên rồi. Giữa cảnh trời biển mênh mông, lòng sầu lắng dịu, thi tứ dạt dào, tốc độ vừa phải ắt thích hợp nhất cho tráng hoài phát tiết thành thơ.
Tóm lại, cái tráng hoài của một Trương Phi (lúc nào cũng ào ào) và cái tráng hoài thâm trầm của một nhà nho từng cầm vận mệnh ba quân, phải có chỗ khác nhau. Thú thật tôi mê ngay chữ bán này của thần tượng Ức Trai.
Kính chào ông với nhiều thành ý chờ nghe.
AN CHI: Thế là chúng tôi đã giới thiệu cách hiểu của ông cho rộng đường dư luận. Chúng tôi chỉ e rằng ông đã đi quá sâu vào chuyên môn của nghề ghe thuyền rồi làm mất đi sự nhất quán về phong cách ngôn ngữ, và cả về cách cấu tứ nữa, trong bài thơ của Nguyễn Trãi mà thôi!
Để giữ cái ý “gió nửa buồm” của mình, ông đã buộc con thuyền của Ức Trai phải “chạy với vận tốc trung bình”, nhằm thực hiện phương châm “Thận thị hộ thân chi phù” (Cẩn thận là lá bùa hộ mạng). Rồi ông viết tiếp:
“Cái Tráng hoài của Nguyễn Trãi hiện rõ trong câu kết bài thơ:
Trực giá kình nghê khoá hải đông.
(Thẳng cưỡi kình nghê vượt biển Đông)”.
Ông đã tuyệt đối đúng khi nói rằng cái tráng hoài của Nguyễn Trãi hiện rõ trong câu thơ trên đây. Chỉ tiếc có một điều là Nguyễn Trãi muốn “cưỡi thẳng kình nghê” mà ông chỉ cho phép ông ta “chạy với tốc độ trung bình” thì có sợ là sẽ làm giảm hứng thú của ông ta hay không? Kình nghê – ít ra cũng là với tính cách của một hình tượng thi ca – thì phải vùng vẫy, phải càn lướt trước sóng to gió lớn chứ đâu có chịu “tung tăng con cá vàng”! Đã đua xe F1 (Công thức 1) mà cứ nơm nớp lo sợ bị bắn tốc độ thì còn gì là đua!
Xin cảm ơn ông đã quan tâm đến Chuyện Đông chuyện Tây và kính chúc ông an khang.