Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1088 - 1100
§ 1088. Kiến thức ngày nay, số 544
ĐỘC GIẢ: Giả sử chữ sến trong nhạc sến không bắt nguồn ở cụm từ Marie Sến thì, theo ông, nó có thể bắt nguồn từ đâu?
AN CHI: Trước nhất, ta có thể liên tưởng đến chữ sến, là tên của một loại nhạc cụ dân tộc mà có thể là vì quan niệm sai nên một số người tiêm nhiễm sinh hoạt và văn minh Âu Mỹ quá nặng mới cho là một thứ đàn nhà quê, ít nhất cũng là nghe không hấp dẫn. Rồi những người này đã dùng tên cây đàn sến để chỉ loại nhạc mà họ cho là quê mùa theo quá trình chuyển biến mà ta có thể hình dung như sau:
– nhạc của cây đàn sến → nhạc sến (với sến là danh từ) → nhạc sến (với sến là tính từ).
Nhưng có một thực tế là trong công chúng yêu thích âm nhạc dân tộc, ít người biết đến tên cây đàn sến. Đàn cò, đàn kìm, đàn tranh, v.v. thì còn nghe nói đến chứ đàn sến thì hầu như không. Nhiều quyển từ điển thông dụng cũng không ghi nhận chữ sến này, trước nhất là Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967), kế đến là Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (tính đến ấn bản 2003). Điều này chứng tỏ rằng chữ sến, với tính cách là tên một loại nhạc cụ dân tộc, không phải là một từ thông dụng. Vì thế nên nó khó có thể nằm sẵn trong vốn từ vựng của những người tiêm nhiễm sinh hoạt và văn minh Âu Mỹ mà ta đang nói đến. Và cũng chính vì vậy nên họ cũng chẳng có điều kiện để dùng từ sến theo sự chuyển nghĩa mà ta đã hình dung.
Vậy, như ông đã thấy, chính cá nhân chúng tôi cũng không “mặn mà” với từ đang xét trong việc truy tầm từ nguyên của từ sến. Còn nếu bảo rằng sến trong nhạc sến chỉ có thể xuất hiện do ảnh hưởng của Mỹ trong giai đoạn 1954 – 1975 thì chúng tôi mạn phép gợi ý rằng nó có thể liên quan đến từ chestnut của tiếng Anh, mà Webster’s New World College Dictionary (Third Edition, 1997) giảng là:
“[Colloq.] a very familiar story, piece of music, etc. that is too often repeated”,
nghĩa là:
“[Thông tục] (một) câu chuyện, bản nhạc, v.v. quá quen thuộc được lặp lại quá nhiều lần”.
Sự chuyển biến từ cái nghĩa gốc trên đây của chestnut đến nghĩa của sến trong nhạc sến hiện nay là một điều hoàn toàn có thể giải thích được. Còn về âm lý thì việc bỏ âm tiết thứ hai (- nut) bằng cách gắn phụ âm đầu của nó (n -) vào âm tiết thứ nhất (chest -) cũng không phải là một điều cấm kỵ trong việc phiên âm. Nhưng, nói thật lòng, chúng tôi cũng không tin ở giả thuyết này.
Tóm lại, lĩnh ý ông, chúng tôi đã thử đưa ra hai hướng giải quyết trên đây để ông và bạn đọc thẩm xét chứ thật ra chúng tôi vẫn cứ còn vương vấn với chữ Sến trong Marie Sến.
§ 1089. Kiến thức ngày nay, số 544
ĐỘC GIẢ: Mới đây, báo có đưa tin về việc phát hiện “bản Truyện Kiều lạ nhất từ trước tới nay”. Bản này có tên là Kim Vân Kiều quảng tập truyện, kích thước 12 ⨯ 23,5cm, dày 207 trang trên nền giấy dó, in hai mặt. Các trang nội dung được chia dọc thành ba phần, gồm phần chú, phần thơ chữ Hán và phần lục, được khắc in vào năm Giáp Thìn (1903) đời Thành Thái. Người viết mẩu tin khẳng định:
“Các nhà nghiên cứu và sưu tầm Truyện Kiều đã từng công bố hơn mười bản Kiều khác nhau, và bản vừa được phát hiện là bản mới nhất nằm ngoài tất cả các bản đã từng được công bố”.
Xin ông cho biết lời khẳng định trên đây có hoàn toàn chính xác hay không?
AN CHI: Thực ra thì giới nghiên cứu Truyện Kiều đã biết đến bản Kim Vân Kiều quảng tập truyện từ lâu. Chẳng hạn trong quyển Truyện Kiều do Đào Duy Anh giới thiệu và chú giải (Nxb. Văn học, 1979), Đào Duy Anh đã viết:
“Kim Vân Kiều quảng tập truyện, do Thiên Khẩu Thuỷ khắc in năm Giáp Thìn, đời Thành Thái, 1904. Bản này có nhiều chỗ giống bản Liễu Văn đường đời Tự Đức, nhưng so với các bản nôm khác nói chung thì thấy rằng bản này đã sửa khác nhiều chữ và nhiều câu. Bản này cần phải được dùng một cách rất thận trọng”. (tr. 18 – 19)
Rõ ràng là người ta đã từng biết đến bản này, muộn nhất cũng là cách đây đến một phần tư thế kỷ. Riêng về niên điểm ra đời của nó thì chúng tôi cho là năm 1904, như Đào Duy Anh đã nêu chứ không phải 1903. Lý do là theo Niên biểu Việt Nam của Vụ Bảo tồn bảo tàng (Nxb. Khoa học Xã hội, in lần thứ hai, 1970) thì năm Giáp Thìn đời Thành Thái ứng với các tháng 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10,11, 12 của năm 1904 và tháng 1 năm 1905 nên chẳng có liên quan gì đến năm 1903. Nếu sách khắc in vào tháng cuối năm Giáp Thìn thì đó phải là 1905. Vậy xin khẳng định lại niên đại như trên cho đúng.
Sau Đào Duy Anh, đến năm 1998, Nguyễn Quảng Tuân cũng đã có đề cập đến bản này trong bài “Một vài nhận xét về quyển Kim Vân Kiều quảng tập truyện, đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ, Thừa Thiên – Huế, số 2-1998), đã in lại trong quyển Truyện Kiều – nghiên cứu và thảo luận (Nxb. Văn học, 2004). Tuy bản mà Nguyễn Quảng Tuân sử dụng là bản khắc in năm 1924, có thể không tuyệt đối giống với bản 1904 nhưng dù sao thì nó cũng cho ta biết được một số điểm đặc biệt của Kim Vân Kiều quảng tập truyện.
Theo Nguyễn Quảng Tuân thì đây là bản Kiều dài nhất: 3262 câu. Toàn tập dày 103 tờ, giấy bản khổ 13 ⨯ 22cm, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang có 8 dòng và chia từ trên xuống dưới làm 4 tầng: tầng trên cùng chú giải điển tích, tầng hai trích lục Thanh Tâm Tài Nhân (truyện Kim Vân Kiều bằng chữ Hán), tầng ba và tầng bốn là văn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tác giả của mẫu tin (mà ông chép lại) đã diễn đạt không chính xác. Phần một (tầng trên cùng) thì đúng là phần chú giải. Nhưng phần hai (tầng hai) không phải là “phần thơ chữ Hán” mà là phần trích lục nguyên truyện bằng văn xuôi chữ Hán còn phần ba (tầng ba – các câu sáu) và tầng bốn (các câu tám) là phần văn bản Truyện Kiều, đương nhiên là bằng chữ Nôm (chứ không phải “phần lục”). Xin xem trang 45a in kèm theo đây:
Rõ ràng là mỗi trang được chia làm bốn tầng mà phần ba gồm có tầng ba và tầng bốn là phần văn bản Truyện Kiều, ở đây là từ câu 1377 (Rõ ràng của dẫn tay trao) đến câu 1392 (Dạy cho má phấn lại về lầu xanh).
Tóm lại, Kim Vân Kiều quảng tập truyện không phải là một bản Kiều lạ vì nó đã được biết đến từ lâu.
§ 1090. Kiến thức ngày nay, số 545
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nhận xét của ông về cách cấu tạo từ ngữ mới kiểu: cơ + thủ = cơ thủ (để chỉ người chơi billiards), game + thủ = game thủ (để chỉ người chơi trò chơi điện tử), v.v..
AN CHI: Đây chỉ là những “đôi đũa lệch”, không thể nào “so cho bằng” được. Có thể là có nhiều người tán thành những sự “cáp đôi” kiểu đó. Còn chúng tôi thì nghĩ khác.
Thủ là một hình vị Hán Việt nên phải đi chung với một hình vị Hán Việt khác. Đứng trước nó có thể là một danh từ chỉ công cụ: đà thủ (đà = cái lái thuyền); kỳ thủ (kỳ = cờ); pháo thủ (pháo = đại bác); thương thủ (thương = súng); v.v. có thể là một động từ chỉ hành động mà “thủ” là chủ thể: đấu thủ; sát thủ; trợ thủ; xạ thủ; v.v. hoặc có thể là một tính từ: cao thủ; hảo thủ; hung thủ; v.v..
Nhưng dù thuộc từ loại nào thì đó cũng phải là yếu tố Hán Việt. Đằng này, trong cơ thủ thì cơ lại là một từ Việt gốc Pháp (< queue = gậy đánh billiards) còn trong game thủ thì game (trò chơi (điện tử) lại là một từ tiếng Anh. Trong ngôn ngữ thì những sự “cáp đôi” trên đây không thể chấp nhận được. Đó là biểu hiện của một sự gán ghép tuỳ tiện. Nếu muốn xài tiếng Anh thì thứ tiếng này đã có sẵn danh từ gamer; việc gì phải đặt ra “game thủ” cho rắc rối. Còn nếu muốn xài cái từ cơ gốc Pháp kia, thì tại sao lại không nói tay cơ, kiểu như tay cờ, tay đàn, tay súng, v.v. cho dễ hiểu và…đúng điệu?
Từ ngữ tân tạo xuất hiện càng ngày càng nhiều hơn. Để tránh sự tuỳ tiện trong việc “sáng tạo” thì sự hiểu biết về các qui luật ngôn ngữ là điều rất cần thiết. Và cũng cần thiết không kém đó là công việc của các nhà thuần chỉnh (purist) mà, rủi thay, có người lại bài xích vì họ muốn để cho tiếng Việt phát triển một cách…“tự nhiên”
§ 1091. Kiến thức ngày nay, số 545
ĐỘC GIẢ: Một tờ báo ra ngày 17-9-2005, có đưa một mẩu tin với nhan đề “Mỹ loại Việt Nam khỏi danh sách những nước sản xuấtvà vận chuyển ma tuý”. Xin cho biết nhận xét về cách dùng từ trong câu này.
AN CHI: Chắc là ông muốn hỏi về việc dùng động từ loại trong câu trên đây. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản năm 2003, tr. 574) giảng loại là “Tách bỏ đi những cái xấu, những cái không dùng được, qua lựa chọn”. Còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) thì giảng một cách đơn giản là “thải ra”. Những lời giảng này cho thấy loại là một động từ mang sắc thái biểu cảm, dùng để chỉ một hành động nhắm vào cái đối tượng mà chủ thể cho là có tính chất tiêu cực hoặc chính chủ thể không ưa thích. Không liên quan đến việc sản xuất và vận chuyển ma tuý là một đặc điểm có ý nghĩa tích cực của Việt Nam nên dùng động từ loại trong trường hợp này thì không đúng.
Cũng liên quan đến cái tin này, báo Tuổi trẻ ra cùng ngày đã dùng từ thích hợp hơn: “Tổng thống Bush đã đưa VN và Trung Quốc ra khỏi danh sách các nước sản xuất và vận chuyển ma tuý”. Đưa là một động từ mang sắc thái trung hoà nên hoàn toàn thích hợp với ngữ cảnh trên đây. Và cũng chính vì thế nên nó còn có thể dùng cho một cái hướng ngược hẳn với “ra” (hướng “vào”) như trong câu sau đây của Tuổi trẻ ra ngày 21-9-2005: “VN được đưa vào danh sách các nước cung cấp gạo cho Nhật”.
Trở lại với việc dùng động từ loại trong câu mà ông đã dẫn, xin khẳng định rằng đây là một việc làm không đúng với thói quen sử dụng từ ngữ của người Việt.
§ 1092. Kiến thức ngày nay, số 545
ĐỘC GIẢ: Trên Chuyện Đông chuyện Tây, ông đã từng nhấn mạnh rằng cảnh và người trong Truyện Kiều là cảnh và người Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng cụ Nguyễn Du chỉ phóng tác theo truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nên có nhất nhất phải cho rằng cái gì ở trong Truyện Kiều cũng là của Tàu hay không?
Tôi nghe nói có người còn bảo vệ ý kiến cho rằng cụ Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều sau khi đi sứ nhà Thanh về trong khi xu hướng mới thì cho rằng cụ còn viết truyện Nôm này sớm hơn nhiều. Nhờ ông giải thích thêm cho rõ.
AN CHI: Chính Nguyễn Du, chứ không phải là ai khác, đã mở đầu Truyện Kiều bằng cách nói rằng mình sẽ kể về cảnh, về người và về chuyện bên Trung Hoa:
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Đó là cảnh Tàu, người Tàu, chuyện Tàu hai năm rõ mười, chẳng cần phải thảo luận gì thêm nữa. Chính vì thế nên có người khi bình giảng Truyện Kiều còn vẽ cả bản đồ Trung Quốc với các địa danh hữu quan để minh hoạ bước đường mười lăm năm lưu lạc của Kiều nữa.
Ý kiến cho rằng Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều sau khi đi sứ nhà Thanh về không phải là một giả thuyết mà là một sự kiện được ghi nhận trong thư tịch chính thống của triều Nguyễn: Đại Nam chính biên liệt truyện. Còn các ý kiến khác thì chỉ là những giả thuyết mà sự chứng minh không đủ sức thuyết phục. Thậm chí, để chứng minh cho giả thuyết của mình, có khi người ta còn tưởng tượng ra được những chữ kỵ huý ảo nữa, như chúng tôi đã nêu trên Kiến thức ngày nay, số 541, chẳng hạn. Theo chúng tôi, trước mắt, ta hãy cứ tạm thời tin theo sử sách, rằng Nguyễn Du:
Đã nhân kỳ đi sứ ở Bắc Kinh
May gặp truyện của Thanh Tâm Tài Tử
Thấy kể lại cuộc đời người hiếu nữ,
Thương Thuý Kiều tâm sự cũng đầy vơi
Mới diễn nôm thành tác phẩm tuyệt vời.
(Nguyễn Quảng Tuân, Vinh danh Nguyễn Du)
Liên quan đến vấn đề này, ngày 20-9-2005, chúng tôi vừa nhận được một bức thư của ông Nguyễn Quảng Tuân từ Anh Quốc gửi về, trong đó có đoạn:
“Ở Luân Đôn, trên các vỉa hè, ở toàn thành phố chỉ trồng có một thứ cây phong (plane). Mùa thu lá héo vàng rồi rụng lác đác đầy đường chứ không như ở Trung Quốc và Canada, là chuyển màu từ xanh sang vàng tươi hoặc hồng tươi rồi sau mới rụng. Cái cảnh mùa thu ấy chỉ có ở Trung Quốc và Canada nên tôi càng tin rằng Nguyễn Du phải qua Trung Quốc rồi về mới viết được những câu như:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
và:
Rừng thu từng biếc chen hồng.
Chính những người Anh tôi hỏi cũng chưa biết đến cảnh rừng phong lá đỏ”.
Những lời trên đây của ông Nguyễn Quảng Tuân rất đáng cho ta suy gẫm.
Xin tạm trả lời ông như trên và hy vọng sẽ có thể trở lại vấn đề thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều trong một dịp khác.
§ 1093. Kiến thức ngày nay, số 545
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Một bài báo có quá nhiều sai sót” (Ngôn ngữ, số 8 (195)-2005, tr. 74 – 78), khi bàn về chữ phú 冨, tác giả Nguyễn Cảnh Phức đã viết:
“Chữ 富 được cấu tạo theo phương pháp hình thanh. Theo Từ nguyên và Từ hải thì chữ 富 có hai âm: 1. phó, 2. phú. Đọc là “phó” thì có nghĩa là “hỗ trợ, giúp đỡ” (…) Đọc là “phú” thì có nghĩa là “bổ ra, cắt ra”. Muốn cắt, muốn bổ vật gì, người ta thường dùng con dao. Vì thế, bộ đao (⺉) trong 副 (phú) là bộ biểu ý, tức là “hình”. Nửa bên trái của chữ 副 tức là 畐. Đây chính là một nửa phía dưới của chữ 富 (phú) nghĩa là “giàu”.
“Vậy 畐 là bộ biểu thanh, chỉ rõ âm thanh của chữ 副 là “phú”. Vậy chữ 副 (phú) cấu tạo theo phương pháp hình thanh, “hình” bên phải, “thanh” bên trái. Chữ 富 (phú) nghĩa là “giàu: có bộ 宀 (miên) nghĩa là “mái nhà”. Những chữ gì có liên quan tới nhà cửa thường có bộ 宀. Người giàu thường có nhiều nhà cửa cao đẹp. Từ đó ta thấy, trong chữ 富 thì bộ 宀 là bộ biểu ý. Dưới bộ 宀 là một nửa của bên trái chữ 副 (phú). Do đó chữ 富 được cấu tạo theo phương pháp hình thanh, “hình” ở trên, “thanh” ở dưới”.
Xin hỏi cách phân tích chữ phú 富 như trên có chính xác không?
AN CHI: Nếu lấy phép hình thanh mà xét thì chữ phú 富 chẳng có liên quan gì đến chữ phó/phú 副 cả. Phân tích chữ phú 富, Thuyết văn giải tự của Hứa Thận khẳng định rằng đó là một chữ “tùng miên 宀, phúc 畐 thanh”, nghĩa là “thuộc bộ miên, đọc là phúc”. Sở dĩ có mâu thuẫn như thế (phú mà lại đọc thành “phúc”) là vì, như đã nhiều lần nói tại Chuyện Đông chuyện Tây, hiện nay trong nhiều trường hợp thanh phù không còn trùng với âm của chữ hình thanh hữu quan như lúc mới tạo từ nữa. Vì không thấy được điều này nên tác giả Nguyễn Cảnh Phức mới phải viện đến chữ 副 cho ra cái âm “phú”. Nhưng chính ông cũng khẳng định rằng “thanh” của chữ phú 副 là 畐 mà âm của là “phúc” chứ đâu có phải “phú”.
§ 1094. Kiến thức ngày nay, số 546
ĐỘC GIẢ: Tại sao trong Nam nói “đám ma” còn ngoài Bắc nói “đám tang”?
AN CHI: Chúng tôi đã tra cứu kỹ và thấy rằng đám ma và đám tang không phải là hai danh ngữ đối lập với nhau về mặt phương ngữ (trong Nam, ngoài Bắc) mà là về mặt phong cách ngôn ngữ. Nói một cách khác, cả trong Nam lẫn ngoài Bắc đều có dùng hai cách nói đám ma và đám tang. Hai cách nói này khác nhau ở chỗ đám ma thuộc phong cách ngôn ngữ tự nhiên, thường gọi là khẩu ngữ, còn đám tang thuộc phong cách ngôn ngữ trau chuốt, mà một số tác giả gọi là ngôn ngữ văn hoá.
Sự khác nhau trên đây bắt nguồn từ thực tế xã hội mà hai danh ngữ đang xét phản ánh. Với đám ma thì trung tâm là “nhân vật người chết”, biết rằng ngoài cái nghĩa “sự hiện hình của người chết”, ma còn có nghĩa là “người đã chết” nữa. Ta có thể suy đoán rằng lối nói này xuất phát từ những người thuộc các tầng lớp dưới của xã hội. Chuyện người chết phải bó chiếu mà chôn vì không có quan tài không phải là chuyện hiếm thấy ngày xưa, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Trong điều kiện như vậy, việc đưa đám đối với họ thực chất chỉ là việc đưa ma, nghĩa là đưa xác người chết ra huyệt mà thôi. Đó là đám ma.
Đám tang thì khác. Đây là chuyện của các tầng lớp hữu sản. Có quan tài, có khâm liệm, có thành phục (phát tang), có để tang để chế, có bàn Phật, bàn vong, có tụng niệm, có phúng viếng, v.v.. Tóm lại là có đầy đủ nghi thức. Chính những nghi thức này làm cho đám tang có tính chất trang trọng trong khi đám ma thì lại đơn sơ.
Chính vì sự cách biệt này mà trong tiếng Việt hiện đại, tuy là hai đơn vị đồng nghĩa nhưng đám ma chỉ được dùng trong khẩu ngữ còn đám tang được dùng trong ngôn ngữ văn hoá.
§ 1095. Kiến thức ngày nay, số 546
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết lý do của việc dùng chữ “bán” trong câu: Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng. Sao chỉ có “nửa vai” (bán kiên) chứ không phải “một vai” hay “cả vai”? Và thế nào là “nửa vai”?
AN CHI: Đây là thơ của Hoàng Sào, một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa đời Đường bên Trung Hoa:
Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng,
Nhất trạo giang sơn tận địa duy.
Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim dịch:
“Nửa vai đeo cung kiếm có trời cho, một chèo đi khắp non sông trên đất”*.
Nguyễn Thạch Giang dịch:
“Chỉ nửa vai cung kiếm mà tung hoành khắp gầm trời, chỉ một mái chèo mà đi khắp cả non sông”*.
Đào Duy Anh dịch:
“Cung kiếm nửa vai trời thả cửa;
Non sông một mái đất cùng nơi”*.
Sửa chữa để “nâng cấp” Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, Phan Ngọc chỉ đổi có hai chữ (mái thành chèo, cùng thành khắp):
“Cung kiếm nửa vai trời thả cửa;
Non sông một chèo đất khắp nơi”*.
Một số nhà chú giải khác cũng dịch hai chữ bán kiên trong hai câu thơ trên đây của Hoàng Sào thành “nửa vai”. Nguyễn Du đã lấy ý từ hai câu thơ này mà viết thành câu 2174 của Truyện Kiều:
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
Nếu phân lượng ngữ nửa gánh của Nguyễn Du càng dễ hiểu và tự nhiên bao nhiêu thì cái phân lượng ngữ nửa vai của các nhà chú giải càng khó hiểu và gượng gạo bấy nhiêu. Ta chỉ nghe, chỉ thấy kiểu:
Hai vai gánh nặng, con đường thời xa.
(Tản Đà)
chứ “nửa vai gánh”, “quẩy nửa vai” thì… chịu. Các nhà chú giải đã cưỡng bức cái cấu trúc bán kiên của tiếng Hán phải trở thành “nửa vai” trong tiếng Việt mà quên rằng chữ kiên 肩 còn dùng để ghi một động từ có nghĩa là “gánh: “vác” nữa, như đã cho trong rất nhiều quyển từ điển. Rồi từ đây lại phát sinh một lượng từ, mà thực chất là danh từ, vốn chỉ cái được gánh, được khuân, được vác ở trên vai mà ta có thể tuỳ theo văn cảnh để dịch bằng một trong các danh từ đơn vị (trước đây gọi là loại từ) sau đây của tiếng Việt: gánh, bó, v.v.. Đây chính là cái nghĩa thứ 8 của chữ kiên 肩 trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993). Chính là với cái nghĩa này, vì cái nghĩa này mà Nguyễn Du đã diễn Nôm hai tiếng bán kiên của Hoàng Sào bằng hai tiếng nửa gánh trong câu 2174 của Truyện Kiều.
Nói cho công bằng, trong các nhà chú giải, có người cũng đã nhìn thấu cái nghĩa chính xác của chữ kiên trong bán kiên, chẳng hạn Chiêm Vân Thị, nên đã dịch hai câu:
Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng,
Nhất trạo giang sơn tận địa duy.
thành:
Kiếm cung nửa gánh nghiêng trời,
Con chèo non nước nhẹ bơi tung hoành*.
Chúng tôi đoán rằng có lẽ do nhiều nhà chú giải đã đưa ra một cách dịch gần như vô nghĩa (bán kiên cung kiếm = nửa vai (đeo) cung kiếm) nên ông mới đề nghị chúng tôi bàn cho ra lẽ. Chứ nếu các vị đó dịch bán kiên thành nửa gánh ngay từ đầu thì việc đặt vấn đề sẽ không còn cần thiết nữa chăng?
§ 1096. Kiến thức ngày nay, số 546
ĐỘC GIẢ: Tờ Time, số ra ngày 19-9-2005 có một bài phân tích của Mike Allen nhan đề “Living too much in the bubble?”.
Trên một tờ báo ở Thành phố Hồ Chí Minh ra ngày 22-9-2005, một nhà báo đã dịch nhan đề này là “Sống quá nhiều trong bong bóng”. Vậy “Sống trong bong bóng” là sống như thế nào?
AN CHI: Có lẽ chẳng ai biết “sống trong bong bóng” là sống như thế nào. Chẳng qua là ở đây, nhà báo chỉ dừng lại ở cái nghĩa đen, cũng là nghĩa gốc, của danh từ bubble trong tiếng Anh mà thôi. Thực ra, danh từ này còn có một nghĩa bóng rất thích hợp với cái nhan đề “Living too much in the bubble”. Đó là “điều hão huyền”, “ảo tưởng”, như đã cho trong Từ điển Anh Việt của Viện Ngôn ngữ học do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu và Bùi Ý hiệu đính (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975), và dĩ nhiên là như đã cho trong rất nhiều quyển từ điển khác liên quan đến tiếng Anh. Vậy nhan đề này là “Sống quá nhiều trong ảo tưởng” chứ không phải “Sống quá nhiều trong bong bóng”.
Nhà báo còn làm cho người đọc không khỏi ngạc nhiên và lúng túng trước lời dịch sau đây:
“Bong bóng ấy càng kín như hũ nút ở nhiệm kỳ hai, đến nỗi không còn mấy ai muốn cho ông tổng thống biết những tin xấu, hoặc vạch cho ông thấy ông đang sai lầm chỗ nào”.
Thật khó mà có thể biết được thế nào là “bong bóng ấy càng kín như hũ nút”. Còn nguyên văn của Mike Allen thì như sau:
“Bush’s bubble has grown more hermetic in the second term, they say, with fewer people willing or able to bring him bad news or tell him when he’s wrong”.
Thực ra, “kín (như hũ nút)” chỉ là nghĩa đen của tính từ hermetic. Nó còn có nghĩa bóng là “kín đáo”, “khó hiểu”, “bí hiểm”. Vậy “Bush’s bubble has grown more hermetic in the second term” là “ảo tưởng của Bush càng kín đáo hơn trong nhiệm kỳ hai” (vì trong nhiệm kỳ ông ta càng ít bàn luận với người khác). Cái lâu đài trên bãi cát mà ông ta định xây thì hầu như chỉ một mình ông ta biết mà thôi. Có lẽ cái ý của Mike Allen là như vậy chăng?
§ 1097. Kiến thức ngày nay, số 547
ĐỘC GIẢ: Xin giải thích giúp hai chữ “bán phàm” trong câu thơ chữ Hán: Tráng hoài hô khởi bán phàm phong của Nguyễn Trãi. Tại sao không phải là trọn “một buồm” (nhất phàm) mà chỉ có “nửa buồm” (bán phàm)?
AN CHI: Đây là câu thứ sáu, tức câu luận thứ hai trong bài “Quá hải” (Vượt biển) của Nguyễn Trãi. Đào Duy Anh dịch nghĩa là: “Tráng hoài gọi gió nổi, buồm căng nửa cánh”*.
Vị học giả của chúng ta chỉ dịch như trên mà không hề chú giải về cách dịch của mình. Vì thế nên ta cũng không biết trong thực tiễn của nghề ghe thuyền thì cái mốt “buồm căng nửa cánh” được thực hiện như thế nào hoặc có thực hiện được hay không. Chứ trong bài “Quá hải” của Nguyễn Trãi thì cách dịch của Đào Duy Anh buộc ta phải xem bán phàm phong là một hình ảnh kém cỏi vì chỉ là kết quả của một việc dùng từ lạc lõng. Hai chữ bán phàm lọt tõm vào giữa một chuỗi từ ngữ thể hiện những ý tưởng mạnh mẽ hoặc những hình ảnh hùng tráng của cả bài thơ. Vì thế nên ở đây ta cũng trông chờ một cánh buồm nguyên vẹn như trong hai câu thơ của Cao Bá Quát:
Phong bão lập khan thiên ngạn tẩu,
Nguyệt cao toạ ỷ nhất phàm phi.
(Gió lộng đứng trông ngàn bến chạy
Trăng cao ngồi tựa một buồm bay).
Thế mà Nguyễn Trãi đành lòng hạ bút gieo xuống hai chữ “bán phàm” để vẽ ra trước mắt ta một lá buồm căng có “nửa cánh”, khiến ta phải thất vọng:
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,
Tráng hoài hô khởi bán phàm phong.
(Lòng ngay quét sạch mù ngàn lớp,
Mộng lớn gọi lên gió nửa buồm).
Bán phàm phong (gió nửa buồm) thì xứng thế nào được với tráng hoài, là điều ôm ấp lớn lao, cao cả trong lòng (nên chúng tôi tạm dịch là mộng lớn).
Mộng lớn mà chỉ gọi dậy được có “nửa buồm gió” thì chẳng phải là cái hiệu quả của nó quá nhỏ, quá thấp hay sao? Mà nào có phải ở đây Nguyễn Trãi bị túng vần bí vận. Ông có thể thay cái chữ bán lạc lõng kia bằng chữ nhất, cũng là vần trắc:
Tráng hoài hô khởi nhất phàm phong.
(Mộng lớn gọi lên gió một buồm).
Có phải là đọc lên nghe hùng hồn và sảng khoái hơn không? Vậy tại sao Nguyễn Trãi lại cứ phải dùng chữ “bán” trong trường hợp này? Chúng tôi xin thưa ngay rằng ở đây Ức Trai tiên sinh đã dùng từ một cách rất thực tế, nghĩa là rất đúng với hoàn cảnh, như sẽ nói rõ ở một đoạn sau. Chẳng qua là do cách hiểu không đúng của mình nên một số nhà chú giải mới làm cho ta lúng túng trước câu thơ đang xét mà thôi.
Vấn đề không phải ở chữ bán, mà ở chữ phàm; nói rõ ra, bán phàm ở đây không phải là “nửa buồm”. Ngoài cái nghĩa thông thường và quen thuộc là “buồm”, chữ phàm còn có một nghĩa phái sinh bằng hoán dụ là “thuyền buồm”. Rồi từ cái nghĩa phái sinh này, phàm lại có một nghĩa phái sinh nữa, cũng bằng hoán dụ, là “chuyến đi bằng thuyền buồm”, như đã được ghi nhận trong lời chúc quen thuộc:
Nhất phàm phong thuận,
nghĩa là “(một) chuyến đi bằng thuyền buồm xuôi gió”. Thoạt kỳ thuỷ là “chuyến đi bằng thuyền buồm”; rồi việc sử dụng từ ngữ dần dần mở rộng thành “chuyến đi bằng thuyền”, và cuối cùng là “chuyến đi”. Còn ngày nay, dù có đi bằng máy bay Boeing hay Airbus, người ta vẫn cứ có thể chúc nhau “nhất phàm phong thuận”. Thậm chí, người ta còn có thể chúc nhà du hành vũ trụ bằng tàu Thần Châu của Trung Quốc “yì fàn fèng shùn”! Tóm lại, chữ phàm có 3 nghĩa:
1. Buồm.
2. Thuyền buồm → thuyền.
3. Chuyến đi bằng thuyền buồm → chuyến đi bằng thuyền → chuyến đi.
Nghĩa của chữ phàm trong câu Tráng hoài hô khởi bán phàm phong chính là nghĩa thứ 3 và câu này có nghĩa là:
Mộng lớn gọi lên gió nửa đường.
Bán phàm ở đây là giữa chuyến đi, nghĩa là nửa đường, nên thực chất cũng đồng nghĩa với bán đạo, bán đồ, bán lộ, đều là nửa đường hoặc giữa đường cả. Để giữ đúng quy định “nhị, tứ, lục phân minh” (nên phải dùng vần trắc), ở đây tác giả vẫn có thể viết:
Tráng hoài hô khởi bán đồ phong.
Nhưng ông muốn chơi chữ. Đây là một cuộc vượt biển (quá hải) nên hình ảnh một cánh buồm bọc gió sẽ sinh động hơn chứ cái chữ đồ ở đây thì lại “bất động”. Vì vậy nên ông già Ức Trai mới chơi cắc cớ mà đưa chữ “phàm” vào, khiến một số nhà chú giải cứ ngỡ rằng đây là…buồm thật! Và khiến ta phải đặt câu hỏi: “Gió nửa buồm” là gió như thế nào? Nhưng như đã nói, bán phàm ở đây lại là “gió nửa đường”.
Ta thử đọc lại bài thơ. Với câu phá đề, ta thấy tác giả đã gạt hết mọi sầu tư vớ vẩn, đứng tựa mui thuyền (Bát tận nhàn sầu độc ỷ bồng) mà nhìn ra chung quanh thì thấy sắc nước mênh mang còn tứ thơ như cứ muốn tuôn ra không dứt (Thuỷ quang diễu diễu tứ hà cùng). Rõ ràng là ông đang ở ngoài biển. Ông đang cỡi ngay trên lưng kình nghê (đây dĩ nhiên chỉ là ngoa dụ) mà vượt qua biển Đông (Trực giá kình nghê khoá hải Đông). Lúc đó gió nổi lên nên ông mới tưởng tượng là do mộng lớn của mình gọi mà đến. Đấy không phải là gió nửa đường, nghĩa là giói nổi lên giữa chuyến hải trình của ông thì là gì?
Tóm lại, trong thực tiễn của nghề ghe thuyền cũng như trong bài thơ “Quá hải” của Nguyễn Trãi mà hiểu bán phàm là “nửa buồm” thì đều thấy ngắc ngứ cả. Chúng tôi tạm nêu cách hiểu thiển cận của mình để ông tham khảo trongkhi chờ ý kiến của các bậc thức giả. Xin kính chúc ông thọ, khương, ninh.
§ 1098. Kiến thức ngày nay, số 547
ĐỘC GIẢ: Trên số ra ngày 5-10-2005, tổng kết diễn đàn mini “Nhạc Trịnh: có thể phá cách đến đâu?”, Ban Văn hoá Văn nghệ của một tờ báo đã viết:
“Vài ý kiến ít ỏi hơi bị …bảo thủ, rằng chỉ có Khánh Ly và cây đàn guitar gỗ mới đúng chất Trịnh – những ý kiến này là của các bạn đọc U60 trở lên”.
Xin cho biết tuổi “U60 trở lên” là tuổi bao nhiêu?
AN CHI: “U60 trở lên” là một cách diễn đạt không chính xác. Trong thể thao, U là chữ viết tắt của under, có nghĩa là “dưới”, U17 là under 17, nghĩa là dưới 17; U21 là under 21, nghĩa là dưới 21; U23 là under 23, nghĩa là dưới 23; v.v.. Vậy U60 là under 60, nghĩa là dưới 60 cho nên “U60 trở lên” là một cách diễn đạt mâu thuẫn vì nó có nghĩa là vừa dưới 60, vừa trên 60. Nói cho nghiêm khắc thì đây là một cách diễn đạt vô nghĩa. Gần đây, một số người đã lạm dùng lối nói “Ux” mà không hề để ý xem chữ U có nghĩa là gì. Họ dùng mấy tiếng U50 để chỉ cả những người đã 55, 57, U60 để chỉ cả những người đã 68, 69, v.v..
Vậy xin trả lời cho chữ U cái nghĩa chính xác của nó: Hễ đã thuộc lứa Ux thì số tuổi bao giờ cũng phải dưới x.
§ 1099. Kiến thức ngày nay, số 547
ĐỘC GIẢ: Trên một tờ báo ra ngày 1-10-2005, tôi được đọc một bài có nhan đề là “Phải vẽ đường cho hươu chạy đúng”, bàn về chuyện giáo dục giới tính cho lớp trẻ. Xin cho biết việc vận dụng thành ngữ (vẽ đường cho hươu chạy) ở đây có hợp lý hay không?
AN CHI: Vẽ đường cho hươu chạy là một câu thành ngữ mà Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003) giảng là:
“Ví hành động dung túng, bày vẽ cho kẻ khác làm việc không tốt”.
Gần đây nhất, Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thuỵ, Nguyễn Đức Dương (Nxb. Văn hoá Sài Gòn, 2005), cũng giảng:
“Chỉ việc chẳng những không ngăn cản, mà còn bày cho kẻ khác cách thức làm những việc không tốt”.
Các nhà tư vấn cho giới trẻ về vấn đề giới tính có phải là những kẻ bày vẽ cho họ những việc làm không tốt đâu mà gọi việc làm của các vị đó là “vẽ đường cho hươu chạy”. Chữ “đúng” trong nhan đề của bài báo cũng thừa vì người ta mặc nhận là hươu đã được chỉ đúng đường nên thường là… chạy thoát. Còn việc tư vấn của các nhà giáo dục, các bác sĩ tâm lý, v.v. dù có nhỡ sai trong muôn một thì cũng không thể gọi là “vẽ đường cho hươu chạy”!
§ 1100. Kiến thức ngày nay, số 548
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết “kế hoạch” và “quy hoạch” khác nhau như thế nào?
AN CHI: Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (in lần thứ chín, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 2003, tr. 485) giảng Kế hoạch là:
“Toàn bộ những điều vạch ra một cách có hệ thống về những công việc dự định làm trong một thời gian nhất định, với mục tiêu, cách thức, trình tự, thời hạn tiến hành. Kế hoạch phát triển kinh tế (…) Hoàn thành kế hoạch trước thời hạn”.
Còn Quy hoạch (tr. 812 – 813) là:
“Bố trí, sắp xếp toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn. Quy hoạch các vùng kinh tế (…) Quy hoạch đào tạo cán bộ”.
Cứ như trên thì, trong tiếng Việt, quy hoạch có phạm vi hạn hẹp hơn kế hoạch và ngắn hơn kế hoạch về thời gian. Nhưng trong tiếng Hán thì ngược lại. Hiện đại Hán ngữ từ điển của Phòng biên tập từ điển, Sở Nghiên cứu ngôn ngữ thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc (Bắc Kinh, 1992) giảng kế hoạch là:
“Công tác hoặc hành động dĩ tiền dự tiên nghĩ định đích cụ thể nội dung hoà bộ sậu”, nghĩa là: “Nội dung và các bước cụ thể phác thảo sẵn trước khi công tác hoặc hành động”.
Còn quy hoạch là:
“Tỉ giảo toàn diện đích trường viễn đích phát triển kế hoạch”, nghĩa là: “Kế hoạch phát triển lâu dài tương đối toàn diện”.
Cứ như trên thì, trong tiếng Hán, quy hoạch có phạm vi rộng rãi hơn kế hoạch và lâu dài hơn kế hoạch về thời gian. Có lẽ vì sự khác nhau này nên Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa kết thúc ngày 11-10-2005 đã thay hai chữ “kế hoạch” bằng hai chữ “quy hoạch” khi vạch ra quy hoạch năm năm lần thứ 11 (2006 – 2010) chăng?