Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1075 - 1087
§ 1075. Kiến thức ngày nay, số 539, ngày 1 -8-2005
ĐỘC GIẢ: Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1989) giảng câu “Ở quen thói, nói quen sáo” là “Nói lên tầm quan trọng của tập quán” (tr. 231). Đọc thì hiểu tàm tạm nhưng tôi cứ phân vân không biết “sáo” ở đây có phải là “sáo” trong “khuôn sáo” hay không. Rồi lại còn “khách sáo”, “sáo rỗng”; có phải cũng là chữ “sáo” đó không. Đây là từ thuần Việt hay Hán Việt? Và là danh từ hay tính từ?
AN CHI: Sáo ở đây là một từ Hán Việt, có nghĩa là khuôn, mẫu. Với nghĩa này thì trong câu “Ở quen thói, nói quen sáo”, nó là danh từ (nên mới đối được rất chỉnh với thói (cũng là danh từ) về mặt từ loại). Nhưng ngoài câu này ra, chúng tôi chưa thấy một văn cảnh nào khác trong đó sáo đứng một mình mà lại là danh từ.
Đúng như ông đã nêu, đây cũng chính là chữ sáo trong khuôn sáo, trong đó nó cũng là danh từ giống như khuôn (nên khuôn sáo là một từ tổ danh từ đẳng lập). Khuôn là âm Hán Việt xưa của chữ khuyên, mà “Hán Việt Việt hoá” là khoen.
Đây cũng chính là chữ sáo trong khách sáo và sáo rỗng nhưng trong hai tổ hợp này thì nó đã chuyển loại thành vị từ tĩnh (thường gọi là tính từ). Với tư cách là một vị từ tĩnh, sáo là một từ độc lập, có thể hành chức một cách độc lập, khác hẳn với sáo trong khuôn sáo, nay chỉ còn thấy được dùng độc lập trong câu “Ở quen thói, nói quen sáo” mà thôi.
§ 1076. Kiến thức ngày nay, số 539, ngày 1-8-2005
ĐỘC GIẢ: Được biết cụ Nguyễn Quảng Tuân có làm một bài ca trù để ca ngợi thi hào Nguyễn Du nhưng chưa được đọc bao giờ. Xin ông An Chi vui lòng giới thiệu cho bài đó.
AN CHI:
VINH DANH TỐ NHƯ
Hồng Sơn thế phả,
Đã lừng danh thiên hạ Nguyễn Tiên Điền.
Nhưng đâu vì Tể tướng với Trạng nguyên,
Mà chỉ vị Truyện Kiều, âu mới hiếm.
“Nhất đại tài hoa sinh bất thiểm,
Bách niên sự nghiệp tử do vinh.”
Đã nhân kỳ đi sứ, ở Bắc Kinh,
May gặp truyện của Thanh Tâm Tài Tử.*
Thấy kể lại cuộc đời người hiếu nữ,
Thương Thuý Kiều tâm sự cũng đầy vơi.
Mới diễn nôm thành tác phẩm tuyệt vời,
Như lời ấy Phan Thạch Sơ đã ví.
“Hữu Minh nhất đại vô song kỹ,
Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ.”
Rỡ ràng danh tiếng Tố Như!
(3-8-2003, Nguyễn Quảng Tuân)
§ 1077. Kiến thức ngày nay, số 540, ngày 10-8-2005
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 538, ông đã bác ý kiến của Nguyễn Tài Cẩn để khẳng định rằng Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Tân là tên bằng tiếng Hán của những nhân vật người Trung Hoa. Nhưng trong bài Cuốn sách gây nhiều ngộ nhận, đăng trên Talawas, tác giả Hà Văn Thuỳ đã viết:
“Tiếp thu toàn bộ vốn từ vựng của người Việt nhưng vì tự ái dân tộc nên sau này người Hán cố tình giấu nhẹm chuyện đó. Các tác giả từ điển, các công trình phục nguyên Hán ngữ không bao giờ đề cập gốc gác xa xưa hơn của những từ mà họ tra cứu. Đã từng xảy ra chuyện thế này: Vào những năm 70 của thế kỷ trước, để chứng minh cho sự độc lập của Đài Loan với Hoa Lục, chính quyền Tưởng Giới Thạch lệnh cho nghiên cứu lịch sử hòn đảo này. Nhưng khi thấy trước thời Khổng Tử, đất này của người Bách Việt, việc nghiên cứu bị dừng lại! Nhưng dù che giấu kỹ thế nào, ta vẫn có thể tìm thấy trong Hán ngữ những từ thuần Việt như Nữ Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Cốc… và trong Kinh Thi cũng bắt gặp khá nhiều trường hợp in dấu ấn cách nói của người Việt như.
– Hồ vi trung lộ (Thức vi: trong sương)
– Trung tâm rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy)
– Trung tâm hữu vi (Cốc phong: trong lòng băn khoăn)
– Di vu trung cốc (Cát đàm: trong hang).
Tại sao hàng nghìn năm thực hiện nghiêm cẩn xa đồng quỹ thư đồng văn mà trong quyển kinh quan trọng nhất của văn hoá Trung Hoa vẫn giữ cách nói của người Việt trung lộ, trung tâm, trung cốc… mà không chuyển sang cách nói của người Hán lộ trung, tâm trung, cốc trung…? Đấy chính là những hoá thạch ngôn ngữ mách bảo cho người biết nghe những điều thầm kín: những câu ca của người Miêu Việt!”.
Xin vui lòng cho biết ông nghĩ thế nào về những lời trên đây của ông Hà Văn Thuỳ.
AN CHI: Nếu chỉ tự hạn chế ở mức nói rằng người Hán đã tiếp nhận một số từ nhất định của tiếng Việt (Kinh) ngay từ thời cổ đại thì còn nghe được – mặc dù sự chứng minh thì hoàn toàn chẳng dễ dàng – chứ nói rằng họ đã “tiếp thu toàn bộ từ vựng của người Việt”, như ông Hà Văn Thuỳ đã viết, thì không còn là chuyện khoa học nữa. Không một nhà ngữ tộc học nghiêm túc nào lại nghĩ như thế. Nếu có là khoa học, thì đó chỉ là khoa học giả tưởng.
Câu chuyện xảy ra vào những năm 1970 của thế kỷ trước mà ông Hà Văn Thuỳ đã kể làm quà cũng chẳng đáng tin vì ông cũng không hề cho biết xuất xứ. Huống chi, nếu phát hiện ra rằng trước thời Khổng Tử, đảo Đài Loan là của người Bách Việt (chứ không của người Hán) thì các nhà nghiên cứu và Chính phủ Đài Loan phải mừng húm mới đúng chứ tại sao lại ém nhẹm? Đã muốn độc lập với Hoa Lục thì phải khẳng định rằng “Women bù shì Hànrén” (Chúng tôi không phải là người Hán) chứ cớ sao lại ém nhẹm?
Đến như nói rằng Nữ Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Cốc là những “từ thuần Việt” thì rõ ràng là hoàn toàn nghịch lý. Nếu quả đây vốn là những từ của tiếng Việt mà người Hán đã mượn, thì nó đã được phát âm theo đặc điểm của hệ thống âm vị của tiếng Hán. Những từ này về sau lại được người Việt mượn lại và đọc theo hệ thống âm Hán Việt là một hệ thống chỉ có thể xuất hiện từ đời Đường trở đi mà thôi. Những từ ngữ mà cái vỏ ngữ âm là Nữ Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, v.v., là những từ ngữ Hán Việt chứ thuần Việt thế nào được!
Đó là còn chưa kể rằng, đi vào cụ thể thì những Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, v.v., là những tên bằng tiếng Hán của các nhân vật người Trung Hoa, như chúng tôi đã chứng minh trên Kiến thức ngày nay, số 538. Kỳ này xin nói rõ thêm về chữ đế như sau.
“Đế + X” (X là những tên như Nghiêu, Thuấn, Khốc (chứ không phải “Cốc” như nhiều người đã đọc) v.v.) là một cấu trúc thông dụng trước đời nhà Tần trong đó chữ đế chỉ có nghĩa là “nhân vật tối cao” chứ chưa có nghĩa như các danh từ emperor/empereur trong tiếng Anh/tiếng Pháp. Chỉ khởi đi từ Thuỷ hoàng đế của nhà Tần thì chữ đế mới mang cái nghĩa này. Vậy Đế Nghiêu, Đế Thuấn, v.v., là “ông Nghiêu – nhân vật tối cao: “ông Thuấn – nhân vật tối cao: v.v., chứ không phải “ông hoàng đế tên Nghiêu”, “ông hoàng đế tên Thuấn,” v.v..
“Đế + X” và “X + Đế”
là hai cấu trúc khác hẳn nhau nhưng vẫn là tiếng Hán và đều có “cú pháp ngược” (định ngữ + bị định ngữ) thì ta làm sao có thể nói rằng cái trước là của tiếng Việt. Huống chi, “cú pháp xuôi” (bị định ngữ + định ngữ) đâu có phải là độc quyền của tiếng Việt. Vậy nếu nó không phải Hán thì nó cũng đâu có nhất thiết là tiếng Việt.
Còn cái cấu trúc “trung + danh từ” mà ông Hà Văn Thuỳ đưa ra thì, trước ông, một số người đã từng lăng-xê. Tiếc rằng chưa thấy ai phản bác họ. Thực ra, cấu trúc kiểu trung lộ, trung cốc, v.v., không chỉ có trong Kinh Thi mà thôi. Nó còn thông dụng cả về sau này nữa mà chỉ trong Toàn Đường thi đại từ điển do Trương Địch Hoa chủ biên, quyển nhất, (Sơn Tây Nhân dân xuất bản xã, 1992), ta cũng đã có thể đếm được mấy chục trường hợp:
– trung châu (tr. 146) là ở giữa bãi, chứ không nhất thiết là bãi giữa;
– trung dã (tr. 149) là ngoài đồng, ngoài nội (“trong” phạm vi đồng nội);
– trung diên (tr. 152) là trên chiếu, nghĩa là ở trong tiệc;
– trung đạo, trung đồ (tr. 152) là “trong” đường, nghĩa là trên đường (đi);
– trung giang (tr. 145) là “trong sông”, nghĩa là trên sông;
– trung lâm (tr. 145) là trong rừng; v.v..
Những “hoá thạch ngôn ngữ” như thế này có quá nhiều trong tiếng Hán nên ta buộc phải xét lại xem chúng có “xứng đáng” với cái danh xưng mà ông Hà Văn Thuỳ đã phong hay không. Mà dù có đáng gọi là “hoá thạch” thì đây cũng hoàn toàn có thể là một lớp trầm tích mà dòng chảy của Hán ngữ đã để lại. Phàm khi ta chưa đi vào ngữ pháp lịch sử (historical grammar, grammaire historique) của tiếng Hán thì ta dứt khoát chưa có quyền kết luận điều gì về cái hiện tượng mà ta đang quan sát này. Huống chi, như đã nói, “cú pháp xuôi” đâu có phải là độc quyền của tiếng Việt!
Tóm lại, ta không thể chứng minh một kết luận nào đó chỉ bằng những thao tác tài tử; khoa học đòi hỏi những chứng cứ đầy đủ sức thuyết phục, và đúng phương pháp chuyên môn.
§ 1078. Kiến thức ngày nay, số 540, ngày 10-8-2005
ĐỘC GIẢ: Trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo) của Nguyễn Tài Cẩn (Nxb. Giáo dục, 1995), tác giả có viết:
“Hiện ta có từ mơ là dạng Cổ Hán Việt ứng với cách đọc Hán Việt mai. Mai là kết quả của cả một quá trình diễn biến *əj > oj > aj. Mơ là dạng vay mượn lúc âm cuối *-j chưa xuất hiện trong tiếng Hán: theo giới Hán ngữ học, mơ phải được vay trong khoảng từ 1.500 năm trở về trước. Mà trong thời cổ đại đó thì – cũng theo sự phục nguyên của giới Hán ngữ học – từ mai đang có vần mở là *ə; vần *ə này không những chỉ có mặt trong thời Đông Hán, Tây Hán mà còn lên đến tận thời Kinh Thi”. (tr. 176 – 177)
Nhưng tác giả Hà Văn Thuỳ lại tỏ ý nghi ngờ lập luận của ông Nguyễn Tài Cẩn và khẳng định rằng “Khoảng 5000 năm trước, từ mơ tiếng Việt đã chuyển thành từ mai tiếng Tàu. Không phải Việt mượn của Hán mà Hán mượn của Việt”. Lý do của tác giả này là:
“Khoảng 2500 năm TCN, người Hán vượt sông Hoàng Hà chiếm đất của người Việt. Một bộ phận Bách Việt chạy xuống phía Nam tụ lại ở vùng Ngũ Lĩnh. Phần lớn (khoảng 70%) người Bách Việt ở lại sống cùng quân chiếm đóng. Người Bách Việt do số dân đông áp đảo và văn hoá cao đã đồng hoá kẻ xâm lược cả về huyết thống cả về văn hoá. Cùng với việc tiếp nhận Kinh Thi, Kinh Dịch của người Việt, người Hán đã tiếp thu tiếng Việt vào trong vốn từ vựng của mình. Chính lúc này, mơ của Việt chuyển thành mai của Tàu. Bao tiếng khác cũng được chuyển hoá như vậy làm phong phú vốn từ vựng Trung Hoa”.
Vậy theo ông nên tin ai?
AN CHI: Chúng tôi tán thành Nguyễn Tài Cẩn trong trường hợp này, còn Hà Văn Thuỳ thì đã phóng bút một cách quá hăng hái và vì phóng bút quá hăng hái nên đã quên bẵng việc đi tìm quê hương của cây mơ, mà tên khoa học là Prunus armeniaca Linn.
Hà Văn Thuỳ cho rằng người Việt sống ở phía Nam sông Hoàng Hà trở xuống. Cứ cho rằng điều này đúng thì ta cũng có lý do để nói rằng người Việt biết đến cây mơ cũng là qua vai trò trung gian của người Hán.
Các tài liệu nghiên cứu đều cho ta biết rằng quê hương cây mơ ở về phía Đông Bắc của Trung Quốc giáp giới với nước Nga (Xem chẳng hạn, tous-les-fruits.com; fr. wikipedia. org; v.v.). Người Việt làm gì có “thiên lý nhãn” để nhìn thấu đến quá vùng Đông Bắc Trung Quốc từ phía Nam Hoàng Hà mà biết đến cây mơ! Đó là ta còn chưa nói đến chuyện người Trung Quốc đâu có gọi mơ là “mai”. Tên của cây mơ trong tiếng Hán là hạnh 杏 kia mà!
§ 1079. Kiến thức ngày nay, số 541, ngày 20-8-2005
ĐỘC GIẢ: Trong bài Đôi chỗ dịch sai, nói sai, đăng trên Văn nghệ, số 26, ngày 25-6-2005, tác giả Lê Bầu có nhận xét: “Chữ bao biện đã bị dùng sai, thay thế cho các từ khác như: bao che, biện hộ, ngụy biện, tự bào chữa, thậm chí cả chữ cãi chày cãi cối nữa.” Rồi tác giả này giải thích:
“Thực ra, chữ “bao biện” vốn đã có từ lâu, đã được dùng từ lâu, chưa bao giờ có nghĩa là biện bạch, bào chữa cả, bởi theo nghĩa của từng chữ riêng rẽ, thì “bao” có nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa là bao bọc, ôm trọn lấy, như bao cả gói, còn “biện” nghĩa là làm, cách thức làm, là lo liệu, xử lý. Trong từ điển tiếng Việt, bao biện được dịch nghĩa như sau: “Làm cả những việc lẽ ra phải để người khác làm, đi đến không làm xuể, không tốt”. Còn trong từ điển Hán ngữ người ta cũng định nghĩa như sau, tôi xin dịch: “Không thương lượng, hợp tác với những người có liên quan, chỉ độc một mình, tự làm lấy.
Như vậy, “bao biện”, nói một cách dễ hiểu là ôm đồm, lấn sân, thọc tay bừa bãi vào công việc của người khác, chứ hoàn toàn không bao giờ có nghĩa là biện bạch, là chống chế, là cãi láo, như nhiều nhà báo, nhà văn nói sai, viết sai hiện nay”.
Ông Lê Bầu nói như trên nhưng tác giả Lại Thế Hiền thì lại nói khác. Trong bài Bàn về từ ghép tắt trong tiếng Việt, đăng trên Văn nghệ, số 30, ngày 23-7-2005, tác giả này nhận xét rằng ông Lê Bầu “chiết tự, suy diễn lung tung, không hiểu rằng có một loại từ Việt được hình thành do sự viết tắt khi ghép các thành phần câu với nhau: Bao biện có thể hiểu là bao che, biện bạch được ghép và sinh ra”. Tác giả Lại Thế Hiền kết luận:
Đây là loại từ sẽ xuất hiện nhiều trong quá trình phát triển của tiếng Việt. Cầu mong rằng những từ này không bị cản trở bởi các nhà chiết tự giáo điều, để mà chết yểu, để mà sớm có vị trí trong Từ Điển!”
Tôi đọc xong hai ý kiến trái ngược nhau mà vẫn không rõ ai đúng.
AN CHI: Người nói đúng chính là ông Lê Bầu. Vâng, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) giảng bao biện là “ôm đồm làm nhiều việc”. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2002) giảng là “làm cả những việc lẽ ra phải để cho người khác làm, dẫn đến hậu quả không tốt hoặc việc làm không xuể ”. Ở trong Nam trước 1975, Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức (Sài Gòn, 1970) cũng giảng là “bao gồm nhiều việc trong một lúc; việc gì cũng nhận làm”. Không một quyển từ điển có uy tín nào giảng bao biện là “bao che và biện bạch”. Và ít nhất là trước 1975, ta cũng chưa hề thấy lưu hành cái nghĩa ngộ nghĩnh này.
Bao biện là hai hình vị Hán Việt mà tiếng Hán phổ thông hiện đại phát âm là bão bàn. Bão bàn là một mình xử lý công việc, một mình làm một công việc nào đó, một mình làm mà không bàn bạc với ai hoặc với người lẽ ra phải bàn bạc. Sự dẫn chứng của ông Lê Bầu là một việc cần làm và đó không phải là “chiết tự giáo điều”.
Tóm lại, bao biện không phải là “bao che, biện bạch được ghép và sinh ra” như ông Lại Thế Hiền khẳng định.
§ 1080. Kiến thức ngày nay, số 541, ngày 20-8-2005
ĐỘC GIẢ: Có thật Truyện Kiều đã kỵ huý của Nguyễn Trọng là người chú của Nguyễn Du hay không?
AN CHI: Hoàng Xuân Hãn đã chủ trương như thế nhưng người hưởng ứng rồi bàn kỹ về vấn đề này lại là Nguyễn Tài Cẩn trong phần phụ lục của quyển Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Rất tiếc là Hoàng Xuân Hãn đã sai ngay từ đầu, còn Nguyễn Tài Cẩn thì lại hưởng ứng một cách quá nhiệt thành nên đã tìm mọi lý lẽ hùng hồn để chứng minh cho cái sai của người đi trước.
Sai ngay từ đầu là vì tên người chú của Nguyễn Du đâu có viết bằng chữ trọng 重 bộ lý 里 như Hoàng Xuân Hãn đã ngỡ, mà lại viết thành 仲, như Nguyễn Quảng Tuân đã chỉ ra một cách rành mạch trong bài “Sửa “trọng nghĩa” ra “trượng nghĩa” có phải vì kỵ huý không?”, in làm phụ lục trong quyển Truyện Kiều – Bản Kinh đời Tự Đức, do ông phiên âm và khảo dị (Nxb. Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2003). Nguyễn Quảng Tuân cho biết rằng tên những nhân vật nam trong dòng họ Nguyễn Du đều viết với chữ nhân 亻 ở bên trái: cha là Nghiễm 儼 chú là Trọng 仲, anh là Khản 侃, em là Ức 憶,và con là Ngũ 伍.
Tên của Nguyễn Du dĩ nhiên cũng có chữ nhân mà viết thành 攸. Tất cả đều hiển nhiên là những chữ có chữ nhân 亻 ở bên trái cho nên tên chú của Nguyễn Du tuyệt nhiên không có liên quan gì đến chữ trọng 重 bộ lý 里 mà phải kỵ huý trên chữ viết cả. Nhưng kỳ lạ thay, mới đây, ông Ngô Đức Thọ, chuyên gia hàng đầu về chữ huý ở Việt Nam, lại còn công bố bài “Tìm thấy gia huý Nguyễn Du trong bản Kiều Nôm Duy Minh Thị 1872” (Ngôn ngữ, số 7 (194) 2005), lấy đúng cái chữ này mà làm trung tâm cho sự biện luận. Chẳng những ông đã “chọn nhầm đối tượng” mà cách biện luận của ông cũng không đứng vững được.
Ông Ngô Đức Thọ đã đưa tự dạng của chữ trọng 重 trong 9 câu kiều ra để phân tích và thấy rằng:
– Hai nét sổ hai bên vai của chữ điền 田 đều được viết kéo dài đến sát gạch ngang trên của chữ thổ 土 nên 重 biến thành . Đây là một cách làm có chủ ý.
– Đã thế, nét ngang in của chữ thổ 土 còn được kéo dài cho thò hai đầu ra ngoài, tạo nên một sự bất thường trong lối viết.
– Để gây nên một sự chú ý đặc biệt, người biên tập đã chọn chữ trọng 重 dùng để ghi tên của Kim Trọng (câu 148) mà viết theo một kiểu đặc biệt hơn: nét ngang dưới của chữ điền 田 được biến thành hai chấm nên cả chữ trở thành .
Tất cả những điều trên cho phép kết luận rằng người biên tập đã cố ý tạo những sự bất thường đó để nhấn mạnh rằng đây là một chữ kỵ huý. Tiếc rằng sự thật lại hoàn toàn chẳng phải như thế. Chẳng qua ông Ngô Đức Thọ bị cái thuyết “kỵ huý” của Hoàng Xuân Hãn ám ảnh nên mới nhìn thấy chỉ có trong chữ trọng 重 của bản DMT 1872 thì “hai bên vai của chữ điền 田 mới được kéo dài xuống đến nét ngang trên của chữ thổ 土. Thực ra, sự “kéo dài hai bên vai” là một cái “mốt” mà thợ khắc của bản DMT 1872 còn ban cho nhiều chữ khác nữa:
– Chữ đông 東 trong câu 38 cũng bị “kéo vai xuống” nên mới trở thành .
– Chữ xe 車 ở các câu 48, 72 cũng bị “kéo vai xuống” nên mới trở thành .
– Chữ tự 自 ở câu 107 cũng bị “kéo vai xuống” nên mới thành .
– Chữ chác 卓 ở câu 1459 cũng bị “kéo vai xuống” nên mới trở thành .
v.v. và v.v..
Cái “mốt” lạ lẫm của thợ khắc đã trở thành chỗ dựa để ông Ngô Đức Thọ tìm thấy gia huý của Tố Như tiên sinh. Đến như cái chữ tên của Kim Trọng ở câu 148 mà được viết “bất thường” như thế thì nhà văn bản học cũng nên xét đến đặc điểm của việc in mộc bản: cái nét ngang dưới của chữ điền 田 bị đứt thành hai chấm nên đã trở thành có thể là vì nhiều nguyên nhân. Đó có thể là do chất gỗ không tốt nên cái nét ngang bị bể, gãy vì quá mảnh; có thể là do mặt giấy không thật phẳng nên mực ăn không đều; v.v. và v.v..
Cuối cùng xin nói rằng ông Ngô Đức Thọ đã loại bỏ chữ trọng 重 của hai câu 562 và 2497 vì “trên bản sách in ra nó bị mờ mòn”. Có vẻ như ở chỗ này, ông không được minh bạch: chúng tôi thấy hai chữ đó vẫn rõ ràng, trong đó chữ điền 田 không bị “kéo vai xuống”. Vì hai chữ này hoàn toàn bình thường nên ông mới loại bỏ ra để cho hệ thống chữ huý mà ông “tìm thấy” được chặt chẽ. Chỉ đáng tiếc là cái hệ thống những chữ “bị kéo vai xuống” không chỉ gồm có những chữ trọng ở những câu ông đưa ra, mà còn bao gồm cả nhiều chữ khác nhau rất đa dạng nữa (đông, xe, tự, chác, v.v.), như chúng tôi đã chứng minh.
Tóm lại, cái gia huý của Nguyễn Du mà ông Ngô Đức Thọ đã “tìm thấy” chỉ là một chữ huý ảo nên nó chẳng củng cố được cho cái thuyết “gia huý” của Hoàng Xuân Hãn. Còn Hoàng Xuân Hãn thì đã sai ngay từ đầu vì tên chú của Nguyễn Du lại là 仲 chứ không phải 重 như Hoàng Xuân Hãn đã lầm tưởng.
§ 1081. Kiến thức ngày nay, số 542, ngày 1-9-2005
ĐỘC GIẢ: Chữ “sến” trong “nhạc sến” do đâu mà ra?
AN CHI: Trên một tờ báo ra ngày 19-8-2005, tác giả HĐN đã giải thích: “Theo ý kiến của nhiều lão làng trong giới ca nhạc thì “sến” do chữ sen (trong từ con sen: người giúp việc nhà) đọc trại mà ra. Trước 1954, chỉ có ở miền Bắc mới gọi “ô sin” là con sen, trong miền Nam gọi là “ở đợ”. “Sến” thường là những cô gái quê con nhà nghèo, ít học phải ra tỉnh ở đợ, vì vậy trình độ hiểu biết cũng không cao. Do thường giúp việc cho chủ Tây hoặc trong các gia đình theo Tây học nên các cô được các nhà văn, nhà báo có óc hài hước thêm cho cái tên “Marie” phía trước để trở thành các Mari-Sến. Sau 1954, “Mari-Sến” vào Nam. Dạo đó, nước máy chưa được đưa tới từng nhà, chiều chiều các “Mari-Sến” lại tụ tập quanh cái máy nước (fontaine) để hứng nước gánh về nhà, từ đó lại đẻ thêm cái tên “Mari-Phông ten”.
Chúng tôi chỉ đồng ý với tác giả HĐN ở một điểm duy nhất là quê hương của “Mari-Sến” ở miền Bắc. Còn sau đây là những điểm mà chúng tôi nghĩ khác.
Thứ nhất, mặc dù xét về ngữ âm học lịch sử thì hai vần -en và -ên cũng như thanh điệu 1 (không dấu) và thanh điệu 5 (dấu sắc) hoàn toàn có thể chuyển đổi với nhau nhưng ở đây ta lại không thể chứng minh được tại sao sen lại cứ phải chuyển thành “sến”. Ta không có bất cứ lý do nào để khẳng định rằng Marie-Sến lại hay hơn hoặc thích hợp hơn là *Marie-Sen.
Thứ hai, “Sến” chưa bao giờ là một danh từ độc lập đồng nghĩa với sen (trong con sen) để cho người ta có thể thêm cái tên Marie vào trước mà gọi thành “Marie-Sến”.
Thứ ba, ta cũng không thể chứng minh được tại sao các “con sen” lại được (hay là bị?) “các nhà văn nhà báo có óc hài hước thêm cho cái tên “Marie” phía trước” chỉ vì họ “giúp việc cho chủ Tây hoặc các gia đình theo Tây học”.
Thứ tư là ta còn chưa xét xem đây là trường hợp mà người ta đã thêm Marie vào trước Sến hay là thêm Sến vào sau Marie.
Thứ năm là khi “Marie Sến vào Nam” thì tại Sài Gòn, chỉ có ở những xóm lao động như Bàn Cờ, Bàu Sen, Chợ Quán, v.v., mới có phông-tên nước chứ ở những con đường như Catinat, Bonard, v.v., thì làm gì có. Những người đi gánh nước phông-tên ở những khu bình dân đó nói chung là những người đi gánh cho nhà mình, chứ có phải là “con sen” đâu! Vậy thì người ta cũng chẳng có lý do gì mà gọi họ là những “Marie-Phông ten”.
Theo chúng tôi thì, trong Marie Sến, Marie vốn là cái tên bằng tiếng Pháp mà một cô gái không đứng đắn nào đó đã lấy để tự “đánh bóng”. Nhưng vì thấy cô ta không xứng đáng nên có người mới mỉa mai mà thêm cái chữ về sau đã trở thành Sến vào sau để diễn cái ý phủ nhận đại khái như. “Marie cái quái gì!”, “Marie cái con khỉ!”, “Marie cái… cứt gì!”, v.v.. Ở đây người ta đã chơi “sang” – để đáp lại sự “sang trọng” của cô gái – mà dùng tiếng Pháp selles để nói thành Marie Selles. Trong tiếng Pháp selles nghĩa là phân, cứt. Người Pháp chánh tông thì chỉ thấy đây là một cái tên không đẹp, không thanh. Phải là người Việt Nam mượn tiếng Pháp để chơi chữ thì mới hiểu được rằng Marie Selles là “Marie cái… cứt gì!” mà thôi. Và vì không phải ai cũng phát âm đúng giọng Pháp nên dần dần Selles mới trở thành sến trong khẩu ngữ của người bình dân, như ta thấy hiện nay. Về mặt âm lý, nếu sến có thể do sen mà ra thì nó cũng hoàn toàn có thể bắt nguồn từ selles.
Sến < selles ban đầu vốn là một từ dùng để tỏ ý phủ nhận sự sang trọng, sự quý phái, v.v., của cô gái, dần dần mang cái nghĩa mới là: nhà quê, thấp kém về văn hoá, v.v..
Còn Marie Phông-ten thì cũng xuất hiện ở miền Bắc từ lâu rồi chứ không phải sau khi Marie Sến vào Nam rồi mới có.
Ý kiến của chúng tôi là như thế còn đúng, sai thế nào thì lại phải chờ ở sự thẩm định của các bậc thức giả.
§ 1082. Kiến thức ngày nay, số 542, ngày 1 -9-2005
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 295, ngày 10-10-1998, ông đã khẳng định rằng phớt trong phớt Ăng-lê là tiếng Việt thuần tuý, như đã có trước khi tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Pháp (nói phớt qua, phớt tỉnh, phớt lờ, v.v.). Tôi rất tin tưởng ở ông nhưng còn cả cái thành ngữ phớt Ăng-lê nguyên vẹn thì sao? Liệu có ảnh hưỏng của tiếng Pháp ở đây không?
AN CHI: Trên Chuyện Đông chuyện Tây, đã có một số lần chúng tôi nói đến các sự cố ngôn ngữ (accidents linguistiques) trong đó có những sự đan xen hình thức (croisements de formes) và những sự lan truyền ngữ nghĩa (contaminations de sens). Ở đây cũng vậy.
Ta biết tiếng Pháp có hai danh ngữ gần như cố định là feutre anglais và flegme anglais.
Feutre có nghĩa là dạ, nỉ, rồi còn được dùng theo hoán dụ để chỉ một loại mũ (nón) làm bằng thứ chất liệu đó nữa, như vẫn còn lưu lại trong các danh ngữ nón phớt (Nam), mũ phớt (Bắc). Thời Pháp thuộc, một số mặt hàng len dạ của nước Anh được ưa chuộng, trong đó có feutre anglais (dạ (nỉ) của Anh). Rồi danh ngữ feutre anglais cũng được một số người tiêu dùng sính tiếng Pháp phát âm một cách bình dân thành phớt Ăng-lê. Vậy, thoạt kỳ thuỷ thì danh ngữ phớt Ăng-lê có nghĩa là dạ của nước Anh. Nó “chết âm” từ đây còn nghĩa gốc của nó thì dần dần mất đi để nhường chỗ cho một cái nghĩa khác.
Còn flegme anglais là sự bình tĩnh kiểu Anh nhưng đây lại không phải là xuất xứ của thành ngữ phớt Ăng-lê theo cách hiểu hiện nay vì về âm lý thì fleg(me) không thể dẫn đến phớt. Khi người ta muốn diễn đạt khái niệm flegme anglais sang tiếng Việt thì ngôn ngữ này đã sẵn có:
– vị từ phớt trong phớt lờ, phớt tỉnh, v.v.;
và
– phớt Ăng-lê, nghĩa là dạ, nỉ của Anh, mà người ta không còn biết đến nghĩa gốc. Tệ hại hơn nữa, người ta còn tưởng rằng phớt Ăng-lê là một hình thức phiên âm sẵn có của flegme anglais nên đã “phớt Ăng-lê” với nguồn gốc và nghĩa gốc đích thực của nó để xài nó một cách tự nhiên mà diễn đạt cái nghĩa của… flegme anglais.
Vì vậy nên có nhà nghiên cứu mới khẳng định rằng phớt (Ăng-lê) là do flegme (anglais) mà ra. Nhưng, như đã thấy, đây chỉ sự đánh lừa của từ ngữ mà thôi.
§ 1083. Kiến thức ngày nay, số 542, ngày 1 -9-2005
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 540, ông đã khẳng định rằng tên của cây mơ trong tiếng Hán lại là hạnh (chứ không phải mai). Thế còn tên của hai giống cây này trong tiếng Pháp và tiếng Anh là gì?
AN CHI: Đã từng có tác giả dịch mai là abricotier (tiếng Pháp) và apricot (tiếng Anh), chẳng hạn Nguyễn Văn Vĩnh khi dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp hoặc Lê Xuân Thuỷ khi dịch truyện Nôm này sang tiếng Anh (Theo Truyện Kiều tập chú của Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hoà, Nxb. Đà Nẵng, 1999).
Thực ra thì tiếng Pháp gọi quả mai là prune còn cây mai là prunier. Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur còn dịch rõ hơn nữa là Prune Mume (quả mai) vì tên khoa học của cây mai là Prunus mume. Trong tiếng Anh thì mai được gọi là plum hoặc prune, như đã đối dịch trong Mathews’ Chinese – English Dictionary .
Còn abricot(ier) và apricot thì lại là tên bằng tiếng Pháp và tiếng Anh của mơ, mà tiếng Hán gọi là hạnh, tên khoa học là Prunus armeniaca Linn., như đã khẳng định trên Kiến thức ngày nay, số 540.
Chính vì tên của cây mai trong tiếng Pháp là prunier và tiếng Anh là plum nên tên Làng Mai của thiền sư Thích Nhất Hạnh ở bên Pháp mới được dịch sang tiếng Pháp thành Village des Pruniers và sang tiếng Anh thành Plum Village.
§ 1084. Kiến thức ngày nay, số 543, ngày 10-9-2005
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 542, ông đã khẳng định rằng mình “chỉ đồng ý với tác giả HĐN ở một điểm duy nhất là quê hương của “Marie Sến” ở miền Bắc.” Nhưng trong bài “Cần bàn tiếp chuyện sến” (Thanh niên, ngày 23-8-2005), tác giả Hoàng Phủ Ngọc Phan lại khẳng định rằng “nhân vật” này xuất thân ở miền Nam. Tác giả này đã đưa ra chứng cứ rất thuyết phục: “Khoảng thập niên 1960, các rạp ciné ở Sài Gòn, Huế và các thành thị miền Nam thay nhau chiếu một bộ phim rất ăn khách: Anh em nhà Karamazốp, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Doxtôiepxki. Trong phim có cảnh một vũ nữ hộp đêm vừa múa vừa hát bài Mambo Italiano – y phục nghèo nàn, thân hình bốc lửa, tóc tai xoã xượi, gào thét và rên rỉ, quằn quại và khiêu khích… nói chung là quậy tới bến. Diễn viên đóng vai vũ nữ ấy là Maria Schell, trước đó chưa hề nổi tiếng nhưng nhờ màn múa đầy ấn tượng này, tên cô được quảng cáo ngang hàng với nam diễn viên Yul Brynner, tài tử thượng thặng của Hollywood. Phim chiếu loanh quanh các rạp, cả tháng chưa hết người xem. Lúc này bắt đầu xuất hiện những fan của Maria Schell. Trẻ em đường phố tập tành nhún nhảy bài Mambo Italiano. Các cô gái đợt sóng mới lăng-xê kiểu tóc xoã xượi, mắt xanh Bel, phô trương thân hình… Trên sân khấu phòng trà mọc lên những ngôi sao ca nhạc gào thét, quằn quại như con thanh xà, bạch xà. Từ Mari Sến thoạt tiên được dùng như một biến âm của Maria Schell để chỉ dạng biến thái này trong sinh hoạt của giới trẻ. Dầu không giống Maria Schell cho lắm, nhưng các Sến cũng tạo được một sức hấp dẫn nhất định.” Chứng cứ của tác giả bài báo rất rõ ràng, cụ thể. Vậy ông có sẵn sàng rút lại ý kiến của mình hay không?
AN CHI: Tất cả các vị tuổi ngoại bảy mươi quê ở miền Bắc mà chúng tôi hỏi đều xác nhận rằng “Marie Sến” là một lối nói đã có ở miền Bắc từ sáu, bảy mươi năm về trước (giai đoạn 1930 – 1945), hoàn toàn đúng như ông Cao Xuân Hạo đã khẳng định trên báo Thanh niên, ngày 19-8-2005. Miền Nam vốn không có lối nói này mà cũng hiếm khi dùng hai tiếng “con sen” để chỉ các oshin, đúng như ông Hoàng Phủ Ngọc Phan đã khẳng định. Nhưng sau 1954 thì “Marie Sến vào Nam”, đúng như tác giả HĐN đã viết. Nghĩa là đồng bào (thành thị) miền Bắc di cư đã đem mấy tiếng “Marie Sến” vào Nam. Vậy khi Maria Schell xuất hiện trên màn bạc ở miền Nam hồi đầu thập kỷ 1960 thì Marie Sến đã ra đời tại miền Bắc trước đó ít nhất là 15 năm để có mặt tại miền Nam trước đó ít nhất là 6 năm. Vì thế nên không thể nói rằng mấy tiếng Marie Sến “thoạt tiên được dùng như một biến âm của Maria Schell”.
Sự thật của lịch sử và ngôn ngữ đã rõ ràng như thế. Huống chi, cái đặc điểm đã tóm tắt bằng ba tiếng “quậy tới bến” đâu có thuộc về nữ diễn viên màn bạc Maria Schell. Đó chỉ là tính cách của nhân vật Grushenka mà cô đào này thủ vai trong phim Anh em nhà Karamazov. Ta không thể đánh đồng nhân vật trong phim với diễn viên của phim. Trong phim Nàng Dae Jang Geum thì tấm lòng và tài năng trong việc nấu ăn và trị bệnh là của nhân vật Dae Jang Geum do Lee Young Ae thủ diễn chứ đâu phải của Lee Young Ae. Trong phim Thần y Hur Jun thì y đức sáng ngời và đầy tính nhân văn là của nhân vật Hur Jun do Jeon Kwang Ryul thủ vai chứ đâu phải của Jeon Kwang Ryul. Vậy cái tính “quậy tới bến” là của nhân vật Grushenka nên ta không thể gán nó cho diễn viên Maria Schell rồi dựa vào đó mà biến tên của nữ diễn viên này thành “Marie Sến”.
Nhưng cái lý do quan trọng nhất buộc ta phải loại bỏ tên họ của nữ minh tinh màn bạc Maria Schell ra khỏi việc truy tầm từ nguyên của mấy tiếng Marie Sến là mấy tiếng này đã ra đời tại miền Bắc ít nhất là 15 năm trước khi nữ minh tinh kia xuất hiện trên màn bạc của miền Nam Việt Nam.
§ 1085. Kiến thức ngày nay, số 543, ngày 10-9-2005
ĐỘC GIẢ: Nhân bàn chuyện “sến” một tác giả có viết: “Tiếng Pháp không có từ sến nhưng có từ tương đương: sous-culture (dưới văn hoá).” Xin cho biết sous-culture mà dịch là “dưới văn hoá” thì có thoả đáng không? Sous-culture thực chất nghĩa là gì?
AN CHI: Trong những từ ghép mà sous là thành tố thứ nhất, sous chỉ có thể được dịch thành “dưới” nếu từ ghép là tính từ (adjectif); thí dụ:
– sous-calibré: dưới cỡ;
– sous-caudal: dưới đuôi;
– sous-conjonctival: dưới kết mạc;
– sous-épidermique: dưới biểu bì;
– sous-muqueux: dưới màng nhầy; v.v..
Nhưng trong những trường hợp mà từ ghép với sous (là thành tố thứ nhất) là danh từ thì ta lại không thể dịch như thế được. Ở đây, sous phải được dịch thành phân hoặc phó (tuỳ theo nghĩa của thành tố thứ hai), thí dụ:
– sous-classe: phân lớp;
– sous-espèce: phân loài;
– sous-famille: phân họ;
– sous-groupe: phân nhóm; v.v..
hoặc:
– sous-directeur: phó giám đốc;
– sous-ingénieur: phó kỹ sư;
– sous-inspecteur phó thanh tra;
– sous-gouverneur: phó thống đốc; v.v..
Sous-culture là một danh từ nên phải được đối dịch bằng một danh từ chứ không thể bằng ngữ giới từ “dưới văn hoá”. Dictionnaire Hachette, édition 2005, giảng sous-culture là “culture d’un groupe social déterminé, le plus souvent jugée inférieure” (văn hoá của một nhóm xã hội nhất định, thường được đánh giá là thấp kém). Danh từ tương ứng trong tiếng Anh là subculture, được Oxford Advanced Learner’s Dictionary (Sixth edition, 2000 (4th impression, 2002)) giảng là “(sometimes disapproving) the behaviour and beliefs of a particular group of people in society that are different from those of most people” ((có khi là chê) cách ứng xử và những niềm tin của một nhóm người đặc biệt trong xã hội, khác với (cách ứng xử và những niềm tin…) của hầu hết mọi người).
Ta có thể đưa vào hệ thống mà dịch sous-culture là “phân văn hoá”. Nhưng chúng tôi thấy từ điển Trung Quốc có quyển đã dịch subculture thành á văn hoá và chúng tôi thấy á văn hoá hay hơn. Dĩ nhiên là sous còn có thể được dịch theo một số nghĩa khác nữa nhưng vì, với những nghĩa này, nó không tạo thành những hệ thống chặt chẽ nên chúng tôi không nêu ra.
§ 1086. Kiến thức ngày nay, số 543, ngày 10-9-2005
ĐỘC GIẢ: Trong quyển Kim Vân Kiều tân truyện do Abel des Michels dịch sang tiếng Pháp (Paris, Ernest Leroux, Editeur, 1884), câu đầu tiên (Trăm năm trong cõi người ta) đã được vị này dịch là:
De tout temps, parmi les hommes. (Xin xem Tome premier, p. 4)
Tại sao trăm năm lại không phải cent ans mà là “de tout temps”? De tout temps là “bao giờ cũng có”, “luôn luôn” (theo Từ điển Pháp Việt của ACCT, Pháp) còn cụ Nguyễn Du thì chỉ hạn chế trong vòng 100 năm (một đời người) mà thôi!
AN CHI: Chúng tôi cho rằng ở đây, người đã hiểu đúng ý của Nguyễn Du chính là Abel des Michels. Trong bài “Trăm năm trong cõi người ta nghĩa là gì?”, Cao Xuân Hạo đã giải thích như sau:
“1. Mấy chữ trong cõi người ta khó lòng có thể hiểu thành “trong vòng một đời người”, trước hết vì cõi chỉ một khoảng không gian, một nơi chốn, một vùng chứ không bao giờ chỉ một khoảng thời gian (…).
“2. Còn hai chữ trăm năm thì có thể hiểu là “thời gian của một đời người” nhưng cũng có thể hiểu, theo cách dùng số từ thông dụng trong tiếng Việt, trong tiếng Hán, tiếng Nhật và nhiều thứ tiếng Á Đông khác, như một thời gian dài không hạn định, nghĩa là “xưa nay”. Trăm, bách, cũng như mười, thập, cũng như ngàn, thiên, muôn, vạn, rất hay dùng để biểu đạt ý “khẳng định tổng quát” (“tất cả”): mười phần, mười phương, trăm bề, trăm đường, trăm phần, trăm họ, trăm sự (= mọi sự), trăm thứ (= đủ thứ), ngàn đời (cf. Ngàn năm (= xưa nay) ai có khen đâu Hoàng Sào), ngàn thu, vạn kiếp, vạn đại, vạn niên, muôn phần, muôn năm, muôn thuở.
“3. Như vậy hình như trăm năm trong cõi người ta có nghĩa là “xưa nay trong cõi thế gian của loài người” chứ không phải “trong vòng một trăm năm là thời gian tồn tại của một kiếp người” (“dans les cent ans que dure une vie humaine”) như trong tất cả các bản dịch ra tiếng Pháp mà tôi được biết”*.
Tóm lại, theo Cao Xuân Hạo, thì trăm năm ở đây có nghĩa là “xưa nay”. Mà de tout temps của Abel des Michels thì cũng chính là “xưa nay” đó thôi.
§ 1087. Kiến thức ngày nay, số 544
ĐỘC GIẢ: Xin ông vui lòng cho biết “say như bùn” là say như thế nào?
AN CHI: Xin thưa ngay với ông rằng tiếng Việt không có thành ngữ “say như bùn”. Đây chẳng qua là một cách dịch sai từ thành ngữ “tuý như nê” của tiếng Hán mà trước đây một vài tác giả cũng đã giải thích rõ.
Tuy chữ nê 泥 có nghĩa là bùn nhưng trong câu tuý như nê thì nó lại chỉ một giống động vật mà truyền thuyết Trung Hoa đã miêu tả là không xương, hễ có nước thì sống, không có nước thì “say” (tuý), nằm im như một đống bùn. Vậy cái nghĩa ở đây là một nghĩa phái sinh do ẩn dụ mà ra và đã đi rất xa với nghĩa gốc. Trước đây, một số người đã không tìm hiểu kỹ, chỉ bám vào nghĩa gốc thông dụng mà dịch “tuý như nê” thành “say như bùn” nên mới gây ra thắc mắc như ông đã hỏi. Vậy xin hiểu tuý như nê là “say như con nê”. Nếu cứ quyết dịch nê ở đây thành “bùn” thì cũng xin hiểu rằng đây là “con bùn”, tức một loài động vật chứ “bùn” ở đây không còn là sình lầy nữa.
Liên quan đến con nê, tiếng Hán chẳng những có thành ngữ tuý như nê mà còn có cả danh ngữ nê tuý, nghĩa là cơn say của con nê, như đã ghi nhận trong từ điển, chẳng hạn Từ nguyên, Từ hải, v.v..