Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1063 - 1074

§ 1063. Kiến thức ngày nay, số 534, ngày 10-6-2005

ĐỘC GIẢ: Tôi nghe nói trong quyển Thi pháp, phụ lục Thi tập của Diên Hương do tác giả xuất bản tại Sài Gòn trước đây, có một thí dụ về thơ hồi văn mà đọc được đến 6 cách, gọi là lục chuyển. Xin tìm giúp bài thơ này.

AN CHI: Đó là bài Tết của T.P. ở trang 119 – 121.

ĐỌC XUÔI

Vành hoa cánh bướm nối xây vần,

Tết đến người người gọi ấy xuân.

Tranh liễn bánh chưng nhà chật chỗ,

Lụa hàng ai mặc hội chen chân.

Anh say đánh chén cùng khai bút,

Chị thích đua khăn với sánh quần.

Nhành điểm ánh mai vàng nức nụ,

Thanh hồng cảnh phới phới ngoài sân.

ĐỌC NGƯỢC

Sân ngoài phới phới cảnh hồng thanh,

Nụ nức vàng mai ánh điểm nhành.

Quần sánh với khăn đua thích chị,

Bút khai cùng chén đánh say anh.

Chân chen hội mặc hai hàng lụa,

Chỗ chật nhà chưng bánh liễn tranh.

Xuân ấy gọ i người người đến tết,

Vần xây nối bướm cánh hoa vành.

TAM CHUYỂN

Vành hoa cánh bướm nối,

Tết đến người người gọi.

Tranh liễn bánh chưng nhà,

Lụa hàng ai mặc hội.

Anh say đánh chén cùng,

Chị thích đua khăn với.

Nhành điểm ánh mai vàng,

Thanh hồng cảnh phới phới.

TỨ CHUYỂN

Phới phới cảnh hồng thanh,

Vàng mai ánh điểm nhành.

Với khăn đua thích chị,

Cùng chén đánh say anh.

Hội mặc ai hàng lụa,

Nhà chưng bánh liễn tranh.

Gọi người người đến tết,

Nối bướm cánh hoa vành.

NGŨ CHUYỂN

Cánh bướm nối xây vần,

Người người gọi ấy xuân.

Bánh chưng nhà chật chỗ,

Ai mặc hội chen chân.

Đánh chén cùng khai bút,

Đua khăn với sánh quần,

Ánh mai vàng nức nụ,

Cảnh phới phới ngoài sân.

LỤC CHUYỂN

Sân ngoài phới phới cảnh,

Nụ nức vàng mai ánh.

Quần sánh với khăn đua,

Bút khai cùng chén đánh.

Chân chen hội mặc ai,

Chỗ chật nhà chưng bánh.

Xuân ấy gọi người người,

Vần xây nối bướm cánh.

Tác giả giải thích:

“Một bài bát cú, mà đọc xuôi đọc ngược, cắt trước cắt sau, đọc thành sáu bài, mỗi bài đủ ý tứ: Thuận-nghịch-độc (đọc xuôi và đọc ngược – AC) là hai lần; bài nghịch bỏ hai chữ chót còn một bài ngũ ngôn, đọc xuôi đọc ngược, thành bốn lượt; bài thuận bỏ hai chữ chót, cũng thành một bài ngũ ngôn, đọc thuận đọc nghịch hai vần nữa là sáu lần”.

Ngoài ra, tác giả còn ghi chú thêm:

“Mấy bài lục chuyển, còn đọc được nhiều cách (có người nói đến cả trăm) tuỳ theo cắt chỗ này, cắt chỗ kia, đọc qua, đọc lại, đọc tới, đọc lui…”.

Còn chúng tôi thì mạo muội nghĩ rằng càng đọc được nhiều cách thì cái hay, mà trước nhất là cái tính chất xuôi vần thuận nghĩa, sẽ càng giảm đi mà thôi.

§ 1064. Kiến thức ngày nay, số 534, ngày 10-6-2005

ĐỘC GIẢ: Trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây, ông có nhắc đến quyển Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca. Xin ông cho biết đây là một quyển sách như thế nào?

AN CHI: Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca là một quyển văn vần viết theo thể lục bát do vua Tự Đức soạn để dạy chữ Hán bằng chữ Nôm, kiểu như Nhất thiên tự, Tam thiên tự, v.v.. Trước 1975, Ủy ban dịch thuật của Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hoá ở Sài Gòn có giao cho Phương Thủ Nguyễn Hữu Quỳ phiên âm và chú giải tác phẩm này và ấn hành vào năm 1971. Ở đây, xin giới thiệu bản phóng ảnh tờ 1a của bản in này với phần phiên âm của Nguyễn Hữu Quỳ như sau:

“Thiên trời, Địa đất, Vị ngôi.

Phú che, Tái chở, Lưu trôi, Mãn đầy.

Cao cao, Bác rộng, Hậu dày,

Thần mai, Mộ tối, Chuyển xây, Di dời.

Nguyệt mặt trăng, Nhật mặt trời,

Chiếu soi, Lâm tới, Thế đời, Niên năm”*.

Ta thấy trang 1a có 5 cột dọc; phần phiên âm của Nguyễn Hữu Quỳ thuộc về các cột 3, 4, 5.

Chữ Hán được giảng đứng trên và được khắc in to hơn còn chữ Nôm dùng để giảng thì đứng dưới và được khắc in nhỏ hơn.

Tại cột 1, ta đọc được dòng chữ Hán:

“Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca quyển chi nhất”,

nghĩa là

“Quyển một (của sách) Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca”.

Ở cột 2 là bốn chữ “Kham dư loại, thượng: nghĩa là “Loại (nói về) trời đất, quyển thượng”.

Xin chú ý: Chữ “năm” dùng để giảng chữ Niên không có ở tờ 1a vì nằm ở đầu tờ 1b.

§ 1065. Kiến thức ngày nay, số 534, ngày 10-6-2005

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 267, ngày 20-121997, sau khi bàn về bài thơ Lũ ngẩn ngơ của Hồ Xuân Hương mà ông chứng minh rằng câu 3 và câu 4 (Ong non ngứa nọc châm hoa rữa – Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa) đã từng có mặt trong Hồng Đức quốc âm thi tập đời Lê Thánh Tông (thế kỷ XV) ông đã kết luận: “Có khi chỉ vì khoái hiện tượng éros mà người ta sẵn sàng tin rằng nhiều bài hoặc tất cả các bài đậm chất gợi dục, được truyền tụng là của Hồ Xuân Hương, đích thị là của bà.”

Thường thường đối với những chữ khó, ông có cho chú thích ở cuối câu trả lời nhưng đối với chữ “éros” thì ông lại không làm như thế nên tôi – và có lẽ nhiều độc giả khác cũng thế – không biết “éros” là gì.

AN CHI: Eros bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp erôs, có nghĩa là sự yêu thích, sự say mê, tình yêu. Trong tiếng Hy Lạp, danh từ chung này về sau còn được dùng để chỉ Thần Ái tình (trong trường hợp này, nó đã trở thành danh từ riêng). Một số ngôn ngữ châu Âu, chẳng hạn tiếng Anh (eros), tiếng Pháp (éros), v.v., đã mượn danh từ này bằng cách phiên âm thẳng từ tiếng Hy Lạp để chỉ tình yêu thiên về mặt tính dục; nhục dục. Phân tâm học cũng dùng danh từ éros/eros để chỉ tổng thể các xung năng của sự sống, đặc biệt là về mặt tính dục.

Liên quan đến danh từ đang xét, mới đây, báo Thanh niên ngày Chủ nhật 5-6-2005 có đăng một bài mang tính chất thông tin khá thú vị của Tố Loan, nhan đề “Củng Lợi và bàn tay của thần ái tình”. Dưới đây là mấy trích đoạn cần thiết:

“Đạo diễn Hồng Kông Vương Gia Vệ đã thể hiện quan niệm về tình yêu và tình dục của ông trong Bàn tay, phần đầu trong ba phần của phim Eros (Thần Ái tình). Ba đạo diễn, ba phim ngắn về tình yêu và tình dục”.

(…)

“Ba phần trong Eros nói về tình yêu, tình dục hay cả hai vấn đề? Mỗi đạo diễn trả lời bằng một cách riêng. Vương Gia Vệ chọn xoáy vào cả hai đề tài trên trong Bàn tay. Steven Soderbergh bàn về tình dục trong Equilibrium, còn phần The Dangerous Thread of Things của Michelangelo Antonioni thì chẳng dính dáng gì đến ba phương án trên”.

Nội dung chính của phim Bàn tay như thế nào thì xin mời ông và bạn đọc tìm đọc trên báo Thanh niên; còn ở đây chúng tôi chỉ xin trích phần mở bài:

“Bàn tay điệu nghệ của nàng kỹ nữ đã mở lối cho chàng thợ may học việc lần đầu tiên bước vào vườn yêu. Và thế là chàng đã trúng mũi tên của thần tình yêu nằm ẩn trong bàn tay bỡn cợt ấy… Rồi nhiều năm sau đó, chàng đã dùng chính đôi bàn tay tài hoa của mình âu yếm cảm nhận vóc dáng của nàng để may cho nàng tấm áo đẹp cuối đời.

Đôi bàn tay ấy vẫn nguyên vẹn tình yêu ban đầu chàng dành cho nàng…”.

Tác giả bài báo hiểu Eros ở đây là “Thần Ái tình” nên tên phim của Vương Gia Vệ (Bàn tay) cũng được tác giả suy diễn thành “bàn tay của Thần Ái tình”. Chúng tôi thì cho rằng đây là “bàn tay” của eros với tính cách là một thuật ngữ phân tâm học vì chính nội dung này mới thật sự nhất quán với cái triết lý sâu xa mà Vương Gia Vệ muốn gởi gắm trong bộ phim.

§ 1066. Kiến thức ngày nay, số 535, ngày 20-6-2005

ĐỘC GIẢ: Những ngày gần đây, chương trình thử nghiệm nối sóng 24/24 giờ của HTV7 có phát sóng bộ phim Anh hùng xạ điêu, quay theo tác phẩm văn học cùng tên của nhà văn Kim Dung. Trong phim, có một nhân vật thiếu niên tên là Thác Lôi. Nhưng tôi nhớ, cũng tên của nhân vật này, trước đây có người đã phiên âm thành Đà Lôi. Vậy xin cho biết đây là Đà hay Thác? Đây là một chữ bị đọc nhầm hay là một chữ có hai âm, đọc theo âm nào cũng được?

AN CHI: Trong phần phân vai diễn viên của bộ phim đang trình chiếu mà ông đã nêu, tên của nhân vật đang xét được ghi là 托雷.

Âm (Hán Việt) chính xác của hai chữ này là Thác Lôi. Tất cả các quyển từ điển quen thuộc đều ghi nhận âm của chữ 托 là thác; không có quyển nào ghi là “đà”. Theo Khang Hy tự điển, thì cả Tập vận lẫn Vận hội đều ghi thiết âm của nó là “thát các thiết”. Từ nguyên và Từ hải đều cho: “tha hác thiết, âm thác”. Còn Hán ngữ đại từ điển thì ghi giống như Tập vận và Vận hội.

Tóm lại, âm của chữ 托 là “thác” và chữ này chỉ có một âm mà thôi. Vậy tên của nhân vật đang xét là Thác Lôi chứ không phải “Đà Lôi”.

§ 1067. Kiến thức ngày nay, số 535, ngày 20-6-2005

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 532, ông có nhận xét về quyển Les missionnaires portugais etles débuts de l’Eglise catholique au Viêt-nam của Roland Jacques do Định Hướng Tùng Thư ấn hành song ngữ (Pháp – Việt) năm 2004. Ông có phân tích rằng nhan đề tiếng Pháp và nhan đề tiếng Việt của quyển sách này không ăn khớp với nhau. Tôi rất nhất trí với ông và đề nghị ông nhận xét thêm xem có phải nội dung phần dịch thuật bên trong cũng có những chỗ không đạt hay không.

AN CHI: Vâng, ông đã nhận xét đúng. Sau đây là một vài dẫn chứng lấy từ các trang 36 – 39 của tome 2:

– “L’Eglise de France se tourne vers l’Eglise du Viêt-nam” (tr. 36) được dịch thành “Giáo hội Pháp quay lại với Giáo hội của Việt Nam”. (tr. 37) Se tourner (vers) mà dịch thành “quay lại” thì không chính xác. Đây chỉ đơn giản có nghĩa là “hướng về”. Nếu là “quay lại” thì phải dùng se retourner. Huống chi, Giáo hội nước Pháp có bỏ đi đâu mà “quay lại”?

– “Cette Eglise est d’origine française” (tr. 36) đã được dịch thành “Giáo hội này có gốc từ Pháp” (tr. 37). Câu tiếng Pháp thì hoàn toàn không có vấn đề gì đối với ngữ pháp và việc dùng từ của tiếng Pháp nhưng câu tiếng Việt thì thực sự không ổn. Nói “Chiếc xe Peugeot này có gốc từ Pháp” thì được chứ nói “Giáo hội của Việt Nam có gốc từ Pháp” thì không được vì nó đâu có được “chế tạo” sẵn từ Pháp rồi mang sang Việt Nam như chiếc xe Peugeot kia.

– Câu “Rhodes n’ était pas plus français que S. François de Sales”. (tr. 38) có nghĩa là:

“Rhodes cũng không Pháp gì hơn Thánh François de Sales”.

Nhưng các dịch giả lại dịch câu này thành “Cha Rhodes cũng không phải người Pháp như trường hợp của thánh François de Sales”. (tr. 39). Lời dịch này có hai cái sai.

Thứ nhất, khi Roland Jacques viết “Rhodes n’étaitpas plus français que (…)” thì ông đã công nhận rằng A. de Rhodes có chất Pháp ở trong người rồi chứ đâu có phải là “không phải người Pháp”.

Thứ hai, là theo cách diễn đạt của các dịch giả thì cảm thức chính xác của người Việt về tiếng mẹ đẻ của mình buộc họ phải kết luận rằng A. de Rhodes không phải là người Pháp chứ Thánh François de Sales thì phải. Khi ta nói “Phạm nhân A không được xử án treo như trường hợp của phạm nhân B”, chẳng hạn, là ta muốn nói rằng B được xử án treo còn A thì không. Khi ta nói “Thí sinh C không được xét đặc cách như trường hợp của thí sinh D”, chẳng hạn, là ta muốn nói rằng D được xét đặc cách còn C thì không. Vậy cách diễn đạt của các dịch giả rõ ràng là không ổn vì chính Roland Jacques thì lại muốn nói rằng cái chất Pháp của A. de Rhodes và cái chất Pháp của Thánh François de Sales cũng chẳng hơn kém gì nhau.

Trên đây là ba trường hợp mà chúng tôi đưa ra phân tích để chứng minh rằng việc biên dịch từ Pháp sang Việt trong bộ sách hai tập của Roland Jacques còn có những chỗ chưa ổn. Trong đó, có những chỗ sai rất nguy hiểm vì nó đã phản lại ý trong nguyên văn của tác giả.

§ 1068. Kiến thức ngày nay, số 535, ngày 20-6-2005

ĐỘC GIẢ: Tên phim, tên sách, v.v., thường được gọi là nhan đề nhưng có một số người lại gọi là “tựa đề”. Giữa hai cách gọi này, cách nào mới đúng hay là cả hai cách đều đúng?

AN CHI: Nhan đề mới là cách gọi đúng nhưng lâu nay ở trong Nam, nhiều người vẫn gọi là tựa đề, có khi còn nói tắt thành tựa, rồi cách gọi này cũng đã được ghi nhận vào từ điển, chẳng hạn Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ:

“Tựa (…) Nhan-đề, tên hiệu một quyển sách hay bài báo: Tựa bằng chữ to. Bài ấy tựa là…”.

Chúng tôi tán thành ý kiến của ông là ta nên dùng hai tiếng nhan đề thì mới chuẩn.

§ 1069. Kiến thức ngày nay, số 536, ngày 1 -7-2005

ĐỘC GIẢ: Từ thời “xa xưa”, trong Nam vẫn nói “đá banh” để chỉ môn thể thao hoành tráng mà tiếng Pháp, tiếng Anh gọi là football. Tự nhiên bây giờ hầu như ai cũng nói “bóng đá” để chỉ môn này, nhất là các nhà báo thể thao. Nhưng quả “bóng” (banh) có đá đâu! Người ta đá nó đó chớ. Vậy tại sao cứ phải thay “đá banh” bằng “bóng đá” mới được?

AN CHI: Ngôn ngữ luôn luôn biến đổi. Khi chúng tôi vượt tuyến ra Bắc hồi 1955, ở trong Nam, người ta vẫn còn nói “xe máy” để chỉ cái mà tiếng Pháp gọi là bicyclette còn tiếng Anh là bicycle. Đến khi chúng tôi từ miền Bắc trở về hồi tháng 8-1975 thì trong gia tộc, từ ông cậu, bà dì cho đến bà cô, ông chú, ai ai cũng nhất loạt gọi nó là xe đạp. Dân miền Nam đã gọi nó như thế một cách “đại trà”! Hoá ra hai tiếng này đã vào Nam cùng với người miền Bắc di cư từ 1954.

Bây giờ ta thử xét cái lý riêng mà ông đã nêu ra. Cứ theo cái lý này thì ta cũng phải bắt bẻ rằng cái xe đâu có đạp. Người ta đạp nó đấy chứ! Nhưng bây giờ thì trong Nam, ngoài Bắc đều gọi nó là xe đạp mà không ai thấy là nghịch lý. Bác sĩ mới khám chứ cái phòng đâu có khám nhưng người ta vẫn gọi nó là phòng khám. Người khuê nữ/phụ mới thêu chứ cái buồng đâu có thêu nhưng người ta vẫn gọi nó là buồng thêu, v.v.. Giữa danh từ trung tâm và định ngữ hạn định của nó trong tiếng Việt, có nhiều loại quan hệ khác nhau mà nói chung, cảm thức của người Việt thường giúp cho họ có thể xác định được một cách chính xác. Cảm thức của người Việt có thể giúp họ khẳng định rằng bóng đá là tên của một môn thể thao chứ không phải là một cấu trúc chủ – vị, trong đó “bóng” là chủ thể của động tác “đá”. Huống chi, bóng trong bóng đá còn có mặt trong nhiều danh ngữ chỉ tên của các môn thể thao khác nữa, như:

– bóng bàn,

– bóng bầu dục,

– bóng chày,

– bóng chuyền,

– bóng ném,

– bóng nước,

– bóng rổ, v.v.

Chúng tôi hy vọng rằng ông sẽ vui lòng chấp nhận cách nói mới vì sự hợp lý của nó. Dĩ nhiên là trong khẩu ngữ và trong vòng thân mật thì ta vẫn có thể dùng mấy tiếng “môn đá banh” để chỉ môn bóng đá một cách thoải mái và tự nhiên.

§ 1070. Kiến thức ngày nay, số 537, ngày 10-7-2005

ĐỘC GIẢ: Trước đây, trong quyển Tiếng Việt- Từ chữ đến nghĩa (Nxb. Từ điển Bách khoa, 2005), tác giả Phạm Văn Tình đã giảng rằng “cụm từ hat-trick có nghĩa là ngả mũ (chào)”.

Tôi thấy lời giảng này rất có lý. Một cầu thủ mà ghi được ba bàn trong một trận thì được ngả mũ chào là phải quá. Thế nhưng trên báo Thể thao & Văn hoá, số 66 (1680)-2005, tôi lại thấy ở trang 40 có bài “Từ chữ đến nghĩa”, trong đó tác giả Vũ Anh Tuấn đã dẫn ba quyển từ điển (Merriam Webster’s College Dictionary, Webster’s New World Dictionary và Chambers) để chứng minh rằng từ hat-trick chỉ liên quan “tới chuyện thưởng một cái mũ hoặc đáng được hưởng một cái mũ mới chứ không hề thấy tài liệu nào nhắc tới việc “ngả mũ chào” vì đáng phục.” Vậy thì tôi phải tin ai?

AN CHI: Dĩ nhiên là ta chỉ có thể tin vào người nói có sách, mách có chứng. Cá nhân chúng tôi cũng chưa thấy tài liệu đáng tin cậy nào nói rằng từ hat-trick có liên quan đến việc ngả mũ chào cả. Chỉ thấy nói rằng nó liên quan đến việc thưởng một cái mũ, đúng như tác giả Vũ Anh Tuấn đã dẫn từ ba quyển từ điển kia mà thôi. Sau đây là đôi dẫn chứng:

Quyển Origins của Eric Partridge (London, Third Edition, 1961) đã ghi như sau:

“The English phrase a (or the) hat trick, originally and still applied in cricket to a bowler taking a wicket with each of three successive balls (from him), apparently arises in an old custom whereby, in recognition ofhis feat, the bowler received a hat”.

(Đoản ngữ tiếng Anh a (hoặc the) hat trick, vốn và nay vẫn dùng trong môn cricket để nói về người ném bóng, trong ba lần ném bóng liên tiếp, lần nào cũng đưa bóng vào cầu môn, hình như phát sinh từ một tập quán xưa theo đó, để ghi nhận công trạng của anh ta, người ném bóng (đó) được nhận một chiếc mũ.)

Còn Morris Dictionary of Word and Phrase Origins của William và Mary Morris (New York, 1988) thì ghi như sau:

“It was borrowed from cricket. If a bowler in Britain’s national game take three wickets with three successive balls, he is said to have done the hat trick. The feat is so rarely accomplished that in the early days of cricket, and player who pulled it off was awarded a hat as bonus. The term is also used today in horse racing. It’s not uncommon for a star jockey to win three races on a day’s card, but he is said to have pulled off the hat trick only ifhe wins three races in succession”.

(Cụm từ này mượn từ môn cricket. Nếu người ném bóng trong loại hình thi đấu truyền thống này của nước Anh ném vào gôn ba lần trong ba lần ném bóng liên tiếp, thì người ta nói rằng anh ta đã lập một hat trick. Kỳ tích này hiếm khi đạt được đến nỗi trong buổi đầu của môn cricket, cầu thủ nào đạt được nó thì sẽ được tặng một chiếc mũ làm phần thưởng thêm. Lối nói này ngày nay cũng được dùng trong môn đua ngựa. Ít có khi nào một nài ngựa xuất sắc thắng được ba cuộc đua trong chương trình đua của một ngày; nhưng người ta sẽ nói rằng anh ta lập được hat trick chỉ khi nào anh ta thắng được ba cuộc đua liên tiếp.)

Tóm lại, cụm từ hat-trick chỉ liên quan đến việc tặng mũ chứ không liên quan gì đến việc ngả mũ chào. Cuối cùng, xin nói thêm rằng người Anh viết hat-trick với gạch nối còn người Mỹ thì viết hat trick không có gạch nối.

§ 1071. Kiến thức ngày nay, số 537, ngày 10-7-2005

ĐỘC GIẢ: Tôi có thắc mắc về một đoạn thuộc phần tiếng Việt trong quyển Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của Alexandre de Rhodes do Hồng Nhuệ dịch từ bản Pháp ngữ của Henri Albi (Ủy ban Đoàn kết công giáo Thành phố Hồ Chí Minh, 1994). Đoạn đó là:

“Trong năm còn có những lễ khác ít long trọng hơn theo tập tục của những người sang trọng giữ để cúng tế ông bà, cụ cố và tiên tổ, bên nội cũng như bên ngoại cho tới tám đời, mỗi vị đều có một ngày riêng. Và bởi vì rất khó cho dân chúng nhớ đúng ngày, thì mỗi năm có hai tháng là tháng bảy và tháng chạp được chỉ định cho dân chúng giỗ cha mẹ quá cố, không ai dám sai sót. Thật là xấu hổ cho giáo dân, ít chuyên chú thi hành đức hiếu và tôn kính vong linh người quá cố. Lời cầu nguyện của họ giúp rất nhiều cho các người hơn là lương dân tin theo dị đoan vô ích, để cầu cho cha mẹ qua đời được an nghỉ”. (Sđd, phần tiếng Việt, tr. 56)

Trong đoạn trên đây, câu mấu chốt làm tôi thắc mắc là:

“Thật là xấu hổ cho giáo dân, ít chuyên chú thi hành đức hiếu và tôn kính vong linh người quá cố”.

Đây rõ ràng là một lời chê đối với giáo dân, bị coi là những người “ít chuyên chú thi hành đức hiếu và tôn kính vong linh người quá cố”.

Tại sao bên Công giáo chủ trương cầu nguyện chứ không làm giỗ chạp mà Alexandre de Rhodes lại có lời chê như trên đối với giáo dân? Vậy A. de Rhodes có sai hay không?

AN CHI: Chúng tôi xin thưa ngay là Alexandre de Rhodes đã không hề chê giáo dân. Chỉ có người dịch mới làm cho vị giáo sĩ này phải mang tiếng oan mà thôi.

Ở đây, người dịch đã không nắm vững được cách diễn đạt bằng tiếng Việt nên mới làm cho sự đề cao của Alexandre de Rhodes trở thành sự chê bai. Xin đọc lại câu tương ứng trong bản tiếng Pháp (Chúng tôi mạn phép chuyển sang hình thức chính tả tiếng Pháp hiện đại cho bạn đọc tiện theo dõi):

“Ce qui devrait faire honte aux Chrétiens, qui sont moins soigneux de rendre ces devoirs de piété et de charité aux âmes des Trépassés (…)”.

Thực ra thì câu này có nghĩa là:

Điều này – tức là việc cúng tế tổ tiên tám đời vào ngày riêng của từng vị và việc cúng kiếng chung trong tháng bảy và tháng chạp về phía những người lương dân (AC ghi chú) – hẳn phải làm cho các Ky Tô hữu xấu hổ, (họ) ít màng đến việc thực hiện các bổn phận về hiếu thảo (với ông bà, cha mẹ) và về từ thiện với vong hồn những người đã khuất (…)”.

Vậy, với Alexandre de Rhodes, thì các Ky Tô hữu sẽ phải cảm thấy xấu hổ nếu họ quá quan tâm đến việc thực hiện các bổn phận về hiếu thảo với ông bà cha mẹ và về từ thiện với vong linh những người quá cố còn với câu văn của Hồng Nhuệ thì các Ky Tô hữu cảm thấy xấu hổ vì họ không thực hiện các việc đó.

Vậy rõ ràng là ở đây A. de Rhodes không hề sai. Nhưng ở chỗ khác thì có, chẳng hạn:

“Vì như Bắc Kinh (…) có nghĩa là triều đình hay thành phố các vua ở miền Bắc, và Nam Kinh là triều đình hay thành phố của các vua ở miền Nam, thì Đông Kinh cũng có nghĩa là triều đình ở miền Đông; Đông trong tiếng Tàu có nghĩa là mạn hay phương Đông và Kinh là nơi vua họp triều đình. Thực ra Đông Kinh chúng tôi nói ở đây không ở vào phía Đông nước Tàu, nếu nhắm thẳng vị trí, nhưng ở về phía Nam. Nhưng vì thời xửa xưa, đế chế Trung Hoa lan rộng đến mãi các nước Lào và Xiêm thuộc về phía Tây, nên đối với họ nước Đông Kinh được gọi là nước ở về phía Đông và như thế gọi cho thuận tiện đối với tất cả những tỉnh ở về phía Tây (…)”*.

Ở đây, A. de Rhodes có ba điểm sai.

Thứ nhất, Đông Kinh không phải là tên do người Trung Hoa đặt ra để chỉ nước Việt Nam thời xưa. Đây là tên do Lê Thái Tổ đặt ra năm 1430 để gọi Kinh thành Thăng Long.

Thứ hai, cả vùng đất nay là Lào và Thái Lan xưa kia không hề nội thuộc Trung Hoa.

Thứ ba, Tunquin (Tonkin) là tên do người phương Tây phiên âm từ hai tiếng Đông Kinh (của Việt Nam) để gọi nước Đại Việt.

§ 1072. Kiến thức ngày nay, số 538, ngày 20-7-2005

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Về tên gọi con rồng của người Việt”, đăng trên Diễn Đàn, số 94, in lại trong Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001), tác giả Nguyễn Tài Cẩn có viết:

“Ở địa hạt huyền thoại, những nhân vật như Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn cũng đều là sản phẩm của chuyện vay mượn. Bởi vì, nếu những nhân vật ấy đều đúng là những nhân vật Hán thì tên gọi của họ phải đặt theo cú pháp Hán: phải là Nông Thần chứ không phải Thần Nông, phải là Nghiêu Đế, Thuấn Đế chứ khôngphải là Đế Nghiêu, Đế Thuấn”. (Sđd, tr. 27)

Ý kiến này có đúng hay không?

AN CHI: Trước Nguyễn Tài Cẩn, một vài tác giả khác cũng đã chủ trương sai lầm như thế.

Từ vay mượn chỉ có thể là kết quả của sự phiên âm hoặc sự sao phỏng. Đối với một từ phiên âm, chỉ có toàn bộ hình thức phiên âm mới mang được cái nghĩa của từ được vay mượn chứ từng âm tiết của nó (nếu đây là một từ đa tiết) thì hoàn toàn vô nghĩa. Cả hai âm tiết mít tinh mới diễn đạt được cái nghĩa của từ meeting mà tiếng Việt đã mượn từ tiếng Pháp – còn tiếng Pháp thì đã mượn của tiếng Anh – chứ riêng mít hoặc tinh thì hoàn toàn vô nghĩa. Cũng vậy đối với hai âm tiết lô và cốt trong lô cốt mà tiếng Việt đã mượn từ tiếng Pháp blockhaus – còn tiếng Pháp thì đã mượn tiếng Đức, v.v. và v.v.. Cả thần và nông trong Thần Nông đều vốn là những từ có nghĩa trong tiếng Hán. Ta còn có thể thấy thần trong thần nhân, thần nữ, hung thần, ôn thần, v.v., cũng như còn có thể thấy nông trong canh nông, lương nông, nông nghiêp, nông nhàn, v.v.. Thế thì thần và nông vốn là những đơn vị từ vựng chánh tông của tiếng Hán nên Thần Nông không phải là một hình thức phiên âm.

Vậy nó có phải là kết quả của một sự sao phỏng (calque) hay không? Cũng không nốt. Sao phỏng thực chất là một sự đối dịch từ ngữ của thứ tiếng được vay mượn theo nghĩa đen sang thứ tiếng đi vay mượn. Vì vậy nên nó phải tuyệt đối tôn trọng cú pháp của ngôn ngữ đi vay mượn. Black market (chợ đen) sẽ thành marché noir trong tiếng Pháp chứ không phải *noir marché. Nếu Thần Nông trong ngôn ngữ gốc nào đó (?) mà có nghĩa là thần của nghề làm ruộng theo suy luận của tác giả Nguyễn Tài Cẩn thì khi được sao phỏng thành tiếng Hán, nó tất yếu phải trở thành Nông thần chứ không thể là Thần Nông. Vậy Thần Nông dứt khoát không phải là một hình thức sao phỏng.

Vì không phải là một hình thức phiên âm, mà cũng không phải là một hình thức sao phỏng, nên Thần Nông dứt khoát không thể là kết quả của một sự vay mượn. Đây là một cấu trúc tiếng Hán chánh tông, giống hệt như: thần đồng, thần y, v.v.. Thần đồng là đứa trẻ giỏi như thần; thần y là người thầy thuốc trị bệnh giỏi như thần còn thần nông chẳng qua là người nông dân làm ruộng giỏi như thần. Ở đây nông không có nghĩa là nghề làm ruộng, mà là người làm ruộng, giống hệt như trong lão nông (người nông dân già hoặc người nông dân có nhiều kinh nghiệm, như trong lão nông tri điền), bần nông (nông dân nghèo), cố nông (nông dân làm thuê), trung nông (nông dân lớp trung), phú nông (nông dân giàu), v.v..

Vậy Thần Nông vốn là người Hán chứ không phải dân của một tộc người nào đó ở phương Nam, bị Hán hoá thành vị thần của nghề nông ở Trung Nguyên.

Còn các vị Đế Nghiêu, Đế Thuấn thì sao? Nguyễn Tài Cẩn nói rằng nếu họ “đúng là những nhân vật Hán thì tên của họ phải được đặt theo cú pháp Hán: phải là Nghiêu Đế, Thuấn Đế chứ không phải là Đế Nghiêu, Đế Thuấn.” Nhưng có lẽ nào Đế Nghiêu, Đế Thuấn lại không phải là những cấu trúc cú pháp của tiếng Hán khi mà nó nằm trong một hệ thống với hàng mấy chục cách gọi tương tự? Thật vậy, nếu tra cứu ở Trung Quốc lịch đại nhân danh đại từ điển do Trương Huy Chi, Thẩm Khởi Vĩ và Lưu Đức Trọng chủ biên (Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1999), ta sẽ thấy tại các trang 1762 – 1763 của quyển hạ hàng loạt cấu trúc như: Đế Ất, Đế Dư, Đế Phát, Đế Mang, Đế Thế, Đế Quynh, Đế Hạo, Đế Khốc, v.v.. Tổng cộng, ở hai trang này, ta đếm được đến 31 trường hợp như thế. Đây là tên các ông vua nhà Hạ và nhà Thương mà riêng bảng đế hệ của nhà Thương thì đã được khẳng định bằng “giấy trắng mực đen” qua những lời bốc từ trên yếm rùa, xương thú, đào được tại An Dương (Hà Nam). Trong đó dĩ nhiên là có cả Đế Tân, tức vua Trụ nhà Ân (Thương), kẻ đã bị Cơ Phát (sẽ trở thành Vũ Vương nhà Chu) đánh bại ở Mục Dã nên đã tự thiêu mà chết. Tóm lại, không thể nói rằng những ông vua đó đã được “nhập khẩu” vào Trung Quốc cổ đại từ một vùng nào đó ở phương Nam!

Tóm lại, Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn là những tên gọi bằng tiếng Hán chánh tông chứ không phải là những hình thức vay mượn từ bất cứ một ngôn ngữ nào ở phương Nam cả.

§ 1073. Kiến thức ngày nay, số 538, ngày 20-7-2005 và số 539, ngày1-8-2oo5

ĐỘC GIẢ: Tôi là người Việt sống và làm việc ở nước ngoài vài thập kỷ qua, sử dụng Anh văn là ngôn ngữ chính trong công việc. Khi mới ra trường làm việc tôi thường được một người Anh giúp đỡ sửa chữa câu cú, cách hành văn… Ông này thường hiệu đính các bài viết của tôi để nhằm sử dụng câu văn và từ ngữ gãy gọn, tránh dư thừa. Tôi thấy xu hướng này là khá hay. Sau khi chuyển sang làm việc với người Canada, tôi nhận thêm sự giúp đỡ của vài người về việc viết báo cáo – tất cả đều có ý giúp sửa cho tôi theo chiều hướng của ông người Anh kia: ngắn gọn, súc tích.

Từ những kinh nghiệm này, tôi ngộ ra một điều: văn phong từ ngữ khi bàn về đề tài chuyên môn (không phải thơ ca, thi phú…) thì nên gãy gọn, chuyển tải xuyên sát điều cần muốn chuyển tải, không nên dông dài, không nên đưa vào ý dư thừa có thể khiến cho ý chính bị loãng đi. Còn có lợi điểm về khoa học là tránh cho đôi mắt của người đọc di chuyển qua quá nhiều dòng chữ và tránh cho khối óc của họ ghi nhận quá nhiều thông tin – tức là tránh cho người đọc đỡ mệt. Hơn nữa, trong thời đại thông tin bùng nổ và con người tất bật với bao hoạt động lo toan, không phải mất quá nhiều thời gian và công sức để thu thập thông tin là điều rất quý.

Từ đó, tôi muốn chia sẻ với mục Chuyện Đông chuyện Tây kinh nghiệm của tôi như đã nêu trên (Sau đó, tác giả bức thư nêu làm thí dụ một số đoạn hoặc câu của An Chi mà tác giả thấy cần sửa, rồi cách sửa và lý do sửa của tác giả – Chúng tôi sẽ nêu một số trường hợp trong phần trả lời – AC).

Trên đây là vài thí dụ minh hoạ cho sự chia sẻ kinh nghiệm của tôi. Trong khi tôi tôn trọng văn phong, câu cú, kết cấu… của văn chương thơ phú, tôi vẫn tin rằng tài liệu chuyên môn nên khúc chiết, trình bày đúng vấn đề, không thiếu mà cũng không thừa.

AN CHI: Chúng tôi rất vinh dự nhận được thư góp ý và chia sẻ của ông (xin được xưng hô như thế). Về nguyên tắc, chúng tôi thực sự nhất trí với ông còn đi vào thực tế thì nhiều khi vấn đề lại không đơn giản chút nào. Vì thế cho nên vẫn xin trao đổi thêm với ông như sau:

1. Bạn đọc viết: “Vậy xin ông An Chi cho biết có chuyện đó không và nếu có thì ý ông thế nào?” (Kiến thức ngày nay, số 523, tr. 49)

Ông đề nghị sửa thành: “Xin ông An Chi cho biết ý kiến.”

Lý do: “Ngắn gọn (tuy có phải chấp bút câu văn của người đọc đặt vấn đề)”.

Quả là có ngắn gọn đấy nhưng lại mất đi nhiều điều thú vị. Ở đây bạn đọc đó không tin rằng Nguyễn Tài Cẩn lại đọc chữ thứ tư của câu Kiều thứ 367 thành “chớ” vì đọc như thế “chẳng những nghe lạ tai mà còn khó hiểu nữa”. Vì không tin nên mới “xin ông An Chi cho biết có chuyện đó không” và chỉ khi nào có thì mới cho biết “ý ông thế nào”. Chưa biết thực hư ra sao thì làm sao mà “Xin ông An Chi cho biết ý kiến”? Đó là về phía người nêu câu hỏi. Còn về phần người trả lời thì chúng tôi phải giữ lại cái ý “có chuyện đó không” để cho bạn đọc khác thấy ông Phạm Mạnh Đoàn không tin rằng Nguyễn Tài Cẩn lại sửa chở thành “chớ” (mà sự thực là tác giả này có sửa) vì sửa như thế thì lạ tai và khó hiểu. Nghĩa là ông Phạm Mạnh Đoàn cũng không tán thành chữ “chớ”. Đây là chỗ tâm đầu ý hợp giữa người hỏi và người đáp thì chúng tôi nỡ nào sửa câu của ông Phạm thành câu mà ông đã gợi ý?

2. Chúng tôi viết: “Vì những lẽ đã trình bày nên chúng tôi cho rằng chữ thứ tư của câu Kiều thứ 367 phải là chở chứ không thể là “chớ” và câu này vẫn cứ phải đọc thành

Một tường tuyết chở sương che

thì mới đúng với ý muốn của Nguyễn Du”.

Ông cho rằng “đoạn kết này có phần dài dòng và đề nghị tóm gọn” thành:

“Vì những lẽ đã trình bày, chúng tôi cho rằng vẫn nên giữ nguyên câu thì mới đúng với ý nghĩa của Nguyễn Du”.

Thế là ông đã thay sự dài dòng của chúng tôi bằng sự tối nghĩa. “Giữ nguyên câu” có nghĩa là không cắt xén, không thêm thắt còn ở đây lại là giữ nguyên cách đọc cũ. Chúng tôi viết “ý muốn của Nguyễn Du” thì ông lại sửa thành “ý nghĩa của Nguyễn Du” nhưng có ai biết “ý nghĩa của Nguyễn Du” là gì (vì chỉ có lời lẽ, từ ngữ của Nguyễn Du mới có ý nghĩa).

3. Ngoài câu 367 của Truyện Kiều, trên Kiến thức ngày nay, số 524, chúng tôi có phân tích thêm câu 902:

Tuyết sương che chở cho thân cát đằng

Ông đã đề nghị “cắt bỏ thí dụ này” với lý do: “Thí dụ này có vẻ đi quá xa để củng cố lập luận của người viết, vì nghĩa của cụm từ “che chở” ở đây ai cũng hiểu rõ, không ai có thể tranh luận giữa “chở” và “chớ” được”.

Chúng tôi không tin rằng ai cũng hiểu chở trong che chở chính là chở trong chuyên chở, nhất là hiểu từ tổ che chở vốn gián tiếp bắt nguồn từ thành ngữ thiên phú địa tái. Nhưng cứ cho là mọi người đều hiểu được mấy tiếng đó dễ dàng thì chúng tôi vẫn cứ phải nêu câu 902 ra để phân tích. Ta thấy Nguyễn Tài Cẩn chỉ bàn về chữ thứ tư của câu 367 mà không hề bàn về chữ thứ tư của câu 902. Nghĩa là, với Nguyễn Tài Cẩn thì đó là hai từ khác hẳn nhau: một đằng là chớ (c.367), một đằng là chở (c.902). Còn với chúng tôi thì hai đằng chỉ là một. Vì vậy nên chúng tôi mới phải đưa câu 902 ra để phân tích mà “củng cố lập luận”, đúng như ông đã nhận xét.

4. Về câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 523, ông nhận xét và đề nghị:

“Nói chung, phần giảng giải về “Âu” so với “nước” cũng khá lan man! Đề nghị cụ thể nhất là cắt đoạn viết về bia là thức uống có độ cồn nhẹ so với “bia miệng”: không ai tranh luận hoặc mập mờ về hai từ “bia” này”.

Hiển nhiên là chẳng có ai lại nhầm lẫn hai từ “bia” này với nhau nhưng cũng chính vì thế nên chúng tôi mới nêu chuyện này ra để nhấn mạnh đến tính chất buồn cười của sự nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn đã không xảy ra giữa hai từ “bia” nhưng đã xảy ra cho chữ âu là bình, chậu mà có tác giả đã đánh đồng với chữ âu (?) và cho rằng có nghĩa là “đất”! Vì sự nhầm lẫn sau khó thấy hơn sự nhầm lẫn trước nên chúng tôi mới cố ý nêu chuyện trước để minh hoạ cho chuyện sau.

5. Trên số 527, chúng tôi viết: “Bành tô là tên một kiểu áo (ông đã bỏ sót chữ “tên” khi trích dẫn) mà ta đã phiên âm từ tiếng Pháp paletot (chứ không phải do “manteau” như có chuyên gia ngữ học đã khẳng định)”.

Ông đề nghị:

“Nên tránh cách viết “không phải… như có chuyên gia đã khẳng định”: dễ gây hiểu lầm khó chịu rằng tác giả mỉa mai “chuyên gia” hoặc tự đề cao”.

Ở đây chúng tôi muốn chỉ một chuyên gia ngữ học cụ thể mà mình không muốn nêu tên chứ đâu có nói đến tất cả các chuyên gia. Bành tô mà lại bắt nguồn từ manteau là chuyện sai hiển nhiên. Cả trong ngành lẫn ngoài ngành ngữ học, nhiều người thừa biết rằng lời khẳng định của vị chuyên gia kia hoàn toàn sai.

Với năng khiếu bẩm sinh của mình, có lẽ ông nên mở trường dạy viết văn chăng?

§ 1074. Kiến thức ngày nay, số 539, ngày 1-8-2005

ĐỘC GIẢ: Trong bài Nên đưa chữ Nho vào chương trình dạy học ở trường phổ thông, đăng trên Thế giới mới số 644, tác giả Phan Thành Khương đã quy vào lỗi dịch sai mấy trường hợp sau đây:

“Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên quốc = Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quốc = Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (lẽ ra phải dịch là: Nước Triều Tiên Nhân dân Dân chủ Cộng hoà, Nước Trung Hoa Nhân dân Cộng hoà)”. (Bđd, tr. 17 -18)

Xin cho biết ý kiến trên đây có đúng không?

AN CHI: Cách tác giả Phan Thành Khương gọi tên hai nước đang xét bằng tiếng Hán thì sai hẳn mà cách dịch do tác giả đề xuất cũng không đúng.

Khái niệm mà tiếng Anh gọi là republic còn tiếng Pháp là république, Hán ngữ gọi là cộng hoà quốc. Ba tiếng này luôn luôn đi liền với nhau chứ không thể tách rời nhau như đã thấy trong “Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên quốc” và “Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quốc”. Đồng thời, trong những cấu trúc như thế này, tên nước (Triều Tiên, Trung Hoa) bao giờ cũng phải đứng trước những từ chỉ thể chế (dân chủ, nhân dân) chứ không thể đứng sau.

Vì vậy nên tên chính thức và chính xác bằng tiếng Hán của hai nước đang xét là:

Triều Tiên Dân chủ chủ nghĩa Nhân dân Cộng hoà quốc và

Trung Hoa Nhân dân Cộng hoà quốc;

dịch chính xác sang tiếng Việt là:

Nước Cộng hoà Nhân dân Dân chủ Triều Tiên* và

Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3