Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1050 - 1062
§ 1050. Kiến thức ngày nay, số 528, ngày 10-4-2005
ĐỘC GIẢ: Trong chương trình “Trúc xanh” trên HTV7 tối 23-3-2005, có một hình nền mà ban tổ chức giải đáp là:
“Chém tre chẳng dè đầu mắc”.
Tôi rất thắc mắc về chữ “mắc” trong lời giải đáp này vì không biết đây là chính tả của miền Nam hay miền Bắc.
AN CHI: Thực ra thì chẳng làm gì có chuyện chính tả miền Nam hay miền Bắc ở đây cả. Chỉ có chuyện ban tổ chức cuộc thi “Trúc xanh” dùng sai từ ngữ và viết sai chính tả mà thôi.
Cái vật mà các vị đó muốn nói đến thì trong Nam gọi là mắt (chữ mắt với -t cuối và dấu sắc) còn ngoài Bắc lại gọi là đầu mặt (chữ mặt với -t cuối và dấu nặng).
Về từ mắt của miền Nam thì ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Pigneaux de Béhaine cũng đã ghi nhận trong Dictionarium Anamitico Latinum (1772 – 1773) như sau:
“Mắt (…) mấu tre.
(…)
“Mắt mỉu. Có nhiều mắt.
(…)
“Mắt tre. Mấu và mầm tre”*.
Còn Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức thì ghi:
“Mắt (…) Chỗ lồi ở đốt cây, thường có mầm trắng của nhánh như con mắt: Nhặt mắt; Thưa mắt; Ống tre có mắt, nồi đồng có quai”.
Cứ như trên thì, nếu muốn dùng từ của miền Nam, ta phải viết mắt chứ không phải “mắc”. Còn cái mắt này thì ngoài Bắc lại gọi là đầu mặt chứ không phải “đầu mắt”, càng không thể là “đầu mắc”.
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) đã cho như sau:
“Đầu mặt. Còn gọi đầu mấu. Đốt ở cây tre, nứa, trúc”.
Từ điển tiếng Việt do Hoàng phê chủ biên, ấn bản 2003 (Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học) thì cho như sau:
“Đầu mặt. Mắt giữa hai đốt cây. Chém tre không dè đầu mặt (ví thái độ làm bừa, không kiêng nể gì ai”.
Vậy, người miền Bắc chỉ nói đầu mặt chứ không phải “đầu mắt” (hoặc “mắc”). Nói cho thật khách quan thì có quyển từ điển cũng ghi “đầu mắt”, chẳng hạn Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân (Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1989). Quyển này ghi và giảng như sau:
“Chém tre chẳng dè đầu mắt (Đầu mắt là mấu rắn ở giữa hai gióng tre). Ý nói: Không kiêng nể gì ai cả”.
Thế nhưng quyển từ điển này của Nguyễn Lân có nhiều chỗ ghi sai từ ngữ mà trường hợp trên đây chỉ là một. Vậy ta không thể theo cái sai, cái dỏm của nó mà sửa từ ngữ của miền Bắc từ đầu mặt thành “đầu mắt”.
Tóm lại, câu giải đáp hình nền trong chương trình đã nói lẽ ra phải là:
Chém tre chẳng dè đầu mặt.
§ 1051. Kiến thức ngày nay, số 528, ngày 10-4-2005
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết chữ “kíp” trong “súng kíp” bắt nguồn từ đâu.
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 379, chúng tôi đã trả lời về nguồn gốc của từ kíp đại khái như sau:
Kíp là một từ mà người Việt đã mượn ở tiếng Thái Tây Bắc, có thể là do các tay thợ săn hoặc những người Việt lưu lạc ở Tây Bắc trước kia đã đem nó từ vùng thượng du về miền xuôi. Còn nguyên từ của kíp thì được người Thái đọc là kép và đây là một từ mà họ đã mượn từ tiếng Lào (cũng đọc là kép ) sau khi người Lào đã mượn từ người Xiêm (Thái Lan – cũng đọc là kép). Còn kép là một từ mà người Xiêm đã mượn ở danh từ cap của tiếng Anh, nói tắt từ percussion cap, có nghĩa là cái kíp nổ. Người Tày cũng mượn của người Thái ở Tây Bắc mà đọc thành kép chứ không phải kíp như người Việt.
Tuy trả lời như thế trên Kiến thức ngày nay, số 379 nhưng chúng tôi vẫn phân vân, không biết tại sao người Việt lại không phát âm thành kép như người Xiêm, người Lào, người Thái Tây Bắc và người Tày, mà lại phát âm thành kíp. Bây giờ thì chúng tôi đã tìm được câu trả lời.
Quảng Châu thoại phương ngôn từ điển của Nhiêu Bỉnh Tài, Âu Dương Giác Á và Chu Vô Kỵ (Thương vụ ấn thư quán, Hong Kong, 2001) có ghi nhận một chữ mà các nhà biên soạn ghi là “gib¹” và giảng là kíp nổ. Xin lưu ý rằng ở đây “g” chính là [k] còn “b” chính là [p] . Vậy gib¹ chính là kíp mà người Quảng Đông phiên âm từ tiếng Anh cap trong percussion cap nhưng vì tiếng Quảng Đông không có vần -ep nên mới phải thay nó bằng -ip.
Người Việt Nam đã mượn từ kíp của tiếng Quảng Đông, sau khi nó vượt biên giới Việt Trung qua ngõ Móng Cái để vào khu mỏ Hồng Quảng là nơi có nhiều người Hoa gốc ở Quảng Đông sinh sống.
Vậy danh từ cap của tiếng Anh đã vào Đông Nam Á qua hai ngả khác nhau;
1. kép: Xiêm (Thái Lan) → Lào → Thái Tây Bắc Việt Nam →Tày.
2. kíp : Quảng Đông → Việt Nam.
§ 1052. Kiến thức ngày nay, số 529, ngày 20-4-2005
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Nhân việc phát hiện bản Truyện Kiều Liễu Văn Đường 1866”, đăng trên Văn nghệ, số 14, ngày 2-4-2005, tác giả Đào Thái Tôn có đưa ra ba kết luận mà kết luận đầu tiên là:
“Bản Truyện Kiều có thể dựa vào đó mà dò tìm nguyên tác là bản chép tay mà cụ Hoàng Xuân Hãn đã thấy từ năm 1942, 43 chứ không phải bản in Duy Minh Thị”.
Xin ông cho biết bản chép tay này là bản nào và cụ Hoàng có dùng bản này để làm quyển Kiều tầm nguyên không.
AN CHI: Thực ra thì tác giả Đào Thái Tôn cũng đã có dành cho vấn đề này một bài riêng, và khá chi tiết, nhan đề “Một băn khoăn về văn bản Duy Minh Thị 1872”, đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 4 (65)-2004, trang 63 – 68. Tác giả chứng minh rằng cái gọi là “bản chép tay mà Hoàng Xuân Hãn đã thấy năm 1942 – 43” (sẽ viết tắt là BCT 1942) không có liên quan gì đến bản Duy Minh Thị 1872 (sẽ viết tắt là DMT 1872) và chính BCT 1942, chứ không phải bản DMT 1872, mới là bản mà Hoàng Xuân Hãn quý trọng và cho là bản có thể dựa vào để dò tìm nguyên tác Truyện Kiều. Mục đích của ông Đào Thái Tôn quan trọng là thế nhưng rất tiếc là tất cả những luận chứng ông đưa ra đều không đứng vững được. Để cho được rõ và gọn, dưới đây chúng tôi sẽ trích dẫn Đào Thái Tôn sau mấy chữ ĐTT rồi nêu nhận xét của mình sau mấy chữ NX (số Á Rập sau các chữ tắt là số thứ tự).
ĐTT1: “Rõ ràng là tại ý Một và ý Ba, cụ (Hoàng Xuân Hãn – AC) nói đến bản in trong Nam. Thì đúng là bản DMT 1872 rồi. Nhưng khốn nỗi, bản DMT 1872 lại có kị huý đời Minh Mạng – trong khi cụ nhấn mạnh chỉ có huý đời Gia Long! Cho nên cái bản mà cụ nói ở ý Một “đương còn những dấu vết hoàn toàn đời Gia Long. Không có đời Minh Mạng.”, chính là bản ở ý Hai, tức là bản chép tay mà cụ “khám phá ra” từ năm 1942, 43”*.
NX1: Ông Đào Thái Tôn đã khẳng định sai sự thật vì bản DMT 1872 lại không kỵ huý đời Minh Mạng. Trong Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002), Nguyễn Tài Cẩn đã khảo sát rất kỹ vấn đề này và khẳng định:
“Có hiện tượng không kị huý chữ CẢO và chữ KIỂU (chữ này có cách đọc CẢO nữa)”.(tr. 25) và
“Riêng chữ duy nhất liên quan đến Minh Mạng (CẢO/ KIỂU) thì trong bản DMT vẫn viết với tự dạng bình thường vốn có”.(tr. 541)
Ở một nguồn khác, Nguyễn Tài Cẩn còn viết:
“Hơn nữa chính năm 1836 mới có lệnh chính thức bắt phải né tránh chữ KIỂU/CẢO (với nghĩa là “cây khô”): bản gốc phía DMT cổ hơn nên vẫn dùng đường hoàng chữ đó ở trong câu 2564”*.
Vậy khẳng định rằng bản DMT 1872 có kỵ huý đời Minh Mạng là hoàn toàn sai sự thật.
ĐTT2: “Dù là nhà văn bản học lão luyện, đọc chữ Nôm giỏi như cụ Hãn chăng nữa, trước bản in sai đến mức như bản DMT, cũng không thể nói rằng tuy “có nhiều sai lầm, nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắc chắn: vì sai lầm của bản DMT không “giản dị” chút nào: có chữ Nôm Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng chỉ đoán mà phiên tạm chứ không dám tin là đã phiên đúng”*.
NX2: “Sai lầm của bản DMT không “giản dị” chút nào” chỉ là cách nhìn riêng của ông Đào Thái Tôn chứ rõ ràng nó có quá nhiều “cái sai lầm giản dị mà mình chữa lại được một cách chắc chắn: chẳng hạn:
– Chữ thấp 湿 ở câu 20 chắc chắn phải là chữ nét 涅.
– Chữ lưng * ở câu 22 chắc chắn phải là chữ da 䏧.
– Chữ tính性 ở câu 26 chắc chắn phải là chữ ghen 悭.
– Chữ kim 金 ở câu 61 chắc chắn phải là chữ vương 王 . v.v. và v.v..
Huống chi, “giản dị” ở đây là theo cái nhìn của Hoàng Xuân Hãn chứ đâu phải của người khác. Vậy ta không nên suy luận chủ quan mà khẳng định rằng bản đang xét không phải là DMT 1872.
ĐTT3: “Theo điều tra của GS. Nguyễn Tài Cẩn (…) thì cho đến năm 1947, cụ chưa hề biết đến bản DMT 1872. Vậy thì cái bản mà cụ nói tại ý Hai: “Vào khoảng 42 – 43, tôi đã thấy bản này rồi (…) có nhiều sai lầm, nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắc chắn, chỉ có thể là bản chép tay chứ không thể là bản in Duy Minh Thị 1872”*.
NX3: Ta nên tin theo sự điều tra của Nguyễn Tài Cẩn. Nhưng chưa biết đến bản in DMT 1872 không có nghĩa là chưa biết một bản DMT 1872 chép tay. Thực ra, bản chép tay ở đây cũng chính là một bản DMT như sẽ chứng minh ở một đoạn sau.
ĐTT4: “Còn một chứng cứ quan trọng là: tại bài trả lời phỏng vấn, cụ Hoàng Xuân Hãn đã phân tích một số chữ Nôm. Những chữ mà cụ phân tích (…) thì đều không phải là những chữ Nôm sai lệch mà đều được khắc rõ ràng. Chỉ có một chữ Nôm sai lệch do viết tháu mà cụ say sưa phân tích là chữ “vuông” trong câu thơ 327. Nhưng cụ cũng không cho biết dựa vào bản nào (…).
Rõ ràng là cụ phân tích chữ viết tháu là phân tích qua bản viết tay chứ không phải qua bản in DMT 1872”*.
NX4: Ở đây, ông Đào Thái Tôn đã khẳng định một cách hoàn toàn võ đoán chứ chính Hoàng Xuân Hãn thì lại phân tích bản in. Sau đây là lời của vị học giả:
“Thí dụ, bản in bây giờ viết:
Nằm tròn như cuội trong mây
có người viết:
Năm tròn như cuội trong mây
(…)
thì tôi mới khám phá ra chữ năm vốn là chữ vuông.
Theo tôi thì nguyên vốn là chữ vuông, vì dưới là chữ tròn, thì đấy là vuông tròn (…) tôi tái lập lại như thế.
(…)
Đấy là phải đoán cái Nôm cũ thế nào, nó sai thế nào, mà bây giờ nó thành ra thế này, người ta đọc sai thế này”*.
Bất cứ ai nắm vững tiếng Việt và có tinh thần khách quan cũng đều có thể thấy rằng trên đây Hoàng Xuân Hãn nói về bản in chứ không phải là một bản chép tay nào cả.
★★★
Thế là cả bốn luận chứng mà ông Đào Thái Tôn đưa ra đều không thể đứng vững được. Thật ra, ta có thể thấy được quan hệ giữa BCT 1942 và bản DMT 1872 một cách rõ ràng qua đoạn sau đây của cuộc phỏng vấn:
Thuỵ Khuê: Thưa bác, đấy là một bản chép tay?
Hoàng Xuân Hãn: Hiện bây giờ có bản in (…).
Câu trả lời của Hoàng Xuân Hãn hiển nhiên tiền giả định rằng bản chép tay trong câu hỏi của Thuỵ Khuê chính là một bản chép từ một bản in cùng tirage với bản in trong câu trả lời của Hoàng Xuân Hãn. Nếu không phải như thế thì câu trả lời trên đây của Hoàng Xuân Hãn sẽ là một câu nói vớ vẩn và ngớ ngẩn. Vậy nếu bản in ở đây đã là DMT 1872 như chính ông Đào Thái Tôn đã thừa nhận (Xin xem lại ĐTT1) thì bản chép tay cũng là một bản chép từ DMT 1872. Hoàng Xuân Hãn không dùng bản này – ông chỉ thấy nó hồi 1942 – 1943 chứ có đâu mà dùng! – để làm Kiều tầm nguyên. Chính bản in, tức bản DMT 1872, mới là bản mà theo Hoàng Xuân Hãn, là bản quan trọng hàng đầu để làm quyển Kiều tầm nguyên. Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn có dịp tiếp xúc với học giả Hoàng Xuân Hãn tại Paris cuối năm 1982, đã khẳng định điều này*.
§ 1053. Kiến thức ngày nay, số 529, ngày 20-4-2005
ĐỘC GIẢ: Nghĩa chính xác của hai tiếng “ma cô” là gì? Đây là tiếng Việt hay là tiếng phiên âm?
AN CHI: Ma cô là kẻ làm nghề dắt gái điếm. Đây là một từ phiên âm tiếng Pháp maquereau, cùng nghĩa. Trong tiếng địa phương ở miền Nam, từ này được phiên âm thành mặc rô. Nhiều người đã viết thành “mặt rô” thì không đúng với âm gốc vì âm cuối của âm tiết thứ nhất ở đây là [k] chứ không phải [t]. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, ấn bản 1992, ghi nhận hình thức chuẩn là ma cô, nhưng về sau, chẳng hạn trong ấn bản 2003, lại lấy cách viết dính hai âm tiết thành macô làm chuẩn. Chúng tôi cho rằng đây là một sự “cải tiến” không cần thiết (trong tâm thức của nhiều người Việt, âm tiết đầu đã được đồng hoá với ma trong ma quái, ma quỉ, v.v.). Vậy nên chăng ta cứ giữ nguyên cách viết “cũ” thành ma cô?
§ 1054. Kiến thức ngày nay, số 531, ngày 10-5-2005
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 528, ông có giải thích rằng vì tiếng Quảng Đông không có vần -ep nên người Quảng Đông mới phiên từ cap [kaep] (trong percussion cap) của tiếng Anh thành kíp . Tôi còn nhớ, khi nói về hiện tượng song lập thể (doublet) trong tiếng Quảng Đông, ông có nêu ra mấy cặp:
– thing ~ théng (đều có nghĩa là nghe);
– mìng ~ mẻng (có nghĩa là tên); v.v..
Vậy là tiếng Quảng Đông có vần -eng (mà nguyên âm là e) nên có lẽ nào lại không có vần -ep ?
AN CHI: Những thí dụ mà chúng tôi đã nêu và ông đã nhắc lại chỉ chứng tỏ rằng tiếng Quảng Đông có nguyên âm -e, chứ không thể chứng tỏ rằng nó có vần -ep. Cũng như sự tồn tại của những âm tiết như:
– bưng, cứng, dựng, đừng, v.v.;
– bức, cực, đức, lực, v.v.;
– cửi, ngửi, v.v.
trong tiếng Việt, chẳng hạn, chỉ chứng tỏ rằng ngôn ngữ này có nguyên âm ư chứ không thể là bằng chứng cho sự tồn tại của vần -ưm hoặc vần -ưp. Với nguyên âm -e, tiếng Quảng Đông chỉ có ba vần e, -eng và -ek mà thôi. Thí dụ:
– ché (chị), ke (giới từ có nghĩa là của), xẻ ((tả) là viết), yè ((dạ ) là đêm, v.v..
– cheng (đúng), chẻng (giếng), keng (kính), leng (đẹp), pẻng (bánh), v.v..
– chec (cái, chiếc, con), khẹc (guốc), léc (giỏi), xẹc (đá (trong sỏi đá)), thẹc (đá (trong đấm đá)), v.v..
Tiếng Quảng Đông không có vần -ep.
§ 1055. Kiến thức ngày nay, số 531, ngày 10-5-2005
ĐỘC GIẢ: Quốc lộ 51 từ Ngã ba Vũng Tàu đến Bà Rịa -Vũng Tàu là “Đường Xứ” hay “Đường Sứ”? Một số người viện lý rằng con đường này chạy qua “giáo xứ” (công giáo) nên phải viết với “x” mới đúng.
AN CHI: Liên quan đến con đường này, Gia Định thành thông chí củaTrịnh Hoài Đức, biên soạn trong khoảng thời gian 1820 -1822, đã từng nhắc đến hai tiếng sứ lộ, nghĩa là “đường sứ”, cụ thể là con đường mà các phái bộ Xiêm La và Cao Miên thường đi qua. Vậy đây là sứ trong sứ thần, sứ bộ, chứ không phải là “xứ” trong “giáo xứ”.
§ 1056. Kiến thức ngày nay, số 531, ngày 10-5-2005
ĐỘC GIẢ: Tiếp theo câu trả lời của ông trên Kiến thức ngày nay, số 523 về cách “giải cấu” hai tiếng “Âu Lạc” của ông Trương Thái Du, tác giả này đã có bài “Xin được trao đổi với ông An Chi”. Xin hỏi ông có ý kiến gì về bài trao đổi này?
AN CHI: Có lẽ do các dấu ngoặc kép mà ông đã dùng cho hai chữ giải cấu nên ông Trương Thái Du đã lấy hai trích đoạn từ internet để cho ta biết đó chính là deconstruct(ion) theo quan niệm của các nhà triết học thế kỷ XX như Lacan, Foucault, Derrida. Còn đối với chúng tôi thì giải cấu như thế nào – nếu muốn hoặc cần giải cấu – mới là chuyện thực sự quan trọng. Sau khi khẳng định rằng luận điểm của chúng tôi trên Kiến thức ngày nay, số 523 có tính chất kinh viện, ông Trương Thái Du viết:
“Theo tôi chữ Âu mà Trần Thánh Tông dùng cũng vậy. Nó là cái tâm thức Việt sâu thẳm mà ít có khả năng tác giả ý thức được. Cho nên cứ tưởng Kim Âu là Hán văn, nhưng tôi tin sự việc phức tạp hơn nhiều”.
Nghĩa là ông Trương Thái Du vẫn cho rằng chữ âu của Trần Nhân Tông (chứ không phải Trần Thánh Tông) là “Hán tự ký âm Việt ngữ với nghĩa Đất” mà không chịu thừa nhận rằng trong hai câu:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
thì vị vua đời thứ ba của nhà Trần chỉ sử dụng toàn tiếng Hán mà thôi. Theo chúng tôi, cách hiểu của ông Trương Thái Du khó có thể chấp nhận được. Làm sao mà một ông vua “chữ nghĩa đầy mình” như Trần Nhân Tông lại có thể xài chữ “trật đường rầy” đến như thế được! Khốn nỗi ông Trương lại cho rằng cách hiểu của mọi người từ xưa đến nay, trong đó có chúng tôi, chỉ là một cách hiểu mang tính chất truyền thống nên “bao giờ cũng thấp thoáng bóng dáng bảo thủ”. Vì vậy nên ông mới deconstruct nó ra bằng cái nghĩa “đất” mà ông đem gán cho chữ Âu . Ông còn tự tin đến mức khẳng định rằng “Riêng chữ Âu của Hồ Quý Ly thì ông An Chi sẽ không có căn cứ nào mà bảo đó là từ Kim Âu trong Hán văn.” Nhưng không Hán văn thì là văn gì vì làm gì có một thứ văn “ba rọi” cho các ông vua và của các ông vua, nhất là trong điều kiện mà tiếng Hán hãy còn chiếm địa vị độc tôn như ai nấy đều biết. Ông khẳng định rằng kim âu phải là “Núi Vàng” chứ không phải “âu vàng”. Nhưng “Núi Vàng” thì có nghĩa lý gì với Hồ Quý Ly trong cảnh ngộ mà quân Minh đang lăm le xâm chiếm nước ta? Cả một “trời vàng” cũng đem mà đổ sông Ngô nếu không giữ được nước, nói chi đến “núi vàng”! Cho nên “Kim Âu” tiếng Hán rặt ròng, có nghĩa là “âu vàng” và tượng trưng cho sự bền vững, sự trường tồn trong việc giữ ngôi, giữ nước mới đích thị là cái ngữ danh từ Hồ Quý Ly muốn dùng mà đổi tên cho núi Đại Lại để nói lên ước muốn giữ ngôi, giữ nước của mình. Ta không nên quên rằng ngọn núi này nằm trên địa bàn mà Hồ Quý Ly đã thiết lập kinh đô mới là Tây Đô. Núi Kim Âu ở giữa lòng tân kinh đô: còn biểu tượng nào đẹp hơn thế nữa?
Thế nhưng vì cứ một mực cho rằng cách hiểu đúng đắn xưa nay “thấp thoáng bóng dáng bảo thủ” nên ông Trương Thái Du thấy cần phải deconstruct nó. Ông viện đến ý kiến của ông Trương Củng, một thành viên Hán học của kho sách vnthuquan.net:
“Chữ Âu 甌 ghép bởi chữ Khu 區 (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngoã 瓦 là ngói. Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu”.
Rồi ông kết luận:
“Vậy việc tôi đoán định Âu là Hán tự ký âm Việt ngữ không tuỳ tiện chút nào”.
Thực ra thì chỉ riêng việc gán cho chữ âu cái nghĩa “đất” của tiếng Việt tự nó đã là một việc làm tuỳ tiện rồi. Nhưng ta cứ thử phân tích ý kiến của vị thành viên Hán học ở vnthuquan.net xem sao. Phàm đã là người thạo văn tự học Trung Hoa thì đều thấy rằng Âu 甌 là một hình thanh tự mà thanh phù là khu 區 còn nghĩa phù là ngoã 瓦. Nói một cách khác, chỉ có ngoã mới có liên quan đến nghĩa của cả chữ chứ khu thì không. Nếu có một thành tố nào nói lên cái ý “đất” trong chữ âu thì đó phải là ngoã vì ngoã là ngói, một thứ vật liệu kiến trúc làm bằng đất nung. Vậy nói rằng “ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm khu” là đã khẳng định một điều phi lý.
Thế nhưng vì sẵn có ý định giải cấu cách hiểu truyền thống nên ông Trương Thái Du đã tán thành cách phân tích của ông Trương Củng. Ông còn đi xa hơn nữa và viết:
“Một bạn đọc thân thiết của tôi (yêu cầu được giấu tên) đã hướng tôi đến liên tưởng mơ hồ sau:
“U = nhô lên = đồi, núi ~ Vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) → Vú em = Dưỡng mẫu.
U = mẹ ~ bu (mẹ già).
Khu (đất) ~ U = mẹ.
Cho nên có thể Âu = Khu = U = Mẹ = Đất = Núi.
Vậy mẹ Âu Cơ là tiên ở trên đất, trên núi là đúng rồi”.
Tuy ông Trương Thái Du có nhận rằng trên đây chỉ là một sự liên tưởng mơ hồ nhưng nó cũng đã có thể cho ta thấy phương pháp của ông quá tuỳ tiện. Nhà nghiên cứu nghiêm túc và có phương pháp sẽ không chịu phiêu lưu trong cái dãy liên hoàn ngữ nghĩa trên đây của tiếng Việt khi đi tìm nghĩa cho từ âu trong kim âu của tiếng Hán. Huống chi, nếu cần liên tưởng, dù chỉ là liên tưởng mơ hồ, theo kiểu trên đây thì ta cũng chỉ nên liên tưởng trong phạm vi của tiếng Hán vì với tiếng Hán ta cũng có những chất liệu ngữ âm và ngữ nghĩa tương tự với những thứ mà ông Trương Thái Du đã liên tưởng bằng tiếng Việt, chẳng hạn:
– khâu 丘, cũng đọc khưu, là gò;
– vưu 疣, cũng đọc vu, là u, bướu;
– nhũ 乳 là vú;
biết rằng -âu, -u và -ưu là ba vận có thể chuyển đổi với nhau như có thể thấy qua hàng loạt thí dụ.
Dù sao thì trên đây cũng chỉ là nói thêm cho cùng kỳ lý chứ cái nghĩa của chữ âu trong kim âu đã được an bài trong từ vựng của tiếng Hán từ lâu, chẳng có gì phải bàn cãi. Chính vì vậy nên chúng tôi xin nhắc lại cái kết luận đã nêu trên Kiến thức ngày nay, số 523 là nếu ai đó cứ bắt từ âu trong kim âu của tiếng Hán phải gánh cái nghĩa “đất” (nếu quả âu có nghĩa là “đất”) thì cũng buồn cười như bắt từ bia trong bia đá, văn bia của tiếng Việt phải gánh cái nghĩa của từ bière trong tiếng Pháp.
Bây giờ xin nói về chữ Lạc. Về chữ này, ông Trương Thái Du có nhắc rằng “ngay cả ông Tây viết sử Việt là Keith Taylor cũng tin Lạc là Nước trong quyển Sự ra đời của Việt Nam khoảng 25 năm trước”. Xin thưa rằng ông Tây này chỉ là một nhà viết sử chứ không phải một nhà ngữ học nên điều mà ông ta tin về chữ Lạc có đáng tin hay không còn là việc phải bàn. Huống chi, riêng về phần ông Trương Thái Du, nếu cách chứng minh của ông mà đúng, thì Lạc ở đây cũng chỉ có thể có nghĩa là “nước” trong nước tương, nước mắm, v.v., chứ không phải là “nước” trong nước Nga, nước Nhật, v.v., như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 523. Trong bài trao đổi, ông đã lơ đi chuyện này. Ông lại viết:
“Phương pháp tìm nghĩa của tôi là tìm nghĩa trong ngữ cảnh vì tôi không phải là một nhà ngôn ngữ học. Vì thế tôi không tài nào hiểu nổi chữ Nước trong Đất Nước làm sao lại có thể bắt nguồn từ chữ Lược như ông An Chi tin tưởng”.
Ông không hiểu vì muốn hiểu thì phải làm quen với phương pháp lịch sử – so sánh và với ngữ học lịch sử. Tất cả những gì chúng tôi đã trình bày để chứng minh mối quan hệ nguồn gốc giữa lược và nước đều hoàn toàn đúng với phương pháp lâu nay người ta vẫn làm. Ông có thể phủ nhận mối quan hệ “lược ~ nước” nhưng chúng tôi xin nhấn mạnh rằng những thao tác của chúng tôi thì rất đúng với “luật chơi” trong công việc truy tầm từ nguyên.
Ông nói rằng phương pháp của ông là tìm nghĩa trong ngữ cảnh. Nhưng những đẳng thức ngữ nghĩa mà ông đã đưa ra thì lại chỉ là những sự liên tưởng mơ hồ, như chính ông đã tự nhận, chứ đâu phải là ngữ cảnh. Còn ngữ cảnh đích thực, chẳng hạn hai câu thơ đã nêu của Trần Nhân Tông, vốn là tiếng Hán chánh tông, thì lại bị ông phân tích bằng cái nghĩa “đất” của tiếng Việt mà ông đem gán cho chữ âu trong kim âu!
§ 1057. Kiến thức ngày nay, số 532, ngày 20-5-2005
ĐỘC GIẢ: Năm 2004, Định Hướng Tùng Thư có ấn hành bộ sách song ngữ Pháp – Việt hai tập của Roland Jacques do Nguyễn Đăng Trúc, Trần Duy Nhiên, Nguyễn Bá Tùng, Hồ Ngọc Tâm chuyển ngữ. Nhan đề tiếng Pháp là Les missionnaires portugais et les débuts de l’Eglise catholique au Việt Nam còn nhan đề tiếng Việt thì lại là Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Xin ông cho biết nhan đề tiếng Việt có ăn khớp với nhan đề tiếng Pháp không?
AN CHI: Rõ ràng là hai nhan đề trên đây không ăn khớp với nhau. Nhan đề tiếng Pháp nói đến Giáo hội Công giáo trong cái tổng thể của nó (l’ Eglise catholique dans son ensemble), nghĩa là Giáo hội hoàn vũ (l’ Eglise universelle) còn nhan đề tiếng Việt thì chỉ nói đến “Giáo hội Công giáo Việt Nam” mà thôi. Vậy nếu muốn cho hai bên ăn khớp với nhau thì nhan đề tiếng Việt sẽ phải là:
Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam.
Nếu chỉ là Giáo hội Công giáo Việt Nam mà thôi, thì tiếng Pháp sẽ phải là “l’Eglise catholique du Việt-nam”, biết rằng du và au rất khác nhau.
§ 1058. Kiến thức ngày nay, số 532, ngày 20-5-2005
ĐỘC GIẢ: Trên số 528, nói về “Trần Nhân Tông với chữ Nhân”, hai tác giả Nguyễn Văn Mạnh – Hà Văn Thanh có viết:
“Về quê, ngắm cảnh chiều, Trần Nhân Tông làm thơ:
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song quy hạ điền
Chúng tôi chưa dám bàn đến cái tài của vua Trần Nhân Tông khi ông dụng từ “bạch lộ song song” để viết về con cò trắng mà 500 năm trước Lý Bạch lại gọi là sương trắng”.
Hai tác giả đã cẩn thận ghi ở chú thích số 4 câu thơ của Lý Bạch và cả lời dịch:
“Bạch lộ thấp thanh đài – Sương trắng sà thấp xuống đám rêu xanh”.
Xin cho biết toàn văn bài thơ của Lý Bạch và phân tích giúp xem Lý Bạch căn cứ vào đâu mà lại dùng hình ảnh “sương trắng” (bạch lộ) để chỉ con “cò trắng”.
AN CHI: Đó là bài Ký viễn (Gửi người ở xa) mà toàn văn như sau:
Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường,
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng.
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,
Chí kim tam tải văn dư hương
Hương diệc cánh bất diệt,
Nhân diệc cánh bất lai.
Tương tư hoàng diệp lạc,
Bạch lộ thấp thanh đài.
Dịch nghĩa:
Khi người đẹp còn ở đây thì hoa đầy nhà,
Sau khi người đẹp đi thì giường trống trơ.
Trên giường, chăn (mền) thêu cuộn lại không đắp,
Đến nay đã ba năm mà còn nghe thấy hương thừa.
Hương cũng càng không phai,
Người cũng mãi chẳng đến.
Lá tương tư vàng rụng,
Sương trắng đẫm rêu xanh.
Chữ lộ 露 của Lý Bạch thuộc bộ vũ 雨 và có nghĩa là sương còn chữ lộ 鷺 của Trần Nhân Tông thuộc bộ điểu 鳥 và có nghĩa là cò. Đó chỉ là hai chữ đồng âm. Chính vì thế nên bạch lộ trong bài Ký viễn của Lý Bạch chỉ có thể có nghĩa là “sương trắng” chứ ở đây chẳng làm gì có bóng dáng của “cò trắng”. Chỉ có trong câu thơ của Trần Nhân Tông thì bạch lộ mới có nghĩa là “cò trắng” mà thôi. Chữ thấp ở đây có nghĩa là ẩm ướt. Đây là tiếng Hán chứ không phải tiếng Việt nên cũng không thể dịch là “sà thấp xuống” được. Y hệt như trong
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
thì âu chỉ có thể là bình, là chậu chứ không thể có nghĩa là đất, nếu quả trong tiếng Việt âu cũng có nghĩa là “đất”*.
§ 1059. Kiến thức ngày nay, số 532, ngày 20-5-2005
ĐỘC GIẢ: Tháng 10-2004, Nhà xuất bản Nghệ An đã ấn hành quyển Truyện Kiều bản cổ nhất khắc in năm 1866 do Nguyễn Khắc Bảo – Nguyễn Trí Sơn “phiên âm và khảo đính 10 bản Kiều Nôm cổ”. Tôi chưa thông lắm về nguyên tắc phiên âm trong quyển Kiều này, không biết ông An Chi thấy thế nào?
AN CHI: Chúng tôi cũng không thông như ông vì ngay cái cách nhà xuất bản và hai nhà phiên âm giới thiệu quyển sách cũng đã không rõ ràng rồi, nếu không nói là mập mờ. Cái tên sách “Truyện Kiều bản cổ nhất khắc in năm 1866” làm cho người đọc ngỡ rằng quyển sách sẽ giới thiệu bản Kiều Nôm Liễu Văn Đường in năm Tự Đức thứ 19 (1866) qua việc phiên âm của hai ông Nguyễn Khắc Bảo và Nguyễn Trí Sơn đối với toàn bộ văn bản Nôm ở trong đó. Nhưng trên thực tế thì có nhiều chữ của bản Liễu Văn Đường 1866 lại không được phiên mà thay vào đó là chữ của những bản khác. Sau đây là một số dẫn chứng.
– Câu 121 là:
Ào ào đổ lộc đưa cây
đã bị phiên thành
“Ào ào gió lốc rung cây”
theo chữ của bản DMT 1872.
– Câu 212 là:
Nàng còn ở lại một hai tự tình
đã bị phiên thành
“Nàng còn cầm lại một hai tự tình”
theo chữ của bản Thịnh Mỹ Đường 1879.
– Câu 277 là:
Lấy điều dạo học hỏi thuê
bị phiên thành
“Lấy điều du học hỏi thuê”
theo chữ của bản Duy Minh Thị 1872.
– Câu 278 là:
Túi đàn cặp sách đề huề liền sang
đã bị phiên thành
“Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang”
theo chữ của hai bản Liễu Văn Đường 1871 và Thịnh Mỹ Đường 1879.
– Câu 365 là:
Sông Dương một dải nông sờ
đã bị phiên thành
“Sông Tương một dải nông sờ”
theo chữ của bản DMT 1872.
– Câu 491 là:
So chi những bậc thanh tao
đã bị phiên thành
“So chi những bậc tiêu tao”
theo chữ của bản Thịnh Mỹ Đường 1879.
v.v. và v.v..
Vẫn biết rằng nếu phiên âm theo mặt chữ như đã thấy thì có khi cả lời lẫn ý đều ngây ngô, thô thiển nhưng vì đã trót giới thiệu đây là “Bản cổ nhất khắc in 1866 Liễu Văn Đường Tự Đức thập cửu niên” thì chữ nghĩa phải là của bản này chứ không thể của các bản khác. Còn chữ và/hoặc âm mà các nhà phiên âm cho là hợp lý thì phải để vào phần khảo đính chứ không thể đặt vào phần phiên âm. Đó là còn chưa nói đến việc hai nhà phiên âm đã khảo đính suông mà hoàn toàn chẳng có biện luận gì. Và còn chưa nói đến chuyện có khi các vị cứ ngỡ là mình phiên trung thành với mặt chữ mà không ngờ là chữ đã bị viết sai. Dẫn chứng:
– Câu 25 được phiên là:
Làn thu thuỷ, thấp xuân sơn.
Thực ra thì chữ thứ tư là nét 涅. Chữ nét này bị viết nhầm thành thấp 湿 rồi chữ thấp này lại bị kẻ nhiễu sự “phồn thể hoá” thành 濕 nên mới ra nông nỗi chứ trong tiếng Việt thì có ai biết “thấp xuân sơn” là cái thứ chi.
– Câu 78 được phiên là:
Vùi nồng một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Thực ra thì chữ thứ hai là nông. Ở đây chữ nung 燶 được dùng để ghi âm “nông” chứ trong tiếng Việt thì cũng chẳng ai biết “vùi nồng” là gì!
– Câu 81 được phiên là:
Lòng đâu sẵn món thương tâm
Thực ra thì chữ thứ tư ở đây là mớn. Mớn là sức chứa của một chiếc thuyền. Mớn thương tâm đây là cái “trữ lượng” tình cảm (ở đây dĩ nhiên là sự thương cảm) chất chứa ở trong lòng.
v.v. và v.v..
Ta còn có thể nói nhiều nhưng do khuôn khổ nên chúng tôi xin hẹn đến một dịp khác.
§ 1060. Kiến thức ngày nay, số 532, ngày 20-5-2005
ĐỘC GIẢ: Trước đây đi khám bác sĩ thường thấy trên bàn làm việc có đặt một quyển sách dày ngoài bìa đề mấy chữ Vade-mecum. Xin cho biết vade-mecum là gì?
AN CHI: Vade-mecum là một danh từ tiếng Pháp gốc La Tinh mà nghĩa gốc là “hãy đi với ta”(vade: hãy đi – me: ta – cum: với). Vade-mecum có nghĩa là (sách) cẩm nang.
§ 1061. Kiến thức ngày nay, số 533, ngày 1-6-2005
ĐỘC GIẢ: Tôi và một ông bạn già đang theo dõi sát bộ phim Như Ý – Cát Tường đang phát hình trên VTV1. Đến tập trình chiếu hôm vừa rồi thì xảy ra chuyện người trong gia đình bàn việc “thành thân” của Xuân Dần (tên một nhân vật nam) và Như Ý (tên một nhân vật nữ). Nói đến hai chữ “thành thân”, ông bạn tôi lý luận: “Đây là chuyện hai tấm thân xáp lại với nhau để làm thành một cuộc sống chung nên chữ thân ở đây hẳn phải là thân trong thân thể chứ không phải thân trong thân thích.” Xin nhờ ông An Chi kết luận giùm.
AN CHI: Đây không phải là chữ thân 身 trong thân thể mà là chữ thân 親 trong thân thích. Chữ thân này có nhiều nghĩa mà cái nghĩa liên quan đến hai tiếng thành thân thì được từ điển giảng là “chỉ việc hôn nhân của hai họ nhất định”. Chính vì vậy nên tiếng Hán mới dùng hai tiếng thân gia để chỉ mối quan hệ mà tiếng Việt trong Nam gọi là sui gia còn tiếng Việt ngoài Bắc thì gọi là thông gia.
§ 1062. Kiến thức ngày nay, số 533, ngày 1-6-2005
ĐỘC GIẢ: Nhân giải Cầu lông quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh 2005, mấy hôm nay báo chí hay nhắc đến tên cô Siriwanwaree Mahidol và gọi cô là công chúa. Tôi cũng tin như thế. Nhưng bây giờ biết rõ ra thì cô lại là con gái của thái tử Maha Vajiralongkorn còn ông này thì lại là con trai của vua Bhumibol Adulyadej . Vậy thì cô Siriwanwaree phải là cháu của vua chứ sao lại là “công chúa” (vì công chúa là con gái của vua)? Nhưng cháu của vua thì tiếng Hán gọi là gì?
AN CHI: Tôn là cháu (gọi bằng ông) và hoàng tôn là cháu của vua. Vậy cô Siriwanwaree Mahidol là hoàng tôn chứ không phải “công chúa”.