Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1040 - 1049

§ 1040. Kiến thức ngày nay, số 525, ngày 10-3-2005

ĐỘC GIẢ: Trong những ngày đầu hạ tuần tháng 2-2005, Tổng thống Mỹ G. Bush đã có chuyến công du đầu tiên sang châu Âu trong nhiệm kỳ thứ hai. Theo lịch làm việc, ông sẽ dự Hội nghị thượng đỉnh NATO và Liên minh châu Âu. Để “đón tiếp” ông Bush đến Brussels, nhóm phản đối đã tổ chức một cuộc biểu tình với rất nhiều khẩu hiệu mà sau đây là một câu hơi lạ, thấy được trong mục “Tin thế giới” trên truyền hình:

HERE COMES THE BUTSHER.

Không lẽ người dân Brussels lại viết sai tiếng Mỹ, nhưng BUTSHER rõ ràng là một chữ lạ, không thấy có trong từ điển. Vậy xin nhờ ông An Chi giải thích giùm cái chữ lạ lẫm đó và cho biết luôn nguồn gốc của nó.

AN CHI: Cái câu hơi lạ đó thực chất là:

HERE COMES THE BUTCHER,

nghĩa là: Tên đồ tể đến đây đấy.

Dĩ nhiên là nếu những người biểu tình không nói rõ ra tên đồ tể đó là ai thì người ta cũng thừa biết. Nhưng họ lại còn muốn chơi chữ một cách ý nhị mà thay chữ C trong BUTCHER bằng chữ S thành BUTSHER để cho tên của nhân vật bị phản đối cũng hiện diện ở trong đó (bằng các chữ thứ nhất (B), thứ hai (U), thứ tư (S) và thứ năm (H) = BUSH).

Vậy BUTSHER chỉ là kết quả của một sự chơi chữ ý nhị còn cái từ chánh cống mà những người biểu tình muốn nêu lên là BUTCHER. Đây là một từ tiếng Anh gốc Pháp, bắt nguồn từ tiếng Pháp trung đại bouchier, với biến thể bochier (mà hình thái hiện đại là boucher), có nghĩa là đồ tể.

Còn danh từ bouchier/bochier → boucher của tiếng Pháp thì lại phái sinh từ danh từ bouc, có nghĩa là dê đực. Vì vậy nên ở thời trung đại thì bouchier/bochier còn có nghĩa là người bán thịt dê (bấy giờ dân Pháp rất hay ăn thịt dê), về sau mới có nghĩa rộng là người bán thịt, là đồ tể.

§ 1041. Kiến thức ngày nay, số 525, ngày 10-3-2005

ĐỘC GIẢ: Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Việt Nam (Bộ Giáo dục và Đào tạo) do Nguyễn Như Ý chủ biên (Nxb. Văn hoá – Thông tin, 1999), có mục từ:

“Dĩ ăn vi ngủ, dĩ ngủ vi tiên. Ăn ngủ trên hết”.

Tuy các nhà biên soạn giảng câu này là “ăn ngủ trên hết” nhưng tôi vẫn chưa thông tại sao lại nói “dĩ ăn vi ngủ”. Không biết có phải tại trí óc tôi quả chậm lụt hay không?

AN CHI: Ông không thông là phải. “Dĩ ăn vi ngủ” là một lối nói vô nghĩa và… vô duyên. Đây thật ra chỉ là một hiện tượng khẩu ngữ và ngay cả trong khẩu ngữ thì đây cũng chỉ là một câu nói đùa mà nguyên văn là:

Dĩ ăn vi thủ, dĩ ngủ vi tiên.

Thủ mới là trước hết, trên hết chứ ngủ thì chỉ có… ngáy khò khò mà thôi! Thế mà các nhà biên soạn còn nặn ra được cái thí dụ:

“Nó vẫn cái lí dĩ ăn vi ngủ, dĩ ngủ vi tiên thì làm sao mà học hành tốt, làm sao mà nên người được”.

Thật là… hết biết! Cứ cái đà này thì “đại từ điển” chẳng qua chỉ là một thứ từ điển… “làm đại” cho có mà thôi!

§ 1042. Kiến thức ngày nay, số 525, ngày 10-3-2005

ĐỘC GIẢ: Tôi cho rằng hách trong hách dịch chỉ là một với hách trong hống hách nhưng một ông bạn của tôi lại bảo là không phải (ông này có biết chữ Nho). Xin nhờ ông An Chi cho biết ai đúng, ai sai.

AN CHI: Ông bạn của ông đã nói đúng.

Trong hách dịch, chữ hách 赫 thuộc bộ “xích” và có nghĩa gốc là sáng rực, chói lọi. Còn chữ hách 嚇 trong hống hách thì thuộc bộ “khẩu” và có nghĩa là doạ nạt, chẳng hạn trong ngữ danh từ hách Man thư mà Việt – Hán thông thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp (Nam Định, 1933) đã giảng như sau:

“Cái tờ doạ nước ngoài. Đời Đường, Lý Bạch học giỏi, thông hiểu tiếng nước ngoài. Dương-quốc-Trung, Cao-lực-Sĩ ghét tài, đến khoa thi, xui quan trường đánh hỏng. Khi ấy có nước Man gửi thư đến doạ vào đánh. Cả triều không ai hiểu; có người tiến Lý Bạch. Bạch nói với sứ Man rồi viết thư phục lại. Lúc viết thì tâu vua bắt Cao cầm giấy, Dương mài mực, làm cho bõ hờn với kẻ ghét tài và thị uy với Phiên quốc. Sứ Man được thư, sợ mà về”.

§ 1043. Kiến thức ngày nay, số 525, ngày 10-3-2005

ĐỘC GIẢ: Tôi xin có mấy ý kiến về hai câu tục ngữ “Cái khó bó cái khôn” và “Cái khó ló cái khôn”. Trước hết, trong Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ (Nxb. Khoa học Xã hội, 1997), tác giả Hoàng Văn Hành đã xem cả hai câu đều hợp chuẩn và không có câu nào chính, câu nào phụ. Nhưng từ điển Khai trí tiến đức và Từ điển Việt – Hoa – Pháp của G. Huệ chỉ ghi nhận câu “Cái khó bó cái khôn”.

Vậy có thể suy ra chăng: Câu nào cũng là tục ngữ nhưng “Cái khó bó cái khôn” là câu có trước còn câu “Cái khó ló cái khôn” thì ra đời sau. Và phải chăng câu này chịu ảnh hưởng của câu tiếng Pháp:

Nécessité fait vertu

(Les contraintes extérieures rendent ingénieux: Những câu thúc bên ngoài sinh ra khéo léo, tài tình).

Trong cuộc sống đời thường, ta cũng thường thấy như vậy. Trong những hoàn cảnh bất lợi, thì dù thông minh, tài cán, khôn ngoan cũng phải bó tay, không dễ gì xoay trở, đảo ngược tình thế (Cái khó bó cái khôn).

Thế nhưng trong cuộc sống vẫn có những điều, những tình thế ngược lại hoàn toàn. Ở vào hoàn cảnh tưởng như bế tắc, hết đường tháo gỡ thì lại nảy sinh sáng kiến xuất thần, cứu vãn tình cảnh, giải toả khó khăn (Cái khó ló cái khôn).

AN CHI: Trước hết chúng tôi xin trân trọng ghi nhận những lời góp ý của ông, đặc biệt là phần liên hệ với câu “Nécessité fait vertu” của tiếng Pháp.

Nhưng cũng ngay với câu tiếng Pháp này, chúng tôi lại đâm ra hoài nghi: không biết người (hoặc những người) tung ra câu “Cái khó ló cái khôn” có biết tiếng Pháp hay không. Và ngay cả khi họ có biết tiếng Pháp thì chắc họ vẫn thích khẳng định rằng “Cái khó ló (!) cái khôn” là một câu “tục ngữ” do họ sáng chế ra một cách hoàn toàn độc lập với câu tục ngữ tiếng Pháp mà ông đã nêu.

Ngoài ra, chúng tôi cũng xin lưu ý rằng vấn đề không nằm ở mối quan hệ nhân quả giữa cái khôn và cái khó. Vấn đề là trong câu “Cái khó ló cái khôn” thì vị từ ló đã bị dùng sai còn cả câu thì cũng lại hoàn toàn sai cú pháp của tiếng Việt, như chúng tôi đã phân tích trên Kiến thức ngày nay, số 522.

Ông đã rất đúng khi khẳng định rằng “Cái khó bó cái khôn” là câu có trước. Nghĩa là Hoàng Văn Hành đã sai vì khẳng định rằng, trong hai câu đang xét, “không có dạng nào là chuẩn, dạng nào là không chuẩn”, ý muốn nói rằng đây là hai câu độc lập với nhau.

§ 1044. Kiến thức ngày nay, số 525, ngày 10-3-2005

ĐỘC GIẢ: Trong một bản tin thế giới, khi nói về cuộc bầu cử vừa qua tại Irak, một đài truyền hình miền Đông Nam Bộ đã gọi những người Irak sinh sống ở nước ngoài là “kiều bào Irak”. Xin cho biết gọi như thế có đúng không.

AN CHI: Kiều bào là đồng bào của người nói hoặc người viết đang sinh sống ở nước ngoài. Việt kiều ở Mỹ, ở Pháp, ở Úc, v.v., mới là kiều bào của chúng ta. Còn chúng ta thì chỉ có thể gọi những người Irak sinh sống ở nước ngoài là kiều dân Irak mà thôi.

§ 1045. Kiến thức ngày nay, số 525, ngày 10-3-2005

ĐỘC GIẢ: Xin vui lòng cho biết câu “Ngưu y dạ khấp” có nghĩa là gì.

AN CHI: Ngưu y dạ khấp là đêm nằm trong đệm đắp trâu mà khóc (ngưu y là vật bện bằng rơm để đắp cho trâu). Nguyên đây là chuyện thật, có chép trong Hán thư, “Vương Chương truyện”:

“Thời Tây Hán, Vương Chương nhà rất nghèo. Khi còn đang học ở Trường An, cùng vợ sống trong một căn nhà tồi tàn, trong nhà không có lấy một cái gì, tối đến phải ngủ trong cái “áo của trâu”. Một tối, Vương Chương bỗng ngã b ệnh nặng, trong lúc đói rét, đau đớn, ông cảm thấy mình sắp chết, liền khóc từ biệt vợ. Người vợ an ủi khích lệ ông. Về sau, được vợ chăm sóc tận tình, Vương Chương sức khoẻ hồi phục, càng ra sức học tập, cuối cùng thi đỗ làm quan”*.

§ 1046. Kiến thức ngày nay, số 526, ngày 20-3-2005

ĐỘC GIẢ: Đọc Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 525, tôi có mấy nhận xét sau đây về câu tiếng Pháp “Nécessité fait vertu” mà ông Nguyễn Văn Điện muốn biết có quan hệ với câu “Cái khó ló cái khôn” hay không. Nhận xét thứ nhất liên quan đến sự hiện hữu của câu này trong kho tục ngữ tiếng Pháp. Nhận xét thứ hai liên quan đến lời giải nghĩa câu này bằng nguyên văn tiếng Pháp mà ông đã dẫn từ một tài liệu nào đó.

Trong mục từ Nécessité, sách Le Livre des Proverbes Français của Le Roux de Lincy, tái bản lần thứ hai năm 1966, liệt kê ba câu tục ngữ:

– Nécessité n a point de loi (tr. 785).

– Nécessité est mère d’invention (tr. 787).

– Nécessité est de raison la moitié (tr. 787).

Cũng trong mục từ Nécessité, sách Le Robert. Dictionnaire Alphabétique et Analogique de La Langue Française cũng liệt kê ba câu tục ngữ.

– Nécessité n’a pas de loi.

– Nécessité fait loi (loi chứ không phải vertu).

– La nécessité contraint la loi.

Người Pháp cũng có câu Faire de nécessité vertu, được sử dụng rất phổ biến để nói và viết. Câu này là dạng rút gọn của câu Il fautfaire de nécessité vertu, là lời của Thánh Jérôme (thế kỷ V Công nguyên) khuyên tín đồ viết trong tác phẩm Epîtres: Hãy giữ lấy tư cách trong nghịch cảnh. Thực ra, Thánh Jérôme cũng không phải là người sáng tác ra câu này mà ông chỉ dẫn câu La Tinh Facere de necessitate virtutem, đã có từ lâu (Dẫn theo Dictionnaire des Expressions et Locutions của Alain Rey và Sophie Chantreau, tái bản lần thứ hai năm 1996, tr. 540).

Nay câu Faire de nécessité vertu cũng vẫn được sử dụng như một lời khuyên: Trong trường hợp cấp thiết, hãy thanh thản làm việc phải làm, dù thấy rằng việc làm của mình trái với luân thường đạo lý. Câu này gần nghĩa với câu Gặp cảnh nào chào cảnh ấy trong tiếng Việt.

Vậy có câu tục ngữ nào của tiếng Pháp có nghĩa tương đương với câu Cái khó ló cái khôn hay không? Sách vừa dẫn trên có ghi câu Nécessité est mère d’industrie, với lời giải nghĩa nguyên văn như sau: “Les contraintes extérieures rendent ingénieux”, nghĩa là nghịch cảnh làm giàu thêm óc sáng tạo của con người. Vậy quan hệ về nguồn gốc, nếu có, với câu Cái khó ló cái khôn phải là câu Nécessité est mère d’industrie, chứ không phải câu Faire de nécessité vertu, càng không phải câu Nécessité fait vertu. Rất tiếc, câu Nécessité est mère d’industrie hoàn toàn không thể dùng làm cơ sở để xác định phổ hệ của đứa trẻ Cái khó ló cái khôn. Vì sao? Có hai lý do: Thứ nhất, chỉ riêng cấu trúc của hai câu tiếng Việt cũng đã cho phép nói rằng chúng có quan hệ họ hàng rất gần. Thứ hai, câu tục ngữ tiếng Pháp nói trên cũng chẳng mấy khi được người Pháp dùng tới. Nó chỉ được sử dụng để dịch câu tục ngữ tiếng Anh Necessity is the mother of invention, mà Jonathan Swift đã dẫn ra trong tác phẩm Gulliver’s Travel (1726) (Theo sách đã dẫn, tr. 541).

Tóm lại, Cái khó ló cái khôn là một đứa bé Việt rặt chứ không lai Pháp (theo ý tôi); chỉ có điều là có thể vì sự vụng tay của bác sĩ sản khoa nên hình hài của nó không được vuông tròn như bà mẹ (theo ý ông An Chi) mà thôi.

AN CHI: Chúng tôi rất hân hạnh nhận được những lời góp ý của ông. Xin trân trọng giới thiệu để bạn đọc rộng đường tham khảo. Ông đã vì nhã nhặn mà dùng hai tiếng “vụng tay” chứ, với chúng tôi, thì câu “tục ngữ” kia thực sự chỉ là… đồ dỏm mà thôi!

§ 1047. Kiến thức ngày nay, số 526, ngày 20-3-2005

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 523, ông đã viết:

“Dùng để chỉ một loại thức uống có độ cồn nhẹ, bia là một danh từ mà tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp bière. Nhưng cũng chính vì thế mà nó chỉ có nghĩa trong những cấu trúc như: – bia bọt, – bia Tiger, – bia hơi, v.v.. Chứ nếu, với hai câu:

Trăm năm bia đá thì mòn

Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ

mà ai đó lại bắt từ bia của tiếng Việt phải gánh cái nghĩa của từ bière trong tiếng Pháp thì thật là buồn cười”.

Tôi đã rất tâm đắc với đoạn trên đây. Nhưng mấy người bạn đã làm tôi cụt hứng. Họ rất giỏi tiếng Anh. Và họ khẳng định với tôi rằng bia là kết quả phiên âm từ danh từ beer của tiếng Anh/Mỹ chứ tiếng Pháp bière chỉ đem đến cho tiếng Việt hai chữ lave mà thôi.

AN CHI: Khi làm từ nguyên, chúng tôi luôn luôn tâm niệm câu sau đây của J. Vendryes:

“Tous les sosies ne sont pas des parents”.

(Không phải tất cả những kẻ giống hệt nhau đều là bà con (với nhau)).

Thoáng nghe, và nếu chỉ nghe không mà thôi, thì rõ ràng là bia rất gần với beer [biə] của tiếng Anh mà chỉ là một người bà con xa với bière [bjɛr] của tiếng Pháp. Nhưng, may thay, đó chỉ là một cách nhìn (nghe) quá bác học! Chứ nếu ta chịu gần người bình dân hơn thì ta sẽ thấy vấn đề hiện ra rất khác. Ai có theo dõi giải Bóng đá ngoại hạng của Anh cũng đều biết cây làm bàn của câu lạc bộ Arsenal là Thierry Henry. Thế nhưng một số người bình dân Việt Nam đâu có chịu gọi cái firstname của ngôi sao này là [tjɛri]. Họ cứ phát âm một cách rất chi là Việt Nam thành “tia-ri”. Thậm chí bình luận viên đài truyền hình có khi vì bình quá say sưa và gấp gáp cũng đã phát âm như thế. Vậy thì đâu có chi đáng lấy làm lạ – và càng chẳng có lý gì để chống lại! – trước việc họ phát âm bière thành “bia”.

Nhưng vấn đề đâu chỉ có thế. Vấn đề là từ bia (

“Bạch mời thầy Ba Bạc Liêu vào một băng thất uống bia và nói chuyện”*.

Khi Nguyễn Tuân xài “bia” như thế thì người Việt Nam hãy còn gọi dân đảo quốc sương mù là Hồng Mao, là Ăng-lê, chứ danh xưng “Anh” thậm chí còn chưa được dùng chính thức, càng chưa được dùng một cách thống nhất và phổ biến như hiện nay. Chúng tôi tuyệt nhiên không nói rằng lúc bấy giờ chẳng có người Việt Nam nào biết tiếng Anh. Nhưng hồi đó, thứ tiếng này chẳng có thớ mà cũng không có thế để “nhập” bia vào kho từ vựng của tiếng Việt. Chỉ có tiếng Pháp mới là một thứ tiếng “ngon lành” để đưa đến cho tiếng Việt nhiều từ vay mượn mà thôi. Thậm chí nó còn đưa đến cho tiếng Việt cả những từ Pháp gốc Hồng Mao nữa, đặc biệt là trong khẩu ngữ, chẳng hạn trong môn bóng đá (P. = Pháp, A. = Anh):

– coọc-ne (phạt góc) < P. corner [kɔr nɛr] < A. corner [kɔ:nə(r)];

– gôn (cầu môn) < P. goal [gol] < A. goal [gəʊl];

– pê-nan-ti (phạt đền) < P. penalty [penalti] < A. penalty [penəlti]; v.v..

Vậy cái sự giỏi tiếng Anh mới chỉ là điều kiện cần, chứ chưa đủ, để làm từ nguyên học về từ Việt gốc Anh. Nếu chỉ “trông mặt mà bắt hình dong” thì ta sẽ dễ dàng cho rằng phom (dạng, kiểu, khuôn, mẫu) là một từ gốc Anh, vì nó được phát âm rất gần với tiếng Anh form [fɔ:m] trong khi tiếng Pháp lại là forme [fɔrm], có vẻ như… xa hơn. Nhưng thợ đóng giày người Việt Nam đã dùng “phom” để đóng giày cho Tây – và dĩ nhiên là cho cả khách hàng người Việt Nam – từ rất lâu trước khi Mỹ đến.

Vậy xin cứ yên tâm tin rằng bia là một từ Việt gốc Pháp. Chỉ xin nhấn mạnh rằng đây vốn là một từ của tiếng Việt miền Bắc còn la ve, tuy cũng gốc Pháp, nhưng lại là một từ của tiếng Việt miền Nam. Thật vậy, trước đây, người Bắc và người Nam vẫn có những cách phiên âm khác nhau đối với một số từ nhất định của tiếng Pháp, chẳng hạn (theo thứ tự: Pháp > Nam – Bắc):

– balle > banh – ban;

– crème > cà rem (lem) – kem;

– commissaire > cò – cẩm;

– copier > cọp dê [je] – cóp ;

– gamelle > gà mên – cà mèn;

– fromage > phô mai – phó mát; v.v..

Vậy la ve là một từ gốc Pháp của tiếng Việt miền Nam còn bia là một từ gốc Pháp tương ứng của tiếng Việt miền Bắc. Đáng nói là, trong la ve, chỉ có ve mới chánh cống là hình thái phiên âm của bière chứ la thì chỉ là nhại lại quán từ la của tiếng Pháp (vì bière thuộc giống cái nên mới đi với quán từ giống cái la thành la bière) mà thôi.

Nhưng tại sao lại phiên âm bière thành ve? Chuyện hơi rắc rối và rất đáng nói. Đáng nói là vì nhiều người miền Bắc đã theo đúng chính âm, căn cứ vào chính tả, mà phát âm la ve thành [la ve] trong khi người bình dân Nam Bộ không bao giờ phát âm như thế! Họ chỉ phát âm hai chữ này thành [la jɛ] mà thôi. Một số người Bắc, vì nghĩ rằng [la jɛ], nếu viết ra chữ quốc ngữ thì sẽ là “la de” (người Nam Bộ vẫn đọc chữ “d” thành [j]), nên mới thực hiện một hành động siêu chỉnh (hypercorrection) mà phát âm hai chữ la ve thành [la zɛ]. Nhưng người Nam Bộ cũng không bao giờ phát âm như thế này vì, như đã nói, họ chỉ phát âm thành [la jɛ] mà thôi. Vậy thì tại sao la bière lại được phiên âm thành la ve chứ không phải *la de?

Sự thể là như sau: Trong khi người bình dân Nam Bộ phát âm chữ “v” thành [j] (sẽ tạm ghi bằng chữ quốc ngữ “y”) thì người có ít nhiều học thức lại phát âm nó thành [bj] và xem đây là cách phát âm chuẩn. Vì vậy mà nếu những người trước phát âm vội vàng, vui vẻ, v.v., thành “yội yàng, “yui yẻ”, v.v., thì những người sau lại phát âm thành “byội byàng”, “byui byẻ”, v.v.. Thế là người có học ở Nam Bộ có điều kiện để phiên âm một cách trung thành la biè(re) của tiếng Pháp thành “la ve” mà họ phát âm thành la bye [la bjɛ], còn người bình dân thì… la ve [la jɛ]. Vậy cách phát âm thành [la vɛ] hay [la zɛ] của người Bắc hoàn toàn không đúng với cách nào trong Nam cả, nghĩa là không giống ai.

Nói tóm lại thì tiếng Pháp (la) bière đã đem đến cho tiếng Việt hai hình thức vay mượn: bia ở ngoài Bắc và (la) ve ở trong Nam chứ không phải chỉ la ve mới có gốc Pháp còn bia thì gốc Anh như những người xịn tiếng Anh kia đã khẳng định.

§ 1048. Kiến thức ngày nay, số 527, ngày 1 -4-2005

ĐỘC GIẢ: “Rã bành tô” là gì? Đâu là nghĩa của từng tiếng (rã, bành, tô)?

AN CHI: Cơ sở của lối nói rã bành tô chính là ngữ vị từ rã bành, mà theo chúng tôi, thì phải viết thành rả bành (chữ rả với dấu hỏi) mới đúng. Bành là một từ Việt gốc Pháp, bắt nguồn ở danh từ balle, có nghĩa là kiện hàng. Rả bành là một ngữ vị từ tương ứng với động từ déballer của tiếng Pháp, có nghĩa là tháo kiện hàng để lấy các món hàng ra. Còn emballer thì có nghĩa là đóng kiện, mà thực ra tiếng Việt cũng từng có hình thức đối dịch thích hợp là đóng bành.

Thế là ta có: emballer = đóng bành;

và déballer = rả bành.

Rả là tách ra, tháo ra, gỡ ra, cắt ra; thí dụ: rả máy xe, rả xấp vải, rả súc thịt, v.v.. Thực ra thì chữ rả này vốn cùng gốc với rã trong tan rã, rã đám. Xét về nghĩa thì rã là rời ra từng bộ phận còn rả chẳng qua là làm cho rời ra từng bộ phận nên hai từ này vốn chỉ là một. Sự phân biệt rã ≠ rả thực tế chỉ xảy ra ở trong Nam và sự ra đời của chữ rả (dấu hỏi) chẳng qua chỉ là kết quả của một thao tác siêu chỉnh (hypercorrection), một hiện tượng mà chúng tôi cũng vừa mới đề cập trên Kiến thức ngày nay, số 526. Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thu nhận chữ “rả” có lẽ cũng chỉ là do đã theo cách viết ở trong Nam (chẳng hạn trong Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức) chứ, theo chúng tôi thì ngoài Bắc không có từ “rả” theo nghĩa đang xét (mặc dù vẫn có rả trong ra rả, rả rích, v.v.).

Vậy nếu ta thừa nhận rằng cái từ gốc đã phân hoá thành hai, một mang thanh điệu 4 (dấu ngã) và một mang thanh điệu 3 (dấu hỏi) thì ta phải viết rả bành với chữ rả dấu hỏi.

Sở dĩ một số quyển từ điển, chẳng hạn như Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức hoặc Từ điển phươngngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) viết rã bành với chữ rã dấu ngã, theo chúng tôi, chỉ là vì đã loại suy theo ngữ vị từ rã bèn, nghĩa là rời cánh, rụng cánh (nói về hoa). Chính vì loại suy theo rã bèn mà viết rả bành thành rã bành nên người ta cũng đã hiểu ngữ vị từ sau theo nghĩa của ngữ vị từ trước mà cho rằng rã bành là “tan vỡ, tan rã, tan tành”, như đã giảng trong từ điển do Nguyễn Văn Ái chủ biên. Đây cũng là một thí dụ khác về hiện tượng gọi là sự lây nghĩa (contamination de sens) mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 524 (tr. 51, c.1).

Thế nhưng tại sao lại còn nói “rã bành tô”? Và bành tô là gì? Bành tô là tên một kiểu áo mà ta đã phiên âm từ tiếng Pháp paletot (chứ không phải do “manteau” như có chuyên gia ngữ học đã khẳng định). Bành tô là “loại áo Âu phục cổ kín, có nhiều túi, choàng bên ngoài”, như đã giảng trong Tầm-nguyên tự-điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993). Thế thì bành trong bành tô chỉ là một tiếng đồng âm với bành trong rã bành chứ có đồng nhất đâu mà lại ghép thành rã bành tô? Nhưng vấn đề lại chính là ở chỗ này: người ta lợi dụng tính đồng âm mà ghép như thế để tạo ra sắc thái đùa tếu cho lối nói đang xét. Cũng giống như tiếng nghệ trong văn nghệ đâu có phải là tên của một giống thực vật nào nhưng người ta vẫn đồng nhất nó với tên của củ nghệ mà nói văn nghệ văn gừng. Tiếng trị trong chính trị, mà người Bắc phát âm thành chị, đâu có liên quan gì với danh từ chị trong chị em nhưng người ta vẫn đồng nhất hai tiếng đó với nhau mà nói thành chính chị (trị) chính em. Điển hình cho lối nói mang sắc thái đùa tếu này có lẽ là cấu trúc tuyệt cú mèo. Ai có để ý đến chữ Hán cũng có thể biết rằng tuyệt cú chẳng qua là “câu văn, câu thơ cực hay” vì cú là “câu”. Nhưng người ta vẫn sẵn sàng đồng nhất cú là câu với cú trong cú mèo là tên một loài chim mà nói thành tuyệt cú mèo! Rã bành tô chính là một lối nói như thế và chính vì thế nên nó không hề mang sắc thái trung hoà. Nhưng nó chỉ có tính chất đùa tếu chứ không mang tính xấu nghĩa (pejorative).

Tóm lại, rã bành tô là một lối nói mang tính chất đùa tếu, ít nhất cũng là không nghiêm chỉnh, có nghĩa là tan vỡ, tan rã, tan tành, không còn gì. Còn xuất phát điểm của nó thì lại là ngữ vị từ rả bành, tương ứng với động từ déballer của tiếng Pháp.

§ 1049. Kiến thức ngày nay, số 527, ngày 1-4-2005 và số 528, ngày 10-4-2005

ĐỘC GIẢ: Tôi xin có ý kiến về từ “con¹” trên Kiến thức ngày nay, số 523. Theo tôi thì con¹ là một danh từ đếm được (countable noun). Xin nêu vài thí dụ:

1. Vợ chồng H. có ba con: hai gái, một trai. Con thứ ba của họ là con trai.

2. Trong đám con nít, có mười tám con gái và hai mươi con trai.

3. Con chó của bạn tôi đẻ được ba con: hai đực và một cái (hoặc: hai con đực và một con cái).

AN CHI: Chúng tôi rất hoan nghênh lời góp ý của ông và xin giới thiệu như trên để bạn đọc tham khảo. Nhưng chúng tôi cũng xin thẳng thắn nói rằng những thí dụ mà ông đưa ra không làm thay đổi được chủng loại của danh từ con¹. Đây vẫn cứ là một danh từ không đếm được. Trong luận án tiến sĩ khoa học ngữ văn mang tên “Danh từ khối trong tiếng Việt hiện đại (so sánh với tiếng Hán hiện đại)”, tác giả Nguyễn Thị Ly Kha đã viết:

“Theo Whorf, sở biểu của danh từ khối không đếm được chỉ thực thể đồng chất, đồng loại, không phân lập, như một mảng liên tục trải dài đến vô cùng tận. Do vậy không thể lượng hoá danh từ khối không đếm được như danh từ khối đếm được. Những trường hợp như ba chân bốn cẳng, ba bò chín trâu, hai muối một đường, năm cha bảy mẹ, cả hai xe đều hỏng cả, v.v., là những lệ ngoại về tính đếm được của danh từ khối không đếm được. Những sự kiện mang tính chất biên này không hề mang tính chất ngẫu nhiên, mà có tính quy tắc rõ rệt, như nhiều tác giả đã từng chỉ rõ (…) Có thể khái quát về lệ ngoại đếm được của danh từ khối không đếm được như sau:

Danh từ khối không đếm được có thể kết hợp với số đếm, nếu nó thuộc một trong những lệ ngoại sau:

⋆ Một, là những biểu thức ngôn từ mang tính thành ngữ, hay để nêu công thức pha chế, như:

a. tám cẳng hai càng (…) một cổ hai tròng (…)

b. ba cát một vôi (…) hai muối một đường (…)

Có thể gộp vào đây lối nói trong thơ ca

(…)

⋆ Hai, là trong chuỗi liệt kê hoặc trong câu gọi đồ ăn thức uống ở tiệm, như:

a. Bảy trăm nhà pha. Bốn trăm khố xanh (…)

b. Hai phở, ba cơm tấm!

(…)

⋆ Ba, là khi diễn đạt mối quan hệ bộ phận – toàn thể (nói cách khác, khi chỉ các phần tử của một tập hợp), nhất là khi làm bổ ngữ cho vị từ có, ví dụ:

a. Bất giác tôi co người lại, đưa một tay ôm lấy vai bà tôi.

(…)

b. Bà Tư có ba con, hai trai một gái.

(…)

Như vậy, ba điều kiện của những lệ ngoại trên là phải đáp ứng yêu cầu: 1. tính ngắn gọn, chặt chẽ, cân xứng của lối nói mang tính thành ngữ; 2. tính ngắn gọn, chặt chẽ, khái quát của lối diễn đạt mang tính công thức (pha chế); 3. lối diễn đạt ngắn gọn khi liệt kê; 4. nêu bật tiêu điểm thông báo (phần mang nội dung chính của sự thể cần biểu thị khi hô gọi, thường chỉ dùng khi gọi đồ ăn thức uống ở tiệm)”.

Trở lên là những trường hợp danh từ khối không đếm được có thể đi chung với số đếm mà chúng tôi dẫn từ các trang 91 – 94 trong luận án in vi tính của Nguyễn Thị Ly Kha, theo đó thì con¹ chính là một danh từ khối không đếm được. Chính vì thế nên ta thấy nó hiện diện trong “Danh sách 2B: Các danh từ khối không đếm được” ở trang 230 của bản luận án.

Các thí dụ 1 và 2 của ông nằm trong trường hợp đó. Riêng đối với thí dụ 3 thì cảm thức ngôn ngữ của người Việt buộc phải xem con trong ba con là con² chứ không thể nào lại là con¹ được.

Xin nhắc lại thí dụ của ông:

– Con chó của bạn tôi đẻ được ba con, hai (con) đực và một (con) cái.

Thực ra, con trong ba con lại là con², nghĩa là một danh từ đơn vị, y hệt như trong các câu:

– Con ngựa của Tái Ông lại dẫn về thêm một con khác.

– Ấp hàng chục quả mà chỉ nở được có mấy con.

– Nó đi bẫy cu cả ngày mà chẳng được con nào.

Sở dĩ ông cho rằng con trong thí dụ đó là một danh từ đếm được chẳng qua là do áp lực của động từ đẻ đứng trước. Xin lưu ý rằng với động từ đẻ và danh từ con, ta có thể có hai cấu trúc hoàn toàn khác nhau về tính chất. Đẻ x con (x là ký hiệu của lượng từ: một, ba, vài, v.v.) là một từ tổ tự do trong đó con là một danh từ đơn vị, tức con², hoàn toàn khác với đẻ con, là một từ tổ cố định – ít nhất cũng là một tổ hợp chặt (để phân biệt với đẻ trứng, chẳng hạn) – trong đó con là một danh từ khối không đếm được, tức con¹. Về mặt cú pháp, đẻ con cũng giống hệt như nhảy con trong phương ngữ Nam Bộ, mà Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức giảng là “sanh thêm cây nhỏ chung quanh (nói về loại căn-hành).” Với cấu trúc này, ta có thể nói, chẳng hạn:

– Chuối đã nhảy con; nhưng sẽ không thể nói tiếp, chẳng hạn:

– Nào! Ta thử đếm xem được mấy con.

vì chỉ có thể nói:

– (…) đếm xem được mấy cây.

mà thôi. Sở dĩ như thế là vì con trong nhảy con là con¹, nghĩa là một danh từ khối không đếm được và vì thế nên hễ muốn đếm thì ta phải dùng danh từ đơn vị cây (hoặc một từ nào khác tương đương). Cũng thế, trong đẻ con thì con là một danh từ khối không đếm được, tức con¹, nên hễ muốn đếm thì ta phải dùng một danh từ đơn vị dùng để chỉ động vật. Ngặt một nỗi, cái danh từ đơn vị thích hợp nhất và thông dụng nhất để chỉ động vật nói chung ở đây cũng lại là con, đồng âm với con¹, nên mới dễ dàng dẫn đến sự ngộ nhận rằng trong đẻ ba con thì con là một danh từ khối, đếm được. Thật là một sự trùng hợp “định mệnh” oái oăm!

Có những lối nói liên quan đến danh từ con, mà phạm vi sử dụng hoàn toàn hạn chế; nếu ta không thấy được tính chất này mà đem ứng dụng rộng rãi thì sẽ làm cho sự diễn đạt của mình trở nên ngớ ngẩn. Chẳng hạn với cấu trúc có x con, ta có thí dụ đã nêu:

Bà Tư có ba con, hai trai một gái.

Đây là một lời nói thân mật, cho phép lược bỏ danh từ đơn vị (mụn, đứa, người, v.v.), dùng để nói về quan hệ hoặc hoàn cảnh gia đình của con người. Vì vậy nên nếu có ai lại ứng dụng nó để nói về một con vật nào đó thì nghe sẽ rất buồn cười, trừ phi chính người nói (hoặc viết) có dụng ý… trào phúng, chẳng hạn:

– Con mèo nhà tôi có hai con (dĩ nhiên không kể đến trường hợp mèo có nghĩa là nhân tình).

– Con chó nhà anh Mít có bốn con.

Nhưng, những câu như:

– Con mèo nhà tôi đẻ hai con.

– Con chó nhà anh Mít đẻ bốn con

thì lại hoàn toàn bình thường. Chỉ không bình thường là nếu có ai đó lại dùng cấu trúc đẻ x con mà nói về con người, chẳng hạn:

– Vợ thằng Ất đẻ hai con.

– Lần này bà ta đẻ những ba con.

Trong trường hợp trước, người ta sẽ nói “(…) đẻ sinh đôi” còn trường hợp sau thì “(…) đẻ sinh ba”. Sở dĩ không thể dùng cấu trúc đẻ x con để nói về con người thì chỉ đơn giản vì ở đây con là một danh từ đơn vị dùng để nói về loài… vật. Nếu cần dùng danh từ đơn vị cụ thể để nói về con người thì người ta sẽ phải dùng những từ khác (đứa, mụn, mống, v.v.) chứ không thể là con, chẳng hạn:

– Vợ thằng Ất đẻ hai đứa.

– Lần này bà ta đẻ những ba mống.

Tóm lại, có những lối nói tuy suy đến cùng vẫn rất đúng về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp nhưng về mặt ngữ dụng, nếu không được chú ý đúng mức thì sẽ gây ra chuyện buồn cười. Về mặt này chúng tôi xin phép nhấn mạnh rằng:

Đẻ x con, trong đó con là danh từ đơn vị, tức con², chỉ dùng cho loài vật chứ không dùng cho con người, còn có x con, trong đó con là danh từ khối không đếm được, tức con¹ thì lại không dùng được cho loài vật vì chỉ dùng cho người mà thôi.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3