Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1030 - 1039
§ 1030. Kiến thức ngày nay, số 519, ngày 10-1-2005
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 516, ngày 10-12-2004, độc giả Nguyễn Minh Tiến có trích dẫn bài viết của tác giả Anh Châu trên Văn nghệ, số 47, ngày 20-11-2004 trong đó có đoạn:
“Mạnh Tử nói: “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên”, có nghĩa là “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu.”
Xin ông vui lòng cho biết câu trên đây có đúng là của Mạnh Tử không? Nếu đúng thì ta có hai câu:
“Dân dĩ thực vi tiên” của Mạnh Tử. và
“Dân dĩ thực vi thiên” của Lịch Dị Cơ.
Và nếu đúng như thế thì phải chăng xét về thời gian, câu của Mạnh Tử (327 – 289 tr. CN) đã có trước câu của Lịch Dị Cơ (204 tr. CN)?
AN CHI: Tác giả Anh Châu đã gán cho Mạnh Tử quyền sở hữu trí tuệ về câu “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên” chứ sách Mạnh Tử, với 14 thiên (thượng & hạ) gồm 261 chương, chẳng có một câu nào như thế cả. Liên quan đến vai trò của dân chúng đối với quốc gia, Mạnh Tử chỉ nói:
“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. (“Tận tâm”, hạ, chương XIV)
nghĩa là:
“Dân mới quý, kế đến là xã tắc còn vua thì thường”.
Thế thì câu “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên” có trong sách vở của Trung Hoa hay không và nếu có thì là câu nói của ai? Xin thưa là có. Có điều là tiếng cuối cùng của nó đã bị làm cho lệch chữ, lệch âm và lệch nghĩa (vì lẽ ra đó phải là “thiên” 天 (= trời)).
“Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi thiên”
chính là lời quan đại phu Văn Chủng nói với Việt vương Câu Tiễn (ở hồi thứ 81 của Đông Chu liệt quốc chí) như có thể thấy tại bộ Hội đồ Đông Chu liệt quốc chí (d.18, tr. 181, quyển 3) do Hương Cảng Quảng Trí thư cục ấn hành:
Tại d.3 (từ phải sang, tức d.18 của cả trang), ta có thể đọc thấy 16 chữ:
“Văn Chủng đối viết: Thần văn quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi thiên”
Chữ thiên 天 là chữ cuối cùng. (Xin xem ảnh)
Thế nhưng cách đây 10 năm, có tác giả đã khẳng định (chắc như đinh đóng cột) rằng Đông Chu liệt quốc có câu Dân dĩ thực vi tiên; nghĩa là “dân lấy ăn làm đầu”. Dĩ nhiên đó là lời khẳng định sai và chúng ta có thể tìm ra nguyên nhân như sau:
Số là chữ thiên của câu đang xét đã từng được dịch thành “đầu” (đầu tiên), chẳng hạn trong bản dịch Đông Chu liệt quốc của dịch giả Nguyễn Đỗ Mục mà Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh đã in lại năm 1989:
“Tôi nghe nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. (Tập V, tr. 290)
Tác giả đó mặc dù chẳng biết nguyên văn tiếng Hán ra sao, chỉ làm một động tác đơn giản là dịch ngược vế “dân lấy ăn làm đầu” từ tiếng Việt trở sang tiếng Hán thành “dân dĩ thực vi tiên” một cách… “lạnh lùng”.
Nhưng dịch ngược một lời dịch trở sang ngôn ngữ gốc là một việc làm chẳng những hoàn toàn không cần thiết mà còn rất nguy hiểm.
Cách đây trên 30 năm, lúc còn ở miền Bắc, chúng tôi từng được nghe một lời khoe, rất đỗi chân thành, rằng “Mình có vé mời tối nay đi xem múa Paris (!)”. “Múa Paris” ở đây chính là múa ba-lê (do tiếng Pháp ballet) nhưng vị cán bộ vì từng nghe thủ đô hoa lệ của nước Pháp (Paris) được gọi là Ba Lê (hoặc Bá Lê) nên đã hồn nhiên dịch ngược trở lại “múa ba-lê” thành “múa Paris” (!). Tốt nhất là ta cứ chịu khó tìm về nguyên văn cho… chắc ăn và nhất là cho phải lẽ. Cái triết lý cao sâu của Lịch Dị Cơ mà biến thành “dĩ thực vi tiên” thì chẳng tội nghiệp cho ông họ Lịch lắm ru? (Xin vui lòng xem lại Kiến thức ngày nay, số 503, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 53 – 54).
Nói “tội nghiệp cho ông họ Lịch” là vì tác quyền của câu “Dân dĩ thực vi thiên” thuộc về ông ta chứ ba tầng tác giả của Đông Chu liệt quốc chí (Dư Thiệu Ngư đời Minh, rồi Phùng Mộng Long cũng đời Minh và cuối cùng là Thái Nguyên Phóng đời Thanh) chỉ là những người “nói theo” mà thôi! Ta biết rằng Đông Chu liệt quốc chí không chỉ bao hàm các sự kiện lịch sử mà còn chứa đựng cả những yếu tố mang tính chất hư cấu, trong đó có những lời đối thoại. Câu nói của Văn Chủng gồm có hai vế, thừa hưởng từ hai nguồn khác nhau. “Dân dĩ thực vi thiên” là một vế thừa hưởng từ lời nói của Lịch Dị Cơ trong Hán thư, như đã thấy. Còn vế “Quốc dĩ dân vi bản” thì lại thừa hưởng từ Kinh Thư, quyển thứ II (Hạ thư), thiên thứ 3 (Ngũ tử chi ca):
“Dân duy bang bản; bản cố bang ninh”.
nghĩa là:
“Dân là gốc của nước; gốc vững thì nước yên”.
Tóm lại, câu “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên” không phải của Mạnh Tử, còn lời nói của quan đại phu Văn Chủng trong Đông Chu liệt quốc thì lại là:
“Quốc dĩ dân vi bản dân dĩ thực vi thiên”.
§ 1031. Kiến thức ngày nay, số 520, ngày 20-1 -2005
ĐỘC GIẢ: Dư luận đang xôn xao về những vụ tai tiếng của một số quan chức Liên đoàn bóng đá Việt Nam. Trong một cuộc phỏng vấn do Lan Phương thực hiện (báo Thanh niên, ngày 10-1-2005), khi được hỏi “Ông cảm thấy thế nào nếu tại đại hội sớm, ông không được tín nhiệm nữa và phải ra đi?”, ông Trần Duy Ly trả lời:
– Tôi cảm thấy rất thanh thản. Tôi sẽ ra đi rất nhẹ. Nhưng ai làm tiếp bây giờ cho đến đại hội mới là gánh nặng. Con thuyền Liên đoàn vẫn phải trôi. Nếu bây giờ tôi nghỉ thì ai chỉ đạo, ai làm?
Xin ông cho biết chữ “trôi” trong câu trả lời trên có nghĩa là gì?
AN CHI: Thật khó lòng biết được ông Trần Duy Ly hiểu chữ “trôi” ở đây như thế nào. Riêng chúng tôi thì xin dựa vào tiếng Việt toàn dân để trả lời như sau:
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003) đã cho:
“trôi I đg.1. Di chuyển tự nhiên theo dòng chảy. Khúc gỗ bập bềnh trôi trên sông. Buông chèo cho thuyền trôi xuôi. Bị nước cuốn trôi. 2. Di chuyển tự nhiên theo một hướng nhất định. Dòng sông lững lờ trôi. Mây trôi (…)”.
Tuy lối phân nghĩa của quyển từ điển này chưa thật hợp lý (nghĩa 1 và nghĩa 2 thực chất chỉ là một) nhưng cái nghĩa của từ trôi trong câu trả lời của ông Ly cũng chỉ “quanh quẩn” ở cái nét nghĩa “di chuyển tự nhiên”, nghĩa là không theo bất cứ một sự điều khiển nào. Ngoài những thí dụ của quyển từ điển, ta còn có thể kể thêm một số nữa, có lẽ còn “ấn tượng” hơn, chẳng hạn:
– chết trôi; – nước chảy bèo trôi; – trôi sông lạc chợ, – bèo giạt hoa trôi; v.v..
Vậy trôi là di chuyển trên mặt nước một cách “tự do” theo dòng chảy chứ không theo một sự điều khiển nào. Và cứ theo cách hiểu trên, thì “con thuyền Liên đoàn bóng đá Việt Nam vẫn phải di chuyển “tự do” chứ không theo một sự điều khiển nào”. Nó chỉ trôi theo dòng chứ không căng buồm rẽ sóng mà tiến lên.
Câu “Con thuyền Liên đoàn vẫn phải trôi” của ông Ly còn có tiền giả định là trước đó con thuyền Liên đoàn cũng đã trôi. Vậy tưởng cũng chẳng có gì lạ khi Tuyển Việt Nam đại bại 0 – 3 trước Tuyển Indonesia tại Tiger Cup 2004. Và cũng chẳng có gì phải ngạc nhiên khi một huấn luyện viên loại 3 của Pháp lại qua mặt LĐBĐVN để nhận trên 3 tỷ bạc bồi thường… Và thế thì ta cũng nên cầu chúc cho ông Ly được “ra đi rất nhẹ”.
§ 1032. Kiến thức ngày nay, số 520, ngày 20-1 -2005
ĐỘC GIẢ: Sau cơn động đất và sóng thần xảy ra vào cuối tháng 12-2004 tàn phá Nam Á và ĐôngNam Á, một số phương tiện truyền thông đã dùng từ tsunami để chỉ hiện tượng này. Bạn bè tôi có người cho đây là tiếng địa phương; có người căn cứ theo một vài tờ báo mà cho là tiếng Nhật; lại có người cho là từ này có liên quan đến tiếng Hán. Xin ông vui lòng cho biết thực hư ra sao.
AN CHI: Danh từ tsunami chẳng có liên quan gì đến tiếng Hán hoặc đến ngôn ngữ của bất cứ quốc gia nào bị tàn phá trong trận động đất ngày 26-12-2004 cả.
Tsunami là tiếng Nhật. Tsu là bến, cảng còn nami là sóng. Vậy theo cấu tạo thì tsunami có nghĩa là sóng đánh vào, ập vào bến, vào cảng. Nghĩa thực tế của nó là sóng thần, như ta đã biết. Tiếng Anh và tiếng Pháp cũng có thu nhận danh từ tsunami, mặc dù tiếng Anh đã có tidal wave còn tiếng Pháp thì có raz de marée (cũng viết raz-de-marée). Có lẽ đó là do Nhật Bản là quốc gia thường bị động đất và sóng thần chăng?
Theo mục “Le mot de la semaine” (“Tiếng (từ) của tuần” = mỗi tuần một tiếng (từ)) của tờ Courrier International, số 690 (từ 22 đến 28-1-2004), thì bộ Nihon Shoki (Nhật Bản tường (?) ký), một bộ biên niên sử của Nhật Bản, soạn xong năm 720, đã ghi nhận trận động đất xảy ra vào năm 684 ở Hakuho, kéo theo sóng thần tàn phá cả một vùng ven biển phía Thái Bình Dương, trên đó có cảng Susaki.
Sở dĩ có người cho rằng danh từ tsunami có liên quan đến tiếng Hán có lẽ chỉ là vì người Nhật đã dùng kanji (Hán tự) để ghi danh từ này mà thôi. Quả vậy, họ đã dùng hai chữ Hán tân ba 津波 để ghi ba tiếng (âm tiết) tsunami. Tân 津 là bến còn ba 波 là sóng. Vậy “tân ba” là sóng ập vào bến, như đã nói ở trên. Nhưng họ lại không đọc hai chữ 津波 theo kiểu on-yomi, (tức theo âm trong tiếng Hán) mà lại đọc theo kiểu kun-yomi, nghĩa là đọc theo âm tiếng Nhật.
§ 1033. Kiến thức ngày nay, số 520, ngày 20-1 -2005
ĐỘC GIẢ: Kết thúc bài “Đài ký” trên Kiến thức ngày nay, số 519, tác giả Phan Thanh Hải viết:
“Những niềm vui, những kýức mới mẻ đang đầy ắp trong tâm khảm sau mỗi chuyến đi xa cứ sóng sánh và thôi thúc, nó tựa như âm hưởng bài thơ Hoàng Hạc lâu của Lý Bạch:
Bạch nhật y không tận,
Hoàng Hà nhậphải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thượng nhất tằng lâu.”
Nếu tôi không nhầm thì đây là bài “Đăng Nhạc Dương lâu” mới phải?
AN CHI: Đây không phải là bài “Hoàng Hạc lâu”, cũng không phải “Đăng Nhạc Dương lâu” mà là “Đăng Quán Tước lâu” của Vương Chi Hoán. Bài “Hoàng Hạc lâu” cũng không phải của Lý Bạch mà của Thôi Hiệu còn bài “Đăng Nhạc Dương lâu” thì lại là của Đỗ Phủ.
Quán Tước lâu ở phía Tây Bồ Châu (nay là huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây) nằm trên một cù lao ở giữa sông Hoàng Hà. Bấy giờ thường có chim quán tước (giống như chim hạc) đến đậu, nên gọi là lầu Quán Tước. Vì đứng ở vị trí như thế nên tác giả mới nhìn thấy được “Hoàng Hà (nhập hải lưu)” chứ nếu đứng ở Hoàng Hạc lâu thì chỉ có thể nhìn thấy sông Trường Giang mà thôi. Hoàng Hạc lâu nằm ở phía Tây huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Còn Nhạc Dương lâu thì lại nằm ở phía Tây huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, có thể nhìn ra hồ Động Đình.
Tương truyền khi đến thăm Hoàng Hạc lâu, Lý Bạch cũng định đề thơ nhưng nhìn lên đã thấy thơ đề vịnh của Thôi Hiệu hay quá rồi nên không đề nữa.
Sau đây là nguyên văn của 3 bài thơ để bạn tham khảo:
Hoàng Hạc lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cỡi hạc vàng đi
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
Hạc vàng một đi không trở lại
Mây trắng vẫn ngàn năm lơ lửng trôi
Cây Hán Dương hiện rõ bên dòng sông tạnh
Bãi Anh Vũ phủ đầy cỏ thơm.
Chiều xuống, quê nhà ta ở đâu?
Sương khói trên sông khiến người phiền sầu.
Đăng Nhạc Dương lâu
Tích văn Động Đình thuỷ,
Kim thướng Nhạc Dương lâu.
Ngô, Sở Đông Nam sách
Càn khôn nhật dạ phù
Thân bằng vô nhất tự
Lão bệnh hữu cô chu
Nhung mã quan sơn Bắc
Bằng hiên thế tứ lưu.
Dịch nghĩa:
Trước đây nghe nói đến vùng hồ Động Đình
Nay đã lên đến lầu Nhạc Dương
Chia Ngô, Sở Đông Nam hai ngả
Trời đất ngày đêm nổi trôi
Thân bằng không một chữ gởi đến
Ta già yếu chỉ có chiếc thuyền lẻ loi
Giặc giã đang ở phía Bắc miền quan ải
Ta tựa hiên, nước mắt chảy giàn giụa.
Đăng Quán Tước lâu
Bạch nhật y sơn tận
Hoàng Hà nhậphải lưu
Dục cùng thiên lý mục
Cánh thướng nhất tằng lâu.
Dịch nghĩa:
Mặt trời nương chót núi
Hoàng Hà ra biển khơi
Muốn nhìn mút tầm mắt
Lên thêm một tầng lầu.
§ 1034. Kiến thức ngày nay, số 522, ngày 10-2-2005
ĐỘC GIẢ: “Oao” là tiếng kêu của loài động vật nào mà, trong một số mẩu quảng cáo trên truyền hình, từ ông già bà cả cho đến con nít con nôi đều bắt chước kêu “oao”?
AN CHI: Đó là thán từ wow [wau] (dùng để tỏ sự ngạc nhiên hoặc sự thán phục) của tiếng Anh chứ không phải là tiếng kêu của giống vật nào cả. Khốn nỗi bây giờ người ta “oao” càng ngày càng nhiều, nhất là một số MC, mà không hề ý thức được rằng, theo cái tai của người Việt, thì đó chỉ có thể là tiếng kêu của loài vật mà thôi.
§ 1035. Kiến thức ngày nay, số 522, ngày 10-2-2005
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 511, ông đã chứng minh rằng câu “Cái khó ló cái khôn” “hoàn toàn không đúng với đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của từ ló”. Theo ông, ló chỉ có hai cách dùng:
“1. Không có bổ ngữ và có nghĩa là xuất hiện. Thí dụ: Vầng dương vừa ló lên ở chân trời.
2. Có bổ ngữ và có nghĩa là để lộ ra nhưng bổ ngữ này phải là danh từ chỉ một bộ phận hữu cơ của chủ thể. Thí dụ: Kim Trọng vừa ló đầu lên khỏi bức tường thì liền thấy có một chiếc trâm vướng ở cành cây trước mặt - Sở Khanh vừa ló mặt thì đã bị Kiều nhiếc: Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai!”
Vậy “Cái khó ló cái khôn” là một câu sai vì từ ló không được dùng theo bất cứ cách dùng nào mà ông đã nêu. Nhưng trên đây chỉ là ý kiến của riêng ông chứ từ điển thì khác. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 1992) giảng:
“ló2 đg. Để lộ một phần nhỏ (thường là cao nhất) ra khỏi vật che khuất. Ló đầu trên bức tường. Mặt trời vừa ló lên sau dãy núi.”
Cách dùng từ “ló” trong câu “Cái khó ló cái khôn” (= Cái khó để lộ một phần nhỏ cái khôn) chẳng có gì mâu thuẫn với lời giảng trong từ điển của Hoàng Phê cả. Vì vậy nên tôi rất phân vân, không biết nên tin ở ông hay phải nghe theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên.
AN CHI: Kể cả khi phải nghe theo Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên (TĐTV 1992 (năm 2004 đã in đến lần thứ 10)), thì ta vẫn phải thừa nhận rằng “Cái khó ló (!) cái khôn” là một câu sai cả về ngữ nghĩa lẫn ngữ pháp. Nó sai ngay ở cái nét nghĩa đầu tiên mà TĐTV 1992 đã nêu là “để lộ một phần nhỏ”. “Một phần nhỏ” dĩ nhiên là một phần nhỏ của chủ thể được nói đến trong câu (hoặc đoạn văn) chứ không phải của bất cứ một vật thể nào khác. Còn về mặt cú pháp – mà TĐTV 1992 không nói đến – thì từ (hoặc ngữ) dùng để biểu thị cái “phần nhỏ” đó là bổ ngữ trực tiếp của ló. Đây chính là cách dùng thứ hai mà chúng tôi đã nêu:
“Có bổ ngữ và có nghĩa là để lộ ra nhưng bổ ngữ này phải là danh từ chỉ một bộ phận hữu cơ của chủ thể.”
Và chúng tôi đã kết luận:
“Cái khó và cái khôn chỉ là những khách thể của nhau thì làm sao mà cái trước có thể “ló” cái sau cho được!”
Nay xin nói theo ngôn ngữ của TĐTV 1992: “Cái khôn có phải là “một phần nhỏ” của cái khó đâu mà cái này có thể “ló” cái kia cho được!” Vậy dù có đưa vào TĐTV 1992 thì ta vẫn cứ phải kết luận rằng “Cái khó ló cái khôn” là một câu sai.
Nhưng TĐTV 1992 cũng chỉ đúng được ở nét nghĩa trên đây về từ ló mà thôi chứ cả lời giảng thì lại hoàn toàn chẳng ổn chút nào. Với cái thí dụ “Mặt trời vừa ló lên sau dãy núi”, ta chẳng làm sao có thể biết được “mặt trời” là “một phần nhỏ” của cái gì nên cũng chẳng làm sao có thể biết được cái gì đã “để lộ” nó ra. Ở đây, tự nó là chủ thể: nó “tự lộ” chứ chẳng được bất cứ cái gì “để lộ” cả. Vậy “để lộ” là một ngữ vị từ không thích hợp với lời giảng về từ ló. Nó cho thấy tác giả của mục từ chưa phân biệt tính nội động (intransitivity) với tính ngoại động (transitivity) của động từ ló, mà về bản chất, là một động từ lưỡng khả. Đối với loại động từ này, ta phải tách nghĩa ngoại động khỏi nghĩa nội động mà giảng chứ không thể gộp làm một như TĐTV 1992 đã làm. Chính vì thế nên trên Kiến thức ngày nay, số 511 chúng tôi mới tách riêng ra mà nói rằng ló có hai công dụng, như ông đã dẫn lại đầy đủ trong lời góp ý của mình. Công dụng thứ nhất là cách dùng theo nghĩa nội động còn công dụng thứ hai lại là cách dùng theo nghĩa ngoại động.
Cũng như khoảng hơn 100 động từ chỉ động tác hoặc trạng thái của một bộ phận trong toàn bộ – mà nhiều tác giả đã “thu hẹp” thành “động từ chỉ hoạt động của bộ phận cơ thể” – ló là một động từ có đặc trưng cú pháp – ngữ nghĩa sau đây:
Chỉ thay đổi về cấu trúc cú pháp mà nghĩa của cả câu không thay đổi khi chuyển từ nghĩa ngoại động sang nghĩa nội động. Thí dụ:
1a. Con dế ló râu ra khỏi hang.
1b. Râu con dế ló ra khỏi hang.
2a. Thằng bé ló đầu ra khỏi xe.
2b. Đầu thằng bé ló ra khỏi xe.
Trong 1a, phần đề là con dế còn phần thuyết là ló râu ra khỏi hang, còn trong 1b thì râu con dế mới là phần đề và ló ra khỏi hang, lại là phần thuyết. Trong 1a thì râu là bổ ngữ trực tiếp của ló nhưng trong 1b thì râu lại là trung tâm của ngữ danh từ râu con dế. Thế nhưng cái sự thể mà cả 1a lẫn 1b diễn đạt thì chỉ là một.
Cũng thế, trong 2a, phần đề là thằng bé còn phần thuyết là ló đầu ra khỏi xe còn trong 2b thì đầu thằng bé mới là phần đề và ló ra khỏi xe lại là phần thuyết. Trong 2a thì đầu là bổ ngữ trực tiếp của ló nhưng trong 2b thì đầu lại là trung tâm của danh ngữ đầu thằng bé. Thế nhưng cái sự thể mà cả 2a lẫn 2b diễn đạt thì cũng chỉ là một.
Trên đây là đặc điểm cú pháp – ngữ nghĩa cơ bản của động từ ló mà từ “ló” trong câu “Cái khó ló cái khôn” hoàn toàn không có. Làm sao mà hai câu:
“Cái khó ló cái khôn”
và
“Cái khôn ló cái khó”
lại có thể diễn đạt cùng một sự thể cho được? Và làm sao mà ta có thể nói “cái khôn của cái khó” giống như người ta đã có thể nói râu con dế hay là đầu thằng bé? Đối với đặc trưng cú pháp – ngữ nghĩa trên đây của động từ ló thì câu “Cái khó ló (!) cái khôn” hiển nhiên là một cấu trúc hoàn toàn xa lạ. Đây là một cách thử hoàn toàn chắc chắn để khẳng định rằng câu này chẳng qua chỉ là một tục ngữ dỏm. Mọi sự chứng minh, dù có hùng hồn đến đâu, nhưng lại không quan tâm đến đặc trưng cú pháp – ngữ nghĩa trên đây của động từ ló cũng đều không thể có hiệu lực. Một lời ca ngợi trí tuệ của dân tộc mà lại sai ngữ pháp đến như thế thì phỏng có giá trị gì?
§ 1036. Kiến thức ngày nay, số 522, ngày 10-2-2005
ĐỘC GIẢ: Một tờ báo ra ngày 21-1-2005 có mẩu tin: “Toà án Triều Dương (Bắc Kinh) đã tuyên án buộc nữ diễn viên Triệu Vy nộp phạt 2.246 RMB (tương đương 4 triệu VND) và phải công khai xin lỗi về vụ sai người đánh thai phụ Trâu Tuyết.” (tr. 15). Xin được hỏi: RMB là gì?
AN CHI: RMB là ba chữ cái đầu âm tiết (initial) của ba từ trong ngữ danh từ Rénmínbì 人民币 (nhân dân tệ), tức “tiền nhân dân” (của Trung Quốc), mà đơn vị là Rénmínbì Yuán, 人民币元 (nhân dân tệ nguyên), viết tắt là RMB¥, tức là “đồng nhân dân tệ”. Nguyên, có nghĩa là “đồng”, đứng làm trung tâm của danh ngữ còn nhân dân tệ là định ngữ hạn định của nguyên.
Vậy, trong danh ngữ nhân dân tệ nguyên thì chính nguyên chứ không phải ba tiếng “nhân dân tệ”, mới là từ chỉ đơn vị tiền tệ của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Nhưng nhiều người vẫn hiểu lầm mà cho rằng nhân dân tệ là tên của đơn vị tiền tệ, giống như bảng trong đồng bảng (pound), dollar trong đồng dollar, franc trong đồng franc, won trong đồng won, yen trong đồng yen, v.v.. Chính vì thế nên họ đã nói một cách rất tự nhiên, chẳng hạn, “1 nhân dân tệ ăn 1.940 đồng Việt Nam” (kiểu như “1 dollar bằng 15.000 VND”,…). Thậm chí có người còn nói, chẳng hạn, như chúng tôi từng được nghe, “1 tệ ăn 1.940 đồng Việt Nam” nữa. Gọi đơn vị tiền tệ của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là “tệ” thì quả là tệ thật! Tên của nó là yuán, mà ta có thể dịch một cách hợp lý là “đồng” (dĩ nhiên là “đồng” Trung Quốc). Còn nếu muốn đọc theo âm gốc thì ta có thể ghi thẳng là yuan (không có dấu “ ù” trên chữ “a”), như nhiều nước (Anh, Pháp,…) đã làm. Tốt nhất, ta nên gọi đơn vị đó là nguyên cho đúng âm, đúng chữ.
§ 1037. Kiến thức ngày nay, số 523, ngày 20-3-2005
ĐỘC GIẢ: Một tờ báo ra ngày 4-1-2005 đã báo động: “Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trên 5.000 người sinh con thứ ba”. Xin cho biết “con thứ ba” là con gì.
AN CHI: Ông đã nêu một vấn đề rất tế nhị. Lối diễn đạt kỳ quặc này chính là hệ quả của sự lẫn lộn hai danh từ “con” khác nhau, mà để làm rõ nghĩa, chúng tôi xin mượn lời giảng trong Từ điển tiếng Việt 2003 (do Hoàng Phê chủ biên):
“con1. Người hoặc động vật thuộc thế hệ sau, trong quan hệ với người hoặc động vật trực tiếp sinh ra (người hoặc động vật đó – AC)”.
và
“con2. Từ dùng để chỉ từng đơn vị những cá thể động vật”.
Cứ như trên thì con1 là danh từ khối (mass noun), cũng là danh từ không đếm được, còn con2 là danh từ đơn vị (unit noun), cũng là danh từ đếm được. Mà đã là danh từ không đếm được thì “không thể có số thứ tự làm định ngữ”*. Chính vì vậy nên, trong cấu trúc con thứ ba thì con chỉ có thể là con2 chứ không thể là con1. Mà con2 thì có thể đi đôi với rất nhiều danh từ khối chỉ nhiều giống khác nhau: cá, chim, hổ, gấu, ong, ve, v.v., thành con cá, con chim, con hổ, con gấu, con ong, con ve, v.v.. Và cũng chính vì vậy nên ông mới hỏi “con thứ ba” là con gì mặc dù ai cũng biết đó là con người sơ sinh.
§ 1038. Kiến thức ngày nay, số 523, ngày 20-3-2005
ĐỘC GIẢ: Trong thiên nghiên cứu “Thử viết lại cổ sử Việt Nam” (http://vnthuquan.net), tác giả Trương Thái Du có khẳng định rằng quốc hiệu Âu Lạc có nghĩa là “đất nước” (âu = đất, lạc = nước). “Do đó Lạc Việt chính là Nước Việt”. Tác giả biện luận:
“Sử Ký Tư Mã Thiên trong chương “Khổng Tử thế gia” thuật lời Khổng Tử: “Khâu này nghe nói… Quái vật do nước sinh ra là con rồng”. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của “nước”. Ngôi nhà của “nước” tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là “nước”. Mẹ Âu Cơ tượng trưng cho “đất”. Chữ Âu từng được Trần Thánh Tông dùng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã – Sơn hà thiên cổ điện kim âu”.
Hồ Quý Ly cũng từng cải tên núi Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) thành Kim Âu. Thành ngữ “Tấc đất tấc vàng” khá gần gũi với “kim âu”. “Ngựa đá đứng trên đất vàng”, thử hỏi làm sao mà non nước Việt Nam chẳng vững chãi Vạn Xuân”.
Tác giả còn diễn giải thêm ở chú thích số 15:
“Xin các bậc thông Nho đọc đến đây đừng bảo tác giả nói bậy về chữ Âu. Tôi tin âm Âu mang nghĩa Việt nhưng phải mượn chữ Hán để viết. Tôi muốn bỏ qua chữ Hán mà giải cấu phần ngữ âm”.
Trên đây là cách “giải cấu” của tác giả Trương Thái Du về hai tiếng “Âu”, “Lạc” trong bài đại luận “Thử viết lại cổ sử Việt Nam”. Xin hỏi: Ông An Chi có nhận xét gì về sự “giải cấu” đó?
AN CHI: Trước nhất, xin nói về tiếng “Lạc”.
Thực ra thì trước tác giả Trương Thái Du đến gần 34 năm, tại Hội nghị nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương lần thứ 4, tháng 4 năm 1971, trong bài tham luận “Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc”, hai đồng tác giả Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc cũng đã giải thích rằng Lạc có nghĩa là “nước”. (Xin xem toàn bài trong tập kỷ yếu Hùng Vương dựng nước, tập IV, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974, tr. 134 – 141). Trong bài tham luận, hai đồng tác giả cũng đã nhắc đến vấn đề “Lạc Long Quân là giống rồng”, “Long Quân hay Long Vương đều có nghĩa là vị vua thống trị miền nước.” Khác nhau chỉ là ở chỗ hai đồng tác giả này biện luận kỹ càng hơn còn Trương Thái Du thì lại quá dễ dãi. Ta hãy cùng nhau đọc lại lập luận ngắn ngủi của ông Trương:
“Quái vật do nước sinh ra là con rồng. Vậy ta có thể hiểu cha Lạc Long Quân là biểu tượng của “nước”. Ngôi nhà của “nước” tất phải ngoài biển, nghĩa gốc của chữ Lạc chính là “nước”.
Thực ra, từ lập luận dễ dãi và lỏng lẻo trên đây, ta chỉ có thể thiết lập tam đoạn luận dưới đây mà thôi:
Quái vật do nước sinh ra là con rồng.
Lạc Long Quân là “vua rồng”.
Vậy Lạc Long Quân là ông vua do nước sinh ra.
Thế thôi! Chứ ta tuyệt đối không có bất cứ căn cứ nào để suy ra rằng Lạc có nghĩa là “nước” cả. Nếu ta theo cách lập luận của Trương Thái Du và nếu chẳng may tên đấng phu quân của mẹ Âu Cơ không phải Lạc Long Quân mà là “Bạch Long Quân” hay “Hắc Long Quân”, chẳng hạn, thì Bạch hay Hắc tất nhiên phải có nghĩa là “nước”. Rõ ràng là phi lý!
Huống chi, nếu cách chứng minh của Trương Thái Du có hoàn toàn đúng đi nữa thì Lạc cũng chỉ có thể có nghĩa là “nước” trong nước tương, nước mắm v.v. (tạm gọi là nước¹), chứ đâu phải là “nước” trong nước Nga, nước Nhật, v.v. (tạm gọi là nước²) vì hai thứ “nước” này khác hẳn nhau. Một số tác giả có gợi ý rằng nước² phái sinh từ nước¹ nhưng họ chưa chứng minh được vấn đề một cách đủ sức thuyết phục. Còn Trương Thái Du thì hoàn toàn không chứng minh nên dĩ nhiên là lập luận của ông không có giá trị. Riêng cá nhân chúng tôi lại thấy rằng nước² tuyệt đối chẳng có liên quan gì đến nước¹ cả.
Nước² theo chúng tôi, là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 略, mà âm Hán Việt hiện đại là lược, có nghĩa gốc là “ranh giới” (Từ nguyên, nghĩa 9; Từ hải, nghĩa 2; Hán ngữ đại tự điển, nghĩa 3, v.v.), rồi nghĩa phái sinh bằng hoán dụ là “vùng đất nằm trong ranh giới đó”, và cuối cùng mới có nghĩa hiện hành là “xứ sở”. Về nghĩa thì như thế còn về âm thì ta cũng có nhiều thí dụ để minh hoạ cho mối quan hệ “n ~ l”:
– nện ~ liện * (cùng nghĩa);
– nòi ~ loại 類 âm xưa là loài (= loài, giống);
– non (trong núi non) ~ loan 巒 (núi nhọn; sống núi; đỉnh núi; v.v.);
– nỗng (trong gò nỗng) ~ lũng 壟 (gò đất cao); v.v..
Đặc biệt hơn hết là chính chữ lược 略, với nghĩa “mưu chước: lại là nguyên từ của chữ nước trong nước cờ, đường đi nước bước, v.v.. Và ta có:
– lược (= ranh giới) ~ nước (trong nhà nước); và
– lược (= mưu chước) ~ nước (trong nước cờ).
Hai trường hợp đồng dạng từ nguyên học trên đây cho phép ta có thể tin vào lời khẳng định mà chúng tôi đã đưa ra.
Bây giờ xin nói về chữ Âu. Vẫn biết Trương Thái Du “muốn bỏ qua chữ Hán mà giải cấu phần ngữ âm” nhưng có giải cấu thế nào đi nữa thì cũng phải phân biệt rành mạch Hán ra Hán, Việt ra Việt. Đằng này, tác giả lại đem râu ông nọ cắm cằm bà kia. Làm sao mà chữ âu trong thơ của Trần Nhân Tông lại có thể có nghĩa là “đất” khi mà nó là tiếng Hán rặt ròng, tiếng Hán 100%. Chữ “Âu” của Trương Thái Du có nghĩa là “đất” hay không là một chuyện chứ chữ âu 甌 của Nhân Tông nhà Trần thì dứt khoát phải là “tiểu bồn dã” (chậu nhỏ vậy), “vu dã” (chậu vậy), như đã cho trong Từ hải (nghĩa 1 và 2) và tất cả các quyển từ điển tiếng Hán khác. Và hai chữ kim âu của nhà vua là một danh ngữ tiếng Hán chánh tông dùng để ví với sự vững chắc, sự thịnh trị, như trong câu thơ của Tống Khuýnh:
Quốc gia toàn thịnh tự kim âu
(Nước nhà toàn thịnh tựa âu vàng)
chứ có liên quan gì đến đất cát?
Dùng để chỉ một loại thức uống có độ cồn nhẹ, bia là một danh từ mà tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp bière. Nhưng cũng chính vì thế mà nó chỉ có nghĩa trong những cấu trúc như: bia bọt - bia Tiger - bia hơi - v.v.. Chứ nếu, với hai câu:
Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ,
mà ai đó lại bắt từ bia của tiếng Việt phải gánh cái nghĩa của từ bière trong tiếng Pháp thì thật là buồn cười. Trường hợp chữ “âu” ở trên cũng thế mà thôi!
Xem ra, việc viết lại cổ sử Việt Nam chẳng đơn giản chút nào!
§ 1039. Kiến thức ngày nay, số 524, ngày 1 -3-2005
ĐỘC GIẢ: Trong quyển Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002), Nguyễn Tài Cẩn đã đọc chữ thứ tư của câu 367 thành “chở” và cả hai câu 367 – 368 là:
Một tường tuyết chở sương che,
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng. (Sđd, tr. 100)
Nhưng nghe nói sau đó, ông Cẩn đã thay đổi ý kiến mà đọc chữ đó thành “chớ”. Tôi thấy câu:
Một tường tuyết chớ sương che
chẳng những nghe lạ tai mà còn khó hiểu nữa. Vậy xin ông An Chi cho biết có chuyện đó không và nếu có thì ý ông thế nào?
AN CHI: Đúng là Nguyễn Tài Cẩn đã có thay đổi ý kiến mà đọc chữ thứ tư của câu 367 thành “chớ” trong bài “Đôi lời bàn thêm về bản Kiều Duy Minh Thị (II)”, in trong Hồn Việt 1 (Nxb. Văn học, 2003, tr. 68 – 82).
Nguyễn Tài Cẩn viết:
Đây là câu thơ nói Kiều và Kim Trọng bị ngăn cách nên phải chịu cái cảnh:
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
“Rõ ràng đọc TUYẾT CHỞ SƯƠNG CHE thì không diễn đạt được cái ý ấy.
(…)
“Nếu chữ thứ 4 trên đây chúng ta đọc CHỚ thì đó là cách đọc của từ có cùng nguồn gốc và cùng nghĩa như TRỞ (阻 – AC). Về mặt nguồn gốc, mối quan hệ giữa TRỞ và CHỚ thì cũng như mối quan hệ giữa TRỬ và CHỨA, giữa TRẢM và CHÉM, giữa TRẢN và CHÉN, v.v.. Về mặt ý nghĩa, vì cùng gốc với TRỞ nên CHỚ cũng có nghĩa là “ngăn lại”: chính cái nghĩa “ngăn lại” này đã đưa đến cách dùng CHỚ để ra mệnh lệnh “ngăn cấm” như trong các câu:
– Chớ làm ồn!
– Chớ hút thuốc!
– Ấy chớ! v.v..
“Thành thử hai câu 367 – 368 không nên nhuận sắc làm gì: cứ để câu Nôm như ở bản Duy Minh Thị 1872, nhưng xin đọc là:
Một tường TUYẾT CHỚ SƯƠNG CHE
Tin xuân đâu dễ đi về cho năng
“Đọc thế chính là đúng âm, đúng chữ, đúng nghĩa của từ mà Nguyễn Du dùng”*.
Chúng tôi quan niệm hoàn toàn khác với Nguyễn Tài Cẩn nên xin trình bày như sau:
Thứ nhất, khi Nguyễn Tài Cẩn viết rằng “hai câu 367 – 368 không nên nhuận sắc làm gì” thì ông đã mặc nhận là ta có thể nhuận sắc những câu khác của Truyện Kiều nếu thấy cần thiết. Đây là một điều không nên.
Thứ hai, theo chúng tôi, chớ cùng gốc và cùng nghĩa với chỉ 止, chứ không phải với trở 阻. Về mặt vần, ta có hàng loạt thí dụ để chứng minh cho mối quan hệ “i ~ ơ” (còn sự đối ứng “hỏi” ~ “sắc” thì chính Nguyễn Tài Cẩn đã thừa nhận):
– kỳ (bộ phương) ~ cờ (trong cây cờ);
– kỳ (bộ mộc) ~ cờ (trong con cờ);
– nghi ~ ngờ;
– thi ~ thơ;
– ti ~ tơ, v.v..
Về mặt nghĩa thì trở thiên về một sự ngăn cản khách quan còn chỉ lại thiên về một sự ngăn cản phụ thuộc vào ý chí và/hoặc nội lực của chủ thể nên mới thích hợp với những thí dụ về câu cầu khiến (mệnh lệnh) mà chính Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra. Trường hợp này (chỉ 止 ~ chớ) cũng giống hệt như trường hợp “đình 停 ~ đừng”. Chính vì đình cũng thiên về một sự ngăn cản phụ thuộc vào ý chí và/hoặc nội lực của chủ thể nên đừng mới có thể đứng làm trung tâm của những câu mệnh lệnh hàm ý ngăn cản như:
– Đừng làm ồn!
– Đừng hút thuốc!
– Ấy đừng! v.v..
Và cũng chính vì thế nên đừng mới là một từ đồng nghĩa với chớ (xin đối chiếu những thí dụ trên đây của chúng tôi với những thí dụ trên kia của Nguyễn Tài Cẩn).
Thứ ba, Nguyễn Tài Cẩn cho rằng “về mặt ý nghĩa, vì cùng gốc với TRỞ nên CHỚ cũng có nghĩa là “ngăn lại”: chính cái nghĩa “ngăn lại” này đã đưa đến cách dùng CHỚ để ra mệnh lệnh “ngăn cấm” (…)” Thực ra, ta chỉ thấy từ chớ đứng làm trung tâm cho loại câu cầu khiến hàm ý ngăn cản (như trong các thí dụ mà Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra) chứ không có một tiền lệ nào cho thấy chớ lại được dùng với nghĩa “ngăn cản” trong câu trần thuật cả. Huống chi, theo đúng phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Du, thì chữ thứ tư của câu 367 chỉ có thể là chở chứ dứt khoát không phải là “chớ”.
Xin nhớ rằng, ngoài cấu trúc tuyết chở sương che ở câu 367, ta còn có cấu trúc tuyết sương che chở ở câu 902 nữa. Về ngữ nghĩa thì hai cấu trúc này hiển nhiên chỉ là một. Còn về cú pháp thì cấu trúc trước cũng hiển nhiên chỉ là cấu trúc sau bị chẻ tư để “lắp ráp” lại theo kiểu xen kẽ mà thôi (So sánh bướm lả ong lơi và ong bướm lả lơi; phượng chạ loan chung và phượng loan chung chạ; v.v.). Vậy nếu ta đọc tuyết chở sương che thành “tuyết chớ sương che” thì ta cũng phải đọc tuyết sương che chở thành “tuyết sương che chớ” trong đó “chớ” có nghĩa là “ngăn cản”. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với hàm ý đích thực của câu 902:
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.
Đây là lời của Vương ông van xin Mã giám sinh che chở cho Kiều (thân cát đằng) trước những nỗi vất vả hoặc những chuyện bất trắc của cuộc đời (tuyết sương). Vậy nếu ta đành lòng đổi chở thành “chớ” và hiểu “chớ” theo cái nghĩa mà Nguyễn Tài Cẩn đã nêu thì chẳng hoá ra ông cha lại gợi ý họ Mã gây khó khăn (“ngăn cản”) cho con gái của mình hay sao?
Nhưng chở có nghĩa gốc là gì mà khiến cho người ta phải đổi nó thành “chớ”? Chở và che trong các cấu trúc tuyết chở sương che, tuyết sương che chở chính là chở và che trong từ tổ vị từ đẳng lập chở che, đảo lại từ che chở. Còn che chở thì hiển nhiên là lấy ra từ thành ngữ trời che đất chở, dịch từ thành ngữ tiếng Hán thiên phú địa tái. Nhưng khi từ tổ che chở đã chính thức lọt vào từ vựng của tiếng Việt rồi thì thành tố thứ hai của nó (chở) dần dần mất nghĩa vì những người Việt bình dân – mà đây là tuyệt đại đa số – đâu có biết – mà cũng chẳng cần biết – rằng chở là nghĩa của chữ tái, tức là vận chuyển bằng một phương tiện giao thông nhất định. Họ cứ mặc nhiên cho rằng nó đồng nghĩa với che rồi hiểu gộp rằng che chở (hoặc chở che) là “phủ đậy, giữ gìn, bảo vệ, bênh vực”, như Đào Duy Anh đã giảng trong Từ điển Truyện Kiều (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974, tr. 79). Nghĩa là ở đây ta có hiện tượng lây nghĩa (contamination de sens – chữ của Pierre Guiraud) từ che sang chở trong phạm vi của các cấu trúc đang xét. Nếu ta không thừa nhận sự lây nghĩa ở đây thì ta cứ phải lướng vướng với cái nghĩa đích thực của chở trong chuyên chở, chở hàng, v.v. và ta buộc phải thử đi tìm một cái nghĩa khác cho thích hợp với các cấu trúc đang xét (mà không thành công). Còn chúng tôi thì cho rằng ở đây đã có một sự lây nghĩa từ che sang chở mà sự lây nghĩa này vẫn giúp diễn đạt được cái ý “Kim Kiều bị ngăn cách” chứ không phải là không như Nguyễn Tài Cẩn đã khẳng định.
Như đã nói, về mặt nghĩa thì tuyết chở sương che chỉ là một với tuyết sương che chở. Mà tuyết sương che chở đã được Đào Duy Anh giảng một cách hoàn toàn chính xác là “lời đặt ngược, tức là che chở (cho khỏi) tuyết sương”*. Nghĩa bóng của tuyết sương là “những sự bất trắc, những nỗi gian nan trong cuộc đời”, như đã nói. Vậy “một tường tuyết chở sương che” chính là bức tường mà gia đình viên ngoại đã cho xây – và dĩ nhiên là theo họ thì đã tạm đủ chắc chắn – để bảo vệ cả nhà khỏi những sự bất trắc do các tác nhân từ bên ngoài gây ra. Đây chính là một “bức tường an ninh”. “Bức tường an ninh” này cứ sừng sững, lù lù ra đó tự bao giờ thì bảo sao không làm cho Kim, Kiều bị ngăn cách?
Vì những lẽ đã trình bày nên chúng tôi cho rằng chữ thứ tư của câu Kiều thứ 367 phải là chở chứ không thể là “chớ” và câu này vẫn cứ phải đọc thành
Một tường tuyết chở sương che
thì mới đúng với ý muốn của Nguyễn Du.