Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1017 - 1029
§ 1017. Kiến thức ngày nay, số 514, ngày 20-11 -2004
ĐỘC GIẢ: Trong bài ghi chép nhan đề “Vương quốc Na-uy: từ các thần dân đến Đức Vua và Hoàng Hậu” đăng trên Văn nghệ, số 44, ngày 30-10-2004), nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã dùng hai chữ “tiếp kiến” như sau:
“Tôi không hề nghĩ rằng trong chuyến đi ngắn ngủi này, chúng tôi lại có vinh hạnh được tiếp kiến Đức Vua và Hoàng Hậu Sonja (…) Đức Vua và Hoàng Hậu sẽ tiếp chúng tôi thành hai đoàn. Đoàn báo viết tiếp kiến trước và đoàn báo hình tiếp kiến sau ở hai phòng khác nhau”.
và
“Trong lúc tiếp kiến Đức Vua và Hoàng Hậu, tôi nhìn thấy trên bàn và quanh phòng có nhiều gạt tàn thuốc lá”.
Xin cho biết thực ra thì ông Nguyễn Quang Thiều tiếp kiến Đức Vua và Hoàng Hậu hay là hai vị này tiếp kiến ông ấy.
AN CHI: Ông đã nêu một vấn đề rất tế nhị. Tiếp kiến bao giờ cũng là việc làm của chủ đối với khách (chứ không phải ngược lại) đồng thời thường là của người có địa vị cao đối với người có địa vị thấp hơn. Vậy ở đây, chính là Nhà Vua và Hoàng Hậu Na Uy đã tiếp kiến ông Nguyễn Quang Thiều còn nhà văn này chỉ là người yết kiến hai vị kia mà thôi.
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967) đã giảng như sau:
“Tiếp kiến. – Nói một nhân vật quan trọng đón rước người đến thăm mình”.
“Yết kiến. – Đến thăm người trên. Yết kiến thủ tướng”.
Chữ nghĩa đã rành mạch như thế thì ta không thể dùng tiếp kiến thay cho yết kiến được. Còn nếu ta lại thấy rằng hai tiếng yết kiến mang nặng màu sắc phong kiến (?) thì ta có quyền không dùng nhưng tất nhiên ta cũng không thể vì thế mà thay yết kiến bằng tiếp kiến.
§ 1018. Kiến thức ngày nay, số 515, ngày 1 -12-2004
ĐỘC GIẢ: Xin ông vui lòng cho biết tên con đường nằm giữa đường Nguyễn Trãi và đường An Dương Vương, nối liền đường Phù Đổng Thiên Vương với đường Lương Nhữ Hộc ở Quận 5 hiện nay. Tôi nhờ ông giải đáp không phải vì không biết tên con đường đó – Con trai tôi hiện đang ở tại con đường này – mà vì một ông bạn của tôi nói cách đây khá lâu ông ấy có đọc một cuốn sách về địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh trong đó tác giả chỉ ghi nhận có tên đường “Kì Hoà” chứ không có tên chính xác vẫn còn thông dụng cho đến tận bây giờ.
AN CHI: Trong quyển Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991), tác giả Lê Trung Hoa đã khẳng định:
“Trong bản đồ Chợ Lớn 1878, có con đường Ki Hoa (tức Kì Hoà, nay còn ở quận 5)”. (tr. 65)
Và vì đã khẳng định như trên nên trong phần “Tên đường phố”*, Lê Trung Hoa mới ghi nhận tên đường “Kì Hoà” tại trang 133.
Nhưng rất tiếc rằng dân Chợ Lớn trước đây và dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, từ người Việt cho đến người Hoa, chưa bao giờ gọi con đường đó là “Kỳ Hoà” cả vì tên chính xác của nó là Ký Hoà, mà người Hoa ghi bằng hai chữ 記和 đọc theo âm Quảng Đông là key wò. Còn nếu là Kỳ Hoà thì người Hoa lại ghi bằng hai chữ 奇和 hoặc 琪和 đọc theo âm Quảng Đông đều là khèy wò.
Dĩ nhiên, là cá biệt có thể có cách ghi khác nữa nhưng bao giờ người ta cũng phân biệt rõ ràng ký với kỳ và con đường nơi người con trai của ông đang ở xưa nay vẫn là Ký Hoà, như ông đã biết, chứ khôngphải “Kì Hoà”, như ôngLê TrungHoa đãviết.
§ 1019. Kiến thức ngày nay, số 515, ngày 1 -12-2004
ĐỘC GIẢ: Địa danh quê tôi là Bùi Chu, một dạo có tên gọi là Kẻ Bùi. Xin cho biết Bùi Chu và Kẻ Bùi có nghĩa là gì? Đó là tên bằng tiếng Hán hay là tên Nôm? Tôi đã tìm trong từ điển nhưng vẫn không ghép nghĩa được.
AN CHI: Bùi Chu là một địa danh Hán Việt mà Hán tự là 裴洲. Trong công trình Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (Các tổng trấn xã danh bị lãm) do Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội ấn hành năm 1981, hai dịch giả Dương Thị The và Phạm Thị Thoa đã đọc hai chữ Hán trên đây thành Bùi Châu (Xin xem tr. 171).
Hiển nhiên là cách đọc thành Bùi Châu làm cho tiếng thứ hai (châu) của địa danh này khác với cách đọc truyền thống (chu) của chính người địa phương, vẫn còn thông dụng trong toàn quốc cho đến tận hôm nay.
Ta chỉ nghe và chỉ nói Bùi Chu – Phát Diệm chứ có bao giờ nói hoặc nghe “Bùi Châu – Phát Diệm”? Thế nhưng cách đọc chữ 洲 của hai dịch giả trên đây lại hoàn toàn đúng với âm Hán Việt thông dụng hiện đại của chữ này. Đó là châu, như trong châu lục, châu thổ, đại châu, tam giác châu, v.v..
洲 là một chữ thuộc vận bộ vưu 尤 (vần - ưu) mà nhiều chữ vẫn còn đọc theo vần -âu: – cầu 求 thay vì cừu; – dậu 酉 thay vì dựu; – khâu 丘 thay vì khưu; – mâu 矛 thay vì mưu; – sầu 愁 thay vì sừu; v.v.. Vậy chữ 洲 mà đọc thành châu là theo hệ thống này. Nhưng trong vận bộ vưu, ta còn thấy một số chữ đọc theo vần -u: – du 油 thay vì dưu; – nhu 柔 thay vì nhưu; – phù 浮 thay vì phừu; – tu 修 thay vì tưu; – trù 稠 thay vì trừu; v.v.. Vậy chữ 洲 mà đọc thành chu thì lại là theo hệ thống này.
Cứ như trên thì chữ 洲 có hai cách đọc: chu hoặc châu, y hệt như chữ 周:
– chu vi = châu vi;
– chu thân = châu thân;
– chu niên = châu niên; v.v.. Nhưng, riêng với chữ 洲, như đã nói, chỉ có châu mới là âm thông dụng chứ chu thì chỉ còn thấy trong địa danh Bùi Chu mà thôi. Vậy châu/chu 洲 là gì? Là bãi đất ở giữa sông nước hoặc là đảo. Còn bùi là gì? Là họ người. Và Bùi Chu có nghĩa là bãi (đất giữa sông) của những người họ Bùi. Vậy cứ theo nghĩa của từng thành tố trong địa danh Bùi Chu mà xét thì ta thấy đây vốn là một vùng đất bãi ở sát biển và vùng đất bãi này vốn do người của dòng họ Bùi là những người đầu tiên đến cư trú và mở mang.
Về thành tố kẻ trong cấu trúc Kẻ Bùi, chúng tôi đã trình bày kỹ trên Kiến thức ngày nay, số 229, ngày 1-2-1996 nhưng vì số này nay rất khó tìm nên chúng tôi xin thuật lại một vài ý chính.
Một số tác giả cho rằng kẻ là một yếu tố thuần Việt và là một từ Việt cổ, thường được phiên âm ra tên Hán Việt bằng từ cổ (như trong cổ đại, vạn cổ, v.v.). Điều này hoàn toàn không đúng. Làm sao mà một nguyên âm hàng trước không tròn môi như e lại có thể được phiên âm bằng một nguyên âm hàng sau tròn môi như ô? Lê Văn Hoè đã chứng minh rằng nhiều địa danh Hán Việt có yếu tố “cổ” đứng đầu đã được đặt ra vào thời quân Minh xâm chiếm rồi cai trị nước ta mà không hề phiên âm từ một tên Nôm nào bắt đầu bằng yếu tố “kẻ”. Ông viết:
“Nghiên cứu lịch sử thời này, ta thấy có đặc điểm là quân Minh rất sính dùng chữ Cổ (là cũ, là xưa, là không theo ngày nay) để đặt tên thành, tên huyện. Ví dụ: Lộ Đông-đô có các huyện Cổ-bảng, Cổ-giả, Cổ-lễ; lộ Lạng-giang có Cổ-dũng, Cổ-lũng; Lộ Đà-giang có Cổ-nông; lộ Long-hưng có Cổ-lan; lộ Hải-đông có Cổ-phí, trấn Thanh-đô có các huyện Cổ-đằng, Cổ-hoằng, Cổ-lôi, v.v.. Khi đổi tên các huyện cũ ra tên mới, họ thích lấy chữ Cổ mà đặt, như đổi huyện Đỗ-gia làm Cổ-đỗ, huyện Đăng-gia làm Cổ-đặng, huyện Tư-nông làm Cổ-nông, v.v..
Sang đời nhà Lê, sau khi đánh đuổi quân giặc, giành lại đất nước, triều đình ta đã bỏ hết các tên huyện bắt đầu bằng chữ Cổ. Kiểm điểm hàng mấy trăm tên huyện thời Lê, Nguyễn, ta không thấy có tên nào có chữ Cổ trên đầu”*.
Rõ ràng “cổ” không phải là một yếu tố Hán Việt dùng để phiên âm yếu tố “kẻ”, một yếu tố bị ngộ nhận là Việt cổ và “thuần Việt”. Thực ra, kẻ là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ nay đọc theo âm Hán Việt thông dụng là giới (như trong biên giới, giới hạn, v.v.) nhưng âm chính thống lại là cái vì thiết âm của nó trong Quảng vận là “cổ bái thiết”. Vậy chẳng có gì lạ nếu sang đến hình thái kẻ, nó vẫn còn giữ lại được phụ âm đầu [k] (mà chữ quốc ngữ ghi bằng c trước a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư và bằng k trước i, y, e, ê).
Còn về vần thì giới/cái là một chữ thuộc vận bộ quái (chữ quái trong quái dị, kỳ quái, v.v.), tức vận -ai [aj] mà cách đọc xưa là e [B] , giống với vận bộ quái (chữ quái trong bát quái) mà âm xưa là quẻ, như Vương Lực đã chứng minh trong một thiên nghiên cứu rất có giá trị nhan đề “Hán Việt ngữ nghiên cứu”, in trong Hán ngữ sử luận văn tập do Khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh, ấn hành năm 1958 (Xin xem tr. 365 – 367).
Vậy kẻ ~ giới/cái là một hiện tượng hoàn toàn đủ sức thuyết phục về mặt âm lý. Còn về nghĩa, thì chữ giới đang xét có nghĩa là lằn ranh giữa hai/nhiều vùng đất, rồi nghĩa phái sinh bằng hoán dụ là vùng đất nằm trong (những) lằn ranh đó và cuối cùng nó mới có cái nghĩa rộng là một vùng đất nhất định và đây cũng chính là nghĩa của yếu tố kẻ trong địa danh Kẻ Bùi quê ông.
Xin nêu thêm một chứng cứ nữa về mặt ngữ âm để khẳng định mối quan hệ kẻ ~ giới/cái trên đây. Chữ giới/cái đang xét đương nhiên là một danh từ. Nhưng cái từ gốc này còn chuyển từ loại thành động từ với cái nghĩa gốc là “vạch lằn ranh cho một vùng đất hoặc một phạm vi nhất định” mà Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur dịch là “fixer une limite”.
Từ đó ta mới lại có cái nghĩa rộng mà Mathews’ Chinese – English Dictionary dịch là “to rule a line”, nghĩa là “gạch hàng, kẻ hàng”. Vậy kẻ trong kẻ hàng cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở chữ giới/cái đang xét, có nghĩa là “to rule a line”. Thế là với cùng một chữ giới/cái và cùng một kiểu tương ứng ngữ âm (kẻ ~ giới/cái), ta có hai mối tương ứng ngữ nghĩa sau đây:
– kẻ (trong kẻ Bùi)~ giới/cái (= vùng đất nhất định); và
– kẻ (trong kẻ hàng (= gạch hàng)) ~ giới/cái (= to rule a line).
Điều này quyết không thể là chuyện ngẫu nhiên vì đó là một hiện tượng hoàn toàn đúng quy luật từ nguyên học.
Tóm lại, kẻ trong Kẻ Bùi là một từ Việt gốc Hán, có nghĩa là “vùng đất giới hạn trong một phạm vi nhất định” chứ không phải là một từ chỉ đơn vị hành chính, càng không phải là một từ “thuần Việt” hoặc Việt cổ. Đây cũng là một từ kẻ riêng biệt và độc lập đối với từ kẻ trong kẻ ở người đi chứ không phải là một như nhiều người nhầm tưởng.
§ 1020. Kiến thức ngày nay, số 516, ngày 10-12-2004
ĐỘC GIẢ: Xin ông vui lòng giải thích cụm từ “công xúc tu sỉ” (hay sĩ?) và cho biết chữ thứ tư ở đây phải viết với dấu hỏi hay dấu ngã.
AN CHI: Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (Khai Trí, Sài Gòn, 1970) đã cho như sau:
“Công-xúc tu-sỉ: Tội công-khai làm mất liêm-sỉ, làm cho kẻ khác thẹn-thùng, phạm thuần phong mỹ-tục”.
Chữ thứ tư phải viết với dấu hỏi thành “sỉ” và sỉ có nghĩa là xấu hổ, nhục nhã. Vì thế nên từ này mới đi chung với tu (cũng = xấu hổ) là một từ đồng nghĩa để tạo nên cấu trúc ghép đẳng lập tu sỉ.
§ 1021. Kiến thức ngày nay, số 516, ngày 10-12-2004
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 160, ngày 20-121994, ông đã vận dụng Từ điển tiếng Việt 1992 mà giảng rằng “sic” là một từ La Tinh, có nghĩa là “như thế” và dùng trong ngoặc đơn, đặt sau một từ hay một câu, để chỉ rằng nguyên văn được trích dẫn là đúng như thế, nhằm nhấn mạnh tính chất kỳ quặc của từ, ngữ hay câu dẫn ra ấy, hoặc nhằm biểu thị ý mỉa mai của bản thân người trích dẫn.”
Rồi trong bài Hoàng Xuân Hãn đã dùng mấy bản Kiều đời Tự Đức để làm quyển Kiều tầm nguyên?, đăng trên Tài hoa trẻ, số 292, ngày 3-12-2003, khi trích dẫn ông Nghiêm Xuân Hải, con rể của học giả Hoàng Xuân Hãn, ông cũng có dùng chữ “sic” trong ngoặc đơn trong câu sau đây:
“Bản Nôm Liễu Văn Đường 1871, có ở INALCO code (sic) VN. IV. 468 (…)”. (Bđd, tr. 47)
Chữ “code” của ông Nghiêm Xuân Hải dùng rất đúng; vậy xin cho biết vì cớ gì ông lại dùng chữ “sic” trong ngoặc đơn kèm theo sau.
AN CHI: Đó là một chữ dùng sai. Code là mật mã còn cote thì mới là ký hiệu. Code thuộc giống đực còn cote thì lại thuộc giống cái và đây là hai từ khác hẳn nhau. “VN.IV.468” là ký hiệu của bản Liễu Văn Đường 1871 trong thư viện của INALCO. Vậy ở đây, phải dùng cote chứ không thể dùng “code”.
§ 1022. Kiến thức ngày nay, số 516, ngày 10-12-2004
ĐỘC GIẢ: Khoảng 10 năm trước, tại Chuyện Đông chuyện Tây, ông đã đưa ra câu “Dân dĩ thực vi thiên”, dẫn từ Hán thư, để bác bỏ câu “Dân dĩ thực vi tiên”. Mới đây trên Kiến thức ngày nay, số 503 (tr. 53, c3) ông lại tiếp tục khẳng định như thế.
Tôi rất tin ở ông. Nhưng hai bài ngắn của mục “Dọn vườn” trên báo Văn nghệ (Hà Nội), số 47, ngày 20-11-2004 lại làm tôi hoang mang. Hai bài này bàn về câu “Dân dĩ thực vi thiên” mà nhà văn Trần Quốc Tiến đã nêu trong một bài ngắn đăng ở trang đầu báo Văn nghệ, số 29, ngày 17-7-2004.
Bài thứ nhất là “Vi tiên hay vi thiên” của Anh Châu. Tác giả này cho biết mình bị “sốc” ngay khi đọc thấy câu “Dân dĩ thực vi thiên” rồi viết tiếp:
“Người xưa nói (chứ không dạy) đây là Mạnh Tử (327 -289 tr. CN), cháu nội của Khổng Tử (551 – 479 tr. CN), học trò của Ngũ Tử Tư, được xếp vào loại Á Thánh. Những gì ông viết, ông nói được các học trò ghi lại trong bộ Mạnh Tử, một trong Tứ thư (cùng với Ngũ kinh) là bộ sách kinh điển của môn đồ đạo Nho (…).
“Mạnh Tử nói: “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên”, có nghĩa là “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu.” Vậy câu “dân dĩ thực vi thiên” là của “Người nay” nói chứ không phải của “Người xưa” nói”.
Bài thứ hai là “Thế nào là dân lấy ăn làm trời?” của tác giả Nguyễn Đình Tự. Tác giả này không bị “sốc” nhưng cũng “thật sự ngỡ ngàng tưởng mình đọc nhầm nên đọc đi đọc lại mãi” rồi tự giới thiệu:
“Tôi năm nay đã ngoại lục tuần. Bố tôi là một trong lớp ông đồ còn dạy chữ nho cuối cùng của những năm đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước cho đến hoà bình 1954 mới thôi. Nhờ vậy tôi cũng có được học đôi chút chữ nho. Có được học một câu Dĩ thực vi tiên nghĩa là cái sự ăn phải lo trước.
(…)
“Không hiểu nhà văn Trần Quốc Tiến lấy đâu ra câu Dân dĩ thực vi thiên (…)”.
Hai bài trên đây làm tôi hoang mang. Vậy xin nhờ ông An Chi “trấn an” giúp.
AN CHI: Muốn biết câu “Dân dĩ thực vi thiên” có tồn tại hay không, ta có thể lật vài quyển sách công cụ ra để kiểm tra, chẳng hạn:
– Việt - Hán thông thoại tự vị của Đỗ Văn Đáp (Nam Định, 1933):
“Dân dĩ thực vi thiên. Người ta lấy sự no ăn làm cốt”. (tr. 212)
– Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh (Nxb. Minh Tân, Paris, 1950):
“Dân dĩ thực vi thiên. Dân xem miếng ăn là trời, nghĩa là dân lấy việc ăn là việc chủ-yếu trong đời”. (tr. 199)
– Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (Khai Trí, Sài Gòn, 1970):
“Dân lấy ăn làm trời. Dân dĩ thực vi thiên. Dân lấy miếng ăn làm trọng, nên muốn trị dân, trước hết phải làm cho dân no-ấm, vì dân đói thì nước loạn”. (quyển thượng, ph.II, tr. 94)
– Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc do GS. Lê Huy Tiêu biên dịch (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993):
“Dân dĩ thực vi thiên (…) Thành ngữ này ý nói nhân dân coi vấn đề ăn là vấn đề to lớn nhất, cơ bản nhất trong cuộc sống”. (tr. 123)
Dĩ nhiên là ta còn có thể kéo dài danh sách trên đây nhưng tưởng bấy nhiêu cũng đã đủ để hai tác giả Anh Châu và Nguyễn Đình Tự phải vui lòng xét lại sự phủ nhận của mình. Còn bây giờ xin nói cho rõ hơn tại sao chữ “thiên” lại có mặt trong câu đang xét vì trên Kiến thức ngày nay, số 117, ngày 15-8-1993 và số 133, ngày 1-3-1994 chúng tôi cũng chưa có điều kiện để nói cho thật rõ.
Câu “Dân dĩ thực vi thiên” là lời của Lịch Dị Cơ 酈食其, chép trong Hán thư, “Lịch Dị Cơ truyện”, nằm trong đoạn Dị Cơ nói với Hán Vương về tầm quan trọng của lương thực để thuyết phục Hán Vương cho đánh chiếm Ngao Thương, là kho tích trữ lương thực của đối phương.
“Thần văn chi, tri thiên chi thiên giả, vương sự khả thành; bất trị thiên chi thiên giả, vương sự bất khả thành. Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên”*.
nghĩa là
“Thần nghe nói, biết (được) trời của trời thì nghiệp vương có thể thành; không biết (được) trời của trời thì nghiệp vương không thể thành. Vua chúa lấy dân làm trời mà dân thì lấy (cái) ăn làm trời”.
Chơi chữ thì sắc sảo mà triết lý thì sâu xa. Trong danh ngữ thiên chi thiên, chữ thiên định ngữ (chữ trước) và chữ thiên bị định ngữ (chữ sau) lại chỉ hai cái sở biểu khác hẳn nhau: chữ thiên trước là “vương giả chi thiên = dân” còn chữ thiên sau thì lại là “dân chi thiên = thực” (cái ăn). Vậy thiên chi thiên chẳng qua chỉ là dân thực, nghĩa là “cái ăn của dân chúng”. Nhưng khi Lịch Di Cơ đã nâng cái ăn của dân chúng lên thành “thiên chi thiên” (= trời của trời) thì ta phải biết, đối với ông ta, cái ăn của dân chúng quan trọng đến cỡ nào trong phép trị nước. Bởi vậy nên Việt Nam tự điển mới nói “phải làm cho dân được no-ấm vì dân đói thì nước loạn”.
Vậy chữ thiên được Lịch Dị Cơ đưa vào mệnh đề “Dân dĩ thực vi thiên” làm một ẩn dụ chính là để nói lên tầm quan trọng lớn lao của cái ăn đối với sinh hoạt hằng ngày của dân chúng. Trời của vua chúa là dân còn trời của dân thì lại là cái ăn. Vậy vua chúa mà muốn cho quốc thái dân an thì có lẽ nào lại dám coi thường cái ông trời thứ hai này?
Lời nói của Lịch Dị Cơ ra đời cách đây đúng 2.208 năm (vào năm Hán Vương thứ 3, tức 204 tr. CN) và đã được ghi chép vào sử sách để lưu truyền cho đến tận ngày nay. Thế mà tác giả Anh Châu lại bị “sốc” còn tác giả Nguyễn Đình Tự lại “ngỡ ngàng” thì có sợ là quá phũ phàng hay không?
§ 1023. Kiến thức ngày nay, số 517, ngày 20-12-2004
ĐỘC GIẢ: Xin ông vui lòng cho biết hai tiếng “văn nghệ” có nghĩa là gì?
AN CHI: Trong quyển Con đường văn-nghệ mới do Nhà xuất bản Minh-Tân ở Paris ấn hành năm 1951, tác giả Triều-Sơn đã định nghĩa như sau:
“Danh từ “văn-nghệ” xưa nay thường được hiểu theo ba nghĩa chính sau đây:
“1. Văn-nghệ là cái nghề văn (cũng như võ-nghệ là nghề võ – métier littéraire);
“2. Văn-nghệ là nghệ-thuật của văn chương hay nghệ-thuật làm văn (art littéraire);
“3. Văn-nghệ là văn-chương và nghệ-thuật (arts et belles-lettres).
“Danh từ “văn-nghệ” ở đây được hiểu theo nghĩa sau cùng. Trong phạm-vi văn-nghệ hiểu theo nghĩa này, ta có thể nói đến tiểu-thuyết, thơ, hội-hoạ, khiêu-vũ, kiến-trúc, chiếu bóng (điện ảnh – AC), điêu-khắc…”.*
Trong tiếng Việt toàn dân hiện nay, hai tiếng văn nghệ cũng được dùng theo nghĩa thứ 3 như trong quyển Con đường văn-nghệ mới của Triều-Sơn.
§ 1024. Kiến thức ngày nay, số 517, ngày 20-12-2004
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết hai tiếng “ỷ giốc” nghĩa là gì. Có ý kiến cho rằng đây là hai tiếng Nôm (thuần Việt) và “giốc” ở đây thực chất cũng là một với “dốc” trong “dốc núi”, “xuống dốc”, v.v.. Nhưng lại có ý kiến cho rằng đó là hai tiếng Hán Việt. Vậy ý kiến nào đúng?
AN CHI: Hai tiếng mà ông hỏi không phải là “thuần Việt” và tiếng thứ hai cũng chẳng có liên quan gì đến dốc trong dốc núi, xuống dốc, v.v. cả, vì đây lại là giốc. Đó là hai tiếng Hán Việt mà Hán tự là 掎角. Chữ thứ nhất có khi bị nhầm với chữ 犄 còn chữ thứ hai thì cũng có thể viết thành 捔.
Âm chính xác của chữ 掎 là kỷ (cẩn ỷ thiết) hoặc ky (cát y thiết) chứ dứt khoát không thể là “ỷ” như một số người đã đọc nhầm rồi lưu truyền cho đến nay. Chữ 掎 là một chữ thuộc thanh mẫu kiến 見 chứ không phải thanh mẫu ảnh 影 nên nó phải có phụ âm đầu [k] chứ không phải là “không có gì”. Sở dĩ có sự nhầm lẫn đó là do thói quen “vọng tự sinh âm”, như chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 514 khi cải chính “A Phòng cung” và “Tuyên Phòng cung” thành A Bàng cung và Tuyên Bàng cung. Ở đây hoặc người ta đã nhầm kỷ 掎 với ỷ 倚, hoặc thấy cả hai chữ đều có thanh phù là kỳ 奇 nên mới đọc chữ trước (kỷ) theo âm của chữ sau (ỷ) vì chữ sau thông dụng hơn (nên dễ biết hơn) còn chữ trước thì ít dùng hơn (nên cũng ít người biết hơn). Còn giốc là âm xưa của chữ 角 mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là giác (như trong giác đấu角鬥, giác trục 角 逐,v.v.). Giốc cũng chính là tên của một âm trong ngũ âm (cung, thương, giốc, trỉ (thường đọc thành “truỷ” hoặc “chuỷ”), vũ), cũng ghi bằng chữ 角. Giữa giốc và giác thì giốc xưa hơn vì còn giữ lại được vận [ok] cổ xưa của chữ 角 mà âm cổ Hán Việt là cốc, vẫn còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại (như trong nâng cốc, cốc bia, cốc kem, v.v. ) nếu ta biết rằng giác 角 còn có nghĩa là một dụng cụ dùng để đựng rượu mà uống, như chúng tôi đã có nói đến trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây.
Tóm lại, âm chính xác của hai tiếng đang xét là kỷ giốc hoặc ky giốc chứ không phải “ỷ giốc”. Nhưng kỷ giốc (ỷ giốc) nghĩa là gì?
Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức ghi và giảng như sau: “Ỷ-giốc. C/g ỷ-giác, có thể dựa vào lấy thế: Thế ỷ-giốc”.
Đây là một lời giảng mơ hồ. Đồng thời đây cũng chỉ là một kiểu vọng văn sinh nghĩa vì, như đã nói chữ 掎 không đọc thành “ỷ” mà dù có đọc thành “ỷ” thì nghĩa của nó cũng chẳng phải là “dựa vào”, “nương tựa”, “cậy thế”. Rõ ràng là tác giả đã nhầm chữ kỷ bị đọc thành “ỷ” với chữ ỷ 倚 chính cống vì chính chữ này mới có nghĩa là “dựa vào”, “nương tựa”, “cậy thế”.
Thực ra thì kỷ 掎 ở đây là bắt lấy chân một con vật còn giốc (giác) 角 là nắm lấy sừng một con vật. Ta có một thí dụ rất hay – cũng là thí dụ đầu tiên trong thư tịch – trong đó hai tiếng kỷ và giốc cùng được dùng trong một câu. Đó là một câu trong sách Tả truyện (Tương Công thập tứ niên):
“Thí như bộ lộc, Tấn nhân giốc chi, chư Nhung kỷ chi”, nghĩa là:
“(Đối với kẻ địch) ta cũng làm như khi bắt hươu, binh lính nước Tấn nắm sừng của chúng còn người Nhung thì nắm chân chúng”.
Chính xuất phát từ ý của câu trên đây mà về sau người ta đã ghép kỷ (ỷ) với giốc thành kỷ giốc (ỷ giốc) để chỉ hành động tấn công kẻ địch từ hai phía (tả, hữu hoặc trước, sau). Từ đây lại phái sinh thêm cái nghĩa “tách một phần binh lực ra để kìm hãm quân địch hoặc để chi viện cho phe mình”. Trên đây là lời giảng về hai tiếng kỷ giốc, bị đọc thành ỷ giốc, đã cho trong Từ hải, bản tu đính 1989 (Thượng Hải, in lần thứ tư, 1997, tr. 789).
Cứ như trên thì cái nghĩa của hai tiếng kỷ giốc, bị đọc thành “ỷ giốc”, đã cho trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, chẳng có liên quan gì đến cái nghĩa đích thực của hai tiếng này cả.
§ 1025. Kiến thức ngày nay, số 517, ngày 20-12-2004
ĐỘC GIẢ: Một vài tác giả đã cho rằng hai câu:
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
là thơ của Đỗ Phủ. Có đúng như thế không và nhân tiện xin cho biết luôn cả bài?
AN CHI: Hai câu trên đây là thơ của Giả Đảo chứ không phải của Đỗ Phủ. Đó là hai câu đầu của một bài tứ tuyệt có nhan đề là Đề thi hậu mà chúng tôi xin căn cứ vào Toàn Đường thi do Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã in lần thứ 14 năm 1996 để chép ra như sau:
Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu
Tri âm như bất thưởng
Quy ngoạ cố sơn thu*
Tạm “diễn nghĩa”:
Có hai câu thơ mà ba năm mới làm xong
Vừa mới ngâm thì hai hàng lệ đã tuôn
Nếu bạn tri âm không khen ngợi
Thì ta sẽ về ở ẩn nơi núi xưa mà ôm sầu vậy.
Nhưng đâu là hai câu thơ mà phải ba năm Giả Đảo mới làm xong? Đó là:
Độc hành đàm để ảnh
Sổ tức thụ biên thân
Cũng xin tạm “diễn nghĩa”:
Bóng ta đi một mình dưới đáy đầm
Mà thân ta phải nhiều lần dừng bước ở bên cây.
Ngâm xong hai câu thơ ba năm mới làm được trên đây thì Giả Đảo bèn “vịnh” bằng bài thơ tứ tuyệt trên kia. Vì vậy nên bài đó mới được gọi tên là Đề thi hậu.
Xin nói rõ thêm về mấy chữ dưới đây:
Nhất: chữ này dùng để đối với chữ nhị ở câu trên nhưng nghĩa của nó ở đây là “vừa mới” chứ không phải “một” hoặc “mỗi lần… thì…”. Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur giảng là “aussitôt que” (ngay khi, vừa mới). Phải dùng theo cái nghĩa này thì mới “chọi” được với cái ý “ba năm mới làm xong” một cách thâm thuý.
Ngoạ: Đây không phải là “nằm” hay “ngủ” mà là “ở ẩn”. Xin xem Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993, tr. 1169) chữ 卧, nghĩa 5.
Thu: Ở đây, chữ này không có nghĩa là “mùa thứ ba của một năm”. Nếu hiểu theo nghĩa này thì cố sơn thu là “mùa thu nơi núi xưa” và quy ngoạ cố sơn thu sẽ là “về ở ẩn trong mùa thu nơi núi xưa”. Nếu hiểu theo nghĩa này thì chẳng có lẽ khi mùa đông đến rồi mùa xuân (năm sau) lại về, nhân vật của chúng ta sẽ rời khỏi “cố sơn” chăng? Rõ ràng hiểu như thế thì không hợp luận lý, dù là “luận lý” của thơ. Thực ra, ở đây chữ thu 秋 có nghĩa là “buồn rầu: như đã giảng ở nghĩa thứ 6 (= bi sầu) của chữ này trong Hán ngữ đại tự điển (đã dẫn), với thí dụ minh hoạ là hai câu thơ của Chương Bỉnh Lân:
Anh hùng nhất nhập ngục
Thiên địa diệc bi thu
nghĩa là:
Anh hùng đã vào ngục
Trời đất cũng sầu thương.
§ 1026. Kiến thức ngày nay, số 518, ngày 1 -1 -2005
ĐỘC GIẢ: Tôi là con dân của Bình Hoà xã (nay thuộc Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh) từ thuở mới chào đời, xin có câu hỏi gởi đến ông như sau: Trên Kiến thức ngày nay, số 511, ông đã đọc đôi câu đối ở giữa tiền điện đình Bình Hoà là:
Bình thụ bỉnh phong, uy chấn tam giang chân hiển hách;
Hoà bang chưởng ấn, ưởng trì bách tính đắc an ninh.
Sau đó, ông có chú thích về hai chữ tam giang là:
“Ba con sông chảy qua (?) hoặc liên quan đến Bình Hoà xã. Ở đây dùng theo hoán dụ để chỉ chính Bình Hoà xã.”
Tôi tin ở ông nhưng phân vân không biết chuyện “ba con sông” (tam giang) này có cơ sở nào trong thực tế hay không? Mong ông cho biết ý kiến.
AN CHI: Trong bức thư đề ngày 21-10-2004 gởi đến chúng tôi, ông Đ.T.S., một người đã cư ngụ lâu năm tại Bình Hoà xã, đã viết như sau:
“Nhìn địa thế của xã Bình Hoà cũ (nay là các phường từ 1 đến 14 của quận Bình Thạnh), rõ ràng ở ba hướng Đông, Nam và Bắc có ba con sông (rạch) làm ranh giới. Còn hướng Tây giáp ranh với quận Phú Nhuận và quận Gò Vấp, là đất liền. Ba con sông đó là:
1. Đông: Rạch Cầu Bông (tiếp nối với rạch Tắc) là ranh giới giữa xã Bình Hoà cũ với xã Thạnh Mỹ Tây cũ.
2. Nam: Rạch Thị Nghè (tiếp nối với kinh Nhiêu Lộc) là ranh giới giữa xã Bình Hoà cũ với quận 1 và một phần quận Phú Nhuận hiện nay.
3. Bắc: Sông Sài Gòn (một đoạn từ Rạch Tắc đến Vàm Thuật) là ranh giới giữa xã Bình Hoà cũ với quận Thủ Đức.
Về mặt lưu thông đường thuỷ thời kỳ trước năm 1950, ghe thuyền lớn nhỏ buôn bán hàng hoá, vật dụng đều nhờ 3 con sông (rạch) này để lưu thông tiếp cận chợ Bà Chiểu (thuộc xã Bình Hoà). Tại con kinh rộng nằm giữa hai con đường Đống Đa 1 và Đống Đa 2 ngày nay (trước đó gọi là bến ghe Nhà thờ Bà Chiểu (P.2, Bình Thạnh)) tấp nập ghe thuyền, góp phần không ít làm phồn thịnh cho nền kinh tế và thương mãi của chợ Bà Chiểu.
Từ sau năm 1950, nhà cửa của dân (phần lớn là nhà sàn) xây cất lấn chiếm hai bên bờ sông rạch, làm mất cả bến ghe thuyền nên không còn bóng dáng ghe thương hồ vào bến chợ Bà Chiểu nữa. Mặt khác, sự lưu thông hàng hoá bằng đường bộ có phần thuận tiện và mau lẹ hơn nhiều nên sự lưu thông trên sông rạch cũng giảm bớt.
Tóm lại, theo nhận xét của riêng tôi, trong phạm vi nhỏ hẹp của xã Bình Hoà cũ, hai chữ “tam giang” trong câu đối ở tiền điện đình Bình Hoà có thể hiểu là: sông Sài Gòn, rạch Cầu Bông và rạch Thị Nghè”.
Trên đây là ý kiến của ông Đ.T.S., mà chúng tôi thấy có cơ sở nên xin trân trọng giới thiệu để ông và bạn đọc tham khảo. Xin chân thành cảm ơn ông Đ.T.S. đã góp cho mục Chuyện Đông chuyện Tây những ý kiến bổ ích và rất đáng suy nghĩ. Và chúng tôi cũng xin nhân tiện cải chính một điều như sau.
Trên Kiến thức ngày nay, số 511, chúng tôi đã đọc câu sau của đôi câu đối phía ngoài ở tiền điện đình Bình Hoà là:
Hữu biên thái thịnh, hanh bách niên thế đại văn chương.
Tuy đã công bố nhưng chúng tôi vẫn chưa hoàn toàn yên tâm nên vẫn tiếp tục suy nghĩ về một vài chữ, trong đó có chữ thứ 5 mà trước đây chúng tôi đã đọc thành “hanh”. So sánh tự dạng một cách kỹ lưỡng thì thấy đây có lẽ phải là chữ mới đúng. Theo Khang Hy tự điển thì Đường vận đã cho thiết âm của chữ này là “ư ky (cơ) thiết” còn Tập vận thì cho là “ư hy thiết” và cả hai quyển vận thư này đều ghi thẳng rằng âm của nó là “y”. Đây là nói về âm, còn về nghĩa thì theo Khang Hy tự điển, y là “quay về”, “đi về” mà cũng có thể dùng như chữ y 依 (bộ nhân), có nghĩa là “theo”, “noi”.
Vậy xin đọc lại chữ thứ 5 của câu sau thành “y”, rồi cả hai câu là:
Tả vị xương lang, tuân vạn cổ thánh hiền lễ nhạc,
Hữu biên thái thịnh, y bách niên thế đại văn chương
và hiểu là:
(Tả vị vẻ vang, noi lễ nhạc thánh hiền vạn cổ,
Hữu biên lừng lẫy, theo văn chương thế đại trăm năm.)
Chúng tôi thành thật xin lỗi ông Dương Minh Đức, các vị trong Ban quản lý và bá tánh đình Bình Hoà cùng toàn thể các bạn đọc.
§ 1027. Kiến thức ngày nay, số 518, ngày 1 -1-2005
ĐỘC GIẢ: Xin chân thành cám ơn ông đã giải đáp cho thắc mắc của tôi về địa danh “Bùi Chu” quê tôi trên Kiến thức ngày nay, số 515. Trong bức thư trước, tôi quên kể một vài chi tiết về quê mình; nay xin trình bày rõ như sau:
Theo truyền thuyết, vào khoảng thế kỷ XI, XII, có hai gia đình họ Đỗ và họ Vũ làm nghề chài lưới để sinh sống. Họ gặp nhau và liên kết với nhau để khai khẩn vùng đất hoang ở tả ngạn sông Ninh Cơ (một nhánh của sông Hồng). Từ đó cho đến năm 1954, chỉ có con cháu hai họ Đỗ và Vũ cư ngụ chứ không có người họ khác sống chen vào. Nếu ai muốn lập nghiệp trong điền thổ của làng (ở rể), phải được sự chấp nhận của tộc trưởng, phải bỏ họ cũ mà nhận họ Đỗ hoặc họ Vũ làm họ của mình.
Năm ngoái, nhân sinh nhật lần thứ 70 của tôi, cháu tôi hỏi: Quê nội ngoài Bắc là Bùi Chu; vậy Bùi Chu là gì?. Tôi lật từ điển ra xem rồi giải thích: “Bùi Chu là vùng đất mầu mỡ phì nhiêu. Con người Bùi Chu luôn chu toàn trách nhiệm đối với người và với mình.” Nhưng sự thật có đúng như vậy không thì chính tôi cũng không rõ! Tháng 8 vừa qua, cháu tôi đọc Thần đồng đất Việt số 60, thấy chữ “chu” trong truyện lại là “thuyền”.
Nó bảo: “Nội giải thích sai rồi!” Tôi bí quá nên biên thư nhờ đến ông song lại quên trình bày chi tiết.
Sự giúp đỡ của ôngvừa rồi rất quý song chữ “Bùi”thì không phải là họ của người khai phá và lập nên làng vì hai cụ tổ chúng tôi mang họ Đỗ và họ Vũ. Xin trình bày như trên để ông xem xét và giúp đỡ.
AN CHI: Như chúng tôi đã trình bày trên Kiến thức ngày nay, số 515, Bùi Chu là một địa danh Hán Việt mà Hán tự là 裴洲. Hai chữ bùi và chu đi chung với nhau để làm thành danh ngữ địa danh Bùi Chu chỉ có thể có nghĩa là “bãi (sông) của người họ Bùi” chứ không thể có nghĩa nào khác. Nếu bảo rằng chu có nghĩa là “thuyền” thì chữ “chu” này phải viết thành 舟, khác hẳn với chữ chu/châu 洲 là “bãi”. Huống chi, ta không thể chỉ đơn giản căn cứ vào âm để tìm ra nghĩa vì nếu làm như thế thì còn phải kể đến những chữ “chu” khác nữa: – chu/châu 朱 là “son”; – chu 株 là “gốc cây”; – chu 賙 là “cho, biếu”; v.v..
Dùng để ghi lại địa danh Bùi Chu trong thư tịch từ xưa đến nay, hai chữ Hán trên đây là căn cứ chắc chắn để ta dựa vào mà tìm ra cái ý nghĩa cần thiết tiền nhân muốn diễn đạt khi đặt ra địa danh đó. Còn chuyện ông đã kể (về các vị tổ họ Đỗ và họ Vũ) thì dù sao cũng chỉ là truyền thuyết như chính ông đã khẳng định (mà truyền thuyết thì không phải bao giờ cũng là sự thật). Muốn biết tại sao làng ông tên là Bùi Chu mà chỉ có người họ Đỗ và họ Vũ cư ngụ thì còn phải tìm hiểu kỹ về địa lý lịch sử và địa lý dân cư của làng rồi cả gia phả, tộc phả của cư dân ở địa phương. Rất tiếc là về mặt này, hiện nay chúng tôi không có điều kiện để thực hiện. Mong ông thông cảm và hy vọng sẽ có dịp trở lại vấn đề.
§ 1028. Kiến thức ngày nay, số 519, ngày 10-1-2005
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 503, ông có viết rằng “Vương giả dĩ dân vi thiên nhi dân dĩ thực vi thiên” là một câu trong “Lịch Dị Cơ truyện” của Hán thư. Tôi vẫn tin ở sự cẩn trọng của ông nên nghĩ rằng “Lịch Dị Cơ” là một cách phiên âm chính xác. Nhưng đến số 516, ông lại nhắc đến nhân vật “Lịch Dị Cơ” và ghi kèm theo ba chữ Hán là 酈食其 nên tôi hết sức ngạc nhiên. Ông đã nhầm lẫn chăng vì theo tôi và một vài người bạn thì hai chữ 食其 phải đọc thành “Thực Kỳ” mới đúng! Xin ông vui lòng giải thích cho.
AN CHI: Đúng như ông đã viết, chữ 食 có âm là “thực” còn chữ 其 có âm là “kỳ”. Nhưng đây chỉ là âm thông dụng nên trở thành quen thuộc chứ khi dùng để ghi tên người thì hai chữ 食其 phải đọc khác. Tại mục “thực” 食, Khang Hy tự điển có ghi rõ ràng rằng Quảng vận, Tập vận và Vận hội đều cho thiết âm của chữ này là: 羊吏切, 音異 (dương lị (lại) thiết, âm dị). Vậy ở đây, âm của nó là “dị”.
Còn ở mục “kỳ” 其, thì Khang Hy tự điển ghi rõ ràng rằng Đường vận, Tập vận và Vận hội đều cho thiết âm của nó là:居之切, 音姫 (cư chi thiết, âm cơ). Vậy âm của nó ở đây là cơ. Cơ là âm xưa, nay đã đọc thành ky – giống như cờ trong cờ tướng chính là kỳ 棋, cờ trong màu cờ sắc áo chính là kỳ 旗,v.v..
Cũng tại mục này, sau khi giảng rằng đây là tên người, Khang Hy còn dẫn sách Chính nghĩa nói rằng “Lịch thực kỳ tam tự âm độc lịch dị cơ 酈異幾; nghĩa là “Ba âm của ba chữ lịch thực kỳ đọc là lịch dị cơ.”
Một số từ điển khác cũng có ghi chú về cách đọc hai chữ trên giống như Khang Hy.
§ 1029. Kiến thức ngày nay, số 519, ngày 10-1-2005
ĐỘC GIẢ: Có người cho rằng tuy trong Nam nói “bóp”, ngoài Bắc nói “ví” nhưng cả trong Nam lẫn ngoài Bắc đều phiên âm từ tiếng Pháp. “Bóp”, do portefeuille còn “ví” do billet trong billet de banque (tờ bạc, giấy bạc) mà ra. Xin ông cho biết có đúng như vậy không?
AN CHI: Bóp thì đúng là do portefeuille mà ra. Trước kia, người ta còn nói bóp-phơi nữa. Nhưng ví thì chẳng dính dáng gì đến billet cả vì đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 幃 mà âm Hán Việt hiện đại là vi, có nghĩa là “hương nang”, tức là cái bóp đựng hương liệu mà phụ nữ đeo theo người. Từ nghĩa gốc này, ví mới chuyển nghĩa để chỉ cái portefeuille mà người ta cũng mang theo người nhưng không đựng hương mà đựng… tiền. Về mối quan hệ ngữ âm “vi ~ ví”, ta còn có vi 圍 (vây, bọc) ~ ví (= vây, chặn), vẫn còn thông dụng ở trong Nam. Hai cặp tương ứng ngữ âm đồng dạng này cho ta thấy “vi ~ ví” là một điều chắc chắn.