Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 1005 - 1016
§ 1005. Kiến thức ngày nay, số 510, ngày 10-10-2004
ĐỘC GIẢ: Về câu trả lời của ông liên quan đến Tuệ Trung Thượng Sĩ trên Kiến thức ngày nay, số 506, tôi thấy các ý trong hai đoạn mà ông đã dẫn của ông Nguyễn Huệ Chi trong Thơ văn Lý – Trần, tập I, 1977, đều đã được ông Nguyễn Lang nêu ra tại chương XI của công trình Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập I, do nhà Lá Bối xuất bản lần thứ nhất tại Sài Gòn năm 1974. Xin ông vui lòng cho biết có phải đây là một trường hợp “những tư tưởng lớn gặp nhau” hay không.
AN CHI: Chúng tôi đã tìm Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang để đối chiếu thì thấy quả nhiên đúng như ông đã thông báo. Vậy để cho được công bằng và khách quan, chúng tôi xin dẫn lại hai đoạn hữu quan của Nguyễn Lang để bạn đọc tham khảo. Tác giả này đã viết:
“Sách Hoàng Việt Văn Tuyển nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tảng, con lớn của Trần Hưng Đạo. Sự thực thì tuy Tuệ Trung Thượng Sĩ có tước hiệu là Hưng Ninh Vương, nhưng ông không phải tên là Trần Quốc Tảng, cũng không phải con của Trần Hưng Đạo. Ông là anh cả của Trần Hưng Đạo và tên ông là Trần Quốc Tung. Trần Nhân Tông, người khảo đính sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, trong bài Thượng Sĩ Hành Trạng in ở cuối sách có nói rõ “Tuệ Trung Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương và là anh cả của Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại Vương mất, hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.
Khâm Minh Từ Thiện Đại Vương là tước hiệu vua Trần Thái Tông ban cho anh ruột là Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất. Đó là vào năm 1251. Cũng vào năm ấy Tuệ Trung Thượng Sĩ được 21 tuổi, và được phong tước Hưng Ninh Vương. Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm là con thứ năm của Yên Sinh Vương Trần Liễu, tên là Thiều, là vợ của vua Trần Thánh Tông. Trần Hưng Đạo có một người con tên là Trần Quốc Tảng, nhưng tước hiệu là Hưng Nhượng Vương, chứ không phải Hưng Ninh Vương”*.
Tại chth 1, tr. 273, Nguyễn Lang còn nói rõ thêm:
“Con cả của An (= Yên – AC) Sinh Vương tên là Tung. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trong phần nói về vua Trần Minh Tông, có ghi lời bàn của Ngô Sĩ Liên như sau:
“Vua vốn là người hậu với thân thuộc trong họ, đối với người vai trên mà quý hiển lại càng kính lắm. Phàm kẻ thần hạ người nào có tên trùng với những người ấy đều đổi cho tên khác. Như người tên Độ đổi thành tên Sư Mạnh vì tên Độ trùng với tên của Thượng Phụ (Trần Thủ Độ), tên là Tung thì đổi làm Thúc Cao, vì tên Tung trùng với tên của Hưng Ninh Vương, con trưởng của An Sinh Vương.”
Có những bản in lầm An Sinh Vương thành An Ninh Vương. Ta chưa từng nghe có ai có tước hiệu An Ninh Vương bao giờ.
Hưng Ninh Vương là con của An Sinh Vương Trần Liễu. Chữ sinh trong An Sinh Vương hẳn đã bị khắc lầm thành chữ Ninh chỉ vì trước đó đã có chữ ninh trong Hưng Ninh Vương”.
Trở lên là những gì liên quan đến tên thật của Tuệ Trung Thượng Sĩ mà tác giả Nguyễn Lang đã viết trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập I, do nhà Lá Bối xuất bản năm 1974, trước giải phóng 1 năm và trước Nguyễn Huệ Chi 3 năm. Xin dẫn lại như trên để bạn đọc tham khảo và đối chiếu.
§ 1006. Kiến thức ngày nay, số 510, ngày 10-10-2004
ĐỘC GIẢ: Câu cuối trong bài thơ “Tân xuất ngục, học đăng sơn” của Hồ Chí Minh là:
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.
Trước đây nhà thơ Nam Trân đã dịch là:
Trông lại trời Nam nhớ bạn xưa.
Nhưng gần đây có người cho rằng lời dịch này “chưa nói hết được cái thần trong câu thơ chữ Hán” nên đã dịch lại là:
Buồn hướng trời Nam nhớ bạn xưa,
viện lý rằng “dao vọng không chỉ có nghĩa là hướng về, mà còn có nghĩa là buồn bực hướng về, vì chữ dao cũng có nghĩa là lo buồn”. Theo sự hiểu biết hạn chế của tôi thì chữ dao trong bài thơ có nghĩa là xa, khác với chữ dao có nghĩa là buồn. Vậy xin ông cho biết giữa hai lời dịch trên đây, lời dịch nào đúng.
AN CHI: Ông đã nói đúng. Ở đây ta có hai chữ dao khác nhau. Chữ dao 遥 là xa thuộc bộ quai xước 辶 (nguyên dạng là 辵 còn chữ dao 愮 là buồn thì lại thuộc bộ tâm 忄 (nguyên dạng là 心) nên không thể lẫn lộn được.
Vậy khi mà nguyên văn tiếng Hán đã dùng chữ 遥 thì không thể dịch là “buồn” được. Đó chỉ có thể là “xa” mà thôi. Nhưng khi đã phân tích cặn kẽ đến như thế thì ta cũng phải thừa nhận rằng lời dịch của Nam Trân đã bỏ qua chữ dao là “xa” trong nguyên văn chữ Hán.
Thật ra thì dịch thơ thành thơ là một việc khó. Vì thế nên chính người dịch lại bài thơ – vì cho rằng Nam Trân đã không “nói hết được cái thần” của nguyên văn – cũng đâu có “nói hết được cái thần” của nó.
Chẳng hạn như câu:
Bồi hồi độc bộ Tây Phong Lĩnh
mà dịch thành
Dãy Tây Phong một mình leo núi
thì lại thừa chữ mà thiếu ý. Thừa chữ “núi” vì Tây Phong Lĩnh là “dãy Tây Phong” mà chỉ cần nói thế thì đủ biết đó là núi rồi. Thiếu ý là thiếu hẳn nghĩa của hai chữ bồi hồi trong nguyên văn.
Cuối cùng thì ta phải thừa nhận rằng dù sao Nam Trân cũng là một người vừa có tài lại vừa có duyên trong công việc nặng nhọc và tế nhị này. Vậy ta cũng phải cẩn thận xem có nên sửa lại thơ dịch của ông hay không.
§ 1007. Kiến thức ngày nay, số 510, ngày 10-10-2004
ĐỘC GIẢ: Tạp chí Nghiên cứu văn học đã đăng trên hai kỳ liền (8-2004 và 9-2004) một bài nghiên cứu nhan đề “Hậu hiện đại” của tác giả Diễm Cơ, nhà phê bình nghiên cứu văn học (Pháp). Tôi thấy hình như trong bài này cách dịch một vài khái niệm từ tiếng Pháp sang tiếng Việt chưa được ổn. Xin nhờ ông An Chi đọc bài này xem có phải đúng như thế không.
AN CHI: Đúng là trong bài này, tác giả Diễm Cơ đã dịch sai một số khái niệm từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Sau đây là mấy dẫn chứng:
– Socialisme ou barbarie được dịch thành “Xã hội hay dã man”. (Số 8-2004, tr. 95)
Socialisme phải là chủ nghĩa xã hội chứ sao lại là “xã hội” vì xã hội là société.
– Relation écrite ou orale défaits réels ou imaginaires được dịch thành “liên hệ viết hoặc nói của những dữ kiện thực hay tưởng tượng”. (Số 8-2004, tr. 97)
Thực ra, relation ở đây đâu có phải là “(mối) liên hệ”, mà là sự trần thuật, bài trần thuật, lời kể, v.v., biết rằng cái ngữ đoạn tiếng Pháp trên đây là định nghĩa của danh từ récit (chuyện kể). Còn fait(s) là (những) sự kiện chứ không phải “dữ kiện” vì dữ kiện thì lại là donnée. Vậy relation écrite ou orale de faits réels ou imaginaires là lời kể viết hoặc nói về những sự kiện thực tế hoặc tưởng tượng.
– Beauté figurale được dịch thành “mỹ học hình tượng”. (Số 8-2004, tr. 96)
Nhưng beauté là “nét đẹp”, “vẻ đẹp” chứ không phải “mỹ học” – esthétique mới là “mỹ học”; còn figural thì dĩ nhiên là một tính từ phái sinh từ danh từ figure theo nghĩa II.2. đã cho trong Petit Larousse Illustré: “Représentation plastique d’un être humain, d’un animal.” (Sự thể hiện (qua) tạo hình một con người, một con vật). Vậy beauté figurale chẳng qua là “vẻ đẹp (có được thông qua nghệ thuật) tạo hình”.
– Numériser, digitaliser được dịch thành “mã hoá”. (Số 8-2004, tr. 100)
Thực ra đây là số hoá chứ không phải “mã hoá”. Mã hoá và số hoá khác nhau rất xa. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003) giảng mã hoá là “chuyển thành mã để truyền, xử lí hoặc lưu trữ tin” còn số hoá là “chuyển cách biểu diễn tín hiệu (âm thanh, hình ảnh, xung điện…) sang dạng số”.
Cũng xin nói thêm rằng trong tiếng Pháp thì, giữa numériser và digitaliser, digitaliser là một cách nói được “déconseillé” (khuyên không nên dùng) vì đây là hệ quả của một sự vay mượn từ tiếng Anh.
– Discours de la méthode (tên một tác phẩm của Descartes) được dịch thành “phương pháp luận”. (Số 8-2004, tr. 107)
Thực ra thì méthodologie mới là “phương pháp luận” còn cái tên “Discours de la méthode” thì chỉ có thể dịch thành “Luận văn về phương pháp” mà thôi.
– Processus universel d’engendrement được dịch thành “quá trình phát sinh chung”. (Số 8-2004, tr. 107)
Universel là “phổ biến”, “phổ quát” chứ sao lại là “chung” được? Xin hãy đọc lại câu hữu quan: “Một phát biểu khoa học chỉ được xem là tri thức, nếu nó nằm trong một quá trình phát sinh chung, và chỉ như thế mà thôi.” Nếu lời dịch trên đây mà đúng thì chẳng hoá ra tất cả mọi phát biểu khoa học đều cùng có chung một nguồn gốc hay sao? Engendrement mà dịch thành “phát sinh” cũng không đúng vì phát sinh chỉ trực tiếp liên quan đến đối tượng còn engendrement thì trực tiếp liên quan đến tác nhân sản sinh ra (engendrer) chính đối tượng đó.
§ 1008. Kiến thức ngày nay, số 511, ngày 20-10-2004
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết câu “Cái khó ló cái khôn” có phải do nói sai câu “Cái khó bó cái khôn” mà ra hay không.
AN CHI: Trong bài “Cái khó ló cái khôn, câu tục ngữ có hai mặt”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 3 (101)-2004 (tr. 9), tác giả Mai Hiển Tích viết:
“Gần đây, bên cạnh câu tục ngữ “Cái khó bó cái khôn” lại lưu hành câu “Cái khó ló cái khôn”. Nguyên nhân là do hai từ “bó” và “ló” vốn gần gũi nhau về âm. Và những người không thấu hiểu nỗi bó buộc của cảnh nghèo khó ngày xưa mới đổi phụ âm “b” của câu tục ngữ truyền đời thành phụ âm “l” để phủ nhận nó.
“Thực tế, ta được hai câu có ý nghĩa tuyệt đối trái ngược nhau. Câu trước mang nặng nỗi lòng của những người nghèo khó xưa nay. Câu sau là một câu mới ra đời, phản ánh tính năng động chủ quan, quyết tâm vượt mọi khó khăn trong công việc để đi tới thành công của con người hiện tại”*.
Còn trong bài “Trao đổi về câu tục ngữ Cái khó ló cái khôn”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 6 (104)-2004, tác giả Lê Hữu Thảo đã nhận xét về bài của Mai Hiền Tích như sau:
“Ông (Mai Hiển Tích – AC) chưa hiểu được đặc trưng của tục ngữ nên đã có những nhận xét sai. Bài viết thể hiện lối tư duy chủ quan, suy diễn, áp đặt thiếu căn cứ”*.
Theo tác giả này thì:
“Câu “Cái khó ló cái khôn” được ra đời dựa trên kết cấu của câu tục ngữ trước “Cái khó bó cái khôn”, nhưng chủ yếu là nó được sinh ra do thực tế sống động, gay go, quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, chứ không phải do ý định chủ quan của một người nào đó muốn đổi âm “b” thành âm “l” như ông Tích nói.
“Chúng ta đều biết trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, nhân dân ta phải đương đầu với bao khó khăn, gian khổ. Chính trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ đó đã làm nẩy nở rất nhiều tài năng sáng tạo, thể hiện sự thông minh tài trí của con người. Đó chính là điều kiện thực tế để cho câu tục ngữ “Cái khó ló cái khôn” ra đời”*.
Cứ như trên thì, theo Mai Hiển Tích, vì người thời nay “không thấu hiểu nỗi bó buộc của cảnh nghèo khó ngày xưa nên mới đổi phụ âm “b” thành phụ âm “l” để phủ nhận nó” (tức câu tục ngữ gốc). Còn với Lê Hữu Thảo thì sự ra đời của câu “Cái khó ló cái khôn” là kết quả của một thao tác có ý thức hẳn hoi để phản ánh tài trí của nhân dân ta trong công cuộc chống Mỹ cứu nước.
Rất tiếc rằng dù là kết quả của một sự “sáng tạo” vô tình hay hữu ý thì câu “Cái khó ló cái khôn” cũng hoàn toàn không đúng với đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của từ ló. Từ này chỉ có hai cách dùng sau đây:
1. Không có bổ ngữ và có nghĩa là xuất hiện. Thí dụ: Vầng dương vừa ló lên ở chân trời.
2. Có bổ ngữ và có nghĩa là để lộ ra nhưng bổ ngữ này phải là danh từ chỉ một bộ phận hữu cơ của chủ thể. Thí dụ: Kim Trọng vừa ló đầu lên khỏi bức tường thì liền thấy có một chiếc trâm vướng ở cành cây trước mặt – Sở Khanh vừa ló mặt thì đã bị Kiều nhiếc: “Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai!”
Đầu ở đây dứt khoát chỉ có thể là đầu của Kim Trọng còn mặt thì dứt khoát chỉ có thể là mặt của Sở Khanh chứ không thể là của bất cứ ai khác.
Dù ta có đặt câu như thế nào với từ ló thì từ này cũng chỉ có thể có một trong hai cách dùng trên đây mà thôi chứ dứt khoát không thể có bất cứ cách dùng nào khác. Cái khó và cái khôn chỉ là những khách thể của nhau thì làm sao mà cái trước có thể “ló” cái sau cho được!
§ 1009. Kiến thức ngày nay, số 511, ngày 20-10-2004
ĐỘC GIẢ: Đình Bình Hoà là một di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Ngôi đình tọa lạc tại số 15/77 đường Chu Văn An, Ngã Năm Bình Hoà, P.12, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Toàn bộ kiến trúc của ngôi đình gồm có: võ ca (vì hư hỏng nặng nên đã dỡ), tiền điện, trung điện, chính điện, nhà túc, nhà kho và nhà bếp. Câu đối thì có nhiều nhưng riêng tiền điện thì có hai cặp (bốn câu) cẩn bằng miểng sành rất đẹp. Có điều là dạng chữ ở đây rất khó đọc vì đó là lối chữ triện có cách điệu (Xin xem ảnh chụp kèm theo đây).
Lâu nay chúng tôi có giúp cho Ban quản lý di tích đình Bình Hoà trong việc thu thập tài liệu để thuyết minh về lịch sử ngôi đình. Riêng hai cặp đối nói trên vì rất khó đọc nên đến nay vẫn chưa giải mã được. Nay xin trân trọng nhờ ông An Chi đọc giúp; chúng tôi xin có lời chân thành cảm ơn trước. Ngày 11 tháng 9 năm Giáp Thân (nhằm ngày 24 tháng 10 năm 2004), chúng tôi sẽ tiến hành Lễ cúng cầu an như lệ thường hằng năm. Nếu được ông trả lời cho trước dịp này thì Ban quản lý sẽ rất vui mừng và hân hạnh tiếp nhận lời giải đáp quý báu đó.
Ảnh bốn câu đối do độc giả gửi đến
AN CHI: Chúng tôi rất cảm kích trước sự tín nhiệm của quý vị nên cũng xin đánh bạo đọc thử, với hy vọng là các bậc thức giả sẽ chẳng nề hà mà chỉ bảo cho những chỗ thiếu sót của chúng tôi để chúng ta có thể đạt đến một cách đọc và một cách hiểu thực sự đúng với mặt chữ và nội dung của đôi câu đối.
Xin theo đúng trình tự và vị trí các câu đối trong bức ảnh do quý vị gởi đến mà ghi lại từng câu theo lối chữ khải như sau:
Bốn câu đối chuyển sang lối chữ khải
Hai câu ngoài cùng làm thành một cặp và hai câu ở giữa làm thành cặp còn lại. Xin phiên âm cặp ngoài cùng (phải trước, trái sau):
Tả vị xương lang, tuyển vạn cổ thánh hiền lễ nhạc
Hữu biên thái thịnh, hanh bách niên thế đại văn chương
Tạm dịch:
(Tả vị vẻ vang, chọn lễ nhạc thánh hiền vạn cổ
Hữu biên lừng lẫy, thông văn chương thế đại trăm năm.)
Xin chú ý: – Chữ lãng 朗 cũng đọc lang, như đã ghi nhận trong Khang Hy tự điển. Ở đây, xin đọc theo âm này (thanh bằng) để đối với thịnh, thuộc thanh trắc -Hanh: thông; làm cho thông suốt.
Còn sau đây là hai câu ở giữa (cũng phải trước, trái sau):
Bình thụ bỉnh phong, uy chấn tam giang chân hiển hách
Hoà bang chưởng ấn, ưởng trì bách tính đắc an ninh.
Tạm dịch:
(Vỗ dạy cầm quyền, sang sửa ba sông nên sáng chói
Giúp vùa giữ ấn, dắt dìu trăm họ được yên lành.)
Xin chú ý: – Bình: vỗ yên – Thụ: truyền dạy – Chữ * là một dạng của chữ bỉnh 秉 là cầm, nắm – Phong: ở đây là chức, tước (được phong). Xin tạm dịch là “quyền” (thanh bằng) để đối với “ấn” (thanh trắc) – Uy (ở đây không phải danh từ mà là động từ): làm cho sợ – Chấn: sửa sang – Tam giang: ba con sông chảy qua (?) hoặc liên quan đến Bình Hoà xã. Ở đây dùng theo hoán đụ để chỉ chính Bình Hoà xã. – Ưởng: đánh bằng dây da buộc trâu, ngựa; ưởng trì: điều khiển, dìu dắt.
Xin đánh bạo đọc và hiểu như trên để quý vị tham khảo. Còn đúng sai thế nào thì xin trông chờ ở sự thẩm định của các bậc thức giả.
Sau khi tham khảo cách đọc của một vị ở Miếu Thành hoàng Bổn cảnh, chúng tôi xin đổi chữ tuyển 選 thành tuân 遵 (= nghe theo). Vậy câu đầu hàng ngoài sẽ là: Tả vị xương lang, tuân vạn cổ thánh hiền lễ nhạc, nghĩa là “Tả vị vẻ vang tuân lễ nhạc thánh hiền vạn cổ.”
§ 1010. Kiến thức ngày nay, số 511, ngày 20-10-2004
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết chữ “loi” trong câu “Chín đụn không coi, một loi ăn dè” có nghĩa là gì?
AN CHI: Chúng tôi cho rằng loi là một biến thể ngữ âm của lai còn lai là âm xưa của ly, một từ Hán Việt có nghĩa là 1/1.000 của thước (chiều dài) hoặc của lạng (trọng lượng). Trong phương ngữ, lai có nghĩa là phân, tức 1/10 của chỉ (đồng cân). Loi có thể có nghĩa là nhúm (lượng nhỏ) và vì chỉ một lượng quá nhỏ nên mới đi chung với lẻ (= 1/10 của đấu) thành lẻ loi, mà nghĩa gốc là “ít ỏi” về số lượng, rồi nghĩa hiện hành là “đơn độc vì tách riêng ra” chăng?
§ 1011. Kiến thức ngày nay, số 512, ngày 1-11 -2004
ĐỘC GIẢ: Ngôn ngữ & Đời sống, số 4 (30)-1998 có bài của Phan Huy Đông nhan đề “Lần theo con đường của các từ ngữ”, tác giả khẳng định rằng từ “bồ” với nghĩa “người yêu, người tình, nhân tình nhân ngãi” thì đúng là có gốc từ phương Nam. Còn chữ “bịch”, ghép với “bồ” thành “bồ bịch” (cùng nghĩa nhưng tổng quát hơn) thì tác giả này lại cho là do người miền Bắc ghép vào sau giải phóng (năm 1975). Xin cho biết có đúng như thế không?
AN CHI: Trước giải phóng đúng 5 năm, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (Sài Gòn, 1970) đã ghi:
“Bồ. Bè bạn thân (…) bồ-bịch. Bồ rất thân với mình, như tay mặt, tay trái (…)”.
Lời giảng thì cần bàn để bổ sung thêm nhưng cứ như trên thì danh ngữ đẳng lập bồ bịch đã ra đời ở trong Nam trước giải phóng ít nhất là 5 năm (nhưng chắc chắn là nhiều hơn). Vậy nó không thể do “dân miền Bắc ghép luôn hai từ thành bồ bịch” được.
§ 1012. Kiến thức ngày nay, số 512, ngày 1-11 -2004
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 460, trong bài “Ba chữ còm” (tr. 38 – 40), tác giả Lê Bầu có bàn về chữ “sen” trong mấy câu ca dao:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
(…)
Tác giả cho rằng đó là “một loại hoa sen có cành”, “cây hoa sen thân mộc” mà tiếng Hán gọi là mộc phù dung.
Rồi trên Kiến thức ngày nay, số 465, trong bài “Về “ba chữ còm” của ông Lê Bầu”, ông An Chi đã bác cách hiểu của tác giả này rồi khẳng định:
“Cứ như trên thì ngữ danh từ “cây hoa sen thân gỗ” mà tác giả Lê Bầu đã dùng để dịch ba tiếng mộc phù dung (của tiếng Hán) chỉ là siêu ngôn ngữ dùng để diễn tả cái cách gọi tên giống cây đó theo tâm thức của người Trung Hoa mà thôi. Ngữ danh từ đó chưa bao giờ trở thành một cái tên gọi thông thường trong tiếng Việt để được nói tắt thành “hoa sen” và để hiện diện trong câu ca dao đang xét cả. Người Việt bao giờ cũng chỉ gọi cây mộc phù dung (trong tiếng Hán) là phù dung mà thôi”*.
Ông An Chi đã dẫn nhiều cứ liệu từ các sách như: Danh từ thực vật học của Vũ Văn Chuyên – Lê Khả Kế, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi, Sổ tay tra cứu danh pháp khoa học của Nguyễn Đại Hương – Lê Thị Thuỳ Trang để chứng minh rằng câu mà ông Lê Bầu gọi là “cây hoa sen thân mộc” thực chất là cây phù dung, tên khoa học là Hibiscus mutabilis. Nhưng đến Kiến thức ngày nay, số 500 thì tác giả Nguyễn Phú Cương đã có bài “Bàn thêm về bài Hoa sen…” (tr. 62 – 63) trong đó tác giả này chứng minh đó là cây “hoa sen đất”, “có rất nhiều cành và hương thơm đúng là mùi hoa sen”. Tác giả cho biết rõ ràng rằng cây sen này trồng ở chùa Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây và nếu đến đó thì “bạn sẽ gặp cây sen đất trong bài thơ này.”
Ông An Chi là người thích nói có sách, mách có chứng. Vậy xin ông vui lòng cho biết trước cái chứng bằng thực tế của tác giả Nguyễn Phú Cương, ông nghĩ gì về những cái chứng trong sách vở của ông.
AN CHI: Xin thưa thật với ông rằng chúng tôi… chẳng nghĩ gì cả. Nhưng vì ông đã có lòng hỏi đến nên chúng tôi cũng xin đáp lại đôi lời cho phải phép.
Nếu ông vui lòng đọc kỹ lại bài của chúng tôi thì ông sẽ thấy rằng chúng tôi không hề phủ nhận sự tồn tại của cây “hoa sen đất” – mà tác giả Nguyễn Phú Cương đã nêu – chỉ đơn giản vì thực ra chúng tôi cũng không ngờ là nó có… tồn tại. Còn tại mục 1 trong bài của mình, chúng tôi chỉ làm có một việc duy nhất là nêu ra những dẫn chứng cần thiết để phản bác ý kiến của ông Lê Bầu cho rằng tiếng Việt có dùng danh ngữ “cây hoa sen thân gỗ”, nói tắt thành “hoa sen”, để gọi cây mộc phù dung, nói tắt thành phù dung. Vâng, trong tiếng Việt, cây phù dung, tức mộc phù dung, chưa bao giờ được gọi là “cây hoa sen thân gỗ” để rồi lại được gọi tắt thành “cây hoa sen”. Và tất cả chỉ có thế, nghĩa là trong bài của mình chúng tôi chỉ đề cập đến mặt ngôn ngữ chứ không hề bàn đến việc “cây hoa sen thân gỗ” có tồn tại trong hệ thực vật của Việt Nam hay không.
Vậy sự tồn tại của cây “hoa sen đất” ở chùa Bối Khê mà tác giả Nguyễn Phú Cương đã giới thiệu không phải và không thể là một bằng chứng để bác bỏ ý kiến của chúng tôi. Nếu muốn bác bỏ nó thì phải dùng những cứ liệu ngôn ngữ để chứng minh rằng ở Việt Nam từng tồn tại một loại “sen thân gỗ” mà tiếng Hán gọi là mộc phù dung, có tên khoa học là Hibiscus mutabilis. Cũng chính vì không hiểu ý của chúng tôi nên trên Kiến thứcngày nay, số 468, một bạn đồng nghiệp mới nhận xét rằng “với chữ sen mà giải thích theo điển tích, chữ nghĩa Hán Việt thì không thích hợp vì những câu hát bình dân thường rất giản dị và dễ hiểu.” Vị này đã không để ý rằng chúng tôi tuyệt nhiên không bàn đến chữ “sen” trong bài ca dao. Chúng tôi chỉ bác ý kiến của ông Lê Bầu cho rằng cây mộc phù dung là “cây hoa sen thân mộc” mà thôi.
§ 1013. Kiến thức ngày nay, số 512, ngày 1-11-2004
ĐỘC GIẢ: Fan là một từ dùng để chỉ người hâm mộ, đặc biệt là trong môn bóng đá. Tôi vẫn biết đây là một từ tiếng Anh và vẫn nghĩ rằng nó là dạng tắt của fanatic nhưng không dám chắc có hoàn toàn đúng không.
AN CHI: Nhiều người khác cũng nghĩ như ông. Chẳng hạn trong một mẩu viết ngắn nhan đề “Fan (phan) là gì?”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (93)-2003, trang 48, tác giả Phạm Ngọc Uyển đã viết:
“Gần đây, đọc sách báo tiếng Việt, tôi hay gặp một từ mới: fan (phan). Tôi không hiểu. Hỏi một bạn trẻ, được biết: fan chỉ người rất hâm mộ, say sưa về một môn ngành… gì đó. Hoá ra fan là gọi tắt của từ fanatique, fanatic, fanatizm, nghĩa là cuồng tín, rất hâm mộ…”.
Thế là, cùng một lúc, tác giả Phạm Ngọc Uyển đã gắn từ fan với tiếng Pháp fanatique, tiếng Anh fanatic và tiếng Nga fanatizm (mà vì trở ngại về ấn loát nên chúng tôi đã mạn phép chuyển thành chữ cái La Tinh). Nhưng một từ chỉ có thể được mượn ở một ngôn ngữ duy nhất chứ không thể bắt nguồn từ ba ngôn ngữ khác nhau được. Fan là một từ tiếng Anh nên, nếu theo ý kiến của tác giả Phạm Ngọc Uyển, thì nó là dạng tắt của fanatic. Đây là cái kết luận mà nhiều người biết tiếng Anh dễ đạt đến nhất. Huống chi, trong phạm vi của tiếng Anh, hầu hết các quyển từ điển từ nguyên hoặc từ điển tường giải có chú thích từ nguyên cũng đều gắn fan với fanatic.
Một quyển từ điển từ nguyên đầy công phu và rất chi tiết như Origins của Eric Partridge (Routledge & Kegan Paul, London, 1961) cũng ghi gọn lỏn:
“Fan. Short for fanatic.” (Fan. (Dạng) tắt cho fanatic).
Và có lẽ vì hầu hết các quyển từ điển tiếng Anh đều ghi như thế nên Larousse của Pháp cũng dễ dàng ghi theo luôn. Chẳng hạn, Le Petit Larousse Illustré, ấn bản 2002, đã cho xuất xứ của fan là: “mot angl., abrév. de fanatic” (từ (của tiếng) Anh; dạng tắt của fanatic). Dĩ nhiên là nhiều ấn bản Larousse của những năm trước đây cũng ghi chú như thế. Cá nhân chúng tôi cũng nghĩ rằng điều khẳng định trên đây về từ nguyên của fan chẳng có gì là không hợp lý. Cho đến một ngày, một người bạn đồng học cách đây trên nửa thế kỷ đem từ Mỹ về tặng quyển Morris Dictionary of Word and Phrase Origins của William and Mary Morris (Harper Collins Publishers, Second Edition, New York, 1988). Quyển từ điển này nói về xuất xứ của fan như sau:
“Most scholarly opinion for years regarded this as a shortened form of “fanatic”. Now the theory is set forth that it may have come instead from “fancy”, a now outmoded term for gentlemen who frequent prize fights. We are inclined to think that this come closer to the true spirit of the fan as we know him today”.
Tạm dịch:
“Trong một thời gian dài, đã có ý kiến rất thông thái cho rằng fan là hình thức nói tắt của “fanatic”. Nay thì người ta đưa ra thuyết cho rằng thật ra nó có thể bắt nguồn ở “fancy”, một từ nay đã lỗi thời vốn dùng để chỉ những người thượng lưu hay lui tới những cuộc đấu quyền Anh thưởng bằng tiền. Chúng tôi nghiêng về hướng cho rằng ý kiến này thích hợp hơn với tinh thần đích thực của người hâm mộ như ta biết hiện nay”.
Chúng tôi theo ý kiến trên đây của hai đồng tác giả, ông bà Morris, cho rằng fan là dạng tắt của fancy. Nếu cần khảo chứng thì ta có thể thấy Webster’s New World College Dictionary (Third Edition, Macmillan, USA, 1997), chẳng hạn, đã cho như sau:
“Fancy (…) – the fancy [Obs.] the enthusiasts ofsome sport or hobby, esp. boxing”.
(Những người say mê một môn thể thao hoặc một cái thú riêng nào đó, đặc biệt là môn quyền Anh).
Còn Từ điển Anh – Việt của Viện Ngôn ngữ học (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975) thì cho:
“Fancy (…) 6. The fancy. Những người hâm mộ (một môn thể thao gì); những người thích (một thú riêng gì); những người hâm mộ quyền Anh”.
Cứ như trên thì rõ ràng fan là dạng tắt của fancy.
§ 1014. Kiến thức ngày nay, số 514, ngày 20-11 -2004
ĐỘC GIẢ: Trong cuốn Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991), mục 2.5.l, trang 96, tác giả Lê Trung Hoa có viết:
“Về cư dân, các địa danh gốc Khơ-me và Pháp cho ta biết rằng trước đây hai dân tộc đó từng sống trên vùng đất này: Cần Giờ, Xoài Rạp,… Nancy, La-cai,…”.
Tôi đã tìm suốt trong nhiều quyển lịch sử mà không thấy nói dân tộc Pháp đã sống ở địa bàn nay là Thành phố Hồ Chí Minh vào thời đại nào. Xin nhờ ông An Chi giúp đỡ xem có tìm ra hay không.
AN CHI: Mấy cái tên Nancy, Lacaze (La-cai), v.v., chỉ phản ánh sự có mặt của thực dân Pháp tại Việt Nam – trong đó dĩ nhiên có cả địa bàn của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay – chứ làm sao mà lại có thể là của dân tộc Pháp cho được?
Hẳn là vì tính phi lý của việc dùng hai tiếng “dân tộc” trong trường hợp này nên ông mới gợi ý cho chúng tôi về một nhiệm vụ bất khả thi là tìm cho ra xem dân tộc Pháp đã sống tại vùng đất nay là Thành phố Hồ Chí Minh vào thời đại nào chăng? Thật không may là tác giả lại còn dùng từ theo kiểu sai trái như thế ở những chỗ khác nữa. Chẳng hạn:
“Bắc, do từ bac của tiếng Pháp, là phà hay đò ngang. Từ này được dùng làm tiền tố chung đặt trước nhiều địa danh ở các tỉnh miền Tây: bắc Mỹ Thuận, bắc Vàm Cống, bắc Rạch Miễu,…”*.
Bắc là một từ độc lập hẳn hoi và đây là một danh từ trong các cấu trúc bắc Mĩ Thuận, bắc Vàm Cống, bắc Rạch Miễu, nó còn là trung tâm của các danh ngữ đó nữa. Còn tiền tố bao giờ cũng chỉ là một hình vị phụ thuộc, không có khả năng làm thành phần của câu. Vậy không thể nói rằng bắc là một “tiền tố”. Các từ (gốc Pháp) độc lập khác như bót (< poste), đầm (< dame), ga (< gare), lô (< lot), rầy (< rail) cũng bị tác giả cho là tiền tố (Xin xem tr. 89 – 90). Đây là một nhầm lẫn sơ đẳng về ngữ học.
Hoặc như ở một chỗ khác, tác giả đã viết:
“Riêng địa danh mang từ tố “Ông” ở đầu có đến 171 (như cầu Ông Thìn) và địa danh mang từ tố “Bà” ở trước có đến 204 (như Bà Chiểu)”*.
Từ tố là bộ phận không độc lập (của từ) còn ông và bà hẳn hoi là những từ độc lập thì sao lại gọi đó là những từ tố cho được?
Chúng tôi không khỏi lấy làm lạ vì chính ông Lê Trung Hoa đã nêu lên nguyên tắc “phải thận trọng trong việc vận dụng các phương pháp ngôn ngữ học khi phân tích địa danh”* nhưng chính ông lại ứng dụng một cách sai trái nhiều khái niệm cơ bản của ngữ học.
§ 1015. Kiến thức ngày nay, số 514, ngày 20-11-2004
ĐỘC GIẢ: Người ta vẫn truyền tụng rằng cung A Phòng (A Phòng cung) do Tần Thuỷ Hoàng xây dựng nhưng một ông bạn của tôi lại khẳng định rằng đó là công trình của Hán Vũ Đế. Xin cho biết đâu là sự thật.
AN CHI: A Phòng cung 阿房宫 đúng là do Tần Thuỷ Hoàng cho xây dựng còn công trình của Hán Vũ Đế thì lại là Tuyên Phòng cung 宣房宫. Điều cần nói là trên đây chúng tôi đã theo thói quen mà đọc thành “A Phòng”, “Tuyên Phòng” chứ thực ra thì trong hai trường hợp này, chữ 房 không thể đọc là “phòng” được. Âm chính xác của nó ở đây phải là bàng vì thiết âm của nó là “bồ ngang thiết, âm bàng” (Từ hải, Từ nguyên), “bồ quang thiết, âm bàng” (Khang Hy tự điển), v.v..
Vậy công trình mà Tần Thuỷ Hoàng cho xây là A Bàng cung còn công trình mà Hán Vũ Đế cho xây là Tuyên Bàng cung. Chẳng qua là vì người ta chỉ “vọng tự sinh âm” nên mới đọc thành “A Phòng”, “Tuyên Phòng” đó thôi.
§ 1016. Kiến thức ngày nay, số 514, ngày 20-11 -2004
ĐỘC GIẢ: Trước 1975, trong Nam người ta thường dùng hai chữ “kiêu sa” và có vẻ như thường dùng để chỉ phụ nữ. Bây giờ ít thấy dùng. Tôi nghĩ đây là hai tiếng Hán Việt nhưng không biết là viết bằng hai chữ Hán nào.
AN CHI: “Kiêu sa” là một cách viết có phần “lệch” chính tả vì đúng chính tả thì phải là kiêu xa mà Hán tự là 驕奢. Hán – Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng là “hợm mình và hoang phí” còn Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức thì giảng là “kiêu-căng xa-xí”. Có vẻ như, với sự lệch chữ lệch âm từ xa thành “sa”, một số người thích dùng hai tiếng “kiêu sa” để chỉ các bà các cô vừa đẹp vừa hãnh diện về cả sắc đẹp trời cho lẫn về y phục và mỹ phẩm mình dùng để tôn thêm cái sắc đẹp đó thì phải.