Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 0999 - 1004
§ 999. Kiến thức ngày nay, số 506, ngày 1 -9-2004
ĐỘC GIẢ: Tạp chí Xưa & Nay, số 215, tháng 7-2004 có đăng bài “87 ngày đàm phán gay cấn”, do Nghi Hoàng trích dịch từ một chương trong cuốn sách của Guy Mettan nhan đề Genève thành phố hoà bình – từ Hội nghị 1954 về Đông Dương đến sự hợp tác quốc tế. Kèm theo bài này có bức ảnh in ở trang 11 mà ban biên tập của Xưa & Nay đã chú thích như sau:
“Viatcheslav Molotov, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô và Phạm Văn Đồng, trưởng đoàn đại biểu Việt Minh đến Cointrin”
Tuy chú thích như trên nhưng BBT lại không hề đánh dấu “x” hay chỉ bằng dấu “mũi tên’; v.v., nên tôi không thể biết được Viatcheslav Molotov là ông nào trong ảnh (vì ảnh có nhiều người). Vậy xin nhờ ông chỉ giúp, xin cám ơn.
AN CHI: Chẳng có ông nào là Molotov trong bức ảnh đó cả. Để dễ trình bày và cũng để bạn đọc dễ theo dõi, chúng tôi xin chụp in kèm theo đây ảnh của ba nhân vật chính trong bức ảnh đó (Ảnh 1). Người thứ nhất (tính từ trái sang phải), mặc áo khoác màu trắng, ôm cặp, hiển nhiên là ông Phạm Văn Đồng mà ta có thể nhận ra một cách dễ dàng. Người thứ ba, trong tư thế trắc diện, mặc áo khoác đen, là ông Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc vụ viện (Thủ tướng Chính phủ) kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Còn người đứng giữa, cũng mặc áo khoác đen, trong tư thế nhìn về phía ống kính, là Andrey Gromyko, Thứ trưởng thứ nhất Bộ ngoại giao Liên Xô. Viatcheslav Molotov không có mặt ở đây vì người đại diện cho phái đoàn Liên Xô ra đón ông Phạm Văn Đồng chính là Andrey Gromyko.
Nhân tiện, xin nói thêm rằng cũng trong buổi đón tiếp này, còn có một bức ảnh chụp ông Phạm Văn Đồng (trái, áo trắng) và ông Chu Ân Lai (phải, áo đen) đứng cạnh nhau và nhìn về phía trước (Ảnh 2). Bức ảnh này đã được hai tác giả Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế đưa in vào Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam do Huỳnh Lứa đọc duyệt và hiệu chỉnh và do Nxb. Khoa học Xã hội ấn hành năm 1991, với chú thích cho rằng người mặc áo đen đứng bên phải là “Tạ Quang Bửu”!
BBT của Xưa & Nay thì biến Gromyko thành Molotov còn ông Nguyễn Q. Thắng và ông Nguyễn Bá Thế thì biến Chu Ân Lai thành Tạ Quang Bửu. Nhưng liệu ta có nên vui đùa với lịch sử và các chính khách kiểu như thế hay không?
§ 1000. Kiến thức ngày nay, số 506, ngày 1 -9-2004
ĐỘC GIẢ: Tôi đánh giá cao và rất yêu thích mục Chuyện Đông chuyện Tây. Nhưng Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 501 đã làm tôi thắc mắc. Số là ông viết “Tuệ Trung Thượng Sĩ (TTTS) tên thật là Trần Tung; ông là con trai cả của Trần Liễu.” Đâu là lịch sử?
Theo “Trần triều thế phổ” của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược (Trung tâm học liệu, Bộ Giáo dục Sài Gòn, 1971, tr. 207) thì Hưng Võ Vương Doãn là con trưởng. Còn trong Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (Mặt Đất, Sài Gòn, 1974, tr. 164) thì Ninh Vương Trần Quốc Tảng (VNSL là HưngNhượng Vương) con thứ hai của Trần Hưng Đạo Vương (…) tự hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Và theo một giai phẩm xuất bản trước 1975 ở Sài Gòn, trích dịch từ Đông A di sự thì “Hưng Nhượng Vương sau khi bình Thát Đát xuất gia, đạo hiệu là TTTS.” Chính bần tăng là đệ tử của Ngài Tuệ Trung” (Lời Nhân Tôn Thượng Hoàng do GS. TQĐ dịch). Đông A di sự là bộ sách do hoàng tộc nhà Trần viết về nhà Trần gồm có 4 phần: phần 1 chép tiểu sử, phần 2 chép thi văn, nghệ thuật, phần 3 chép mồ mả, đất cát, v. v. Sau khi xâm lược nước ta, quân Minh đã chở hết sách vở về Kim Lăng, trong đó có bộ Đông A di sự, chỉ có bộ do Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng lưu giữ trong chùa là còn lại.
Vậy xin thỉnh cầu cao ý của ông An Chi về một lời giải thích.
AN CHI: Thơ văn Lý – Trần, tập I (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977), phần “Khảo luận văn bản” (tr. 49 – 187) do Nguyễn Huệ Chi viết đã cho biết:
“(…) Cho đến nay, cái giả thuyết coi Tuệ Trung Thượng Sĩ là Trần Quốc Tảng đã để lộ quá nhiều khe hở.
Không ai phủ nhận có một Trần Quốc Tảng mà tên tuổi vẫn được nhắc nhiều trong Đại Việt sử ký toàn thư. Nhưng Trần Quốc Tảng này không có tước hiệu Hưng ninh vương như Bùi Huy Bích nói, chỉ có tước hiệu Hưng nhượng vương. Trần Quốc Tảng này lại chết vào năm 1313, năm năm sau năm chết của Trần Nhân Tông, cho nên không phù hợp với bài “Truy tán” của Nhân Tông viết khi Tuệ Trung mất. Hơn nữa, vì cũng suýt soát hoặc ít tuổi hơn Trần Nhân Tông nên Trần Quốc Tảng không dễ dàng làm thầy Nhân Tông về phương diện Thiền học, nhất là xét về tiểu sử, về tính cách, ông vốn là người tích cực “tham chính” cho đến tận lúc chết, chứ không hề có lúc nào “tham Thiền”. Trong khi đó, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một ông thầy đứng vượt lên tất cả, và được cả Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang tuyệt đối tôn sùng”. (tr. 14)
Nguyễn Huệ Chi viết tiếp:
“Nhưng nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hưng ninh vương, con trai đầu của Trần Liễu, thì có người như vậy thực không? Phần chắc là có. Ngay trong Đại Việt sử ký toàn thư, nếu để ý, cũng thấy một lời bàn của Ngô Sĩ Liên (Q. VI), có nhắc tên ông là Hưng ninh vương Tung. Nhưng An-nam chí lược, Q. VI, lại còn ghi được rõ cả tên lẫn họ: Trần Tung 陳嵩. Chỉ có một điểm đáng phân vân nhỏ, là Ngô Sĩ Liên nói ông Tung là con trưởng An ninh vương, mà tước của Trần Liễu lại là An sinh vương. Chúng tôi e ở đây có sự lầm lẫn của bản khắc gỗ (đời Nguyễn). Bởi vì, cũng chính An-nam chí lược nói ông là anh con bác ruột (tòng huynh) của Thế tử. Thế tử là Trần Thánh Tông thì bác ruột duy nhất chính là An sinh vương. Còn về sự nghiệp chống Nguyên của ông như đã ghi ở bài Thượng sĩ hành trạng, thì cũng có thể xác minh một cách chắc chắn bằng Nguyên sử và An-nam chí lược”. (tr. 14)
Trong Tuệ Trung nhân sĩ – thượng sĩ – thi sĩ (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998), Nguyễn Duy Hinh cũng khẳng định rằng “rõ ràng Tuệ Trung không thể là Trần Quốc Tảng” (tr. 33) nhưng cũng đồng thời khẳng định rằng “không đủ căn cứ để khẳng định Tuệ Trung là Trần Tung” (tr. 39). Còn trong khi chờ đợi thì chúng tôi theo quan điểm của Nguyễn Huệ Chi.
§ 1001. Kiến thức ngày nay, số 507, ngày 10-9-2004
ĐỘC GIẢ: Vừa rồi, trên Kiến thức ngày nay, số 492, ngày 10-4-2004 và số 497, ngày 1-6-2004, ông An Chi có giải thích bài thơ 春 思 của Lý Bạch là “Xuân tư”, nghĩa là “nhớ xuân” vì ông giải thích chữ 思 có hai cách đọc với hai nghĩa khác nhau: “tư” là nhớ và “tứ” là ý tứ. Theo thiển ý của tôi thì nên dịch và hiểu là “Xuân tứ” (là “tứ xuân” hay “ý xuân”) vì trong thơ xưa, khi dùng 思 là “nhớ” thường đặt ở trước. Ví dụ:
– Bài “Tư quân chi xuất hĩ” của Trương Cửu Linh có câu
Tư quân như nguyệt mãn
(Thiếp luôn nhớ chàng như vầng trăng đầy kia)
– Tên bài “Tư chiến sĩ” của Hồ Chí Minh có nghĩa là “nhớ chiến sĩ”.
– Bài “Cổ ý” của học sĩ Phù Thúc Hoành (đời Lê) thường dịch là “ý xưa”.
Đấy là hiểu theo cách của THƠ… Vậy xin trao đổi để ông An Chi tham khảo.
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 497, chúng tôi chỉ viết:
“Chữ 思 có hai cách đọc: 1. tứ, như trong ý tứ, tứ thơ, v.v.; 2. tư, nghĩa là nhớ (Xin chỉ nêu vắn tắt). Bây giờ ta đọc lại bài thơ (mà chúng tôi xin tạm dịch nghĩa như sau):
Cỏ Yên tựa tơ biếc
Dâu Tần sà nhánh xanh
Lúc chàng mong về quê
Thiếp nhớ nhung đòi đoạn
Gió xuân nào quen biết
Lay màn the làm chi?
“Tình thì là nhớ nhung mà cảnh lại gợi tình thương nhớ. Nỗi nhớ nhung tràn khắp bài thơ thì đây phải là “Xuân tư” chứ sao lại là “Xuân tứ”?”
Tất cả những gì chúng tôi đã viết chỉ có bấy nhiêu chứ chúng tôi không hề dịch xuân tư thành “nhớ xuân” như ông Nguyễn Khôi đã viết vì nếu là “nhớ xuân” thì tiếng Hán phải diễn đạt thành tư xuân mới đúng ngữ pháp.
Vậy thì xuân tư là gì? Thưa: là nỗi nhớ nhung lúc xuân về vì ở đây tư là danh từ, giống hệt như trong tên bài “Tĩnh dạ tư”, cũng của Lý Bạch. Dịch giả Nguyễn Hà đã phiên âm đúng tên của bài thơ này như thế trong Thơ nghìn nhà (Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1994, tr. 27 – 28) nhưng rất tiếc rằng ông lại dịch là “Đêm yên tĩnh suy nghĩ” (mặc dù tư cũng có nghĩa là “suy nghĩ”). Ta hãy thử đọc lại bài này theo lời dịch nghĩa của chính Nguyễn Hà xem sao:
Trước giường trăng sáng vằng vặc
Cứ ngỡ là sương phủ mặt đất
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ làng cũ.
Rõ ràng là chỉ có cảnh và tình mà tình thì thể hiện tập trung nhất ở ba chữ tư cố hương (Đê đầu tư cố hương), nghĩa là “nhớ quê nhà”. Vậy tĩnh dạ tư chẳng qua là “nỗi nhớ nhung trong đêm vắng”. Ông Nguyễn Khôi nói rằng “trong thơ xưa, khi dùng 思 là nhớ thì thường đặt ở trước”. Nhưng vị trí trước sau dù sao cũng mới chỉ là chuyện hình thức còn thực chất của vấn đề thì lại phụ thuộc vào từ loại và chức năng cú pháp của từ đang xét ở trong ngữ đoạn hoặc trong câu.
Xin lấy chữ hoài là nhớ làm thí dụ. Trong tên bài thơ “Thiên mạt hoài Lý Bạch” của Đỗ Phủ thì hoài là động từ vị ngữ còn Lý Bạch là tân ngữ của động từ hoài. Vậy thiên mạt hoài Lý Bạch là “(nơi) cuối trời nhớ Lý Bạch”. Nhưng trong tên bài “Thu hoài” của Âu Dương Tu thì hoài là danh từ trung tâm của danh ngữ mà thu là định ngữ. Vậy thu hoài là “nỗi nhớ nhung trong mùa thu”.
Xin lấy một thí dụ khác: chữ mộng. Trong tên hai bài “Mộng Lý Bạch” của Đỗ Phủ thì mộng là động từ còn Lý Bạch là tân ngữ của mộng. Vậy mộng Lý Bạch là “nằm mơ thấy Lý Bạch”. Trong tên bài “Mộng tầm mai” của Phương Nhạc (đời Tống) thì mộng là động từ trung tâm còn tầm mai là tân ngữ của mộng.
Vậy mộng tầm mai là “mơ (thấy mình đi) tìm mai”. Nhưng trong tên bài “Xuân mộng” của Sầm Tham thì mộng lại là danh từ trung tâm mà định ngữ là xuân. Vậy xuân mộng là “giấc mộng (đêm) xuân”. Cũng vậy, tên bài “Lương Châu mộng” của Nguyên Chẩn có nghĩa là “giấc mộng (ở) Lương Châu”.
Bây giờ xin trở lại với chữ tư. Trong tên bài “Kiến Vị thuỷ tư Tần Xuyên” của Sầm Tham thì tư là động từ mà tân ngữ là Tần Xuyên. Vậy Kiến Vị thuỷ tư Tần Xuyên là “thấy sông Vị (mà) nhớ đất Tần Xuyên.” Nhưng trong tên bài “Thu tư” của Trương Tịch thì tư là danh từ mà định ngữ là danh từ thu. Vậy thu tư là “nỗi nhớ nhung trong mùa thu”. Trong tên bài “Tư Vương Phùng Nguyên” của Vương An Thạch, tư là động từ mà Vương Phùng Nguyên là tân ngữ. Vậy tư Vương Phùng Nguyên là “nhớ Vương Phùng Nguyên”. Nhưng trong tên bài “Ly tư” của Nguyên Chẩn thì tư là danh từ mà định ngữ là động từ ly . Vậy ly tư là “nỗi nhớ nhung vì chia ly”.
Trong tên bài “Tư điền viên” của Thái Vũ, tư là động từ mà tân ngữ là điền viên. Vậy tư điền viên là “nhớ ruộng vườn (ở quê nhà)”. Nhưng trong tên bài “Hương tư” của Lý Cấu thì tư là danh từ trung tâm mà hương là định ngữ. Vậy hương tư là “niềm thương nhớ quê nhà”, v.v. và v.v..
Dĩ nhiên là nếu ta muốn cẩn thận mà lật từ điển ra để tra cứu thì ta cũng sẽ thấy từ điển giảng chữ 思 trên cơ sở của sự phân biệt mà chúng tôi đã nêu. Nghĩa là ta có hai từ tư tuy cùng gốc nhưng lại hoàn toàn riêng biệt và độc lập trong hành chức. Ta có thể giở Đương đại Hán ngữ từ điển của nhóm Lý Quốc Viêm (Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 2001), chẳng hạn, để xem quyển từ điển này giảng hai cấu trúc tư hương và hương tư như thế nào thì sẽ thấy:
– “Tư hương: tưởng niệm gia hương”(tr. 1205), nghĩa là “mong nhớ quê nhà”; và
– “Hương tư: hoài niệm cố hương đích tâm tình”(tr. 1051), nghĩa là “tấm lòng thương nhớ quê hương”.
Rõ ràng là có một sự phân biệt rành mạch trong lời giảng: tư trong cấu trúc trước là động từ còn tư trong cấu trúc sau là danh từ. Ta có thể lật các công trình bình giảng của Trung Quốc ra để kiểm tra thêm. Không có bất cứ công trình nào lại giảng chữ 思 (sau đây sẽ ghi bằng chữ T) trong Xuân T; Tĩnh dạ T, Thu T, Ly T, Hương T, v.v., đọc là tứ và có nghĩa là “ý tứ” cả. Tất cả đều giảng rằng đó là tư, có nghĩa là nỗi nhớ, lòng thương nhớ, v.v.. Chẳng hạn, nếu ta lật Đường thi tam bách thủ từ điển của Tả Quân Như (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, in lần thứ 2, Thượng Hải, 1999), ta sẽ thấy:
– Về bài “Xuân tư” của Lý Bạch: “Xuân tư, tựu thị xuân thiên đích tư niệm” (tr. 7), nghĩa là “xuân tư tức là lòng mong nhớ trong mùa xuân”.
– Về bài “Tĩnh dạ tư: cũng của Lý Bạch: “Giá thị nhất thủ nguyệt dạ tư hương đích thi.” (tr. 377), nghĩa là “đây là một bài thơ (nói lên) lòng nhớ quê vào (một) đêm trăng”, v.v. và v.v..
Nếu ta lại lật một quyển khác, chẳng hạn Trung Quốc lịch đại danh thi phân loại đại điển do Hồ Quang Chu và Chu Mãn Giang chủ biên (Quảng Tây Nhân dân xuất bản xã, in lần thứ 2, 1992), quyển 4, thì ta cũng không thể thấy khác. Thí dụ:
– Về bài “Hương tư” của Lý Cấu: “Giá thủ thi trữ phát lữ cư tại ngoại đích nhân hoàng hôn thời phân tư niệm cố hương đích cảm tình” (tr. 89), nghĩa là “bài thơ này bộc lộ tình thương nhớ quê hương của khách xa nhà nhân lúc hoàng hôn”.
– Về bài “Ly tư” của Nguyên Chẩn: “Giá thủ thi biểu đạt tác giả đối vong thê đích ái mộ, trung trinh hoà hoài niệm chi tình.” (tr. 557), nghĩa là “bài thơ này bày tỏ lòng yêu quý, thuỷ chung và thương nhớ của tác giả đối với người vợ đã chết”, v.v. và v.v..
Tóm lại, chữ thứ hai trong tên bài thơ của Lý Bạch mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 492 và số 497 là tư chứ không phải “tứ” như đã đọc sai ngót 70 năm nay, kể từ khi Tản Đà dịch bài thơ đó nhưng lại đọc tên của nó thành “Xuân tứ” và dịch thành “ý xuân” mà cho đăng trên báo Ngày Nay, số 78, ngày 26-9-1937. Không biết trước đó thế nào nhưng sau đó, đến năm 1946, Trúc Khê lại cho ra mắt quyển Lý Bạch trong đó ông cũng ghi tên bài thơ đang xét là “Xuân tứ” rồi cũng giảng là “ý xuân”. Còn ngày nay thì hình như mọi người đều mặc nhận rằng đó là một cách phiên và một cách dịch hoàn toàn đúng. Xuân tứ mà dịch thành “tứ xuân” hoặc “ý xuân” thì quá gọn và quá hay (!). Tiếc rằng cái sự gọn và cái sự hay lại chẳng phải là những yêu cầu đầu tiên của công việc dịch thuật: trước hết và trên hết vẫn phải là sự chính xác.
§ 1002. Kiến thức ngày nay, số 508, ngày 20-9-2004
ĐỘC GIẢ: Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, người ta thường dùng hai tiếng “Rừng Sác” để chỉ khu rừng ngập mặn Cần Giờ. Cả tên con đường cũng được đặt là “đường Rừng Sác”. Nhưng lại có một số người cho rằng phải viết thành “Rừng Sát” mới chính xác. Quyển Rừng ngập nước Việt Nam của Lâm Bỉnh Lợi và Nguyễn Văn Thôn xuất bản năm 1972 cũng ghi “Rừng Sát”.
Xin cho biết xem chữ đã nêu phải viết với -t cuối hay -c cuối mới đúng.
AN CHI: Không chỉ có Rừng ngập nước Việt Nam của Lâm Bỉnh Lợi và Nguyễn Văn Thôn mới viết chữ đang xét với -t cuối. Sổ tay thuật ngữ địa lí của Nguyễn Dược – Trung Hải (Nxb. Giáo dục, tái bản lần thứ năm, 2003) cũng viết như thế:
“Rừng sát: thuật ngữ được dùng ở miền Nam Việt Nam để chỉ loại rừng ngập mặn có các loại cây mọc sát mặt đất như sú, vẹt, đước, v.v..”.
Hai tác giả Nguyễn Dược và Trung Hải chỉ suy luận theo từ nguyên dân gian để lựa chọn cách viết của mình. Các vị này căn cứ vào chỗ các giống cây đã kể “mọc sát mặt đất” mà viết chữ đang xét thành “sát” mặc dù, thực ra, cây vẹt có thể cao đến 10m còn cây đước thì đến 15m. Định nghĩa của hai tác giả đó không đúng về chính tả và cả thực vật học. Còn có một cách giải thích khác, cũng theo từ nguyên dân gian, thay vì “cây mọc sát đất”, lại cho rằng vì tại khu rừng đó cây mọc san sát với nhau nên chữ đó phải được viết thành “sát”. Thực ra thì chỉ trừ rừng thưa, có loại rừng nào mà ở đó cây lại không mọc san sát! Lại còn có một cách giải thích cho rằng vì tại khu rừng đó ta đã giết được nhiều giặc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nên tên của nó phải được viết thành “Sát” (vì sát có nghĩa là giết)! Tiếc rằng cái tên “sác” đã xuất hiện muộn nhất cũng là từ năm 1773, trước khi cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra (1945) đến 172 năm (như sẽ nêu rõ ở phần sau) nên cái lý do trên đây chỉ là kết quả của một sự giả tưởng mà thôi.
Thực ra, ta có nhiều chứng cứ để khẳng định rằng “Sác” mới là cách viết đúng; chẳng những thế ta còn có điều kiện để đi lên đến tận nghĩa gốc của nó bằng những cứ liệu sau đây mà chúng tôi sẽ trình bày theo trình tự thời gian:
– Pigneaux de Béhaine 1773, Dictionarium Anamitico Latinum, bản viết tay: 数 Sác. Sylva palustris”.
– J. L. Taberd 1838, Dictionarium Anamitico Latinum, Serampore: 數 Sác. Silva palustris”.
– Huình-Tịnh Paulus Của 1896, Đại nam quấc âm tự vị, tập II, Sài Gòn:
“數 Sác. Rừng nước mặn (ở gần biển).
Rừng sác. id (= như trên – AC)
Cây sác. Cây nước mặn.
Mướp sác. Thứ trái cây rừng sác.”
– J. F. M. Génibrel 1898, Dictionnaire annamite – français, Saigon:
“數 Sác (= Tẩu), Forêt basse pleine de marécages. Lâm sác, id. Sơn lâm lộc sác, Lieu boisé et marécageux.”
và
“數 Tẩu (= Sác) Grand étang. Lạc.Marais couvert de plantes (…) Lâm tẩu, Forêts et marais.”
– Văn Tân (chủ biên) 1967, Từ điển tiếng Việt, Hà Nội:
“Sác. Loại cây mọc ở bãi nước mặn: Rừng sác ở bờ biển.”
– Lê Văn Đức 1970, Việt Nam tự điển, Sài Gòn:
“Rừng sác. Rừng toàn cây nước mặn như đước, dà, vẹt,… thường ở gần biển.”
và
“Sác. Giống cây mọc gần bờ biển có ngập nước mặn: Cây sác, rừng sác.”
–Nguyễn Văn Ái (chủ biên) 1994, Từ điển phương ngữ Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh:
“Sác. Loại cây rừng như vẹt, mọc ở bãi biển nước mặn. Rừng sác.”
Những quyển từ điển trên đây đều là từ điển ngôn ngữ nên về mặt chính tả phải đáng tin hơn là các quyển từ điển thuật ngữ. Huống chi từ điển thuật ngữ như của Nguyễn Dược -Trung Hải lại còn cho rằng cây vẹt và cây đước là những loại cây “mọc sát mặt đất”. Tất cả các quyển từ điển ngôn ngữ đó đều viết chữ mà quý vị muốn biết với -c cuối thành sác, sớm nhất là Pigneaux de Béhaine 1773. Tác giả này đã ghi nó bằng quốc ngữ là “sác” và bằng Nôm là 数. Chữ Nôm này là một biến thể của chữ 數 (như trong Taberd 1838) mà âm Hán Việt thông dụng là “số” nhưng cũng còn đọc là “sác” (với nghĩa khác). Người ta đã lấy âm sác của nó để ghi Nôm cái từ mà cả Pigneaux de Béhaine và Taberd đều ghi bằng chữ quốc ngữ là “sác”. Đến Huình-Tịnh Paulus Của 1896 và J. F. M. Génibrel 1898 thì chữ Nôm sác đã có thêm bộ thảo (đầu) 艹 mà viết thành 薮. Đây là một chữ hình thanh mà nghĩa phù là bộ thảo (đầu) còn thanh phù là sác 數, nên âm của nó tất nhiên cũng là sác. Và cả Génibrel lẫn Paulus Của cũng đều dùng chữ đó để ghi Nôm cái từ mà họ ghi bằng chữ quốc ngữ là “sác”.
Sự nhất quán về ngữ âm giữa lối ghi Nôm và lối ghi bằng quốc ngữ cho từ đang xét trong từng quyển từ điển cũng như sự nhất quán về lối ghi giữa các quyển từ điển trên đây chính là chỗ dựa chắc chắn để ta khẳng định rằng cái từ mà quý vị đã hỏi phải viết với -c cuối mới đúng vì phụ âm cuối của nó là [k]. Và thế là, như đã nói, cách đây 231 năm, từ sác đã có mặt trong từ vựng của tiếng Việt rồi nên cho dù nó có vốn được viết với -t cuối (thành “sát”) thì dĩ nhiên và cũng chẳng phải vì cái lý do “ta đã giết được nhiều giặc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ”!
Trở lên là nói về ngữ âm và chính tả; bây giờ xin bàn về nghĩa gốc của từ sác. Pigneaux de Béhaine 1773 và Taberd 1838 đều dịch sác là “sylva palustris” (Taberd viết “silva” nhưng cả hai cách viết này đều được chấp nhận), nghĩa là “rừng lầy lội”. Génibrel 1898 thì dịch là “forêt basse pleine de marécages”, nghĩa là “rừng thấp đầy đầm lầy”. Còn Huình-Tịnh Paulus Của 1896 thì giảng là “rừng nước mặn (ở gần biển)”. Tất cả đều có một nét nghĩa chung là “rừng ngập ngụa.” Đây chính là nghĩa gốc của từ sác trong phương ngữ Nam Bộ.
Về sau sác được ghép với rừng thành danh ngữ chính phụ rừng sác để chỉ vùng rừng ngập mặn ở Cần Giờ; rồi vì chỉ dùng riêng cho vùng rừng này nên nó có xu hướng được đặc xưng hoá thành danh từ riêng, viết hoa thành Rừng Sác để chỉ vùng rừng này. Ngoài ra, ta còn có kết hợp cây sác, là một danh ngữ chính phụ dùng để chỉ chung các loại cây mọc ở sác, nghĩa là ở vùng rừng ngập nước, đặc biệt là nước mặn. Vì không biết được nghĩa gốc của danh từ sác và của cả danh ngữ cây sác nên một vài tác giả mới cho rằng sác là tên một loài cây nước mặn, cũng như đước, sú, vẹt, v.v., là tên của những loài cây nước mặn khác. Chính vì không thấy được điều này nên Văn Tân 1967 mới giảng rằng sác là “loại cây mọc ở bãi nước mặn.”, còn Lê Văn Đức 1970 thì “giống cây mọc gần bờ biển có ngập nước mặn” và Nguyễn Văn Ái 1994 thì “loại cây rừng như vẹt, mọc ở bãi biển nước mặn.” Đây là một sự nhầm lẫn thô thiển mà người ta có thể tránh được nếu biết cách đây 231 năm đã có người ghi nhận cho ta rằng sác là tên của một loại rừng chứ không phải một loại cây.
Cuối cùng, xin nói về sự lẫn lộn của Génibrel 1898 qua hai mục “Sác (= Tẩu)” và “Tẩu (= Sác)” mà chúng tôi đã dẫn ra ở trên. Nếu để ý kỹ, ta sẽ thấy cả sác lẫn tẩu đều được ghi bằng chữ 薮.
Chữ này nếu đọc Nôm thì là sác mà đọc theo âm Hán Việt thì lại là tẩu và trong tiếng Hán thì tẩu đúng là “grand étang; lac; marais couvert de plantes” (ao to; hồ; đầm lầy cây cối mọc đầy), đúng như Génibrel đã ghi. Nhưng hai chữ mà Génibrel đọc thành “lâm sác” thì chính là lâm tẩu 林薮, nghĩa là “forêts et marais” (rừng và đầm lầy) còn bốn chữ mà Génibrel đọc thành “sơn lâm lộc sác” thì lại chính là sơn lâm lộc tẩu 山林簏薮,nghĩa là “lieu boisé et marécageux” (nơi cây cối rậm rạp và đầy sình lầy). Với tính cách là một âm Nôm, sác không thể kết hợp với lâm hoặc với lộc như Génibrel đã ghi. Có người lo rằng các trang web về lâm nghiệp chỉ ghi “Rừng Sát” nên phải gõ chữ đang xét với -t cuối thì mới tìm ra được kết quả. Nhưng ta không thể đổi rừng sác thành “rừng sát” chỉ vì cái sai về chính tả của một vài trang web. Ngược lại, chính những người làm lâm nghiệp phải theo đúng chính tả của tiếng Việt và có trách nhiệm “lèo lái” sao cho các trang web đó trở về với hình thức chính tả đúng là Rừng Sác.
§ 1003. Kiến thức ngày nay, số 509, ngày 1-10-2004
ĐỘC GIẢ: Xin phép nêu một vấn đề thư tịch nho nhỏ. Tại mục Chuyện Đông chuyện Tây, có lần khi nhắc đến công trình Cổ sử Việt Nam của học giả Đào Duy Anh, ông đã ghi trong ngoặc đơn là do nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, ấn hành năm 1955. Nhưng theo một tài liệu tôi mới đọc được thì lại không phải như thế. Trong “Thư mục tác phẩm Đào Duy Anh” do ông Tạ Trọng Hiệp soạn, đăng trên báo Đoàn Kết, số 6-1988, xuất bản tại Pháp, in lại trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển (Thừa Thiên – Huế), số 2 (45)-2004, tr. 89, 94, tôi chỉ thấy ghi như sau:
“1955. Cổ sử Việt Nam. Tác giả xuất bản”.
và, liền sau đó, là:
“1956. Cổ sử Việt Nam. Chuyên san của tập san Đại học Sư phạm, 1956 (“sơ bản có đính chính và bổ sung”).”
Liên quan đến công trình Cổ sử Việt Nam, ông Tạ Trọng Hiệp chỉ ghi nhận có thế. Vậy quyển Cổ sử Việt Nam do Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, ấn hành năm 1955 (mà ông An Chi đã nêu) là quyển nào nữa?
AN CHI: Xin thú thật với ông rằng quyển Cổ sử Việt Nam của Đào Duy Anh do “tác giả xuất bản” năm 1955 thì chúng tôi hoàn toàn không biết. Còn bản Cổ sử Việt Nam mà chúng tôi đã có trong tay ngót 50 năm nay thì lại ghi rõ ở bìa trước (bìa 1) như sau: “Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, 1955”; rồi chẳng những có ghi rõ địa chỉ và số điện thoại: “13, Đường Thành – Giây nói 213” mà còn có cả logo của nhà xuất bản nữa. Còn trang chót thì ghi nhận:
“Sách Cổ Sử Việt Nam của Đào Duy Anh, in xong ngày 5 tháng 4 năm 1955 tại nhà in Kiến-Thiết, 5 Đại lộ Hai Bà Trưng, Hà Nội”.
In xong ngày 5-4-1955 thì một tháng sau Cổ sử Việt Nam đã được Trần Đức Thảo giới thiệu trên tập san Đại học Sư phạm, số 1, tháng 5-1955, tr. 97 – 100, trong mục “Giới thiệu sách mới”. Sau đây là lời mở đầu của Trần Đức Thảo:
“Vấn đề nguồn gốc dân tộc là một vấn đề đặc biệt khó khăn: tài liệu thiếu sót, phần nào có thì cũng là rời rạc và mâu thuẫn, đại bộ phận lại là chuyện hoang đường. Nhờ công trình nghiên cứu kiên nhẫn và áp dụng thuyết kinh điển của Engels về xã hội nguyên thuỷ, giáo sư Đào Duy Anh đã tìm ra nhiều giải pháp mới mẻ, soi sáng vấn đề”. (tr. 97- 98)
Và lời kết luận:
“Nội dung thì phong phú và mới mẻ, chứng minh một quá trình đấu tranh tư tưởng gay go chống quan điểm lịch sử cũ. Tuy nhiên về phần hình thức và phương pháp nghiên cứu, cuốn sách này chưa thoát khỏi bị cái mà giới sử học tư sản gọi là “phương pháp phê phán”, tức là phê phán sử liệu một cách liên miên, có khi mất trọng tâm vấn đề. Nhưng điểm chính là những luận điệu xuyên tạc của những sử gia đế quốc đã được biện bác một cách xác đáng, những thành tích quan trọng như văn hoá đồ đồng của người Lạc Việt và cuộc kháng chiến thắng lợi chống quân Tần đã được chứng minh và đặt làm nguồn của tinh thần dân tộc Việt Nam”. (tr. 100)
Trong năm 1955, Cổ sử Việt Nam của Đào Duy Anh do Nxb. Xây dựng ấn hành (trở xuống xin gọi tắt là “bản XD”) là bản ra mắt đầu tiên.
Bây giờ xin nói về bản “Chuyên san của tập san Đại học Sư phạm 1956” (trở xuống xin gọi tắt là “bản SP”). Vậy bản SP là một bản như thế nào? Thưa đó cũng chính là bản XD. Tuy nhiên, bản SP lại chẳng phải là bản XD “có đính chính và bổ sung” rồi đưa đi xếp chữ lại để làm một tirage hoàn toàn mới. Không, hoàn toàn chẳng phải như thế. Bản SP chẳng qua là chính bản XD mà những cuốn (exemp laire) còn lại đã được “cải biên” ở cả bìa 1 lẫn bìa 4 bằng cách dán chồng lên một tờ nhãn khác (tờ ở bìa 1 có khổ 8cm ⨯ 11cm còn tờ ở bìa 4 thì 5,5cm ⨯ 11cm) cho bít hết những chi tiết liên quan đến Nhà xuất bản Xây dựng còn chính tờ nhãn đó thì mang mấy dòng chữ “Chuyên san Đại học Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội, 1956”.
Trở lên là chuyện ngoài bìa. Còn trong ruột thì thật ra cũng chỉ có 4 chỗ đính chính hoặc b ổ sung, và cũng chỉ bằng cách “dán chồng lên” mà thôi, chẳng hạn:
Tại trang 67, ta thấy có một mẩu đính chính khổ 9cm ⨯ 11,5cm mà góc trên bên trái được dán dính vào trang này. Với 11 dòng gồm 110 chữ, Đào Duy Anh nhận rằng, trong sơ bản, ông đã “dùng chữ không phân minh, không theo nghĩa chính xác của chữ Nhà nước” nên đã đề nghị sửa “Nhà nước” thành “nhà nước phôi thai” và sửa “Nhà nước Âu-Lạc” thành “nước Âu-lạc”.
Tại trang 79 thì 12 dòng cuối đã bị dán bít và thay vào đó là một tờ bổ sung dài đến 43 dòng (trang bình thường chỉ có 37 dòng) được dán chồng lên để nói rõ thêm về mối quan hệ giữa nghệ thuật sông Hoài (Trung Hoa) với nghệ thuật Đông Sơn (Việt Nam), v.v..
Tuy không nhiều nhưng những chỗ đính chính hoặc bổ sung đó rất hệ trọng vì nó giúp cho Đào Duy Anh diễn đạt được tư tưởng và quan điểm của mình một cách chính xác hơn, cụ thể hơn và cũng dứt khoát hơn.
Tóm lại, bản SP hoàn toàn không phải là một bản in mới vì chỉ là bản XD được “cải biên” bằng cách “dán chồng lên” ở một số chỗ, cả ngoài bìa lẫn trong ruột, mà thôi. Chính vì thế nên cả hai bản đều “in xong ngày 5 tháng 4 năm 1955 tại nhà in Kiến Thiết, 15 Đại lộ Hai Bà Trưng, Hà Nội.” Lý do của sự “cải biên” này có lẽ chẳng có liên quan gì đến chính trị hoặc kinh tế cả. Nó cũng giống như trường hợp quyển Vấn đề hình thành của dân tộc Việt Nam, cũng của Đào Duy Anh, và cũng do Nxb. Xây dựng ấn hành, mà ở trang chót ta thấy ghi:
“In lần thứ nhất 2000 cuốn giấy thường do Nhà xuất bản Xây dựng xuất bản và 50 bản bằng giấy Đạo-lâm làm bản chuyên san của Tập san Đại học (Văn khoa)”.
Cuối cùng, xin nói thêm rằng “Thư mục tác phẩm Đào Duy Anh” do Tạ Trọng Hiệp soạn còn thiếu hai tác phẩm sau đây:
– Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, in lần thứ hai, 1950 (cứ theo “Lời nói đầu” thì lần in thứ nhất có lẽ là vào năm 1946); và
– Lịch sử cách mệnh Việt Nam, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội, 1956.
§ 1004. Kiến thức ngày nay, số 509, ngày 1 -10-2004
ĐỘC GIẢ: Đất Nam Bộ có một địa danh nổi tiếng về sự bóc lột và sự áp bức tàn bạo của bọn cường hào cũng như về tinh thần đấu tranh bất khuất của giai cấp nông dân. Đó là “Nọc Nạn”, nằm trên tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Địa danh này đã đi vào văn học (“Máu thắm đồng Nọc Nạn”) nhưng khổ một nỗi tôi lại không biết hai tiếng đó có nghĩa là gì. Vậy xin nhờ ông An Chi giải đáp cho. Xin cám ơn.
AN CHI: Chúng tôi có hỏi ông Lê Văn Chánh (Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh) là người am hiểu và được vị này cho biết nếu viết thành “Nọc Nạn” thì chẳng có nghĩa gì cả. Tiếng thứ hai của địa danh này phải viết với -ng cuối thành “Nạng” thì cả hai tiếng Nọc Nạng mới có nghĩa. Nọc là cọc cắm để làm mốc hoặc để cấy còn nạng là thứ cọc dài có chạc hình chữ “Y” ở đầu trên mà người nông dân cắm xuống đất để treo một số vật dụng mang theo lúc đi làm. Cứ theo lời ông Lê Văn Chánh thì rõ ràng Nọc Nạng là một danh ngữ đẳng lập mà hai thành tố nọc và nạng đi chung với nhau một cách hài hoà (vì cùng một trường nghĩa) và hợp lý (vì diễn tả đúng công việc đồng áng). Vậy xin nêu lên để ông và bạn đọc tham khảo và xin trân trọng cám ơn ông Lê Văn Chánh.