Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 0994 - 998
§ 994. Kiến thức ngày nay, số 501, ngày 10-7-2004
ĐỘC GIẢ: Có ý kiến cho rằng Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng có mượn đạo để nói đời trong thơ của mình. Liệu có thể có chuyện như thế không?
AN CHI: Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là con trai cả của Trần Liễu, anh của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Cảm Hoàng hậu (huý là Thiều, vợ vua Trần Thánh Tông). Ông sinh năm 1230, mất năm 1291. Hưng Ninh Vương là tước do vua Trần Thái Tông ban cho ông vì cảm cái nghĩa của cha ông là An Sinh Vương Trần Liễu khi Trần Liễu qua đời.
Nói về thơ văn và con người của Tuệ Trung, Nguyễn Huệ Chi đã viết: “Tìm ra thơ văn của nhà sư uyên bác đồng thời là một võ tướng có nhiều công lao dẹp giặc này là một cống hiến vô cùng quí giá. Nó làm hiện diện trước chúng ta một nhân cách, một cá tính phong phú, trong cái thế giới thanh tịnh nói chung, cái thế giới tiêu diệt mọi “ngã kiến” của đạo Thiền. Ít nhiều, nhân cách đó giống như là một sự ngấm ngầm tuyên chiến của một con người khí phách ngang tàng đối với tất cả những gì đi ngược lại quy luật cuộc sống”.
Là thiền sư, Tuệ Trung là bậc thầy của phái Trúc Lâm đời Trần, là người mà “vua Dụ Lăng (tức Trần Thánh Tông – AC) mộ tiếng từ lâu nên sai sứ mời vào cửa khuyết. Phàm những lời hầu chuyện nhà vua đều là lời siêu tục, do đó vua suy tôn người là Sư huynh và ban cho tên hiệu hiện nay”. Còn chính Trần Nhân Tông thì đã nhận ông làm thầy. Nhà vua viết: “Một ngày kia, ta hỏi người về cái gốc của tôn chỉ Thiền. Thượng Sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy quan lại nhìn cái gốc của mình chứ không tìm đâu khác được.” Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo tôn người làm thầy”.
Là võ tướng, Hưng Ninh Vương Trần Tung đã “cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn hai vạn quân đến đón đánh, kịch chiến với tướng giặc là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt. Và trong cuộc kháng chiến (chống quân Nguyên – AC) lần thứ ba, ông còn được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, nhiều lần đến đồn trại giặc vờ ước hẹn trá hàng, làm cho quân giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến cướp doanh trại giặc.”
Tuy nhiên, người ta vẫn chưa rõ lý do vì sao sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi thì tên tuổi của ông lại hầu như không được nhắc đến. Đành rằng sau đó, theo Thượng Sĩ hành trạng của Trần Khâm, ông có nhận chức Tiết độ sứ, trông coi phủ Thái Bình nhưng chẳng được bao lâu ông lại lui về ấp Tịnh Bang để lập Dưỡng Chân trang mà theo đuổi nghiệp Thiền. Đây rõ ràng là một điều bí ẩn trong cuộc đời của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, và nguyên nhân đích thực của điều bí ẩn này có lẽ là động cơ – nghĩa là thi hứng! – khiến ông viết thêm nhiều bài thơ hoặc câu thơ đầy ẩn ý mà giọng điệu khi thì rất chua chát, lúc lại khá gay gắt. Với những giọng điệu đó và bên trong những ẩn ý đó, đã toát ra một tâm trạng bất mãn và cô đơn.
Vâng, ngay cả khi làm thơ về đạo, ông cũng dẫn dắt người đọc đến với những tứ thơ về sự cô đơn của chính mình.
Trời suông chỉ thấy vòng trăng lẻ
Đêm thu ngập bể Phật trong veo
(Trường không chí kiến cô luân nguyệt
Sát hải trừng trừng dạ mạn thu)
(Thị tu Tây phương bối)
Thậm chí có lúc người ta còn có thể có cái cảm tưởng là Tuệ Trung hình như chỉ mượn đạo để nói đời. Chứng thực là bài Phóng Tăng Điền đại sư (Thăm đại sư Tăng Điền) với hai câu cuối:
Sáng rạng nghìn non người thấy suốt
Rừng sâu vượn lẻ hú ai nghe
(Nhân gian tận kiến thiên sơn hiếu
Thuỳ thính cô viên đề xứ thâm)
Tại sao ông lại xa lánh chốn triều đình và nơi thị tứ? Có lẽ là vì người ta đã không thấy hết, nói đúng hơn, đã không chịu thấy, cái tài kinh bang tế thế, cái chí di sơn đảo hải của ông, nên đã không trao cho ông những trọng trách xứng đáng với tài đức, mà chỉ phân cho ông những công việc tầm thường, cho nên, ông mới sanh ra bất mãn. Sự bất mãn này đã phát lộ ra cả ngay khi ông làm thơ về Thiền:
Lò cả mà đúc chi dùi bỏ túi
Hổ khoẻ có sá gì con đói thịt
Thuyền tốt há lại ngại cơn sóng gió
Sắc thuần lẽ nào sợ màu tía hồng
(Hồng lô hề bất chú nang chuỳ
Mãnh hổ bất miết hề nhục ki (cơ)
Lương chu khởi ngại hề phong ba
Chính sắc hà phương hề hồng tử)
(Trừu thần ngâm)
Thế nhưng cuối cùng ông vẫn là một nhân cách cao thượng, có thể nói là siêu phàm nữa (vì quả trongcuộc đời thật thì hiếm có người như ông). Ông không tự cho phép mình thi thố tài năng và thực hiện ý chí mà làm tổn hại đến người khác, nhất là những người thấp cổ bé miệng. Ông không sa vào cảnh thấp hèn của biết bao nhiêu kẻ tham quyền cố vị, đã lôi bè kéo cánh để tranh giành ngôi thứ mà cái kết cục thường chỉ là “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Cho nên, ông đã tự nhủ:
Bủa rộng lưới mầu để bắt phượng hoàng
Chớ hứng chí dụ én, sẻ đồng mưu
Nay muốn buông câu nhữ giống kình nghê
Đừng làm luỵ đến họ hàng ếch nhái
(Quảng đại trương phượng hoàng diệu võng
Mạc phóng chí yến tước đồng mưu
Kim dục phao kình nghê điếu câu
Khước luỵ sầu hà mô đẳng loại)
(Trữ từ tự cánh văn)
Chính vì quan niệm như thế mà ông đã không tiếp tục hành động gì thêm về mặt đời, để chỉ tầm đạo. Mà về mặt đạo thì ông rõ ràng là một thiền sư siêu việt và độc đáo. Tiếc rằng do sự thiển cận và sự ích kỷ của triều đình – có lẽ là đúng như thế – mà ông đã không có điều kiện để cống hiến cho nước, cho đời theo đúng cái tài và cái chí của ông. Nếu lúc bấy giờ sự sáng suốt và lẽ công bằng đã ngự trị được nơi ngai vua và trong chốn triều đình, thì ngày nay hẳn chúng ta không những đã có một Tuệ Trung Thượng Sĩ uyên thâm về Thiền học, mà sẽ còn có thể có cả một Hưng Ninh Vương tài kinh bang tế thế lừng danh.
§ 995. Kiến thức ngày nay, số 502, ngày 20-7-2004
ĐỘC GIẢ: Chung quanh ba tiếng “toà thiên nhiên” trong câu Kiều thứ 1312, trên Kiến thức ngày nay, số 455, ông An Chi đã viết về cách hiểu của ông Nguyễn Khắc Bảo như sau:
“Chuyện” lướt phấn gièm son” – mà chúng tôi (An Chi) đã mạo muội đọc là “nhạt phấn nhàm son, – chỉ là chuyện dung nhan (nói rõ ra chỉ là chuyện mặt mũi) của tiểu thiền Thuý Kiều. Thế mà qua đó tác giả (Nguyễn Khắc Bảo) lại nhìn thấy được cả cái “toà thiên nhiên trong ngọc trắng ngà” của nàng thì đó quả là một cách nhìn hơi “xếch”, nghĩa là một cách nhìn không được thẳng.”
Sau đó, trong bài “Ai ngắm dung nhan tiểu thiền Thuý Kiều?” đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 10 (96)-2003, tác giả Nguyễn Khắc Bảo lại viết về An Chi như sau:
“Mập mờ đánh lận từ Bạc bà nhìn thành tác giả (Nguyễn Khắc Bảo) nhìn để chê rằng “cách nhìn hơi xếch” thì quả là công lao ảo thuật từ ngữ của An Chi, người đã từng bình giảng “con đen” trong Truyện Kiều là “con ngươi đen”, “con mắt đen”. (…) Chỉ có ông An Chi mới cố tình hiểu nhầm “toà thiên nhiên” là chỗ nào khác chăng nên mới có cách nhìn của mụ Bạc bà là hơi “xếch” (rồi lại gán cho là tác giả (Nguyễn Khắc Bảo) nhìn)”.
Xin ông vui lòng cho biết vậy thì, rốt cuộc, ai “xếch”, ai không “xếch”?
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 455, chúng tôi có viết rằng, đối với dung nhan của Kiều (trong câu 2089), ông Nguyễn Khắc Bảo đã có “một cách nhìn hơi “xếch”, nghĩa là một cách nhìn không được thẳng.” Chúng tôi đã cẩn thận giải thích rõ ràng “xếch” ở đây là “không được thẳng”. Ý của chúng tôi chẳng qua chỉ là muốn nói rằng ông Nguyễn Khắc Bảo đã có một cách hiểu hơi lệch… so với những gì mà các từ ngữ hữu quan có thể diễn đạt. Thế thôi. Còn việc kéo cái từ “xếch” của chúng tôi về phía từ “sex” thì lại thuộc về sự chơi chữ của bạn đọc Minh Nhựt (Thủ Thiêm, Thành phố Hồ Chí Minh) khi vị này viết trên Kiến thức ngày nay, số 459 về cách nhìn của ông Nguyễn Khắc Bảo:
“Xếch (sex) quá ấy đi chứ! Ai đời lại đòi thấy cả cái “toà thiên nhiên” của một vị tiểu ni sư bao giờ. Mang tội chết!”
Giấy trắng mực đen rành rành là như thế. Vậy riêng chữ “xếch” của chúng tôi trên Kiến thức ngày nay, số 455 tuyệt nhiên chẳng có liên quan gì đến chữ sex cả. Còn bây giờ thì chúng tôi xin phân tích để xem ai “xếch”, ai không “xếch”. Ta hãy đọc lại câu sau đây của ông Nguyễn Khắc Bảo:
“Chúng tôi nhận thấy “toà thiên nhiên” trong văn bản này (…), chỉ là cách ngắm nhìn hình dáng tổng quát bên ngoài, chỉ có ông An Chi mới cố tình hiểu nhầm “toà thiên nhiên” là chỗ nào khác chăng (Chúng tôi nhấn mạnh – AC)”.
Ông Nguyễn Khắc Bảo khéo nói thế. Thực ra khi An Chi nhắc đến “toà thiên nhiên” của Thuý Kiều thì tác giả này cũng đã công khai nói đến thân hình của nàng trong trạng thái hoàn toàn thoát y theo sự miêu tả của Nguyễn Du rồi chứ có giấu giếm gì ai đâu mà ông bảo “chỉ có ông An Chi mới cố tình hiểu nhầm “toà thiên nhiên” là chỗ nào khác chăng”. Thân thể người ta gồm có đầu, mình và tứ chi và nhiều thứ khác nữa chứ, cớ chi ông phải gợi ý “là chỗ nào khác chăng”. Đó là điểm “xếch” đầu tiên của ông Nguyễn Khắc Bảo.
Điểm “xếch” thứ hai của ông Nguyễn Khắc Bảo là cho đến khi viết bài đã dẫn trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 10-2003, ông vẫn chưa nắm vững được Nguyễn Du muốn chỉ cái gì với ba tiếng toà thiên nhiên.
Chính vì thế mà ông mới cố ý biện bạch rằng đó là “hình dạng tổng quát bên ngoài” (của Kiều). Nhưng chữ nghĩa đâu có đơn giản và thô thiển như thế vì nếu chỉ có vậy thôi thì chẳng bõ cái công của Nguyễn Du phải lao tâm khổ tứ tìm ra cái cách diễn đạt mang đầy sắc thái uyển dụ đến là khéo! Tuy nói xa nói gần bằng những lời lẽ khác nhau nhưng các nhà chú giải đều hiểu một cách thống nhất rằng toà thiên nhiên ở đây thực chất chính và chỉ là “toà” Thuý Kiều khoả thân trong cái buổi “thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa”, chứ không phải là gì khác. Mấy tiếng nhạt phấn nhàm son rõ ràng chỉ có thể dùng để tả dung nhan của Thuý Kiều mà thôi thì làm sao nhà bình giảng lại có thể liên hệ nó với toà thiên nhiên của Kiều được! Cứ hiểu theo kiểu của ông Nguyễn Khắc Bảo thì chẳng hoá ra mọi bức tranh chân dung đều là những bức tranh khoả thân hay sao? Đó là điểm “xếch” thứ hai.
Bây giờ xin nói về điểm “xếch” thứ ba. Ông Nguyễn Khắc Bảo viết:
“Chúng tôi nhận thấy “toà thiên nhiên” trong văn bản này cũng như “toà rộng dãy dài” hay “Toà cõi nam”, chỉ là cách ngắm nhìn hình dáng tổng quát bên ngoài (…)”.
Tội nghiệp cho Vương Thuý Kiều chỉ vì được trời phú cho cái “toà thiên nhiên trong ngọc trắng ngà” mà đã bị ông Nguyễn Khắc Bảo đem ra ví với những “toà rộng dãy dài” của nhà thiên quan trủng tể, rồi với cả “năm toà cõi Nam” mà Từ Hải đã đạp đổ nữa!
Ví ra như thế còn gì là duyên!
Kiều là một con người bằng xương bằng thịt có tâm hồn và ý thức chứ nào phải một vật vô tri vô giác làm bằng gạch bằng đá đâu mà ông Nguyễn Khắc Bảo lại ví như thế. Đó là điểm “xếch” thứ ba.
Còn điểm “xếch” thứ tư, ông Nguyễn Khắc Bảo viết:
“Mập mờ đánh lận từ Bạc bà nhìn thành tác giả nhìn để chê rằng “cách nhìn hơi xếch” thì quả là công lao ảo thuật từ ngữ của An Chi”.
Nói như ông Nguyễn Khắc Bảo thì chẳng hoá ra người bình văn hoàn toàn không có trách nhiệm gì với công việc mà mình làm hay sao? Nói như ông Nguyễn Khắc Bảo thì chẳng hoá ra người bình văn tuyệt đối không có bất cứ một ý kiến cá nhân nào trong khi bình hay sao? Còn nếu có nhưng ý kiến đó lại bị người khác bài bác thì người bình văn sẽ đem nó mà gán cho nhân vật? Ông Nguyễn Khắc Bảo đã quên mất cái điều căn bản cần phải thuộc là trong khi bình văn thì bất kể nhân vật có “nhìn” hay không “nhìn” hoặc có “nhìn” theo bất cứ kiểu nào thì cũng là “nhìn” hoặc “không nhìn” thông qua ngòi bút của chính người bình văn. Vì vậy, mà chúng tôi rất kinh ngạc khi đọc đến cái ý “Bạc bà nhìn chứ tác giả (Nguyễn Khắc Bảo) không nhìn”.
Nhưng cứ cho là tất cả đều tại mụ Bạc bà chứ nhà bình văn Nguyễn Khắc Bảo chẳng có trách nhiệm gì trong vụ này đi nữa thì làm sao chỉ nhờ có chuyện “lướt phấn gièm son” (theo cách đọc của ông Nguyễn Khắc Bảo) trên khuôn mặt của Kiều mà Bạc bà lại nhìn ra được cả cái toà thiên nhiên của nàng? Chẳng ly kỳ ư? Và chẳng phải ảo thuật thì là gì?
Ông hỏi ai “xếch”, ai không “xếch” thì chúng tôi đã trả lời rồi. Và xin lưu ý hai điều sau đây:
– Trong bài đã dẫn, ông Nguyễn Khắc Bảo có nhắc đến chuyện An Chi đã bình giảng con đen là “con ngươi đen”, “con mắt đen” để mặc nhận rằng đó là một cách giảng sai. Đúng, sai như thế nào thì chúng tôi đã trình bày rõ ràng trên Kiến thức ngày nay, các số 424, 426, 428, 431. Nếu không đọc kỹ những số Kiến thức ngày nay này mà chỉ thấy có câu “An Chi, người đã bình giảng con đen là con ngươi đen, con mắt đen” mà ông Nguyễn Khắc Bảo đã viết, người ta sẽ dễ có cái ấn tượng rằng cách giảng của An Chi chỉ là một cách giảng ngớ ngẩn.
– Trong mục Chuyện Đông chuyện Tây trên số 455, chúng tôi có vận dụng ý của câu 2079 để viết “liệu mà lánh xa tìm đường”. Ông Nguyễn Khắc Bảo đã ghi chú “(sic)” sau sáu chữ ấy khi trích lời của chúng tôi, ý rằng chúng tôi đã chép sai câu 2079. Vì thế nên ông đã cho cước chú số 3 ở cuối bài mà ghi: “Câu Kiều 2079 phải là: Lánh xa, trước liệu tìm đường”. Nhưng chúng tôi chỉ lấy ý chứ đâu có dẫn nguyên văn vì “Liệu mà lánh xa tìm đường” làm sao có thể là một câu 6 của thơ lục bát được: nó sai hẳn với luật thơ!
§ 996. Kiến thức ngày nay, số 503, ngày 1 -8-2004
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 488, ông An Chi cho rằng “câu tang bồng hồ thỉ không hề tồn tại trong tiếng Hán” vì “đó là một hình thức đã bị làm cho lệch lạc chứ dạng chính thức và chính xác thì lại là tang hồ bồng thỉ”. Do đó, theo ông An Chi, ta phải “nói lại cho đúng”. Nhưng trong bài “Lại bàn về câu thành ngữ tang bồng hồ thỉ”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (105)-2004, tác giả Thế Anh đã phân tích một số dẫn chứng để khẳng định: “Câu thành ngữ tang bồng hồ thỉ trong các tác phẩm thơ Nôm là một biến thể của câu tang hồ bồng thỉ của Trung Quốc và thực tế nó đã tồn tại song song, có giá trị sử dụng và ý nghĩa từ nguyên như câu tang hồ bồng thỉ, do đó không cần thiết phải “nói lại cho đúng” như ông An Chi đề xuất.”
Vậy xin ông An Chi cho biết thêm ý kiến.
AN CHI: Chúng tôi nghĩ vấn đề không đơn giản như tác giả Thế Anh đã khẳng định. Tác giả này viết:
“Quả thật trong sách vở Trung Hoa ta chỉ bắt gặp cấu trúc tang hồ bồng thỉ (cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng), nhưng không thể vì thế mà phủ nhận những biến thể khác có hình thức tương đương và có nghĩa từ nguyên như trong thành ngữ gốc của tiếng Hán. Bởi lẽ một số thành ngữ tiếng Hán khi du nhập vào Việt Nam đã được các nhà Nho cải biên chút ít và vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tập quán sử dụng của người Việt Nam chứ không nhất nhất phải theo đúng hoàn toàn như sách Trung Quốc. Chẳng hạn người Trung Quốc viết khai thiên tịch địa thì Việt Nam lại nói khai thiên lập địa hoặc tạo thiên lập địa, người Trung Quốc viết dĩ thực vi thiên thì Việt Nam lại nói dĩ thực vi tiên (nội dung có khác đi ít nhiều)”*.
Chúng tôi cho rằng tác giả Thế Anh chỉ đúng ở mấy điểm thứ yếu chứ về vấn đề cốt lõi đang bàn thì không. Hai câu khai thiên lập địa và tạo thiên lập địa hoàn toàn giống với câu khai thiên tịch địa về cấu trúc cú pháp và mô hình của thành ngữ gốc nên dĩ nhiên là chúng phải được chấp nhận. Đến như câu dĩ thực vi tiên thì không phải là “nội dung có khác đi ít nhiều” so với câu dĩ thực vi thiên. Cái khoảng cách ở đây rất lớn. Hình thức đầy đủ của câu gốc là dân dĩ thực vi thiên và đây là một câu kinh điển mà ta có thể thấy, chẳng hạn trong Hán thư, “Lịch Dị Cơ truyện”: Vương giả dĩ dân vi thiên, nhi dân dĩ thực vi thiên., nghĩa là “Vua chúa lấy dân làm trời mà dân thì lấy (cái) ăn làm trời.” Hàm nghĩa của câu đang xét là như thế nên muốn cho quốc thái dân an thì phải làm cho dân được no ấm, vì dân đói thì nước loạn. Cái triết lý của người thì cao sâu như thế mà sang đến ta thì chỉ còn là “dân lấy (cái) ăn làm đầu” (dân dĩ thực vi tiên) nên cái giá trị tư tưởng đã bị hạ thấp xuống nhiều nấc. Vậy tưởng không nên quá hoặc chỉ chú tâm vào “sự phù hợp với tập quán sử dụng của người Việt Nam” mà đành lòng phàm tục hoá những tư tưởng cao sâu.
Còn cái câu tang bồng hồ thỉ thì dứt khoát chỉ có thể là hậu quả của sự không biết, khá lắm cũng là của một sự hiểu biết không đầy đủ chứ không thể là kết quả của một sự cải biên có ý thức. Trên Kiến thức ngày nay, số 488, chúng tôi đã phân tích rất rõ nhưng tiếc rằng ông Thế Anh hoặc đã không đọc đến những chỗ đó hoặc tuy có đọc nhưng lại cố ý bỏ qua. Vì vậy nên chúng tôi xin mạn phép dẫn lại cho rõ ràng để bạn đọc khác cũng tiện tham khảo.
“Trở lại với câu tang bồng hồ thỉ (cung tên bằng gỗ dâu cỏ bồng), ta thấy đây là một cách diễn đạt nhập nhằng không thể chấp nhận được. Mà chẳng riêng gì tiếng Hán, tiếng Việt cũng không thể chấp nhận kiểu diễn đạt như thế. Ta cứ tưởng tượng xem những câu như: nem công chả phượng, dây mơ rễ má, đầu voi đuôi chuột, v.v. mà lại bị đổi thành *nem chả công phượng, *dây rễ mơ má, *đầu đuôi voi chuột, v.v. thì ai mà hiểu cho được. Nếu mấy câu *nem chả công phượng, *dây rễ mơ má, *đầu đuôi voi chuột, v.v., gây sốc cho cái tai nghe và cái óc hiểu của người Việt như thế nào thì câu *tang bồng hồ thỉ cũng gây khó chịu cho người Trung Quốc như thế ấy. Tiếng Hán sẽ không bao giờ chấp nhận những câu như kim qua thiết mã (qua vàng ngựa sắt – chỉ chiến tranh), kê bì hạc phát (da gà tóc hạc – chỉ tuổi già), ngọc diệp kim chi (lá ngọc cành vàng), v.v., mà lại bị đổi thành *kim thiết qua mã, *kê hạc bì phát, *ngọc kim diệp chi, v.v.. Do đó tang hồ bồng thỉ mà nói thành *tang bồng hồ thỉ là chuyện không bao giờ xảy ra (trong tiếng Hán)”*.
Theo chúng tôi, chỉ có những người “vô cảm” với tiếng Hán mới chịu chấp nhận cái kiểu nói nhập nhằng đó mà thôi. Cũng như chỉ có những người Việt “vô cảm” mới có thể hoàn toàn dửng dưng trước những *nem chả công phượng, *dây rễ mơ má, *đầu đuôi voi chuột v.v., chứ người biết tiếng Việt thì hẳn sẽ cảm thấy rất “vui” trước những câu “cải biên” ngô nghê và ngộ nghĩnh đến như thế. Nếu có ai đó cắc cớ trộn lẫn nắng với mưa rồi cả lửa với dầu mà cải biên câu nắng lửa mưa dầu thành *nắng mưa dầu lửa thì ai còn biết người đó muốn nói cái gì nữa…! Và nếu có ai đó cắc cớ “cải biên chút ít” cái cấu trúc hiện đại quần jeans áo pull thành *quần áo jeans pull thì ngay những thanh niên sính hàng hiệu đến đâu cũng phải chào thua trước một lối nói vô nghĩa đến như thế.
Ông Thế Anh lập luận rằng “một số thành ngữ tiếng Hán khi du nhập vào Việt Nam đã được các nhà Nho cải biên chút ít và vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tập quán sử dụng của người Việt Nam.” Nhưng sự “cải biên” và sự “vận dụng”, nếu có, cũng không thể sai mốt lạc điệu được mà phải theo đúng các mô hình sẵn có của thành ngữ. Câu tang hồ bồng thỉ, như đã nói, là một thành ngữ được tạo theo mô hình:
trong đó A1 (tang) là danh từ định ngữ và B1 (hồ) là danh từ bị định ngữ của danh ngữ thứ nhất (DN1) còn A2 (bồng) là danh từ định ngữ và B2 (thỉ) là danh từ bị định ngữ của danh ngữ thứ hai (DN2). Đối với thành ngữ này ta chỉ có thể “cải biên” bằng cách thay thế các thành tố của nó bằng những danh từ khác đồng nghĩa hoặc cận nghĩa mà thôi, chẳng hạn như thay hồ bằng cung (cũng có nghĩa là… cung nhưng thông dụng và dễ hiểu hơn) và thay thỉ bằng tiễn (cũng có nghĩa là tên nhưng quen thuộc hơn). Vậy ta sẽ có:
tang cung bồng tiễn
(nhưng cấu trúc này đã không bao giờ trở thành thực tiễn). Ngoài ra, ta tuyệt đối không thể thay đổi cái cấu trúc cú pháp của mô hình thể hiện ở thứ tự của các thành tố như đã trình bày trong sơ đồ bên trên. Vì vậy nên một sự “di dời” thành
sẽ là một điều cấm kỵ tuyệt đối vì nó chỉ tạo ra những “quái ngữ” như *nắng mưa dầu lửa hoặc *quần áo jeans pull, v.v., mà thôi.
Khi thực sự cần thiết thì mô hình trên đây có thể được rút gọn bằng một trong hai cách:
A1 – B1: tang bồng;
A2 – B2: hồ thỉ.
Vì đây là hai thao tác được phép nên ta mới có các danh ngữ đẳng lập tang bồng và hồ thỉ mà cả hai đều mang cái hàm nghĩa chung của cả câu thành ngữ. Trong hai danh ngữ này thì tang bồng thông dụng hơn hồ thỉ rất nhiều nên trở thành quen thuộc hơn và chính vì bị cái danh ngữ đó ám ảnh nên nhiều người, nhất là người thời nay, mới “trám” nó vào chỗ của DN1 mà biến câu tang hồ bồng thỉ thành tang bồng hồ thỉ. Sự thể thực tế chỉ là như thế chứ ở đây chẳng có “cải biên” gì hết, dù chỉ là “cải biên chút ít”! Khi nhà Nho Nguyễn Công Trứ muốn viết “Tang X X thỉ nam nhi trái” thì chính ông ta phải biết là mình đang dùng một câu tiếng Hán 100%, mà đã như thế thì chỉ có thể có câu:
Tang hồ bồng thỉ nam nhi trái
trong thơ văn Nguyễn Công Trứ chứ làm sao mà lại có thể là
*Tang bồng hồ thỉ (…) cho được?
Còn nếu cứ cương quyết bảo rằng chính Nguyễn Công Trứ đã viết “Tang bồng hồ thỉ (…)” thì, tiếc thay, ta lại chẳng có mảy may bút tích gì của Uy Viễn tướng công để mà làm bằng chứng. Bởi thế nên “nói lại cho đúng”(= cải chính – chứ không phải đề nghị mọi người đều nói lại cho đúng!) vẫn cứ là một việc cần phải làm.
§ 997. Kiến thức ngày nay, số 504, ngày 10-8-2004
ĐỘC GIẢ: Trên Xưa & Nay, số 214, tác giả Trần Đình Sơn có bài “Duyên nợ văn chương” qua đó tác giả đã bày tỏ nỗi băn khoăn về cách đọc bài thơ Nôm “Tam Thai đồ” trên một chiếc dĩa trà cổ mà chính ông đã đọc như sau:
Tạo hoá khéo đúc hình
Non nước song thanh ai
Đượm đỉnh ngao dữ đáy
Ngạc một thức xanh xanh
Tuy đọc như trên nhưng ông Trần Đình Sơn vẫn không vừa ý. Trong lần sang Pháp đầu năm 2004, ông có nhờ một chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy Hán Nôm ở Paris là ông Lê Sơn Thanh đọc giùm thì kết quả cũng không khác. Ông Lê Sơn Thanh cho rằng “bài thơ Nôm này có thể chứa đựng nhiều bí ẩn”. Ông Thanh đã gởi nó cho GS. Nguyễn Tài Cẩn (lúc đó đang ở Moskva) để tham khảo ý kiến. Ban đầu ông Cẩn đọc là:
Tạo hoá khéo đúc hình
Hình non nước song thanh
Ai đạm đỉnh ngao dữ
Đáy ngác một thức xanh
Nhưng rồi vì thấy xưa ít nhảy qua hàng và đọc thế này thì đang còn một chữ “xanh” chưa dùng mà còn lặp một chữ “hình” hơi cá biệt nên ông Cẩn đã đọc lại thành thơ thất ngôn:
Xanh xanh tạo hoá khéo đúc hình
Khéo đúc hình non nước song thanh
Non nước song thanh ai đạm đỉnh (?)
Ngao cùng đáy ngác một thức xanh
Xin đề nghị ông An Chi cho nhận xét về cách đọc trên đây và cho biết cách đọc của mình.
AN CHI: Trước hết, xin căn cứ vào bức ảnh in trên Xưa & Nay, số 214 để ghi lại bài thơ “Tam Thanh đồ” cho bạn đọc tiện theo dõi (xin in lại theo hàng ngang từ trái sang phải cho tiện trình bày):
Ông Lê Sơn Thanh cho rằng “bài thơ Nôm này có thể chứa đựng nhiều bí ẩn” còn chúng tôi lại nghĩ nếu có thì điều bí ẩn đó chỉ đơn giản là ở chỗ nó có một số chữ mà ta chưa giải mã được chứ chẳng có một thứ bí ẩn nào khác.
Về cách đọc theo kiểu hồi văn của Nguyễn Tài Cẩn thành thơ thất ngôn thì chúng tôi thấy nguyên tắc đọc không nhất quán. Vì sao ở câu 2, ông lấy lại 3 tiếng cuối của câu 1 (Khéo đúc hình) mà ở câu 3 ông lại lấy đến 4 tiếng cuối của câu 2 (non nước song thanh), rồi ở câu 4 thì ông lại chẳng lấy tiếng nào của câu 3. Đọc hồi văn mà không theo một nguyên tắc nhất quán thì rõ ràng là khó xuôi. Dù có “hồi” theo cách nào thì từng cách “hồi” cũng phải nhất quán cho tất cả các câu của cả bài.
Trở lên là nói về nguyên tắc đọc. Còn về từ ngữ, chữ dữ có tám nét mà đọc thành “cùng” thì vô lý vì tự dạng của “cùng” là 共 chỉ có sáu nét. Ngoài ra, có vẻ như Nguyễn Tài Cẩn chỉ quan tâm đến âm mà quên mất nghĩa, ít ra cũng là căn cứ theo lời kể của tác giả Trần Đình Sơn. Chỉ thấy ông nhận xét có một lần rằng “đạm đỉnh” (lần trước ông viết “đạm đĩnh”) có thể là một từ láy cổ nay đã mất.
Về phần mình, chúng tôi cho rằng “Tam Thái đồ” là một bài thơ viết bằng tiếng Việt miền Nam và đây chỉ đơn giản là một bài ngũ ngôn tứ tuyệt thông thường chứ không phải hồi văn nên xin đọc như sau:
Tạo hoá khéo đúc hình
Non Nước sông thanh ấy
Dằm đỉnh nhào giữa đáy
Ngát một thức xanh xanh.
Dưới đây là cách hiểu của chúng tôi về một số từ, ngữ, rồi sau đó là về từng câu của bài thơ.
– Non Nước: Đây không phải là một danh ngữ gồm hai từ đẳng lập kiểu nước non, non sông, đất nước, v.v.. Ở đây, Nước là tên núi và non Nước (= núi Nước) là hình thức diễn Nôm của hai tiếng Thuỷ sơn, là tên mà vua Minh Mạng đã đặt cho núi Tam Thai theo sắc ban năm thứ 18*. Vậy cấu trúc cú pháp của non Nước cũng giống hệt như của non Bồng trong non Bồng nước Nhược.
– Sông thanh: Thanh là trong, chẳng hạn trong trời thanh, trăng thanh. Sông thanh là sông trong và đây chính là con sông cái uốn lượn ở phía Tây của non Nước, tức núi Tam Thai, như đã ghi nhận trong Đại Nam nhất thống chí (đã dẫn, tr. 342). Vì vậy mà sông thanh đi chung với non Nước trong câu 2 là một điều hoàn toàn dễ hiểu vì nó miêu tả rất đúng cái địa thế tổng quát của núi sông ở đây.
Chú ý: Chúng tôi đã không đọc thành “non nước song thanh” nên tất nhiên không hiểu rằng đây là “cả non lẫn nước đều thanh”.
– Dằm: Chữ đạm đọc Nôm thành dặm là chuyện bình thường; nhích thêm một chút nữa thành dằm thì cũng chẳng có gì là không bình thường. Nhưng dằm là gì? Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng: “Dằm: Dấu in xuống, ấn xuống. Dằm ghe: Lằn ghe đẩy qua bùn hoặc là đường nó tách dưới nước, lấy bề trường nó mà kể. Rắn đi còn dằm: Lằn nó bò hãy còn lại, chỉ nghĩa không mất dấu tích.” Vậy dằm đỉnh là gì? Là cái dấu, cái vết, nghĩa là cái bóng của đỉnh núi soi xuống dòng sông.
– Nhào: Chữ ngao đọc Nôm thành nhào là chuyện bình thường và ở đây ta không nên lệ thuộc vào nghĩa phù ngư 魚 của nó mà đi sai hướng chỉ vì muốn thấy ở đây tên của một loài cá. Ta đã có quá nhiều tiền lệ mà nghĩa phù thực tế chẳng có ý nghĩa gì, trong các trường hợp được xét. Nhưng nhào là gì? Là ngã chúi đầu xuống phía dưới. Dằm đỉnh nhào là bóng đỉnh núi chúi xuống phía dưới và đây là một hình ảnh rất thực tế vì bóng núi soi xuống nước thì làm sao mà “chỏng đầu” lên cho được. Nhưng ở đây thì bóng đỉnh núi chúi xuống đâu? Thưa rằng: chúi xuống ở giữa đáy, nghĩa là ở giữa lòng sông như sẽ phân tích ngay dưới đây.
– Giữa: Dữ dùng để ghi giữa là chuyện hoàn toàn bình thường vì ở trong Nam không phân biệt d- và gi- còn -ư ~ -ưa là chuyện phổ biến. Vậy giữa đáy là một ngữ giới từ dùng để chỉ cái nơi mà bóng của đỉnh núi chúi xuống như đã nói ở trên.
– Ngát: Chữ ngạc đã được Nguyễn Tài Cẩn đọc Nôm thành ngác mà ở trong Nam thì dùng ngác để ghi ngát là chuyện hoàn toàn bình thường. Vậy ngát là gì? Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên giảng: “Ngát (…) 2. (Màu sắc, thường là xanh, tím) tươi và dịu mát, trải ra rộng khắp. Xanh ngát rừng dừa (…) Ngát một màu xanh”.
Cái thí dụ sau cùng của quyển từ điển có khác gì với câu cuối của bài thơ:
Ngát một thức xanh xanh,
biết rằng thức chính là “màu”.
Tổng hợp lại, ta có thể hiểu toàn bài thơ như sau:
1. Tạo hoá khéo đúc hình
2. Đó là hình của non (= núi) Nước (tức núi Tam Thai) và dòng sông trong lượn quanh (ở phía Tây của nó)
3. Trong hình đó ta thấy bóng đỉnh núi chúi xuống giữa đáy (= lòng) sông
4. Tất cả tạo thành một màu xanh trải ra rộng khắp.
Rõ ràng đây là một bài thơ được cấu tứ rất chặt chẽ còn nó có hay hay không thì lại là một chuyện khác. Xin mạo muội trình bày cách đọc và cách hiểu của chúng tôi như trên để ông và bạn đọc tham khảo. Còn đúng sai thế nào thì xin chờ ở sự chỉ giáo của các nhà chuyên môn.
§ 998. Kiến thức ngày nay, số 505, ngày 20-8-2004
ĐỘC GIẢ: Câu “da ngựa bọc thây” bắt nguồn từ đâu?
AN CHI: Trong bài “Da ngựa bọc thây”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (105)-2004, tác giả Dương Xuân Đống có giải thích như sau:
“(…) Cụm từ trên (da ngựa bọc thây – AC) được dịch từ một cụm từ tiếng Hán: mã cách lí thi (马革裹尸) – mã cách: da ngựa; lí thi: bọc thây – vốn ở trong câu nói nổi tiếng của Mã Viện, một danh tướng thời Đông Hán: “Kẻ đại trượng phu nên chết ở nơi chiến trường, lấy da ngựa bọc thây”.
“Thời cổ đại Trung Quốc, ở chiến trường, do đi lại khó khăn, quan tài không đem theo được, khi người chỉ huy quân sự tử trận, binh lính dưới quyền giết ngay con ngựa chiến của người ấy, lấy da bọc thi hài đem chôn. Sự việc trên dẫn đến một điều đáng chú ý là cặp từ mã cách, được dịch thành da ngựa. Điều đó rất chính xác. Nhưng lại phải thấy rằng, để chỉ da, tiếng Hán có nhiều từ, trong đó có hai từ bì (皮)và cách. Bì là da thú còn có lông. Cách là da thú đã thuộc, sạch hết lông, thành nguyên liệu để chế tác đồ vật, chẳng hạn như yên ngựa, áo giáp, tấm lá chắn… trong chiến trận. Ở chiến trường, da lột từ xác ngựa, bọc thi hài người chỉ huy quân sự tử trận, làm sao có thể thành ngay da thuộc để gọi là cách. Đúng ra chỉ nên gọi là bì. Vì thế, cụm từ tiếng Hán ở trên nên đổi thành mã bì lí thi (马皮裹尸). Truyện Mã Viện, quyển 54 của sách Hậu Hán Thư, do tác giả Phạm Việp viết vào khoảng 424 – 425 mà Mã Viện chết năm 49. Câu nói của ông ta được sử sách ghi lại như vậy, tính theo thời gian cũng chừng độ 400 năm. Việc thu thập tư liệu trước một quá khứ “lùi xa” như thế, làm sao tránh khỏi tình trạng tam sao thất bản”*.
Thế là tác giả Dương Xuân Đống đã trình bày cho ta khá chi tiết về xuất xứ của câu da ngựa bọc thây. Tuy nhiên ở đây có hai điểm cần xem lại.
Điểm thứ nhất là Dương Xuân Đống đã đọc sai mã cách quả thi thành “mã cách lý thi”. Tác giả đã nhầm chữ quả 裹 thành chữ lý 裏. Quả mới là gói, bọc – vì vậy nên quả thi mới là bọc thây – chứ lý thì lại không có cái nghĩa này.
Rất có thể là tác giả sẽ biện bạch rằng mình đã tham khảo ở sách khác, chẳng hạn Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh. Quả nhiên, trong quyển từ điển của mình, Đào Duy Anh đã ghi: “Mã cách lý thi (…) Da ngựa bọc lấy thây (…)”. Nhưng Đào Duy Anh chỉ ghi sai từ (“lý” thay vì quả) chứ ông vẫn đọc đúng mặt chữ vì chữ của ông là 裏, đúng âm là lý. Còn Dương Xuân Đống thì viết đúng chữ quả 裹 nhưng lại cho rằng đó là “lý” nên mới sai về cách đọc.
Sở dĩ tác giả Dương Xuân Đống nhầm lẫn như trên là vì tự dạng của hai chữ đang xét na ná nhau. Cả hai đều là những hình thanh tự thuộc bộ y 衣 và chỉ hơn kém nhau có một nét. Chữ lý 裏 có 13 nét và có thanh phù là lý 里 còn chữ quả 裹 có 14 nét và có thanh phù là quả 果. Đào Duy Anh đã đọc cái chữ 14 nét đó là loã.
Nguyễn Quốc Hùng thì đọc là khoả tại mục chính, nhưng tại mục “mã cách loã thi” thì lại đọc là loã (Xin xem Hán – Việt tân từ điển, mục “khoả” và mục “mã”). Còn Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán của Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (Nxb. Văn hoá, 1994) thì đọc là quả (Xin xem mục “mã cách quả thi”). Trong Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993), Lê Huy Tiêu cũng đọc là quả (Xin xem câu 195).
Quả mới đúng là âm chính thống của chữ đang xét vì thiết âm của nó là “cổ hoả thiết, âm quả (Xin xem Khang Hy tự điển, chẳng hạn). Nó còn có một âm nữa là quá vì còn có thiết âm là “cổ ngoạ thiết, âm quá”, theo Tập vận mà Khang Hy tự điển cũng đã dẫn. Vậy dạng chính xác của câu thành ngữ đang xét là mã cách quả (hoặc quá) thi chứ không phải “mã cách lý thi”.
Điểm thiếu chính xác thứ hai là tác giả đòi sửa chữ cách trong câu thành ngữ đang xét thành chữ bì 皮, viện lẽ rằng bì là da còn lông chứ cách thì là da đã thuộc (sạch hết lông) mà đã ở chiến trường thì làm sao thuộc được! Có lẽ vì chỉ tra cứu ở những quyển từ điển thông thường (chẳng hạn Khang Hy tự điển, Từ nguyên, Từ hải, v.v.) nên tác giả mới không thấy được rằng chữ cách còn có một cái nghĩa rất cổ là da có lông, và da nói chung nữa.
Cổ đại Hán ngữ từ điển của Cổ đại Hán ngữ từ điển biên tả tổ (Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, in lần thứ hai, 1998), tại nghĩa 1. đã giảng cách là: “Khử mao đích thú bì (…) Hựu chỉ bì phu” (tr. 460), nghĩa là “Da thú đã cạo lông (…) Cũng chỉ da nói chung.” Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển (Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, in lần thứ ba, 2002) cũng giảng tại nghĩa 1: “Khử mao tịnh kinh qua gia công đích thú bì (…) Hựu chì bì”. (tr. 1625), nghĩa là “Da thú đã cạo lông và đã được gia công (…) Cũng chỉ da (nói chung)”. Chính vì chữ cách có các nghĩa như thế cho nên Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur mới giảng là: “Peau donton a enlevé le poil (…) Peau de l’homme ou des animaux” (p. 1002), nghĩa là “Da đã cạo bỏ lớp lông (…) Da người hoặc da thú vật”.
Vấn đề thế là đã rõ ràng. Vậy tưởng ta cứ nên bằng lòng với câu thành ngữ mã cách quả thi vốn có chứ không nên chỉ vì một sự vội vàng mà đòi đổi nó thành “mã bì lí thi”.
Một điểm nữa cũng cần nói rõ thêm là đây không phải chỉ là chuyện “giết ngay con ngựa chiến của người ấy, lấy da bọc thi hài đem chôn.” Theo một số nguồn thư tịch khác thì người ta lấy da con ngựa chiến của vị tướng để bọc thây của ông ta mà đem về quê hương của ông ta để chôn. Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc do Lê Huy Tiêu biên dịch (đã dẫn) chép lời của Mã Viện như sau:
“Bây giờ ngoại tộc đang liên tiếp xâm phạm bờ cõi nước ta, làm thân trai nên chết ở chiến trường, dùng da ngựa bọc thân đưa về quê nhà mai táng, thế thì làm sao lại có thể nằm trên giường chết ở bên vợ con”. (câu 195, tr. 62)
Chính vì vậy nên Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, in lần thứ hai, 1997) mới chép (lời của Mã Viện):
“Nam nhi yếu đáng tử vu biên dã, dĩ mã cách quả thi hoàn táng (AC nhấn mạnh) nhĩ, hà năng ngoạ sàng thượng tại nhi nữ tử thủ trung da?”. (tr. 499)
Còn Hán ngữ điển cố từ điển (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, 1998) cũng chép:
“Nam nhi yếu đáng chiến tử cương trường, dụng chiến mã đích bì cách quả trước thi thể hồi lai mai táng (AC nhấn mạnh)”. (tr. 32 – 33)
Chính vì thế nên, cũng theo quyển từ điển trên, ngoài câu mã cách quả thi ta còn có các câu mã cách hoàn (về trong da ngựa) và mã cách tử (chết (bọc trong) da ngựa).