Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 0987 - 993
§ 987. Kiến thức ngày nay, số 497, ngày 1 -6-2004
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Tìm hiểu bài thơ Giang bạn độc bộ tầm hoa của Đỗ Phủ” đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 1 (62)-2004, khi bình về ý câu thứ 4 (Tự tại kiều oanh kháp kháp đề), tác giả Đặng Văn Lộc có viết:
“Cảnh tươi đẹp của ngàn vạn đoá hoa, tiếng hót thánh thót của chim kiều oanh đã như là được “chạm tay” để trái tim thơ hơn một lần được xao xuyến”*.
Ở một đoạn sau, tác giả viết tiếp:
“Đọc tiếp câu luận và câu kết với cảnh đàn bướm say vẻ đẹp mà cứ nửa ở, nửa đi, bồi hồi lưu luyến, rồi tiếng chim kiều oanh thảnh thơi “ca hát”, thì hoa cũng làm ta lưu luyến bồi hồi (…) “Tự tại kiều oanh kháp kháp đề” là chim kiều oanh thảnh thơi hót tiếng của mình (kháp kháp đề). Có bản dịch đã chuyển “tự tại” thành “ung dung”, “thoả thích”, thật vô tình chúng ta đã nhân cách hoá kiều oanh xinh đẹp thành bậc tiên phong đạo cốt”.
Sở dĩ tôi phải trích dẫn hơi dài dòng như trên là vì trong một văn cảnh chỉ có 125 tiếng (âm tiết) mà tác giả đã dùng hai tiếng “kiều oanh” đều bốn lần. Xin cho biết “kiều oanh” có phải là tên một loài chim không. Có phải người ta vẫn dịch từ “oanh” sang tiếng Pháp là loriot và tiếngAnh là oriole không? Hai từ này của tiếng Pháp và tiếng Anh có quan hệ bà con gì với nhau? Nếu có thì tại sao tiếng Pháp có l- ở đầu còn tiếng Anh thì không và tại sao âm cuối của hai từ đó cũng không giống nhau?
AN CHI: Chắc ông cũng đã sẵn sàng đồng ý với chúng tôi rằng, cả trong Hán ngữ lẫn trong thiên nhiên Trung Hoa, không có giống chim nào tên là kiều oanh 嬌 鶯 cả. Kiều ở đây không phải là một định ngữ hạn định (restrictive adjunct) đi chung với oanh thành danh ngữ kiều oanh để chỉ tên của một giống chim. Đó chỉ là một định ngữ miêu tả (descriptive adjunct) giống hệt như chữ hí trong danh ngữ hí điệp ở câu thơ trên:
Lưu liên hí điệp thời thời vũ
Tự tại kiều oanh kháp kháp đề.
Hí điệp là “những con bướm tinh nghịch” còn kiều oanh chẳng qua cũng chỉ là “những con (chim) oanh xinh xắn” mà thôi. Xét về cả từ ngữ lẫn “vật thực” thì đây cũng chỉ là những con chim cùng một giống nòi với “con oanh (học nói trên cành mỉa mai)” trong Truyện Kiều chứ không phải là một giống chim nào khác. Và đây cũng là những con chim cùng một giống với những con “đề oanh” trong bài “Thính oanh khúc” của Vi Ứng Vật đời Đường và con “lưu oanh” trong bài “Lưu oanh” của Lý Thương Ẩn, cũng đời Đường. Đề oanh là “những con chim oanh (đang) hót” còn lưu oanh là (hình ảnh) “con chim oanh lưu lạc” mà Lý Thương Ẩn đã dùng để ám chỉ… chính mình.
Vậy nếu ta thừa nhận rằng kiều oanh là tên của một giống chim thì ta cũng phải theo đó mà nói rằng “đề oanh” và “lưu oanh” cũng là tên của hai giống chim khác nữa! Rõ ràng là ta không thể diễn đạt như tác giả Đặng Văn Lộc mà nói “tiếng chim kiều oanh thảnh thơi ca hát”, nhất là lại càng không thể nói “kiều oanh xinh đẹp”. Kiều đã là xinh đẹp rồi cho nên “kiều oanh xinh đẹp” là một trùng ngữ (pleonasm) không thể chấp nhận được, nhất là khi bình giảng Hán văn.
Tóm lại, kiều oanh không phải là tên của một giống chim vì danh ngữ này chỉ có nghĩa là “(chim) oanh xinh đẹp” mà thôi. Tuy vẫn có người dịch oanh sang tiếng Pháp thành loriot hoặc sang tiếng Anh thành oriole nhưng trong trường hợp này thì tiếng Hán và tiếng Pháp (hoặc tiếng Anh) lại không chỉ một giống chim đồng nhất. Cũng chính vì một sự khác biệt như thế mà Mathews’ Chinese – English Dictionary mới dịch oanh là “the Chinese oriole” (Xin xem chữ 7472) chứ không dịch thẳng thành “oriole”. Còn A New English – Chinese Dictionary do Zheng Yili (Trịnh Dịch Lý) và Cao Chengxiu (Tào Thành Tu) nguyên biên (The Commercial Press, Beijing, 1996) cũng vì thế mà dịch oriole là “(Âu châu) kim oanh” chứ không dịch thẳng là “oanh”.
Tiếng Anh oriole bắt nguồn từ tiếng Pháp cổ oriol còn oriol của tiếng Pháp thì bắt nguồn từ tính từ La Tinh aureolus, hình thái giảm thiểu (diminutive) của tính từ aureus, cả hai đều có nghĩa là bằng vàng, mạ vàng, có màu giống như màu của vàng. Aureolus chính là nguyên từ (etymon) của danh từ oriol trong tiếng Pháp cổ. Đây là một danh từ; nếu đi chung với quán từ xác định thì thành l’oriol (l’ là quán từ ríu (article élidé)) nhưng về sau người ta không ngờ rằng trong l’oriol đã có quán từ l’ nên mới cho rằng loriot là một danh từ “nguyên khối”. Trường hợp này không phải là duy nhất trong tiếng Pháp vì ta còn có, chẳng hạn: landier (cây kim tước), lendemain (ngày hôm sau (đối với ngày đang nói đến)), lierre (dây thường xuân), lingot (thỏi, nén), luette (lưỡi gà) vốn chỉ là: andier, endemain, ierre, ingot, uette. Nhưng ngày nay không còn ai – mà cũng hiếm người biết được như thế! – chấp nhận cách nói: l’andier, l’endemain, l’ierre, l’ingot, l’ uette vì mọi người đều phải nói: le landier, le lendemain, le lierre, le lingot, la luette. Riêng đối với từ loriol thì sau khi đã “hút” quán từ ríu l’, nó còn gặp thêm một sự cố ngữ âm khác nữa: đó là sự cố đã biến đổi phụ âm cuối của nó từ -l thành -t. Do đó mà ngày nay ta mới có danh từ loriot.
Tuy danh từ oriole của tiếng Anh bắt nguồn từ tiền thân của danh từ loriot trong tiếng Pháp (là oriol) nhưng đây chỉ là kết quả của một sự vay mượn chứ chẳng có quan hệ bà con gì cả. Dùng hai tiếng “bà con” là nói cho vui chứ chúng tôi thích dùng hai tiếng “tộc thuộc” hơn. Quan hệ tộc thuộc chỉ có giữa những ngôn ngữ cùng bắt nguồn từ một ngôn ngữ gốc. Chẳng hạn, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Romania (Ru-ma-ni) đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh bình dân nên mới là những ngôn ngữ có quan hệ tộc thuộc. Đó là các ngôn ngữ Roman. Hoặc như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hà Lan (Dutch), tiếng Đan Mạch, tiếng Thuỵ Điển, tiếng Iceland đều bắt nguồn từ ngôn ngữ Germanic chung, v.v. và v.v.. Giữa những ngôn ngữ có quan hệ tộc thuộc đó mới có những từ cùng nguồn gốc trực tiếp. Chẳng hạn danh từ chỉ cánh tay trong các ngôn ngữ Roman là:
– Pháp bras
– Ý braccio
– Tây Ban Nha brazo
– Bồ Đào Nha braço
– Romania brat
Tất cả đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh bracchium.
Hoặc danh từ chỉ cái móng (tay, chân) trong các thứ tiếng đó là:
– Pháp ongle
– Ý unghia
– Tây Ban Nha una
– Bồ Đào Nha unha
– Romania unghie
Tất cả đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh unguis.
Những từ cùng nguồn gốc như thế trong từng ngôn ngữ hiện nay cũng không còn nhiều như ban đầu và trong quá trình phát triển thì giữa các ngôn ngữ đó cũng có những sự vay mượn lẫn nhau. Chẳng hạn rất nhiều từ thuộc lĩnh vực âm nhạc trong tiếng Pháp đã được vay mượn từ tiếng Ý: concerto, sonate (< sonata), trio ((nhóm) tam tấu), quintette (< quintetto), piano, v.v.. Đây là những từ mà tiếng Pháp đã mượn từ tiếng Ý chứ không phải cùng bắt nguồn từ tiếng La Tinh.
Trở lại với danh từ oriole trong tiếng Anh, chúng tôi xin nhắc lại rằng đây chỉ là kết quả của một sự vay mượn từ tiếng Pháp chứ oriole (Anh) và oriol xưa (của Pháp) không phải là hai danh từ có quan hệ tộc thuộc như các từ chỉ “cánh tay” hoặc “móng (tay, chân)” trong các ngôn ngữ Roman đã nêu làm thí dụ ở trên.
§ 988. Kiến thức ngày nay, số 497, ngày 1 -6-2004
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 492, khi trả lời cho độc giả Lương Trần Chúc về bài thơ của Lý Bạch, ông An Chi có viết: “Đó là bài Xuân tư (chứ không phải “tứ”) của Lý Bạch.” Ông khẳng định mà không giải thích nên tôi không hiểu tại sao lại là “tư” chứ không phải “tứ”.
AN CHI: Vì đó không phải là trọng tâm của câu hỏi nên chúng tôi đã không giải thích; mong ông thông cảm.
Chữ 思 có hai cách đọc: 1. tứ như trong ý tứ, tứ thơ, v.v.; 2. tư, nghĩa là nhớ (Xin chỉ nêu vắn tắt). Bây giờ ta đọc lại bài thơ (mà chúng tôi xin tạm dịch nghĩa như sau):
Cỏ Yên tựa tơ biếc,
Dâu Tần sà nhánh xanh.
Lúc chàng mong về quê,
Thiếp nhớ nhung đòi đoạn.
Gió xuân nào quen biết,
Lay màn the làm chi?
Tình thì là nhớ nhung mà cảnh lại gợi tình thương nhớ. Nỗi nhớ nhung tràn khắp bài thơ thì đây phải là “Xuân tư” chứ sao lại là “Xuân tứ”?
§ 989. Kiến thức ngày nay, số 498, ngày 10-6-2004
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Văn nhân và văn hoá” đăng trên tạp chí Ngày nay, số 10-2004, tác giả Nguyễn Hoàng Đức có viết:
“Văn hoá là gì? Cách định nghĩa cô đọng nhất đó là: Con người hoá con người. Mà theo triết học, cái giáo hoá con người nhất là sự phản tỉnh của tư duy. Sự phản tỉnh đó còn thể hiện qua các cuộc kiểm nghiệm chỉ số IQ (Intelligent Questions) – nghĩa là chỉ số thông minh qua việc trả lời: Yes or No – là cách chấp nhận hay từ chối”. (Bđd, tr. 34)
Xin cho biết IQ có phải là “Intelligent Questions” hay không.
AN CHI: “Intelligent questions” là “(những) câu hỏi thông minh” còn IQ (hoặc I.Q.) thì lại là “intelligence quotient”. Đây mới chánh cống là “chỉ số (của sự) thông minh”. Trong cái ngữ danh từ chỉ có hai từ này, cả hai từ đều bị tác giả dùng sai: thay vì danh từ intelligence, tác giả đã dùng tính từ “intelligent” và thay vì danh từ quotient (chỉ số) thì tác giả lại dùng danh từ “questions” ((những) câu hỏi). Sở dĩ tác giả dùng danh từ này có lẽ là vì đã liên tưởng đến “các cuộc kiểm nghiệm” mà mình đã nói đến chăng?
§ 990. Kiến thức ngày nay, số 497, ngày 1-6-2004
ĐỘC GIẢ: Con số “2004” phải đọc thành “hai ngàn lẻ (hoặc linh) tư” hay “hai ngàn lẻ (hoặc linh) bốn” mới đúng, mới chuẩn?
Các phát thanh viên truyền hình từ đài trung ương (VTV) cho đến đài địa phương (HTV, BTV, v.v.) đều đọc theo cách trước thành “hai ngàn lẻ (hoặc linh) tư” cả. Vậy việc này có bình thường hay không?
AN CHI: Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (ấn bản 2003) đã giảng như sau:
“Tư (…) Bốn (không dùng để đếm). Đứng thứ tư. Tháng tư. Một phần tư. Gấp tư tờ giấy. Sáu tư (Kng.; sáu mươi bốn). Một nghìn tư (Kng.; một nghìn bốn trăm chẵn).”
Cứ như trên thì việc đọc thành “hai ngàn lẻ (linh) tư” là một cách đọc không chuẩn vì đó chỉ là khẩu ngữ còn việc đọc trên các phương tiện thông tin đại chúng tuy vẫn phát ra từ miệng nhưng lại chẳng phải là khẩu ngữ mà là văn… viết. Nhưng nếu chỉ dựa vào lời giảng quá giản lược, nên cũng không chính xác (tư là “bốn”), trong từ điển Hoàng Phê, cũng như trong một số quyển từ điển khác, thì ta khó mà chỉ ra cho cặn kẽ những chỗ sai của cách đọc đó.
Trước nhất, ghi chú trong ngoặc đơn rằng tư “không dùng để đếm” thì không chính xác vì các thí dụ “Sáu tư” và “Một nghìn tư” mà từ điển Hoàng Phê đã nêu rõ ràng là những cách đếm.
Thứ hai, giảng rằng “tư là bốn” thì không chính xác vì ngay trong cái thí dụ “Một nghìn tư” mà từ điển Hoàng Phê đã nêu, ta hoàn toàn không thể thay thế tư bằng “bốn” mà nói “một nghìn bốn”!
Điểm khác biệt căn bản giữa tư và bốn nằm ở chỗ trong khi bốn là một hình vị độc lập thì tư lại là một hình vị phụ thuộc. Để trả lời cho câu hỏi “Hai lần hai là mấy?” một cách cực gọn, chỉ bằng một tiếng mà thôi, ta chỉ có thể nói “Bốn.” chứ tuyệt đối không thể nói “Tư.”!
Với tư cách là một hình vị phụ thuộc, tư chỉ có thể đi liền theo sau một danh từ đơn vị (đối lập với danh từ khối) chỉ số đếm từ hàng chục trở lên (chục (mà mươi không thể thay thế trong nhiều trường hợp), (trăm, ngàn, vạn, ức, triệu, tỉ) hoặc chỉ đơn vị đo lường (đồng, hào, lượng, lít, mét, thước, v.v.) để biểu hiện một giá trị bằng bốn phần mười giá trị mà danh từ đơn vị đứng trước nó biểu hiện. Thí dụ:
– Trong ba trăm tư thì tư bằng bốn phần mười của một trăm, nghĩa là bốn chục (mươi). Vậy ba trăm tư là ba trăm bốn mươi.
– Trong năm triệu tư thì tư bằng bốn phần mười của một triệu, nghĩa là bốn trăm ngàn. Vậy năm triệu tư là năm triệu bốn trăm ngàn.
– Trong bảy đồng tư thì tư bằng bốn phần mười của một đồng, nghĩa là bốn hào. Vậy bảy đồng tư là bảy đồng bốn hào.
– Trong sáu thước tư thì tư bằng bốn phần mười của một thước, nghĩa là bốn tấc. Vậy sáu thước tư là sáu thước bốn tấc.
v.v. và v.v..
Ngoài ra, tư còn có thể đi liền sau danh từ đơn vị phần để tạo thành các phân lượng ngữ như: hai phần tư, ba phần tư, v.v.. Liên quan đến chuyện phân số – mà tư là mẫu số – ta có thể kể ra vài cấu trúc như: gấp tư = xếp làm tư; chẻ sợi tóc làm tư; v.v..
Cuối cùng, tư còn có thể đi liền sau danh từ chỉ thứ tự hoặc được quan niệm là có thể sắp xếp theo thứ tự: hạng tư; thứ tư; lớp tư (cours préparatoire); tháng tư; v.v..
Tóm lại, trừ trường hợp mà nó chỉ thứ tự, tư có hai nghĩa cơ bản sau đây:
1. bốn phần mười của một đơn vị trực tiếp lớn hơn;
2. (các) phần của một vật đã được chia làm bốn.
Chuyện ngữ học kết hợp với số học rạch ròi là thế thì liệu có thể giảng một cách quá đơn giản và dễ dãi rằng “tư là bốn” hay không?
Và khi mà nghĩa của tư đã được định rạch ròi như thế thì liệu cách đọc “2004” thành “hai ngàn lẻ (linh) tư” có thể nào lại là một cách đọc thích hợp, thậm chí là một cách đọc chuẩn hay không?
Câu trả lời đã rõ ràng nhưng ta cứ phân tích cho kỹ thêm xem sao. Cứ như đã định ở nghĩa 1. thì “hai ngàn lẻ (linh) tư” sẽ là “hai ngàn lẻ (linh) bốn phần mười (của một ngàn)”, nghĩa là “hai ngàn bốn trăm”. Đây là một cách đọc mang tính ảo thuật vì nó đã “hoá phép” cho 2004 biến thành “2400”. Rõ ràng đây là một cách đọc không thích hợp mà chúng tôi nghĩ rằng sẽ trở nên phổ biến nhờ sự lặp đi lặp lại của các phương tiện thông tin đại chúng, chủ yếu là của “báo nói”.
Tóm lại, xin cứ đọc “2004” thành “hai ngàn (nghìn) lẻ (linh) bốn” như cá biệt một vài phát thanh viên cũng đã thực hiện.
§ 991. Kiến thức ngày nay, số 497, ngày 1 -6-2004
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Những điều còn tranh cãi về Huình-Tịnh Paulus Của ” đăng trên một kỳ Thế giới mới gần đây, tác giả Phúc Đường đã viết:
“Cũng cần lưu ý thêm rằng bản thân Huình-Tịnh Paulus Của ký danh tính mình không thống nhất trên bìa các cuốn sách. Có cuốn ông ký là Paulus Của hoặc P. Của (…) Có cuốn, ông còn ký là Paulus Của Huình-Tịnh (…)
“Trên phương diện ngôn ngữ, Huỳnh và Hoàng là hai âm của cùng một chữ (chữ Hán). Trên phương diện tông tộc, Huỳnh và Hoàng cùng chung nguồn gốc. Nhưng trên phương diện xã hội, có ý kiến quả quyết rằng Huỳnh và Hoàng là hai họ riêng biệt và độc lập với nhau. Vậy nhưng, cũng chính Huình-Tịnh Paulus Của tự tay ký là Hoàng-Tịnh Paulus Của trên khá nhiều bìa sách của mình (…)
“Ngày nay nếu giản lược tên thánh lẫn dấu gạch nối, ít ra chúng ta cũng phải ghi là Huình Tịnh Của hoặc Hoàng Tịnh Của ắt mới hợp ý tiền nhân.”
Không biết khi viết “trên phương diện xã hội, có ý kiến quả quyết rằng Huỳnh và Hoàng là hai họ riêng biệt và độc lập với nhau”, tác giả Phúc Đường muốn ám chỉ ai nhưng tôi nhớ hình như ông An Chi có viết như thế trên Chuyện Đông Chuyện Tây. Không biết có đúng không và nếu đúng thì ông có ý kiến như thế nào về ý kiến của tác giả này?
AN CHI: Chúng tôi cũng không biết tác giả Phúc Đường muốn ám chỉ ai nhưng cá nhân chúng tôi thì có quả quyết như thế thật trên Kiến thức ngày nay, số 142 và số 156.
Chúng tôi chủ trương ghi nhận cả “Huình-Tịnh Paulus Của” lẫn “Hoàng-Tịnh Paulus Của”. Chẳng những thế, ta còn phải ghi nhận cả “Paulus Của Huình-Tịnh”, “Paulus Của” và “P. Của” nữa vì cả năm hình thức trên đây đều là những bút hiệu mà chính tác giả đã ký ở từng tác phẩm của mình. Sẽ là không phải lẽ và sẽ là không đầy đủ nếu trong tiểu sử của tác giả mà ta lại bỏ sót một vài kiểu ký tên nào đó trong năm hình thức mà tác giả Phúc Đường đã cung cấp. Nhưng đó chỉ là những bút hiệu, vâng, chỉ thuần tuý là những bút hiệu mà tác giả đã chọn để ký ở bìa sách chứ về hộ tịch và lý lịch thì họ của ông chỉ có thể hoặc là “Huỳnh” hoặc là “Hoàng” chứ dứt khoát không thể có một kiểu họ “nước đôi”.
Và “Huỳnh” chắc chắn là cái họ chính thức và chính xác của tác giả có tên thánh và tên riêng là “Paulus Của”. Bút hiệu và họ tên (theo hộ tịch) là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
§ 992. Kiến thức ngày nay, số 499, ngày 20-6-2004
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết vai trò của cụ Nguyễn Văn Vĩnh đối với việc truyền bá chữ quốc ngữ.
AN CHI: Trước nhất, chúng tôi thành thật xin lỗi vì đã để quá lâu mới trả lời câu hỏi của ông bởi lẽ chúng tôi không có tài liệu về Nguyễn Văn Vĩnh. Mới đây, nhân đọc tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 (336)-2004, thấy bài “Nguyễn Văn Vĩnh với việc cổ vũ và truyền bá chữ quốc ngữ đầu thế kỷ XX” của tác giả Nguyễn Thị Lệ Hà (tr. 19 – 27), chúng tôi liền nhớ đến câu hỏi của ông. Vì tạp chí Nghiên cứu lịch sử không được phát hành rộng rãi trong Nam nên chúng tôi xin lược trích một số đoạn quan trọng trong bài nói trên để ông và bạn đọc tiện tham khảo.
Tác giả Nguyễn Thị Lệ Hà cho biết rằng hai người đầu tiên có công với việc truyền bá chữ quốc ngữ là Trương Vĩnh Ký và Huình-Tịnh Paulus Của ở trong Nam nhưng chính Nguyễn Văn Vĩnh mới thực sự là người đã “phát động, hô hào và dấy lên một phong trào học chữ Quốc ngữ sâu rộng sau này ở miền Bắc”.
Tác giả viết:
“Nguyễn Văn Vĩnh và nhóm Đông Dương tạp chí (Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Bá Học,…) nhận thấy ở chữ Quốc ngữ rất cần thiết cho dân tộc như ông đã từng nói năm 1907: “Nước ta sau này hay hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ”. Và ông đã lấy chính chữ Quốc ngữ để truyền tải những điều mới lạ của văn hoá phương Tây cho đông đảo nhân dân ta như ông đã nêu rõ tại Hội quán Trí Tri (ngày 4-8-1907): “Nước Nam ta muốn chóng bước lên đường tiến hoá thì phải mau thu thái lấy những tư tưởng mới. Muốn cho những tư tưởng mới trong văn hoá Âu Tây truyền bá khắp trong dân gian, thì cần phải phiên dịch những sách chữ nước ngoài ra Việt Nam…”. Sáu năm sau (1913) ông lại đưa vấn đề này lên báo Đông Dương tạp chí: “Bản quán định đem hết những bài luận hay về các công nghệ, về việc buôn bán, dịch ra quốc văn cho người Annam được tận hưởng”*.
Tác giả lại dẫn tiếp lời của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đông Dương tạp chí, số 2 năm 1914 nói về cái lợi của chữ quốc ngữ so với chữ Hán và chữ Nôm:
“Mở ngay tờ nhật báo này ra mà ngẫm xem bấy nhiêu điều luận trong báo, thử nghỉ: giá thử luận bằngchữ Nho thì có mấy người đọc được, mà trong những người đọc được thì có mấy người hiểu cho hết nghĩa. Thế mà chữ Quốc ngữ thì không những là người biết chữ Quốc ngữ đọc được, hiểu được, một người đọc cả nhà nghe cùng hiểu được, từ đàn ông cho đến các bà (không dám nói đàn bà sợ các bà quở), trẻ con cũng nghe được mà chỉ với chúng ta trong cuộc luận bàn thế sự thì có phải nó vui việc ra là bao nhiêu”*.
Nguyễn Văn Vĩnh còn so sánh tiếp rằng nếu học chữ Nho thì “phải mất hàng nửa đời người, mà trăm người học không được một người hay, học được hay cũng chỉ ích lấy một mình, không đem ra mà dùng cho đời được nhờ cái học vấn của mình chẳng qua là một cái thú rung đùi”*.
Ta cũng nên thông cảm một phần với Nguyễn Văn Vĩnh vì ông muốn tuyên truyền cho chữ quốc ngữ mà đã có một cái nhìn vừa phiến diện lại vừa cực đoan về vai trò của chữ Hán và của những người có Hán học. Nếu học chữ Hán mà “chỉ ích lấy một mình, không đem ra mà dùng được cho đời” thì cái chuyện kinh bang tế thế ngày xưa do thứ chữ nào giúp cho mà có? Nguyễn Công Trứ đã dẫn dắt dân chúng khai phá đất đai để gầy dựng nên “Núi Vàng” (Kim Sơn, Ninh Bình) và “Biển Tiền” (Tiền Hải, Thái Bình) nào phải nhờ chữ quốc ngữ! Còn cái “thú rung đùi” chẳng qua cũng chỉ là chuyện thư giãn hoặc chuyện thưởng thức văn chương của nhà Nho lúc rảnh rang chứ nào có phải là chuyện quanh năm suốt tháng! Chúng tôi cho rằng có lẽ Nguyễn Thị Lệ Hà cũng thấy như thế nhưng vì chỉ tập trung để nói lên vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh như nhan đề bài viết đã nêu nên tác giả không thấy cần dừng lại để nhận xét. Và tác giả cho ta biết tiếp về việc làm của Nguyễn Văn Vĩnh như sau:
“Bên cạnh việc vận động mọi người cùng tham gia cổ động và viết chữ Quốc ngữ, thì vấn đề ngữ pháp tiếng Việt cũng được ông đưa ra bàn luận để đi đến thống nhất trong toàn quốc về cách đặt câu, cách viết, chấm phẩy, cách nói viết cho cả 3 miền và cần phải có một thể lệ chung (…).
“Nguyễn Văn Vĩnh có điều kiện đi dọc 3 miền đất nước. Ông đã chú ý giọng nói, cách viết của 3 miền và thấy có sự khác nhau rõ nét giữa chữ ch với chữ tr ngoài Bắc không phân biệt mấy nhưng “ở Nam Kỳ thì thật có phân biệt. Như con trâu mà viết thành châu (hạt châu) thì người Nam Kỳ không hiểu… Sự này tôi đã có ý nghiệm từ Thanh Hoá vô tới Quảng Nam và ở Sài Gòn”. Hay chữ s với chữ x: ngoài miền Bắc và miền Trung thì không phân biệt hai chữ này còn người miền Nam thì “chữ s uốn lưỡi như chữ ch tây, còn chữ x thì đọc như s tây. Chữ gi, chữ d, chữ r thì ở Bắc kỳ ta không phân, còn ở Nam Kỳ và Trung Kỳ phân biệt được chắc chữ r mà thôi, còn d với gi cũng đọc như chữ y, mà không mấy người biết chắc được tiếng nào đáng viết d hay gi.” Mục đích của ông khi đưa ra sự so sánh giữa 3 miền là mỗi miền nên học những tiếng chuẩn của nhau, mỗi bên “nhường nhịn” nhau một chút, như ngoài Bắc nên theo trong Nam mấy tiếng gi thành tr, d thành nh, nh thành l,… để dùng cho đều trong văn tự, ba miền cùng hiểu cả. Ông đã liệt kê ra một số từ:
“1. Gi đổi ra tr:
“trả để thay cho tiếng giả, trai gái – giai, trăng gió – giăng, trao đổi – giao, trầu không – giầu, trở về – giở.
“2. s đổi ra tr:
“trống mái để thay cho tiếng sống.
“3. d đổi ra nh:
“mạng nhện để thay tiếng dện, nhọn – dọn, nhốt gà – dốt, nhỏ bẩn – dơ…
“4. nh đổi ra l:
“lạt để thay tiếng nhạt, lát (chốc) – nhát, lầm (lẫn) – nhầm, lẹ – nhẹ…
Theo ông nếu mỗi miền chịu học những từ chuẩn của nhau thì chữ Quốc ngữ càng trở nên rõ ràng và trên văn tự có sự thống nhất trong cả nước”*.
Chúng tôi xin phép mở ngoặc đơn để xác định rằng những thí dụ trên đây của Nguyễn Văn Vĩnh – mà Nguyễn Thị Lệ Hà đã dẫn lại – thực chất chỉ là những biến thể ngữ âm của cùng một từ gốc mà thôi. Vì vậy nên việc sử dụng từ “từ” một cách chung chung như đã thấy thì lại không thực sự thích hợp với văn phong khoa học. Nhưng điều quan trọng mà ta có thể tiếp thu được từ bài viết của Nguyễn Thị Lệ Hà là những cống hiến của Nguyễn Văn Vĩnh mà tác giả đã nêu lên một cách khách quan và có tính chất thuyết phục mặc dù chính tác giả cũng nhìn nhận rằng “việc nghiên cứu, đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh còn cần phải đầu tư nhiều công sức và thời gian” và “bài viết này chỉ góp một phần rất nhỏ vào việc nhận định, đánh giá nhân vật Nguyễn Văn Vĩnh”*. Để ghi nhận công lao của Nguyễn Văn Vĩnh, chúng tôi xin mượn những lời sau đây, dĩ nhiên vẫn là của Nguyễn Thị Lệ Hà:
“Đến năm 1918, năm kết thúc của tờ Đông Dương tạp chí, đồng thời cũng là năm chữ Quốc ngữ thắng lợi hoàn toàn, thì không còn ai có thể nghi ngờ khả năng của chữ Quốc ngữ nữa. Chữ quốc ngữ đã có thể dịch được tất cả những áng văn hay của nước ngoài, cũng như diễn tả được những tư tưởng và cảm xúc một cách chân thực. Chữ Quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi thay thế chữ Hán và chữ Nôm (chữ Hán bị bãi bỏ trong kỳ thi cử năm 1915 ở Bắc Kỳ, và chấm dứt trên cả nước năm 1919 ở Trung Kỳ). Từ đây chữ Quốc ngữ đã trở thành thứ chữ phổ thông chiếm vị trí quan trọng và được tất cả người dân Việt Nam ưa dùng.
Để đạt được thành quả đó, những người đi tiên phong cổ vũ và cải cách chữ Quốc ngữ như Nguyễn Văn Vĩnh đã trải qua rất nhiều khó khăn (…) Trước thực tế đó, việc lên tiếng bảo vệ, cổ động cho chữ Quốc ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh và những người cùng chí hướng với ông là một việc làm rất đáng kể, rất đáng trân trọng”*.
§ 993. Kiến thức ngày nay, số 500, ngày 1 -7-2004
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết đâu là xuất xứ của hai tiếng “bù nhìn”.
AN CHI: Trong quá trình tìm hiểu về từ nguyên, chúng tôi đã thấy rằng nguyên từ của hai tiếng bù nhìn có thể là một trong các “ứng viên” sau đây:
1. Trước hết, đó là danh ngữ bồ nhân 蒲人, có nghĩa là hình nhân kết bằng cỏ bồ. Đây rõ ràng là một nguyên mẫu rất đẹp cho hai tiếng bù nhìn. Thằng bù nhìn là một thằng người giả kết bằng cỏ bồ dùng để doạ chim chóc mà bảo vệ mùa màng thì nghe ra rất có lý. Tiếng Hán gọi bù nhìn là cảo nhân. Vậy đã nói được cảo nhân thì tại sao lại không nói được bồ nhân?
Chỉ tiếc là chúng tôi tìm mãi trong thư tịch mà không thấy được bằng chứng về sự tồn tại của hai chữ bồ nhân. Bồ đoàn (gối tròn làm bằng cỏ bồ để nhà sư quỳ lên (cho êm) mà tụng kinh), bồ điệm (đệm làm bằng cỏ bồ), bồ luân (bánh xe quấn bằng cỏ bồ (ngày xưa dùng để xe chạy cho êm mà rước các bậc hiền tài ra giúp nước), bồ phiến (quạt đan bằng cỏ bồ), bồ tịch (chiếu dệt bằng cỏ bồ), bồ tiên (roi làm bằng cỏ bồ), v.v., thì có mà bồ nhân thì không. Dĩ nhiên điều này không tuyệt đối có nghĩa là cái cấu trúc bồ nhân không hề tồn tại trong tiếng Hán. Tuy nhiên, vì bản thân mình chưa tận mắt nhìn thấy nó nên trong trường hợp này chúng tôi đành phải nghĩ đến lời nói của Joseph Vendryes, rằng cái vraisemblable không phải bao giờ cũng vrai*.
2. Đó có thể là phù nhân 符人, có nghĩa là “người bùa”. Chúng tôi đưa ra cấu trúc này là vì chúng tôi căn cứ theo nghĩa của các cấu trúc bồ din, bồ nhin và mồ din mà A. de Rhodes đã cho trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh: “Những hình làm bằng rơm được các thầy phù thuỷ dùng để làm hại người khác” và “Hình bằng rơm mà các thầy phù thuỷ dùng để làm bất cứ điều ác nào họ muốn để nhờ ma quỷ làm hại người khác” (Xin xem bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb. Khoa học Xã hội, 1991).
Cứ theo những lời giảng trên đây thì rất có thể bù nhìn có nghĩa gốc là “người bùa” (phù nhân), tức là cái thứ hình nhân có công dụng như A. de Rhodes đã nói, rồi về sau mới chuyển nghĩa như đang được hiểu hiện nay. Bùa là âm xưa của phù 符, thông chuyển với bù/bồ là chuyện hoàn toàn bình thường còn nhìn thì hẳn hoi là âm xưa của nhân 人.Vậy bù nhìn ~ phù nhân không phải là chuyện không hợp lý. Tuy nhiên chúng tôi cũng chưa tìm thấy sự hiện diện của cấu trúc này trong thư tịch nên cũng phải dè dặt mà tạm gác trường hợp này lại.
3. Có thể đó là danh ngữ mạo nhân 冒人, có nghĩa là “người giả”. Giả thiết mù là âm xưa của mạo hoàn toàn có thể chấp nhận được vì ta còn có mấy trường hợp đồng dạng từ nguyên học sau đây: – mũ trong mũ mão chính là âm xưa của mạo 帽, có nghĩa là… mũ và còn có biến thể thanh điệu là mão trong áo mão cân đai, đi hia đội mão; – mù trong mù loà là âm xưa của mạo 眊, có nghĩa là loà, mờ (mắt); – mù trong rối mù là âm xưa của mạo 耄, có nghĩa là rối loạn. Còn nhìn là âm xưa của nhân như đã nói ở mục 2.
Vậy mù nhìn ~ bù nhìn ~ mạo nhân không phải là chuyện không thể chấp nhận được nhất là nếu ta lại biết thêm rằng cái vật gọi là bù nhìn trong tiếng Tày-Nùng là mào nhền, rất có thể là đã mượn từ hai tiếng mạo nhân, mà âm xưa là mù nhìn. Nhưng chúng tôi cũng chưa tìm thấy cấu trúc đang xét trong thư tịch bằng chữ Hán.
4. Có thể đó là mộc nhân 木 人, đồng nghĩa với mộc ngẫu, và có nghĩa là tượng gỗ. Đây là một cấu trúc có thể dễ dàng tìm thấy trong thư tịch và sự chuyển biến ngữ nghĩa từ nghĩa gốc sang nghĩa của hai tiếng bù nhìn trong tiếng Việt hiện đại cũng là một điều hoàn toàn có thể chấp nhận được. Cái khó chứng minh chỉ là mối quan hệ mộc ~ mù mà thôi. Tuy âm Bắc Kinh hiện đại của mộc là mù nhưng chúng tôi không cho rằng trong trường hợp này ta lại có vai trò trung gian của âm Bắc Kinh (xin chú ý rằng dấu “ ˋ ” của âm Bắc Kinh không có giá trị như dấu huyền trong tiếng Việt). Vì vậy nên chúng tôi cũng xin tạm gác trường hợp này lại.
5. Cuối cùng, cái nguyên từ của bù nhìn mà chúng tôi chính thức lựa chọn là môn nhân 門 人, mà âm xưa là mùn nhìn, có nghĩa là người gác cửa. Mùn là âm xưa của môn, một chữ thuộc vận bộ hồn, một vận bộ gồm có nhiều chữ mà phần vần xưa là -un, vẫn còn có thể thấy trong tiếng Việt hiện đại: – đun trong đun đẩy là âm xưa của đôn trong đôn đốc; – đùn (= đẩy cho tụ lại thành đống) là âm xưa của đồn trong đồn tụ; – đụn trong đụn thóc là âm xưa của độn 囤 (= nơi chứa thóc quay bằng phên liếp); – hùn trong hùn hạp là âm xưa của hỗn trong hỗn hợp; v.v.. Trở lên là nói về mối quan hệ -un ~ -ôn. Còn về quan hệ giữa thanh 2 (dấu huyền) với thanh 1 (không dấu) thì trường hợp mùn ~ môn cũng hoàn toàn giống như trường hợp nhìn ~ nhân, trong đó tiếng có thanh 2 luôn luôn xưa hơn tiếng có thanh 1.
Tóm lại, mùn xưa hơn môn và mùn nhìn xưa hơn môn nhân. Nhưng tại sao mùn lại biến thành mù? Câu trả lời sẽ đến với ta một cách dễ dàng về mặt âm lý. Hai tiếng mùn nhìn gồm có 6 âm vị (không kể thanh điệu): m, u, n, nh, i, n, trong đó có đến 4 âm vị là những âm mũi: m, n, nh, n. Nghĩa là số âm mũi chiếm hết 2/3. Một mật độ như thế thì có lẽ hơi… dày và đây chính là nguyên nhân khiến cho phụ âm cuối của mùn bị dị hoá thành phụ âm zero.
Mùn nhìn trở thành mù nhìn là vì thế. Trở lại với các trường hợp 1 (bồ nhân) và 2 (phù nhân), chúng tôi muốn nói kỹ thêm rằng sở dĩ chúng tôi tạm gác lại thì không phải chỉ vì chưa tìm thấy trong thư tịch mà còn vì một nguyên nhân khác quan trọng hơn; theo chúng tôi thì giữa bù nhìn và mù nhìn, chính mù nhìn mới là hình thái gốc. Vì vậy nên ta phải ưu tiên cho những trường hợp mà phụ âm đầu của tiếng trước là m- chứ không phải b- hay ph-.
Vâng, theo chúng tôi thì mù nhìn mới là dạng gốc, giống hệt như mồ côi là dạng gốc của bồ côi, mồ hôi là dạng gốc của bồ hôi, mồ hóng là bồ hóng, mồ hòn là dạng gốc của bồ hòn. Vậy thì lời khẳng định này có căn cứ gì hay không? Xin thưa rằng tuy không nhiều, nhưng mà có, và rất chắc chắn. Chẳng hạn như bồ hòn vốn là mồ hòn vì dạng sau, chứ không phải dạng trước, mới chánh cống là âm cổ Hán Việt của hai chữ Hán 無患, mà âm Hán Việt hiện đại là vô hoạn. Ta biết rằng trong tiếng Hán thì vô hoạn tử (hoặc vô hoạn mộc) là cây bồ hòn. Từ hải ghi chú tên khoa học của “vô hoạn tử” là Sapindus mucurosi còn Sổ tay tra cứu danh pháp khoa học của Nguyễn Đại Hương và Lê Thị Thuỳ Trang (Nxb. Trẻ, 2002) thì cho tên khoa học của “cây bồ hòn” cũng là Sapindus mucurossi (thừa một chữ “s” trước “i”). Vậy ta có:
– Vô hoạn = Sapindus mucurosi
– Bồ hòn = Sapindus mucurosi
Do đó:
vô hoạn = bồ hòn.
Đây là một điều chắc chắn và với lời khẳng định này chúng tôi xin tiến thêm một bước nữa mà khẳng định tiếp rằng mồ chính là âm cổ Hán Việt của chữ 無 mà âm Hán Việt hiện đại là vô. Trường hợp m- → v- này không phải là duy nhất vì ta còn có nhiều dẫn chứng khác:
– mòng (trong mơ mòng) – vọng (trong hy vọng);
– mùa (trong mùa màng) – vụ (trong thời vụ);
– múa (trong múa hát) – vũ (trong ca vũ);
– mùi (trong mùi vị) – vị (trong hương vị); v.v.
Tóm lại, mồ hòn có trước bồ hòn.
Mồ hóng có trước bồ hóng cũng là một hiện tượng có thể chứng minh được vì ta biết rằng mồ chính là âm xưa của chữ 煤 mà âm Hán Việt hiện đại là môi, có nghĩa là muội khói.
Với những dẫn chứng trên đây, ta có thể khẳng định rằng trong những cặp tương ứng đã nói, cấu trúc mà phụ âm đầu của âm tiết thứ nhất là m- có trước cấu trúc mà phụ âm đầu của âm tiết thứ nhất là b-.
Vậy mù nhìn là tiền thân của bù nhìn và với kết luận này thì ta có thể gạt bỏ hẳn hai cấu trúc bồ nhân và phù nhân. Trong ba cấu trúc còn lại (mạo nhân, mộc nhân, môn nhân), chỉ có môn nhân là “ứng viên” có nhiều “tín nhiệm” nhất để làm nguyên từ của mù nhìn, mà bù nhìn là một biến thể ngữ âm thông dụng trong tiếng Việt hiện đại.