Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 0979 - 986
§ 979. Kiến thức ngày nay, số 493, ngày 20-4-2004
ĐỘC GIẢ: Trong chuyến đi thăm chớp nhoáng đến Moskva ngày 3-4-2004, tổng thống Pháp Jacques Chirac đã mời tổng thống Nga Vladimir Putin sang Pháp dự lễ kỷ niệm lần thứ 60 ngày quân Đồng minh đổ bộ lên Normandie. Liên quan đến sự kiện này, bản tin của Edicom ngày 3-4-2004 có nhắc lại lời của ông Chirac như sau:
“Avec cet anniversaire, nous tournons une page”, a déclaré Jacques Chirac. C’est “dans cet esprit résolument tourné vers l’ avenir” qu’il a rappelé “le rôle central de l’ Union soviétique dans la lutte contre le nazisme (rôle, NDLR) qui a changé le cours des choses, renversé la situation et donné toutes ses chances à l’ acte suivant, celui du Débarquement”.
Tôi không hiểu tại sao lại có mấy chữ “rôle, NDLR” trong ngoặc đơn ở giữa lời của vị tổng thống.
AN CHI: Để một số bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin dịch như sau:
“Với lễ kỷ niệm lần này, chúng ta lật sang một trang mới”, Jacques Chirac đã tuyên bố (như thế). Với “tinh thần dứt khoát hướng về tương lai đó”, ông đã nhắc đến “vai trò trung tâm của Liên bang Xô viết trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quốc xã (vai trò (đó) – Ghi chú của Ban biên tập) đã làm thay đổi dòng thời sự, đã đảo ngược tình thế và đã tạo ra mọi cơ may cho hành động kế tiếp là Cuộc đổ bộ”.
NDLR là những chữ đầu của bốn từ “note de la rédaction”, có nghĩa là “(lời) ghi chú của ban biên tập”. Vậy từ “rôle” (vai trò) trong ngoặc đơn là một từ do ban biên tập của Edicom ghi chú chứ không phải của tổng thống Pháp Jacques Chirac.
Còn sở dĩ Edicom phải thêm chữ “rôle” đó vào là vì ở đây vị tổng thống của chúng ta tuy muốn đề cao vai trò trung tâm của Liên Xô trong việc tiêu diệt chủ nghĩa quốc xã nhưng lại trót dùng một kiểu diễn đạt đẳng nghĩa (équivoque) nên có thể gây ra một sự hiểu lầm nguy hiểm. Ông muốn đề cao vai trò trung tâm của Liên Xô bằng ngữ đoạn
“qui a changéle cours des choses, renverséla situation etdonné toutes ses chances à l’acte suivant, celui du Débarquement”.
nhưng do cấu trúc cú pháp đã chọn nên chính cái ngữ đoạn đó cũng có thể được hiểu là dùng để giải thích rõ thêm cho danh từ nazisme đứng trước (antécédent) thành
“le nazisme qui a changé le cours des choses, renversé la situation et donné toutes ses chances à l’acte suivant, celui du Débarquement”.
(“chủ nghĩa quốc xã đã làm thay đổi dòng thời sự, đã đảo ngược tình thế và đã tạo ra mọi cơ may cho hành động kế tiếp là Cuộc đổ bộ.)
Chính vì khả năng về một cách hiểu nguy hiểm như thế vẫn tiềm tàng trong lời nói của tổng thống Jacques Chirac nên BBT của Edicom mới phải ghi chú danh từ “rôle” (vai trò) trong ngoặc đơn sau danh từ nazisme (chủ nghĩa quốc xã) để làm cho rõ hơn cái ý mà ông Chirac muốn diễn đạt.
§ 980. Kiến thức ngày nay, số 492, ngày 10-4-2004
ĐỘC GIẢ: Những chữ “lý” trong “quản lý”, “lý sự”, “lý tài”, “lý lịch” có phải là một hay không và có nghĩa là gì?
AN CHI: Trong quản lý, lý sự, lý tài thì chữ lý là một nhưng trong lý lịch thì khác.
Trong lý lịch, tự dạng của chữ lý là 履. Chữ này có nghĩa là giẫm, đạp, xéo lên, bước đi và cùng một trường nghĩa với lịch là trải qua nên mới đi chung với chữ này thành lý lịch, với cái nghĩa mà ai ai cũng biết, nhất là những ai muốn tìm việc làm.
Còn trong quản lý, lý sự, lý tài thì lại là một chữ lý khác mà tự hình là 理, có nghĩa là sửa sang, sắp đặt. Quản lý là trông nom, sắp xếp công việc. Lý sự là sắp xếp công việc và do từ nguyên dân gian mà còn có nghĩa sính nói lý lẽ, hay cãi lý. Lý tài là sắp đặt chuyện tiền bạc, của cải, rồi nghĩa rộng là khéo léo trong kinh doanh, thích nói chuyện tiền bạc.
Cái nghĩa chính xác của chữ lý trong quản lý thực ra cũng chỉ đơn giản như đã trình bày ở trên mà thôi. Nhưng trong một bài viết rất bác học nhan đề “Thuật ngữ quản lý và quản lý hành chính dưới góc độ từ nguyên”, đăng trên Ngôn ngữ số 3 (178)-2004 (tr. 38 – 41) thì tác giả Hoàng Ngọc Hùng đã gán cho nó một cái nghĩa khác hẳn. Tác giả này đã dựa vào Tứ thư do Đoàn Trung Còn dịch (Nxb. Thuận Hoá, 2000) mà cho rằng ở đây lý là “qui luật tự nhiên của bản thân sự vật”, “qui luật của sự vật”, “quan niệm, nguyên tắc, qui phạm của luận lí”*. Tiếc rằng ở đây lý lại chẳng phải là một danh từ. Cái nghĩa của nó trong quản lý là nghĩa của một động từ như đã được thừa nhận trong tất cả các quyển từ điển tiếng Hán.
Cái nghĩa gốc của động từ lý, theo Bernhard Karlgren tại series 978, d. trong Grammata Serica Recensa (Stockholm, 1964) là “to cut jade according to its veins” (cắt ngọc theo (những) đường vân của nó). Từ đây ta lại có cái nghĩa rộng là trị ngọc, sửa ngọc, mài giũa ngọc như có thể thấy trong hầu hết các quyển từ điển tiếng Hán. Từ cái nghĩa rộng này ta mới lại có một cái nghĩa bóng hầu như đã trở thành “đen” vì quá thông dụng và quen thuộc là sửa sang, sắp xếp, cắt đặt công việc. Đây mới đích thị là cái nghĩa chính thức và chính xác của chữ lý trong từ tổ động từ đẳng lập quản lý. Vậy nếu muốn bàn vấn đề “dưới gốc độ từ nguyên” thì phải thực hiện đúng các thao tác từ nguyên học cần thiết chứ không thể “xâu chuỗi bắt rễ” trong bản dịch Tứ thư của Đoàn Trung Còn được.
Có vẻ như tác giả Hoàng Ngọc Hùng không quan tâm lắm đến từ nguyên học. Chẳng thế mà ông lại bỏ động từ lý vào cái ô danh từ. Và chẳng thế mà ông lại làm từ nguyên cho động từ quản là thành tố thứ nhất của ngữ động từ quản lý một cách quá đơn giản. Ông đã trực chỉ căn cứ vào Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên để khẳng định rằng “quản là trông coi, điều khiển”*.
Chúng tôi không dám bàn đến chuyện ý kiến của tác giả Hoàng Ngọc Hùng trong bài đã nêu đúng hay sai, hay hay dở mà chỉ xin khẳng định rằng ý kiến của tác giả này chung quanh chữ quản và chữ lý về thực chất chẳng có liên quan gì đến từ nguyên của hai chữ đó cả. Đặc biệt là nói rằng trong quản lý mà lý lại là “qui luật tự nhiên của bản thân sự vật” là “quan niệm, nguyên tắc, qui phạm của luân lí” thì hoàn toàn sai.
§ 981. Kiến thức ngày nay, số 494, ngày 1 -5-2004
ĐỘC GIẢ: Mấy câu thơ cổ:
“Thương Lương chi thuỷ thanh hề
Khả dĩ trạc ngô anh.
Thương Lương chi thuỷ trọc hề
Khả dĩ trạc ngô túc”
có phải của Khuất Nguyên không? Nếu phải thì mấy câu này nằm trong bài nào của Sở từ? Sông Thương Lương ở đâu và có phải là nơi Khuất Nguyên tự vẫn hay không? Tại sao có người lại đọc thành “Thương Lang”?
AN CHI: Mấy câu trên đây nằm trong đoạn chót bài “Ngư phủ” (Lão chài) của Khuất Nguyên:
“Ngư phủ hoãn nhĩ nhi tiếu,
Cổ tiết nhi khứ
Nãi ca viết:
Thương Lương chi thuỷ thanh hề
Khả dĩ trạc ngô anh
Thương Lương chi thuỷ trọc hề
Khả dĩ trạc ngô túc.
Toại khứ
Bất phục dữ ngôn”.
Dịch nghĩa:
Lão chài mỉm cười
Khua chèo mà đi
Bèn hát rằng:
Nước (sông) Thương Lương trong hề
Có thể giặt dải mũ của ta.
Nước (sông) Thương Lương đục hề
Có thể rửa chân của ta
Bèn đi
Không nói với (Khuất Nguyên) nữa.”
Nhưng đó lại không phải là thơ của Khuất Nguyên (340 tr. CN – 278 tr. CN) vì trước tác giả của Sở từ trên dưới 200 năm thì Khổng Tử (551 tr. CN – 497 tr. CN) cũng đã được nghe mấy câu đó rồi. Sự việc này đã được ghi chép tại chương VIII của thiên “Ly Lâu (thượng)” trong sách Mạnh Tử:
“Có kẻ nhụ tử hát rằng
“Nước sông Thương Lang trong vậy,
Khá đem giặt mũ ta.
Nước sông Thương Lang đục vậy,
Khá đem rửa chân ta.
Ông Khổng nghe câu hát ấy nói rằng: “Kẻ tiểu tử nghe lấy đấy: Trong thì dùng để giặt dải mũ; đục thì dùng để rửa chân, là do cái nước sông Thương Lang tự thủ đó vậy”*.
Nguyên văn tiếng Hán của mấy câu ca cất lên từ miệng của đứa trẻ trên đây trong sách Mạnh Tử giống hệt với mấy câu ca của lão chài trong bài “Ngư phủ” của Khuất Nguyên. Dĩ nhiên đây khó có thể là chuyện tư tưởng đẹp lại gặp nhau một cách triệt để đến như thế. Bốn câu đó thực chất là một bài (hoặc một đoạn của một bài) dân ca ra đời muộn nhất cũng là vào đời của Khổng Tử và đến thời của Khuất Nguyên thì nó đã lưu hành được trên dưới 200 năm. Nhiều người vẫn gọi đây là bài “Thương Lương ca”. Vậy bốn câu đang xét không phải là thơ của Khuất Nguyên. Chẳng qua nhà thơ đã vận dụng bốn câu dân ca đó vào bài phú “Ngư phủ” của mình để làm lời khuyên mang đầy tính chất tuỳ thời có phần yếm thế của ông lão đánh cá mà thôi.
Tuy có đến bốn thuyết khác nhau về dòng chảy và vị trí của sông Thương Lương nhưng ngoài những điểm tiểu dị thì cái chỗ đại đồng là nó có liên quan đến sông Hán Thuỷ và nằm ở phía Bắc sông Trường Giang như đã nói rõ trong Từ hải (bản cũ). Nhưng dù sông Thương Lương ở đâu thì nó cũng không phải là chỗ Khuất Nguyên tự trầm mà cũng chẳng phải là nơi ông đàm đạo với ông lão đánh cá. Tiếc rằng nhà bác học của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là Quách Mạt Nhược lại chủ trương ngược lại.
Quách Mạt Nhược khẳng định rằng bài “Ngư phủ” là một cuộc đối đáp thực thụ giữa Khuất Nguyên với ông lão đánh cá bên bờ sông Thương Lương. Ông lập luận đại ý như sau;
Nguyên văn bài “Ngư phủ” trong Sở từ chỉ nói sau khi bị đuổi đi khỏi triều đình thì Khuất Nguyên “du vu giang đàm” (lang thang chốn sông đầm). Còn Sử ký của Tư Mã Thiên cũng chỉ chép rằng lúc bấy giờ Khuất Nguyên “du vu giang tân” (lang thang nơi bến sông). Cả hai đều không nói rõ đó là con sông nào. Nhưng ở phần cuối bài “Ngư phủ” thì lời ca của ông lão đánh cá lại nói rõ ràng rằng đó là “Thương Lương chi thuỷ” (nước sông Thương Lương). Vì vậy nên Quách Mạt Nhược mới chú giải câu “Du vu giang đàm” là lúc bấy giờ “Khuất Nguyên đang dạo bước bên bờ sông Thương Lương”. Nhà bác học Quách Mạt Nhược còn khẳng định rằng nơi mà Khuất Nguyên đã đến khi mới bị đuổi đi thuộc phía Bắc sông Giang Thuỷ, là một con sông bắt nguồn từ tỉnh Thiểm Tây rồi chảy qua tỉnh Hồ Bắc mà đổ vào sông Trường Giang. Nghĩa là lúc bấy giờ Khuất Nguyên đang ở vùng Giang Bắc chứ không phải Giang Nam, Quách Mạt Nhược còn đưa ra thêm mấy luận cứ nữa trong bài “Trừu tư” (Nêu (rõ) tâm tư) và bài “Tư mỹ nhân” (Nhớ người đẹp) của Khuất Nguyên và cả trong thiên “Vũ Cống” của sách Thượng thư để củng cố cho quan điểm của mình mà khẳng định rằng “Ngư phủ” là một cuộc đối thoại thực thụ giữa Khuất Nguyên với ông lão đánh cá.
Trở lên là quan điểm và lập luận của Quách Mạt Nhược mà chúng tôi dẫn theo Sở từ tinh hoa do Tưởng Tích Khang và Trần Anh tuyển chú (Thượng Hải Giáo dục xuất bản xã, 2001, phụ lục số 1, tr. 157). Có vẻ như nhà bác học đã quên bẵng đi rằng, trước cả Sở từ thì mấy câu “Thương Lương ca” đã có mặt trong sách Mạnh Tử rồi. Chính vì sự vô lý này nên chúng tôi hoàn toàn tán thành quan điểm của Mã Mậu Nguyên mà chúng tôi xin thuật lại như sau.
Cuộc đối thoại trong bài “Ngư phủ” rõ ràng đã lấy việc Khuất Nguyên bị lưu đày đến vùng Giang Nam làm bối cảnh mà sau rốt thì Khuất Nguyên đã đi từ sông Nguyên Giang đến sông Tương rồi trầm mình ở dòng Mịch La. Hai câu 27 – 28 nói rõ “Ninh phó Tương lưu – Táng vu giang ngư chi phúc trung” (Thà đi tới sông Tương – Mà chôn trong bụng cá (dưới) sông (còn hơn)) thì đây rõ ràng là một con sông ở Giang Nam. Vậy nói rằng giang trong giang đàm (hoặc giang tân) ở đây là sông Thương Lương ở Giang Bắc thì không thể nào phù hợp với thực tế. Bài “Thương Lương ca” là một bài ca đã lưu hành rộng rãi từ lâu tại nước Sở nên việc Khuất Nguyên mượn lời của nó làm lời của lão chài trong bài phú của mình chẳng qua cũng chỉ là một việc bình thường mà thôi.
Trở lên là lập luận của Mã Mậu Nguyên mà chúng tôi cũng dẫn từ Sở từ tinh hoa (phụ lục số 2, tr. 158).
Tóm lại, Thương Lương trong bài “Thương Lương ca” mà Đức Thánh Khổng nghe được và được ghi lại trong sách Mạnh Tử mới là một con sông mang tính chất địa lý thực thụ chứ sông Thương Lương trong bài “Ngư phủ” của Khuất Nguyên thì lại chỉ là một dòng sông tượng trưng. Đó chỉ là một dòng sông điển cố còn ngư phủ chẳng qua cũng chỉ là một nhân vật tưởng tượng mà thôi. Khuất Nguyên đã trầm mình xuống dòng Mịch La mà chết như sử đã chép chứ không phải là ở sông Thương Lương.
Âm thông dụng của chữ / là lãng với cái nghĩa quen thuộc là “sóng” như ta đã biết. Nhưng trong địa danh đang xét thì nó lại thuộc bình thanh, cụ thể là thanh điệu 1 (viết không có dấu giọng) nên phải đọc là lương hoặc lang vì thiết âm của nó là “lặc ngang thiết, dương vận” (Xin xem Từ hải chẳng hạn). “Lặc ngang” thì là “lang” nhưng “dương vận” (vần (d) -ương) thì lại là lương. Thực ra -ương và -ang đã có duyên nợ ngữ âm lịch sử với nhau từ lâu và ta có hàng loạt dẫn chứng cho lời khẳng định này: cang/cương, đang/đương, đàng/đường, khang/khương, lạng/lượng, nàng/nường, phảng/ phưởng (phất), trang/trương, tràng/trường, v.v.. Vậy tên con sông đang xét đọc thành Thương Lương hay Thương Lang cũng đều có thể chấp nhận được.
§ 982. Kiến thức ngày nay, số 494, ngày 1-5-2004
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết xuất xứ của danh từ “manga” dùng để chỉ truyện tranh trong tiếng Nhật. Có vẻ như đó là tiếng Tagalog (ở Philippines). Hoặc đó là tiếng Bồ Đào Nha chăng? Và đọc thế nào: man-ga hay ma-nga?
AN CHI: Manga (man-ga) là âm Hán Hoà (Hán Nhật) của hai chữ Hán 漫畫 mà âm Hán Việt là mạn hoạ, có nghĩa là tranh châm biếm. Tranh châm biếm thường có cách điệu và cường điệu là đặc điểm mà một số truyện tranh cũng thường có nên mới khiến người Nhật liên tưởng để chọn cách gọi mà ông đã hỏi.
§ 983. Kiến thức ngày nay, số 495, ngày 10-5-2004
ĐỘC GIẢ: Trước đây tôi đã gởi câu hỏi đến ông để nhờ giải đáp nhưng mãi đến nay vẫn chưa được trả lời. Nay xin nêu lại và mong ông sẽ giải đáp cho. Tôi chỉ có một vài quyển Kiều mà mỗi quyển lại ghi một khác về chữ “nghỉ hay nghĩ” ở câu 12 và câu 610.
Về câu 12, Truyện Kiều và một số bài thơ chọn lọc của Nguyễn Du do tác giả Sao Linh sưu tập (Nxb. Thanh niên) ghi “nghỉ” và chú thích: “Nghỉ là tiếng gọi thay như tiếng va, nó, ông ấy.”
Truyện Kiều do Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải (Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, in lần thứ 6 năm 1986) cũng ghi “nghỉ” và chú giải: “Nghỉ: đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (chỉ chung cho cả trai, gái) thường dùng nói những người ngang hàng hay dưới hàng mình, có nghĩa là ông (bà) ta, anh (chị) ta, nó, hắn. Truyện Kiều còn có ba chữ “nghỉ” khác ở các câu 610 (chỉ họ Chung) 894 (chỉ Mã giám sinh), 1188 (chỉ Sở Khanh).”
Trên Kiến thức ngày nay, số 222, ở bài “Nhà văn Khái Hưng và câu chuyện đại từ trong tiếng Việt”, tác giả Vương Trí Nhàn đã viết: “Chữ “nghỉ” có vẻ Việt Nam hơn, song lại có tính cách địa phương. “Nghỉ” chỉ được dùng một lần trong Truyện Kiều”. (tr. 34)
Trong Truyện Thuý Kiều do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo (Nxb. Thanh niên), hai nhà chú giải đã viết về chữ “nghỉ” ở câu 12 là: “Nghỉ là tiếng gọi thay, như tiếng va, nó, ông ấy, v.v.”.
Nhưng quyển Kiều do tác giả Vũ Hữu Tiềm dẫn giải (Nxb. Thanh niên), thì lại ghi “nghĩ” và chú thích là “nghĩ như, kể như”.
Quyển Kim Vân Kiều, English Translation, Footnotes and Commentaries by Lê Xuân Thuỷ (bản 1966 và 1999) cũng ghi “nghĩ”.
Về câu 610, tác giả Vũ Hữu Tiềm ghi “nghỉ” và giảng: “Nghỉ: người ấy (tiếng Hà Tĩnh). Tác giả Nguyễn Thạch Giang cũng ghi “nghỉ” và nói rõ là “chỉ họ Chung”. Còn Sao Linh, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, Lê Xuân Thuỷ thì ghi “nghĩ”.
Vậy theo ông thì tác giả Vương Trí Nhàn muốn nói chữ “nghỉ” ở câu nào và tác giả này khẳng định “nghỉ chỉ dùng một lần trong Truyện Kiều” thì đúng hay sai. Và cụ Nguyễn Du viết “nghỉ” (hay “nghĩ”) ở những câu nào?
AN CHI: Về chữ thứ ba của câu thứ 12 trong Truyện Kiều, trong bài “Nghỉ hay nghĩ?”, in lần đầu trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 2 (40)-1999, in lại trong Tiếng Việt Văn Việt Người Việt (Nxb. Trẻ, 2001) Cao Xuân Hạo đã phân tích một cách tỉ mỉ để chứng minh rằng nếu đọc thành “nghỉ” (đại từ “ngôi thứ ba”), ta sẽ có “một kiểu câu (…) theo mẫu ngữ pháp của (…) tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga (…)” còn nếu đọc thành “nghĩ” (là một từ tình thái) thì “ta sẽ có một câu Kiều đúng ngữ pháp Việt Nam hơn, được hiểu một cách tự nhiên hơn.” Ông viết:
“Câu Kiều đang xét là một câu mở đầu cổ điển cho một văn bản tự sự hay cho một chương hay một hồi trong văn bản ấy, không những trong tiếng Việt, mà cả trong các thứ tiếng khác cũng vậy. Đó là kiểu câu “tồn tại – dẫn nhập” hay “hiện hữu – giới thiệu” (existential – introductory) thường mở đầu cho một câu chuyện cổ tích – loại văn tự sự cổ xưa nhất của tất cả các dân tộc: “Ngày xửa ngày xưa có một nàng tiên sống trên đài hoa cẩm chướng…”*.
Tác giả đã nêu ra nhiều thí dụ để phân tích mà vì khuôn khổ nên chúng tôi chỉ xin dẫn lại mấy trường hợp sau đây (có ghi lại thứ tự cho thích hợp):
(1) a. Ngày xưa có anh học trò, tài sản vẻn vẹn một cái chõng, nhà nghèo đến nỗi không dám mua dầu thắp đèn.
b. Tục truyền sông này có con giải thần mình dài dễ phải đến ba trượng, mỗi năm ăn thịt ba người.
c. Sử vàng ghi chép
Đời trước Hùng vương
Có nàng công chúa
Mắt xanh trời hờn (bài hát cũ, thời 1940 – 1945)
d. Kế đến là một tráng sĩ mình cao chín thước, tướng mạo trông cũng uy dũng, bước lên vũ đài.
Cao Xuân Hạo đã phân tích tường tận về lý thuyết cấu trúc của các thí dụ đã nêu để so sánh với cấu trúc của kiểu câu tương ứng trong vài thứ tiếng châu Âu rồi chỉ ra rằng ngoài những thành phần chung cho cả hai bên thì câu của các ngôn ngữ châu Âu còn có thêm một đại từ liên hệ (pronom relatif/ relative pronoun), chẳng hạn nếu muốn cấu tạo một câu tồn tại – dẫn nhập trong tiếng Anh hay tiếng Pháp tương đương với câu (1) c. của tiếng Việt, ta sẽ có:
(2) a. There was once a princess whose blue eyes made the sky green with envy.
b. Il était une fois une princesse dont les yeux bleus faisait pâlir le ciel de jalousie.
Ông nêu rõ vì tiếng Việt không có những đại từ liên hệ kiểu châu Âu, cho nên nếu muốn biểu thị một cách hiển ngôn thì chỉ có thể dùng những đại từ hồi chỉ chỉ quan hệ sở hữu như (của) nghỉ, (của) chàng, (của) nàng, v.v.. Như vậy, những câu ở (1) sẽ có dạng như sau:
(3) a. Ngày xưa có anh học trò, tài sản của anh vẻn vẹn có một cái chõng, nhà anh nghèo đến nỗi không dám mua dầu thắp đèn.
b. Tục truyền sông này có con giải thần, mình nó dài dễ đến ba trượng, mỗi năm nó ăn thịt ba người.
c. Sử vàng ghi chép
Đời trước Hùng vương
Có nàng công chúa
Mắt xanh của nàng trời cũng phải hờn
d. Kế đến là một tráng sĩ mình chàng cao chín thước, tướng mạo chàng trông cũng uy dũng, bước lên lễ đài.
Và Cao Xuân Hạo kết luận:
“So sánh những câu trên đây, trong đó có dùng một đại từ hồi chỉ để nói rõ mối quan hệ liên đới (quan hệ sở hữu hay quan hệ bộ phận – toàn thể chẳng hạn) giữa DN1 và DN2* như trong các ngôn ngữ châu Âu, với những câu ở (1) trên kia, ta thấy là các đại từ này hoàn toàn thừa, ví không có nó mối quan hệ này cũng đã hoàn toàn minh xác, không còn có chút gì mơ hồ. Nhưng đây không phải chỉ là một “nét rườm”, một lượng thông tin “thừa dư”. Cái dở nhất trong những câu (3) trên đây là mỗi câu đều bị chia ra làm hai khúc rời rạc, không còn có quan hệ lô-gích gì rõ ràng với nhau. Nói cho đúng hơn, đó là hai câu hoàn toàn độc lập, không có quan hệ cú pháp với nhau, và mạch lạc của câu này không còn nữa”*.
Chúng tôi theo quan điểm của Cao Xuân Hạo nên dĩ nhiên cũng cho rằng trong câu 12 là chữ nghĩ chứ không phải đại từ “nghỉ”.
Huống chi, Nguyễn Du có biết thứ tiếng châu Âu nào đâu để mà “chơi” ngữ pháp tiếng Tây trong câu đó. Câu 610 tuy đã nằm ngoài giới hạn của câu tồn tại – dẫn nhập (607 – 608: Họ Chung có kẻ lại già – Cũng trong nha dịch lại là từ tâm) nhưng chữ thứ ba của nó, theo chúng tôi, cũng không phải là một đại từ nên không thể viết thành “nghỉ”. Trước mắt, chúng tôi theo cách hiểu của Đào Duy Anh trong Từ điển Truyện Kiều mà viết thành “nghĩ”. Chúng tôi cũng tán thành Đào Duy Anh (trong công trình đó) mà cho rằng chỉ ở hai câu 894 (dùng để chỉ Mã giám sinh) và 1188 (dùng để chỉ Sở Khanh) thì ta mới có đích thị đại từ “nghỉ” mà thôi.
Chúng tôi không có căn cứ nào để biết được khi viết “Nghỉ (đại từ – AC) chỉ được dùng một lần trong Truyện Kiều” thì tác giả Vương Trí Nhàn muốn nói đến câu Kiều thứ bao nhiêu. Nếu đó là câu thứ 12 thì tác giả đã bỏ quên hai câu 894 và 1188. Nhưng trong câu 12 thì, như đã dẫn Cao Xuân Hạo, đó lại không phải là “nghỉ”. Còn nếu bảo là phải thì rất tiếc là ta lại không biết được lập luận của tác giả ra sao.
§ 984. Kiến thức ngày nay, số 496, ngày 20-5-2004
ĐỘC GIẢ: Chữ “nghỉ ” (đại từ nhân xưng ngôi thứ ba), đặc biệt là chữ “nghỉ ” (của một vài câu) trong Truyện Kiều, có phải là một từ của tiếng địa phương Nghệ Tĩnh không?
AN CHI: Liên quan đến chữ “nghỉ” này và một số chữ khác nữa trong Truyện Kiều, Nguyễn Tài Cẩn có viết như sau:
“Tuy đến đời Tự Đức, Truyện Kiều đã phổ biến rộng ra nhiều vùng, nhiều thế hệ đã tham gia nhuận sắc, riêng bản Duy Minh Thị lại còn được biên tập ở tận miền Nam, nhưng quả có một số từ ngữ vùng Nghệ Tĩnh vẫn còn lưu giữ lại được ở trong tác phẩm, ví dụ ở bản Duy Minh Thị: cáo, đích, trẹ, nen, mùi, nghỉ, đây…”*.
Cứ như lời khẳng định trên đây của Nguyễn Tài Cẩn thì khi Nguyễn Du dùng đại từ nghỉ trong một vài câu Kiều là ông đã dùng tiếng địa phương Nghệ Tĩnh. Nhưng liệu một lời khẳng định như thế riêng đối với từ nghỉ có đúng hay không? Hẳn là những người có nhiều hiểu biết về tiếng Nghệ Tĩnh cũng sẵn sàng cho là đúng. Ta hãy cứ giở một vài quyển từ điển ra xem sao.
Từ điển tiếng Nghệ của Trần Hữu Thung và Thái Kim Đỉnh (Nxb. Nghệ An, 1998) ghi:
“Nghỉ: Nó, hắn.
Vd – Dơ tuồng nghỉ mới kiếm đường tháo lui (Kiều)”.
Từ điển tiếng địa phương Nghệ Tĩnh do Nguyễn Nhã Bản chủ biên (Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1999) cũng ghi:
“Nghỉ. Nó, hắn
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung”. (Truyện Kiều)
Vậy vấn đề chẳng phải đã rõ ràng rồi hay sao? Tuy nhiên, với chúngtôi thì chuyện lại chẳng phải đơn giản như thế nếu ta chịu khó quan sát hiện tượng đang xét theo hướng lịch đại. Đại từ nghỉ chỉ trở thành một đơn vị của tiếng địa phương Nghệ Tĩnh từ thời hiện đại mà thôi chứ ở thời của Nguyễn Du thì chưa.
Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt – Bồ – La) của Alexandre de Rhodes (Roma, 1651) lấy tiếng Đàng Ngoài làm nền tảng đã ghi nhận nó:
“Nghỉ: Người ấy, kiểu nói rất lịch sự”. (Bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb. Khoa học Xã hội, 1991).
Trong Thiên nam ngữ lục, nó đã được dùng đến 25 lần, theo bản phiên âm của Nguyễn Thị Lâm (Nxb. Văn học và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2001) và ta cũng chẳng có cơ sở nào để nói rằng ở thời củaNguyễn Du thì nó đã tuyệt đối không còn được dùng ở Xứ Bắc nữa. Còn ở trong Nam, thì cho đến cuối thế kỷ XIX nó vẫn còn được ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của (tập I, 1895; tập II, 1896).
Vậy khi Nguyễn Du đưa nghỉ vào một vài câu của Truyện Kiều thì đại từ này hãy còn là một từ của ngôn ngữ toàn dân chứ chưa phải là một từ “độc quyền” của tiếng Nghệ Tĩnh như ở thời hiện đại. Chính vì đặc điểm này của nó nên việc chú giải cho đại từ nghỉ trong Truyện Kiều thực ra không đơn giản chút nào.
Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) do Nhóm nghiên cứu văn bản Truyện Kiều hiệu đính và chú thích (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1965) đã cho ở cước chú số 894 (tr. 78) như sau:
“Nghỉ: Nó, hắn, y, thổ âm Nghệ – Tĩnh”.
Truyện Kiều do Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích (Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972) đã ghi ở mục 12 (tr. 343) của phần “Chú thích ” như sau:
“Nghỉ: đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (chung cho cả trai, gái) thường dùng nói những người ngang hàng hay dưới hàng mình, có nghĩa là ông (bà) ta, anh (chị) ta, nó, hắn”.
Còn Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974) thì ghi:
“Nghỉ: Từ xưa nghĩa là nó”.
v.v. và v.v..
Về lời chú giải của Nhóm nghiên cứu văn bản Truyện Kiều thì chúng tôi xin cải chính rằng, như đã nói, nghỉ không phải là “thổ âm Nghệ – Tĩnh” (thực ra dùng thổ ngữ thì sát hơn là “thổ âm”) vì đó là một từ của ngôn ngữ toàn dân vào thời của Nguyễn Du. Chẳng qua, hiện nay nó đã trở thành một từ cổ. Còn từ cổ này hiện vẫn tiếp tục được sử dụng trong phạm vi của thổ ngữ Nghệ Tĩnh thì đây lại là một chuyện căn bản vô can đối với việc chú giải Truyện Kiều. Huống chi, Nguyễn Du vốn sinh ra và lớn lên ở xứ Bắc cho nên ngôn ngữ của ông phải là tiếng nói của xứ Bắc, và đặc biệt là của Kẻ Chợ chứ đâu phải là tiếng Nghệ Tĩnh. Một tài năng “văn chương nết đất thông minh tính trời” như Nguyễn Du có lẽ nào lại đưa từ ngữ của tiếng Nghệ Tĩnh, mà lại là những từ ngữ rất thông thường, vào kiệt tác của mình!
Lời chú giải của Nguyễn Thạch Giang thì lại chẳng hề có giới hạn về cả không gian lẫn thời gian nên chẳng những không làm cho người đọc biết rằng nghỉ là một từ cổ mà cũng không thông báo cho họ biết rằng hiện nay, nếu có được dùng thì nó cũng chỉ còn được dùng ở Nghệ Tĩnh mà thôi.
Chỉ có lời giảng của Đào Duy Anh mới nói rõ đó là một “từ xưa”, nghĩa là một từ cổ nhưng cả Đào Duy Anh, Nguyễn Thạch Giangvànhóm Nguyễn Văn Hoàn đều căn cứ vào sắcthái biểu cảm (ở đây là thái độ xem thường) của từ nghỉ trong tiếng Nghệ Tĩnh mà gán cho nó cái nghĩa như đã thấy. Tác giả Thế Anh đã nêu rõ là ở đây nó mang sắc thái trung hoà chứ không có ý khinh miệt (Xin xem “Trở lại với chữ nghĩ trong truyện Kiều”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 9 (35)-1998, tr. 12). Còn ở một giai đoạn sớm hơn thì, như đã ghi nhận trong từ điển của A. de Rhodes, nó lại còn có sắc thái trang trọng nữa là đằng khác.
Tóm lại, với chúng tôi thì nghỉ trong Truyện Kiều là một từ cổ (dĩ nhiên là thuộc ngôn ngữ toàn dân) mang sắc thái trung hoà và mang nghĩa của đại từ nhân xưng ngôi thứ ba.
§ 985. Kiến thức ngày nay, số 496, ngày 20-5-2004
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Ngư phủ”, Khuất Nguyên đã mượn bài “Thương Lương ca” làm lời của ông lão đánh cá. Trong bài thơ “Bên sông gieo lại vần nghèo”, học giả Giản Chi cũng có nhắc đến “Khúc Thương Lương”:
Ớ ai ca khúc Thương Lương cũ,
“Bát lái hò khoan” vẳng nhịp chèo.
Còn trên đồ sứ xưa của ta cũng thấy có một bài thơ Nôm có nhắc đến “khúc Thương Lương”. Xin ông cho biết nguyên văn bài thơ và tên của tác giả.
AN CHI: Theo Phạm Hy Tùng trong bài “Đôi điều về những áng thơ Nôm trên một số đồ sứ cổ” đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ (Thừa Thiên – Huế) số 4 (22)-1998 thì nguyên văn bài thơ đó như sau:
Một thức nước in trời
Đò ai chiếc lá khơi
Non xanh xem vòi vọi
Dòng biếc thấy vơi vơi
Mắng khúc thương lang khảy
Ưa tình lữ khách chơi
Mong chờ yên sóng gió
Qua lại mặc người đời!*
Theo Phạm Hy Tùng thì đây không phải là thơ của vua Minh Mạng tuy đã có người khẳng định như thế. Tuy không biết được danh tính cụ thể nhưng tác giả đã khẳng định:
“(…) nhà vua có thể biết xuất xứ các bài thơ ấy, ưa thích chúng và vì thế chắc chắn rằng tác giả hai bài thơ này không phải là người Đàng Ngoài (…). Vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, ở Đàng Ngoài, Hán tự được coi là quốc tự và vì sự ràng buộc về quan niệm ấy nên khó có khả năng mấy câu thơ còn lại kia do bậc thân vương hay sĩ phu Đàng Ngoài sáng tác. Ngược lại, những người mở cõi về phương Nam do gần gũi thiên nhiên nên tâm hồn phóng khoáng, dung dị hơn nên chúng có thể là sản phẩm của người Đàng Trong”*.
Trước mắt, chúng tôi chỉ mới có thể dựa vào bài đã dẫn của Phạm Hy Tùng để trả lời ông như trên. Nếu sau này có thêm tư liệu thì chúng tôi sẽ bổ sung. Mong ông sẵn lòng thông cảm cho.
§ 986. Kiến thức ngày nay, số 496, ngày 20-5-2004
ĐỘC GIẢ: Tôi chưa bao giờ thấy danh từ chef (= thủ trưởng) của tiếng Pháp mà lại có giống cái. Thế nhưng có người lại bảo là có mới lạ!
AN CHI: Le Petit Larousse Illustré 2002 có ghi ở cuối mục “chef”:
“Aux sens 1 et 2, le fém. la chef se rencontre dans la langue familière”.
(Ở các nghĩa 1 và 2 ta gặp giống cái la chef trong ngôn ngữ thân mật).
Còn Swissinfo.org ngày 9-5-2004 thì đã gọi bà bộ trưởng ngoại giao của Thụy Sĩ là “la cheffe de la diplomatie (…)”.
“La cheffe” thuộc giống cái hẳn hoi. Và sự thay đổi này là phản ứng của nữ giới một số nước trước xu hướng phân biệt giới tính trong ngôn ngữ.