Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 0972 - 978

 

 

§ 972. Kiến thức ngày nay, số 489, ngày 10-3-2004

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Câu đối ngày xuân” đăng trên tạp chí Ngôn ngữ, số 2 năm 2004, tác giả Thục Phương đã đưa ra đến 27 đôi câu đối để khen ngợi nhưng tôi không biết có trường hợp nào bị chép sai hoặc được khen lố không.

AN CHI: Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin ghi lại những đôi câu đối cần thiết đúng theo nguyên văn mà tác giả Thục Phương đã ghi và cả lời kể rồi lời bình của tác giả này nữa, khi cần thiết.

1.

Đồng trụ chí kim đài thượng lục

Đằng giang tự cổ huyết do hồng.

(Cột đồng trụ đến nay rêu vẫn xanh

Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ.) (tr. 77)

 

Câu đầu vẫn được truyền tụng là:

Đồng trụ chí kim đài dĩ lục,

(Trụ đồng đến nay rêu đã xanh.)

 

Chữ dĩ cho ta biết rằng trụ đồng không phải xanh vì rêu ngay từ đầu khi Mã Viện mới cho dựng (hoàn toàn đúng với thực tế) còn chữ “thượng” thì mặc nhận rằng ngay từ đầu nó đã… đóng rêu (hoàn toàn phản thực tế).

2.

Sấm động Nam bang

Vũ qua Bắc hải. (tr. 77)

Như chúng tôi cũng đã phân tích trên một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây, trong câu đối bằng tiếng Việt thì Nôm đối với Nôm, Hán Việt đối với Hán Việt là một yêu cầu sơ đẳng mà ai muốn làm câu đối cũng đều phải biết. Ở đây sấm là Nôm còn vũ (mưa) là Hán Việt thì làm sao có thể đối với nhau cho chỉnh được?

3.

Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương bồng quỷ tới

Sáng mồng mộtlỏng then tạo hoá, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào. (tr. 78)

 

Câu đối Việt Nam của Phong Châu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991, tr. 26 – 27) chép “bế xuân vào” ở câu sau. Bế đối với bồng thì sát và hay hơn rước nhưng “bồng quỷ tới” thì nghe có phần ép. Có một dị bản “bình dân” hơn mà ý nhị hơn nhiều:

Tối ba mươi khép cửa càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới

Sáng mồng một lỏng then tạo hoá, mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân vào.

 

Cửa đối với then thì thật đẹp. Ta chả đã có thành ngữ cửa đóng then cài đó sao. Đưa đối với đón cũng rất sát và hay vì ta cũng đã có ngữ vị từ đẳng lập đưa đón, ngữ vị từ đón xuân và thành ngữ ma đưa lối, quỷ đưa đường.

4.

Trưởng trưởng, tràng tràng, tràng trưởng trưởng

Tràng tràng, trưởng trưởng, trưởng tràng tràng

(Nghĩa là: Lớn lớn, dài dài, dài lớn lớn

Dài dài, lớn lớn, lớn dài dài.) (tr. 78)

 

Thực ra, đôi câu đối này chỉ có một vần -ương và chỉ viết bằng một chữ Hán là 長 lặp lại 14 lần mà thôi:

Trưởng trưởng, trường trường, trường trưởng trưởng

Trường trường, trưởng trưởng, trưởng trường trường.

5.

“Ông Đồ thôn Đông gắp một miếng chả nhai tóp tép rồi tung ra một vế đối:

- Chả ngon!

Ông đồ thôn Đoài đang bí vì cái từ “chả” hai nghĩa ấy thì may quá từ gầm giường một con cóc nhảy ra, miệng cũng nhai tóp tép (sic). Ông đồ liền đối ngay:

- Cóc sướng!

“Cóc” đối lại “chả” thật tuyệt vì nó cũng mang hai nghĩa như vậy. Ông thôn Đông chịu là giỏi, vờ cắn phải lưỡi và kêu lên:

– Ái! (vừa là tiếng kêu, lại có nghĩa là yêu)

Tiếng kêu làm ông thôn Đoài giật mình, đánh rơi miếng thịt hoen bẩn chiếc quần sộp. Ông đối lại ngay:

– Ố! (vừa có nghĩa là hoen ố, lại có nghĩa là ghét).

Thế là hoà cả làng. Người ra đã hóm, người đối cũng hay. Tài trí dân gian thật tuyệt vời”. (tr. 78 – 79)

Dĩ nhiên là tài trí dân gian thì tuyệt vời.

Nhưng trong trường hợp này mà khen là tuyệt vời thì… hơi oan. Chả thì phải đối với nem, với giò, với canh, v.v., chứ đối với cóc thế nào được!

Còn cóc thì phải đối với ếch, với nhái, thậm chí với cua, với rùa, với cò, v.v. chứ đối với chả thế nào được! Sao lại có thể đem động vật ra mà “đối” với món ăn? Tại Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay, số 154, ngày 20-10-1994, chúng tôi đã nêu ra 6 yêu cầu của một cặp đối hay trong đó có:

“5. Các từ đối nhau phải cùng trường nghĩa với nhau hoặc phải thuộc hai trường nghĩa có thể đối ứng với nhau một cách không khiên cưỡng”, và

“6. Hai câu đối phải hài hoà với nhau về nội dung hoặc về hoàn cảnh chúng được sáng tác”.

Vậy cóc mà đi với chả thì môn đương hộ đối sao được? Dĩ nhiên là ta không nên so sánh với cặp “Tam xuyên – Tứ mục” mà chúng tôi cũng đã có nêu làm dẫn chứng trên Kiến thức ngày nay, số 154 (Xin xem lại số này) vì cặp này có những ưu điểm đặc biệt có thể bù đắp được. Chẳng hạn như hai câu đối ngắn đó đều nói lên đặc điểm của nhân vật: tam xuyên (ba sông) là đặc điểm của Lê Quý Đôn (người có nhà ở gần ngã ba sông) còn tứ mục (bốn mắt) là đặc điểm của người bạn của ông bố (người đeo mục kỉnh). Chứ chả ngon thì nói lên cái chất lượng của món ăn còn cóc sướng thì lại nói lên cái cảm giác của một động vật thì “ăn nhập” với nhau thế nào được!

Đến như “Ái!” và “Ố!” mà cũng được xem là một cặp câu đối thì còn biết nói thế nào được nữa! Cả hai đều thuộc vần trắc cả thì đối với nhau ở chỗ nào? Huống chi, theo sự phân tích của tác giả Thục Phương thì ái là một thán từ (tiếng kêu) còn ố lại là một tính từ (có nghĩa là hoen ố). Thán từ mà đối với tính từ sao được? Có thể có ai đó muốn vớt vát mà nói rằng ố cũng là một thán từ. Xin thưa rằng tiếng Việt không có thán từ “ố”. Chỉ có một số người sính tiếng Tây mới nói “ố là la” nhưng ta cũng không thể tách “ố” ra để đưa vào tiếng Việt.

6.

“Từ khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây, lại xuất hiện câu đối bằng tiếng Pháp cũng đối chỉnh và đọc rất đúng âm điệu bằng trắc.

Đây là câu đối tả cảnh nhà có đám bằng tiếng Pháp:

Sur l’autel, ceci cela

Dans la cour, les uns les autres

 

(Trên bàn thờ, lắm thứ ngổn ngang

Ở ngoài sân, đông người lố nhố.) (tr. 79)

 

Xin thú thật là từ ngày biết thưởng thức câu đối đến nay, đây là lần đầu tiên chúng tôi mới biết văn chương tiếng Việt lại có “câu đối bằng tiếng Pháp cũng chỉnh và đọc rất đúng âm điệu bằng trắc”. Dĩ nhiên nếu lời khẳng định của tác giả Thục Phương mà đúng thì tiếng Pháp cũng là một ngôn ngữ đơn lập điển hình có sáu thanh điệu y chang như tiếng Việt. Rất may mắn là sự thật lại chẳng phải như thế.

Nếu muốn cho hai câu đối kia “cũng rất đúng âm điệu bằng trắc” thì ta phải “bỏ dấu” (= đánh dấu ghi thanh điệu) cho các âm tiết trong đó mà đọc, chẳng hạn:

“Xuyệc lỗ ten, xơ xì xơ lá

Đằng la của, lê doóng lê dồt” (!)

 

Dĩ nhiên nếu có ai đó cắc cớ đọc như thế để cho Tây nghe được thì Tây cũng chỉ còn biết… ôm bụng mà cười. Huống chi hai câu đối kia chỉ là hai câu tiếng Tây… bồi mà thôi.

Đôi câu đối “viếng” toàn quyền Pasquier mà tác giả Thục Phương đưa thêm vào để chứng minh cho thuyết “câu đối bằng tiếng Pháp trong tiếng Việt” cũng chẳng may mắn gì hơn.

7.

“Hầm ba ba đã chín

Chở cát cát đầy xe”. (tr. 80)

 

Tác giả giải thích rằng “ba ba là con ba ba nhưng cũng là ba lần ba bằng chín (3 ⨯ 3 = 9) mà chín vừa là tính từ (đã được hầm chín) lại vừa là số từ (9)”. Còn “cát cát là hạt cát, nhưng tiếng Pháp, cát (quatre) là số 4; cát cát là 4 ⨯ 4 = 16. Tiếng Pháp, 16 là seize, đọc là xe nên xe ở đây vừa là cái xe bò, vừa là số 16”. Và tác giả khen: “Thật tài tình! Vế ra chơi chữ tiếng Việt, vế đối lại chơi chữ cả Việt – Pháp, và cả hai vế đều đối nhau bằng phép tính nhân rất chỉnh”.

Nhưng tài tình thế nào được khi mà vế ra chỉ có tiếng Việt còn vế đối lại lại có cả tiếng Pháp vì “tiếng đối lại của câu dưới phải theo sát tiếng tương ứng của câu trên về tất cả các đặc điểm ngữ học của nó”*. Tài tình thế nào được khi chín là một tính từ (“đã được hầm chín) mà đối lại với nó thì xe lại là một danh từ (“cái xe bò”). Huống chi, người Việt chỉ nói “chở cát” chứ ai lại nói “chở cát cát”! Đối với người biết tiếng Việt thì câu sau chỉ có thể được ngắt thành:

Chở cát/cát đầy xe (chứ không bao giờ có thể là “chở cát cát/đầy xe”). Với cách ngắt câu đúng cảm thức của người Việt như thế thì ở đây ta cũng chẳng làm gì có phép nhân “cát cát = xe” (4 ⨯ 4 = 16).

 

§ 973. Kiến thức ngày nay, số 490, ngày 20-3-2004

ĐỘC GIẢ: Mục “Thông tin” trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2-2004, trang 73 – 74, có một mẩu tin nhan đề “Phát hiện tấm biển “Đài kỳ” bằng đá trong thành cổ Sơn Tây (Hà Tây)” do tác giả Kim Dung viết. Mẩu tin có đoạn: “Vào hồi 17h30 ngày 11-11-2003, trong lúc chỉ huy tôn tạo Cột cờ Thành cổ Sơn Tây, ông Nguyễn Hữu Nhu, cán bộ Công ty xây dựng Bình Minh, thị xã Sơn Tây đã phát hiện tại tường phía Tây Cột cờ Thành cổ Sơn Tây một di vật cổ bằng đá xanh trên có khắc hai chữ “Đài kỳ” (nghĩa là Kỳ đài)”. Mẩu tin có in kèm ảnh chụp với dòng ghi chú: Tấm biển “Đài kỳ” bằng đá được phát hiện trong Thành cổ Sơn Tây. Trong ảnh, ta thấy được hai chữ Hán khắc từ trái sang phải như sau: 㙶 旗.

Xin hỏi: Hai chữ Hán này phải “đọc chung” như thế nào mới đúng? Chữ đầu tiên (bên trái) là “đài” hay “đường”? Ở Trung Quốc ngày xưa người ta có dùng chữ “đài” (hay “đường”) này không? Và hiện nay bên Trung Quốc, người ta – dĩ nhiên là trí thức, nhà văn, nhà báo, v.v., chứ không phải học sinh tiểu học! – có viết sai nét, thiếu nét như thế nữa hay không?

AN CHI: Chữ đầu tiên (bên trái) mà ông đã hỏi thực chất là một chữ made in China từ xưa. Trong các tự thư của Trung Hoa, có quyển như Tự vựng thì thừa nhận rằng đó là một biến thể (dĩ nhiên là do nhầm lẫn mà ra) của chữ đài; có quyển như Chính tự thông thì cho rằng đó là chữ “đường” bị viết sai vì xưa kia tự hình của “đường” là 㙶. Còn chữ “đài” chính quy thì lại là 臺 và chữ “đường” hiện nay là 堂, như ông chắc cũng đã biết. Vậy thì dù sao chúng ta cũng phải thừa nhận rằng chữ đầu tiên trong hai chữ trên tấm bia ở thành cổ Sơn Tây là chữ đài.

Do tính chất phức tạp của chữ Hán nên việc viết sai nét, thiếu nét là chuyện vẫn thường xảy ra, dĩ nhiên là kể cả tại nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ngày nay, và kể cả với tầng lớp trí thức. Chỉ riêng trên một kỳ thôi, của tờ tạp chí Giảo văn tước tự (Cắn văn nhai chữ) ở Thượng Hải, số 5-1998, ta cũng đã có thể thấy được ít nhất là ba mẩu châm biếm ngắn về mấy bức tranh châm biếm mà phần lời có chữ bị viết sai. Nói có sách, mách có chứng, chúng tôi xin sao in những bức tranh đó kèm theo đây để ông và bạn đọc tiện quan sát.

Mẩu thứ nhất của Cao Lương, ở trang 20, có nhan đề “Ngật hoại liễu chuỷ” (Ăn hỏng “mồm” rồi).

Mẩu thứ nhất

 

Mẩu này châm biếm lại một bức tranh châm biếm nhan đề “Tửu hậu thổ chân ngôn” (Nhậu xong nôn lời thật), in trên một kỳ Phúc kiến nhật báo. Bức tranh đả kích bọn lợi dụng quyền thế mà “ăn như hạm“ với lời lẽ thốt ra từ miệng của tay cán bộ trong bức tranh như sau:

“Ngã đích chuỷ toàn thác giá khoả “nha” đích phúc lạp”.

(Miệng tôi toàn nhờ vào phúc của cái “răng” này đấy).

Trong câu trên, chữ chuỷ 嘴 là mồm đã bị viết sai thành (chữ giác 角 ở phần dưới của bên phải bị viết sai thành chữ dụng 用).

Vì thế nên tác giả Cao Lương kết luận: “Rất tiếc là trong những lời nói thật mà vị cán bộ béo phệ thốt ra lúc tửu hậu lại có chữ 嘴 mà không ai có thể biết là chữ gì. Xem ra, ăn quá nhiều nên ăn hỏng luôn cả mồm (ám chỉ chữ chuỷ là mồm bị viet sai).

Mẩu thứ hai của Điền Xá Lang ở trang 33, có nhan đề là “Vô khẩu bất thành cao” (Không miệng chẳng thành kem).

Mẩu thứ hai

 

Trong bức tranh, ta thấy chung quanh người đẹp có vòng ngực và vòng mông “phong phú” là ba anh chàng tiếp thị. Anh bên trái cầm tờ quảng cáo mang năm chữ “Thỉnh dụng phong nhũ cao”(Mời dùng kem làm to vú). Anh ta chỉ vào ngực người đẹp mà nói: “Tố nữ nhân đĩnh hảo”(Làm (cho ngực) phụ nữ nhô cao). Khổ nỗi trong tờ quảng cáo thì chữ cao 膏 là kem lại thiếu mất chữ khẩu 口 phía dưới, nghĩa là đã bị viết sai thành .

Vì thế nên tác giả Điền Xá Lang mới “khều” là “vô khẩu bất thành cao: nghĩa là không có (chữ) khẩu thì không thành (chữ) cao. Câu này cũng có thể hiểu là “Không có miệng thì không thành kem”.

Mẩu thứ ba là của Ngô Thu Vân ở trang 38, có nhan đề là “Mỹ tại hà xứ” (Đẹp ở chỗ nào).

Mẩu thứ ba

 

Trong tranh, ta thấy có tấm biển mang hai dòng chữ “Mỹ thuật gia đại toàn Biên tập bộ” (Ban biên tập Toàn thư các nhà mỹ thuật). Còn sau đây là lời nói của vị cán bộ phụ trách:

– Bạch Thạch đồng chí, nhĩ bất giao tiền, giá thượng diện tựu một hữu nhĩ đích danh.”

(Đồng chí Bạch Thạch, đồng chí mà không nộp tiền thì trong này sẽ không có tên của đồng chí đâu).

Tề Bạch Thạch là một danh hoạ của Trung Quốc thời hiện đại, tiếng tăm lừng lẫy không chỉ ở trong nước mà cũng phải đóng tiền mới được vào toàn thư. Nhưng ở đây ta chỉ chú trọng đến mặt chữ mà thôi: chữ mỹ 美 (trên dương 羊, dưới đại 大) đã bị viết sai thành (thiếu mất một nét ngang).

Vì thế nên Ngô Thu Vân mới kết luận: “Dương đại vi mỹ (chữ dương, chữ đại làm thành chữ mỹ). Chữ mỹ thiếu một nét ngang thì mỹ thuật gia mỹ (đẹp) ở chỗ nào?”

Trở lên là ba dẫn chứng lấy ở một tờ tạp chí của Trung Quốc để ông và bạn đọc tin rằng ở Trung Quốc “người ta” cũng có thể viết sai như người… thường mà thôi.

Trở lại với cách đọc hai chữ Hán trên tấm bia ở thành cổ Sơn Tây, chúng tôi xin khẳng định rằng nó chỉ có thể được đọc thành Kỳ đài mà thôi chứ không thể nào là “đài kỳ” được cả.

Mẩu tin ông nêu có thông báo rõ thời điểm tạo bia là “Minh Mệnh thập tam niên chính nguyệt nhất nhật tạo”, nghĩa là “làm ngày mồng một tháng giêng năm Minh Mệnh thứ 13 (1832)”. Ở thời điểm thập kỷ 30 của thế kỷ XIX thì chẳng làm gì có cách đọc chữ Hán viết hoặc khắc theo hàng ngang mà lại theo thứ tự từ trái sang phải như có thể thấy “đều trời” tại nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ngày nay cả. Hồi xưa, người ta chỉ viết, nên dĩ nhiên là cũng phải đọc, từ phải sang trái mà thôi.

Một bức hoành phi, nhìn trực diện từ trái sang phải, ghi ba chữ “phương lưu đức”, phải được đọc thành “đức lưu phương”.

Một bức vãn, nhìn trực diện từ trái sang, ghi bốn chữ “cảnh tiên du vãng”, phải được đọc thành “vãng du tiên cảnh”. Gần với ta hơn, chỉ 5 tháng trước ngày thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, một quyển bản đồ in vào tháng 4 năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 38 (1949), có nhan đề nhìn vào theo kiểu ngày nay là “đồ tinh tỉnh phân quốc trung” phải được gọi là “Trung Quốc phân tỉnh tinh đồ” và nhà xuất bản là “Á Quang dư địa học xã” chứ không phải là “xã học địa dư quang á”. v.v. và v.v.. Vậy dù chỉ có hai chữ, nhưng nếu hai chữ đó cũng được “dàn hàng ngang” thì ta phải đọc nó thành “kỳ đài” chứ tuyệt đối không thể nào đọc là “đài kỳ” được.

Huống chi, trong tiếng Hán thì “đài kỳ” gần như là một cấu trúc không ai dùng tới. Nếu muốn dùng bừa cho ra nghĩa thì đó sẽ là “cờ (đang cắm trên) đài”. Chỉ có hai tiếng kỳ đài mới thực sự là một cấu trúc tự nhiên trong từ vựng và ngữ pháp của tiếng Hán và nghĩa của nó là: kiến trúc theo kiểu nền đắp cao, có thể có bậc, trên đó có cột để treo cờ. Tác giả của mẩu tin ngắn ngủi kia thì lại ngỡ rằng “kỳ đài” là một cấu trúc “thuần Việt” còn “đài kỳ” mới là cấu trúc tiếng Hán chánh cống nên đã dùng cái trước để giảng cái sau mà viết rằng “đài kỳ nghĩa là kỳ đài”.

Tóm lại, hai chữ đang xét chỉ có thể đọc thành kỳ đài mà thôi và nếu muốn dùng “Nôm” để giảng Hán thì ta cũng chỉ có thể miễn cưỡng nói rằng kỳ đài là… “đài cờ” (cả đài lẫn cờ đều là những hình vị độc lập) chứ không làm sao có chuyện “đài kỳ” mà lại là… kỳ đài được cả.

 

§ 974. Kiến thức ngày nay, số 491, ngày 1 -4-2004

ĐỘC GIẢ: Báo Le Nouvel Observateur điện tử nouvelobs.com ngày thứ năm 11-3-2004, mục “La journée du jeudi heure par heure” có mẩu tin ngắn sau đây về những cuộc đánh bom trong ngày tại một số nhà ga ở thủ đô Madrid của Tây Ban Nha, nguyên văn như sau:

“16h45. L’ ambassadeur d’Espagne aux Etats-Unis, Javier Ruperez, estime que les attentats correspondent au “11 septembre” de l’ Espagne.”

Tôi không hỏi về mặt chính trị mà chỉ nhờ ông An Chi nhận xét xem câu trên đâycó gì bất thường về mặt ngôn từ hay không.

AN CHI: Chắc ông cũng sẵn sàng đồng ý rằng về mặt ngữ pháp thì câu trên đây hoàn toàn không có vấn đề gì. Nhưng về mặt tu từ thì chắc ông cũng sẵn sàng đồng ý là có. Để một số bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin dịch câu đó sang tiếng Việt.

“16g45. Đại sứ của Tây Ban Nha tại Mỹ Javier Ruperez đánh giá những cuộc tàn sát (đó) tương đương với vụ “11 tháng chín” của Tây Ban Nha.”

Ta có thể dễ dàng thấy rằng với cách hành văn này thì tác giả muốn dùng cụm từ “11 septembre” (vụ 11 tháng chín (năm 2001 ở Mỹ)) để so sánh mà nêu bật tính chất tàn bạo và nghiêm trọng của những vụ đánh bom hôm 11-3-2004 tại một số nhà ga ở Madrid. Tiếc rằng đây lại là một biện pháp tu từ nửa vời mà nếu ta có muốn gọi là ẩn dụ (métaphore) cũng không được nhưng có muốn gọi là tỉ dụ (comparaison (có người gọi là similitude)) cũng không xong.

Để đơn giản hoá việc phân tích – vả lại ở đây cũng không thật cần thiết phải làm đến như thế -, chúng tôi sẽ không đi vào sự khác nhau giữa tỉ dụ và ẩn dụ theo lý thuyết của ngữ học hiện đại mà chỉ nêu lên sự khác nhau căn bản của hai biện pháp tu từ đó về mặt hình thức. Và vì cái hình ảnh đang bàn có liên quan đến Tây Ban Nha, nên, để phân tích, chúng tôi cũng xin mượn một thí dụ về hình ảnh của đất nước này trong một câu của Ed. Burke mà chúng tôi dẫn từ Rhétorique générale của J. Dubois và các tác giả khác (Editions du Seuil, 1982, p. 112):

L’Espagne – une grande baleine échouée sur les plages d’Europe

(TâyBan Nha – một con cá voi to mắc cạn ở bờ biển châu Âu)

Ta biết rằng về mặt tu từ thì “une grande baleine échouée sur les plages d’Europe” là một ẩn dụ. Nếu ta thêm động từ être vào thành:

L’ Espagne est une grande baleine échouée sur les plages d’Europe

thì đó vẫn còn là một ẩn dụ nhưng nếu ta lại thêm comme (như) vào sau động từ être thành:

L’Espagne est comme une baleine échouée sur les plages d’Europe

thì ta sẽ chỉ có một tỉ dụ chứ không phải là ẩn dụ nữa. Đây là chuyện hoàn toàn dễ thấy về mặt hình thức: khi ta có những từ dùng để so sánh như: comme, pareil à, semblable à, de même que (đại khái đều có nghĩa là “(giống, cũng) như”), v.v., hoặc những từ, ngữ tương tự về nghĩa, thì ta sẽ có tỉ dụ. Xin nêu thêm mấy thí dụ đơn giản nữa, mượn từ Sémantique de la métaphore etde la métonymie của Michel Le Guern (Larousse, Paris, 1973) cho dễ thấy vấn đề (và chủ yếu cũng chỉ là về mặt hình thức):

– Jacques est bête comme un âne (I)

(Jacques ngu như (một con) lừa).

– Jacques est comme un âne (II)

(Jacques cũng như (một con) lừa).

– Jacques est un âne (III)

(Jacques là một con lừa).

– Quel âne! (IV)

(Đồ con lừa!). (Sđd, tr. 62)

Nếu (III) và (IV) là những ẩn dụ thì (I) và (II) lại là những tỉ dụ. Một đằng là so sánh “thập thò” còn một đằng thì lại là so sánh “huỵch toẹt”. Từ trên đây suy ra, với động từ correspondre (à) (tương đương (với)) thì cái hình ảnh “11 septembre” của mẩu tin trên nouvelobs.com chỉ có thể là một tỉ dụ mà thôi chứ dứt khoát không thể nào khác được. Nhưng cũng chính vì thế mà cái danh từ (d’) Espagne đi theo sau nó mới là vô duyên! Đáng lẽ phải viết:

“Les attentats correspondent au “11 septembre” des Etats-Unis.”

(Những cuộc tàn sát (ngày 11-3-2004 tại Madrid) tương đương với vụ “11 tháng chín” của Mỹ)

thì tác giả của mẩu tin kia lại viết:

“Les attentats correspondentau “11 septembre”de l’Espagne.”

(Những cuộc tàn sát (đó) tương đương với vụ “11 tháng chín” của Tây Ban Nha).

Vô duyên chính là ở chỗ vụ “11 tháng chín” xảy ra ở Mỹ chứ có phải ở Tây Ban Nha đâu! Vậy nếu muốn dùng tỉ dụ thì phải viết:

“Những cuộc tàn sát (đó) tương đương với vụ “11 tháng chín” của Mỹ.”

còn nếu muốn dùng ẩn dụ thì phải viết:

“Những cuộc tàn sát (đó) là một vụ “11 tháng chín” của Tây Ban Nha.”

Mẩu tin tiếng Pháp kia hoàn toàn không sai về mặt ngữ pháp nhưng lại hoàn toàn sai về mặt liên tưởng (ẩn dụ và tỉ dụ là những biện pháp tu từ cấu tạo theo quan hệ liên tưởng). Nói cho rõ ràng ra, trong câu đang xét, nếu muốn dùng “corresp ondre (à)” thì phải dùng “Etats-Unis” còn nếu muốn dùng “Espagne” thì phải dùng “être”.

Không riêng nhà báo người Pháp tác giả của câu trên đây mới lẫn lộn ẩn dụ với tỉ dụ. Ở ta, có một giáo trình đại học được giảng từ năm học 1961 – 1962, nghĩa là từ hơn 40 năm nay, cũng đã lẫn lộn hai thứ đó với nhau. Trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983), tác giả Cù Đình Tú gọi tỉ dụ là “so sánh tu từ (so sánh hình ảnh)” và viết:

“Về mặt hình thức, so sánh tu từ khác với mọi cách tu từ cấu tạo theo quan hệ liên tưởng ở chỗ bao giờ cũng công khai phô bày hai vế:

“ – Vế được so sánh.

“ – Vế so sánh.

“ (…) Hai vế gắn với nhau lập thành các hình thức so sánh theo công thức sau đây:

“a/ A như (tựa như, chừng như…) B

“Thí dụ:

“Đôi ta làm bạn thong dong

“Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng”

“b/ A bao nhiêu B bấy nhiêu

“Thí dụ:

“Qua đình ngả nón trông đình

“Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”

“c/ A là B

Ở công thức so sánh kiểu này, từ “là” có ý nghĩa và có giá trị tương đương từ so sánh “như” nhưng có sắc thái ý nghĩa khác. “Như” có sắc thái giả định còn “là” có sắc thái khẳng định

“Thí dụ:

“ – Lũ đế quốc như là bầy dơi hốt hoảng (sắc thái giả định)

“ – Lũ đế quốc là bầy dơi hốt hoảng (sắc thái khẳng định)

“Kiểu so sánh này cũng khác với phán đoán lôgich khẳng định có công thức “S là P”. Ở phán đoán lôgich khẳng định nếu ta thay hệ từ lôgich “là” bằng “như là” thì nội dung cơ bản của phán đoán lập tức bị thay đổi, giá trị khẳng định lôgich sẽ không còn.

“Thí dụ:

“ – Em là con gái Bắc Giang (khẳng định lôgich)

“ – Em như là con gái Bắc Giang (không khẳng định)

“Trái lại ở so sánh tu từ, nếu thay “là” bằng “như là” thì nội dung cơ bản không thay đổi, chỉ thay đổi về sắc thái ý nghĩa: từ sắc thái khẳng định chuyển sang giả định”*.

Xem ra, ta còn phải bàn kỹ thêm về các kiểu diễn đạt như: “giả định”, “khẳng định”, “không khẳng định” theo sự phân biệt của Cù Đình Tú nhưng ngay trước mắt thì chúng tôi muốn nhắc rằng “khẳng định” phải đối lập với “phủ định” chứ không phải là với “giả định”. Đồng thời cái “hình thức so sánh” (tức tỉ dụ) theo công thức “A là B” thực chất là ẩn dụ chứ không phải tỉ dụ (so sánh tu từ). Với “là”, bất kể ta có gọi nó là vị từ (ngữ pháp) hay “hệ từ lôgich”, bao giờ ta cũng chỉ có ẩn dụ chứ không phải tỉ dụ. Đây là một điều khẳng định có tính chất “giáo khoa” như đã được phân biệt rõ trong The Encyclopedia of Language and Linguistics do R.E. Asher chủ biên (Pergamon Press, 1994), quyển 5, tr. 2.453:

The metaphor “Man is a wolf,” for example, would be an ellipsis from the comparison “Man is like a wolf.”

(Cái ẩn dụ “(Con) người là (con) sói”, chẳng hạn, hẳn là dạng tỉnh lược từ cách so sánh “(Con) người giống như (con) sói.”

Trên đây là ý của Aristotle và dĩ nhiên là chúng tôi cũng chỉ mượn để nói riêng về mặt hình thức mà thôi.

 

§ 975. Kiến thức ngày nay, số 492, ngày 10-4-2004

ĐỘC GIẢ: Tại mục “Bạn đọc đặt câu hỏi” trên báo Sài Gòn giải phóng thứ bảy, số 678, ngày 20-3-2004 (tr. 29), giải đáp cho câu “Bá Nha và Tử Kỳ ở vào thời nào của Trung Quốc xưa?”, PGS. TS. Lê Trung Hoa đã trả lời nguyên văn như sau:

“Bá Nha và Tử Kỳ là hai nhân vật sống vào đời Tống (960 – 1279).”

Xin cho biết giải đáp như thế có đúng không.

AN CHI: Hai người bạn tri âm này sống vào thời Xuân Thu (722 tr. CN – 476 tr. CN) chứ không phải vào đời Tống.

 

§ 976. Kiến thức ngày nay, số 492, ngày 10-4-2004

ĐỘC GIẢ: “Tin thể thao” ở trang 13 của báo Tuổi trẻ thứ Ba, ngày 23-3-2004 có mẩu tin sau đây:

“Lễ lấy lửa cho ngọn đuốc Olympic Athens 2004 sẽ diễn ra vào ngày 25-3 tại ngọn núi Olympic (Hy Lạp). Sau buổi lễ, ngọn đuốc sẽ chu du một vòng quanh thế giới kéo dài 78 ngày và trở về Athens vào ngày khai mạc Olympic 2004 là 13-8.”

Xin vui lòngcho biết “Olympic” là “ngọn núi” nào ở Hy Lạp.

AN CHI: Nước Hy Lạp chẳng có ngọn núi nào tên là “Olympic” cả. Nhưng nước Mỹ thì có. Đó là dãy núi Olympic (Olympic Mountains), một trong những dãy núi Bờ Biển (Coast Ranges) trên bán đảo Olympic (Olympic Peninsula) thuộc vùng Tây Bắc tiểu bang Washington, nằm giữa vịnh Puget Sound và Thái Bình Dương.

Còn từ olympic liên quan đến sự kiện thể thao quốc tế sẽ diễn ra tại Hy Lạp vào tháng 8 năm 2004 thì lại chẳng phải là một địa danh. Đó là một tính từ mà tiếng Anh đã trực tiếp mượn từ tính từ olympicus của tiếng La Tinh. Olympicus có nghĩa là “liên quan đến vùng Olympia, liên quan đến (các) cuộc thi olympic”, như đã cho rõ ràng trong Dictionnaire latin – français của Ch.Lebaigue (Paris, 1960). Olympia là một thị trấn ở Péloponnèse, nơi đã diễn ra các cuộc thi olympic thời cổ đại cứ bốn năm một lần để tôn vinh thần Zeus (Jupiter). Đó là một thị trấn mà về địa hình là một vùng đồng bằng chứ chẳng phải núi non gì cả. Vậy ta không nên lẫn lộn Olympia (Pháp: Olympie) với Olympus (Pháp: Olympe) vì một đằng là thị trấn ở đồng bằng còn một đằng thì lại là núi non, như đã nói rõ tại một vài kỳ Chuyện Đông chuyện Tây cách đây khá lâu. Người Mỹ đã phân biệt đúng hai địa danh này khi vận dụng danh từ Olympus để đặt tên cho ngọn núi cao nhất trong dãy Olympic Mountains và Olympia để đặt tên cho thủ phủ của tiểu bang Washington.

Sự thật là như thế nhưng tiếc rằng mục “Tin thể thao” tối 25-3-2004 của Đài truyền hình Bình Dương (BTV) lại nói rằng lửa Olympic 2004 được lấy từ “núi Olympia”. Thật là không hổ mặt cho cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” của VTV3 vì hậu quả của nó đã “phát tán” nhãn tiền. May thay, chẳng riêng gì ta mới sai, mới nhầm như thế. Tây cũng nhầm, cũng sai. Nói về nguồn gốc của các từ “Olympiad, Olympian, Olympic, v.v.”, trong Origins (Routledge &Kegan Paul London, Third Edition, 1961), Eric Partridge đã viết:

“All come from Gr Olumpos, that mountain which the Ancient Greeks believed to be the dwelling – place of the Gods (…)”.

(Tất cả đều bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Olumpos (La Tinh: Olympus – AC), ngọn núi mà người Hy Lạp cổ đại tin là chỗ ở của các vị thần (…)).

Eric Partridge vì quá uyên bác về từ nguyên học nên đã quên mất kiến thức của một bài địa lý sơ đẳng! Olympic mà lại diễn ra trên núi Olympus thì vận động viên chỉ có nước thi… trèo đèo lội suối mà thôi.

Trở lại với mẩu tin trên báo Tuổi trẻ, chúng tôi xin xác định rằng lễ lấy lửa cho ngọn đuốc Olympic Athens 2004 diễn ra ngày 25-3 không phải tại “núi Olympic (Hy Lạp)” – vì, như đã nói ở trên, Hy Lạp không có “núi Olympic” – mà tại Olympia, là một miền đồng bằng nơi đã diễn ra các kỳ thi Olympic thời cổ đại, bắt đầu từ năm 776 tr. CN. Trang web của Olympic Athens 2004 (www. athens2004. com), bản tiếng Pháp, đã cho như sau:

“Le Relais de la Flamme Olympique fait passer d’un coureur à autre la Torche qui partant d’Olympie, en Grèce, achève son parcours dans le stade de la ville hôte des Jeux”.

(Cuộc chạy tiếp sức (rước) Ngọn lửa Olympic chuyển từ vận động viên chạy này sang vận động viên chạy khác Ngọn đuốc xuất phát từ Olympie (tức Olympia – AC), ở Hy Lạp, (rồi) chấm dứt lộ trình của nó tại sân vận động của thành phố chủ nhà của các cuộc thi.)

Còn bản tiếng Anh thì viết:

“The Olympic Torch Relay is the transfer of the Olympic Flame from Ancient Olympia, Greece, to the stadium of the city hosting the Opening Ceremony ofthe Games”.

(Cuộc chạy tiếp sức rước Ngọn đuốc Olympic là sự luân chuyển Ngọn lửa Olympic từ (vùng đồng bằng) Olympia cổ xưa của Hy Lạp đến sân vận động của thành phố đăng cai Lễ khai mạc các cuộc thi.)

Vậy thì Hy Lạp không có ngọn núi nào tên “Olympic” còn Olympia, nơi xuất phát của Ngọn đuốc Athens 2004 cũng không phải là tên của một ngọn núi nào ở Hy Lạp mà là tên một vùng đồng bằng tại đó có một thị trấn cùng tên và là nơi diễn ra các cuộc thi Olympic cứ bốn năm một lần ở Hy Lạp thời cổ đại. “Đỉnh (núi) Olympia” chỉ tồn tại trong cái tên độc đáo của một tiết mục do VTV3 sáng tác ra mà thôi.

 

§ 977. Kiến thức ngày nay, số 492, ngày 10-4-2004

ĐỘC GIẢ: Trong câu trả lời cho ông Phan Đức Tuệ trên Kiến thức ngày nay, số 489, tôi thấy có hai tiếng “cát cát” (chở cát cát đầy xe). Hồi kháng chiến chống Pháp, có lần tôi bị bắt làm tù binh, thường bị buộc đi làm khổ sai trong các trại lính Tây. Tôi nghe bọn lính Pháp gọi một loại xe tải nhẹ 4 bánh là “quatre-quatre” để phân biệt với các loại xe tải nặng 6 bánh, 8 bánh, 10 bánh (nhưng không nghe thấy gọi các loại xe này là “six-six”, “huit-huit”, “dix-dix”).

“Chở cát cát đầy xe” có thể có nghĩa là “chở bằng (xe) quatre-quatre, đầy xe”.

Viết mấy dòng này, tôi chỉ muốn nêu lên tiếng lóng “quatre-quatre” và nghĩa của nó. Còn về toàn câu trả lời, tôi tán thành ý kiến của ông.

AN CHI: Đúng là thời đó Pháp có sử dụng một loại xe như ông đã nhắc đến. Chúng tôi vẫn còn nhớ đó đúng là một loại xe tải nhẹ bốn bánh (như ông đã viết), hiệu Dodge thì phải, giàn xe thấp và thùng xe gần như có hình vuông. Chẳng những đó là một loại xe có thật mà cái danh từ quatre-quatre dùng để chỉ nó cũng có được ghi nhận trong từ điển, chẳng hạn trong Le Petit Larousse Illustré 2002. Mà đây là một danh từ “nghiêm túc” chứ không phải tiếng lóng.

Tuy nhiên, trong câu “chở cát cát đầy xe” thì ta không thể hiểu “cát cát” là loại xe quatre-quatre vì trong trường hợp này, tiếng Việt chánh cống buộc ta phải nói: Chở đầy xe cát cát (quatre-quatre).

 

§ 978. Kiến thức ngày nay, số 492, ngày 10-4-2004

ĐỘC GIẢ: Có một bài thơ chữ Hán mà tôi chỉ còn nhớ được hai câu đầu:

Yên thảo như bích ti,

Tần tang đê lục chi.

 

Xin cho biết nhan đề, tên tác giả và nguyên văn đầy đủ của bài này.

AN CHI: Đó là bài Xuân tư (chứ không phải “tứ”) của Lý Bạch:

Yên thảo như bích ti,

Tần tang đê lục chi.

Đương quân hoài quy nhật,

Thị thiếp đoạn trường thì

Xuân phong bất tương thức,

Hà sự nhập la vi.

 

Nguyễn Thị Bích Hải đã phiên nhan đề là “Xuân tứ” và dịch nghĩa cả bài như sau:

Tứ xuân

Cỏ đất Yên như tơ biếc, Dâu đất Tần xoà cành xanh.

Đương khi chàng nhớ nhà, Chính là lúc thiếp đứt ruột. Gió xuân chẳng quen nhau Việc chi lọt vào trong màn the?*

 

Tác giả có cho in bản dịch bằngthơ lục bát của K.D. như sau:

Cỏ Yên như sợi tơ xanh,

Dâu Tần xanh ngắt rủ cành xum xuê.

Khi chàng tưởng nhớ ngày về,

Chính là khi thiếp tái tê nỗi lòng.

Gió xuân ai biết cho cùng,

Cớ sao len lỏi vào trong màn là.

 

 

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3