Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 0962 - 971
§ 962. Kiến thức ngày nay, số 482, ngày 1 -1 -2004
ĐỘC GIẢ: Mục “Tin vắn” trên báo Tuổi trẻ ngày 27-12-2003 có mẩu tin sau đây: “Một cặp tua khổng lồ tết từ những dải lụa đỏ đang được trưng bày tại thủ phủ Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Mỗi tua nặng 630kg, dài 18m và rộng 18m (…)”. Xin cho biết tua thực chất là gì và có phải do tiếng Pháp tour mà ra hay không. Đã có tua lại còn có tụi. Vậy tụi là gì và có phải do tiếng Pháp étui mà ra hay không?
AN CHI: Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên đã cho như sau:
“Tua. 1. Vật trang trí gồm nhiều sợi nhỏ, mềm, có màu sắc, thường viền chung quanh hoặc để rủ xuống cho đẹp. Tua cờ. Tua đèn lồng. Tua nón. 2. Vật nhỏ, mềm có hình giống như cái tua. Tua cá mực. Tua cau”.
Chính danh từ tua này đã có mặt trong ngữ vị từ te tua mà nhiều người cứ thật thà ngỡ là một từ “lấp láy”. Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) giảng te tua là “bươm, xơ ra”. Riêng chữ te đã được quyển từ điển này ghi thành một mục từ:
“Te, tính từ (…) bươm ra, xơ ra. Quần áo rách te. Anh khoe cha mẹ anh giàu, sao anh ăn mặc như tàu chuối te”.
Còn Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của cũng giảng te là “rách ra từng miếng (lá cây, hàng giẻ)”.
Vậy nghĩa từ nguyên của te tua chẳng qua là “(có) tua bị te ra, bươm ra, xơ ra”, dẫn đến cái nghĩa phái sinh trong khẩu ngữ ở Nam Bộ hiện nay dùng để chỉ cái tình trạng tệ hại mà ai đó gặp phải, chẳng hạn như trong câu: Hôm qua, thằng X. đã bị sếp giũa cho te tua.
Danh từ tua đang xét của tiếng Việt không liên quan gì đến tiếng Pháp cả. Đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 鬚 mà âm Hán Việt hiện đại là tu, có nghĩa là râu. Nghĩa hiện hành của từ tua chẳng qua là một ẩn dụ đã từ vựng hoá từ hình ảnh của chòm râu chứ không phải từ bất cứ vật nào khác. Còn về ngữ âm thì tua ~ tu (-ua ~ -u) cũng hoàn toàn giống như:
– (goá) bụa ~ (quả) phụ;
– (a) dua ~ du (nịnh);
– (vua) chúa ~ (quân) chủ;
– khua (roi) ~ khu (trì, trục, v.v.); v.v.
Tua có một từ đồng nghĩa là tụi. Vì vậy mà Huình-Tịnh Paulus Của đã dùng tụi để giảng tua rồi dùng tua để giảng tụi:
“Cái tua. Cái tụi, cái chỉ có ria mà thòng xuống – Cả tua. Cả tụi (…). Có tua. Có tụi thòng lòng (…)”*.
Đây cũng chính là chữ tụi thấy được trong ngữ danh từ mồng gà tụi mà Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng là “thứ mồng gà cây lá đều giống với mồng gà lưỡi búa nhưng hoa xoè ra như đuôi chồn”.
Chính cái hình ảnh “xoè ra như đuôi chồn” là cơ sở cho việc ẩn dụ hoá từ tụi mà đưa vào ngữ danh từ mồng gà tụi.
Tụi chẳng có liên quan gì đến étui (bao, túi, v.v.) của tiếng Pháp.
Đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằngchữ 萃 mà âm Hán Việt hiện đại là tụy, có nghĩa là chùm, khóm, bụi (cây), đám, nhóm, v.v.. Với cái nghĩa vừa nêu, ta có thể dễ dàng thấy rằng tụi trong tụi cườm, tụi chỉ và tụi trong mồng gà tụi, rồi tụi trong tụi côn đồ, tụi lưu manh vốn chỉ là một mà thôi.
§ 963. Kiến thức ngày nay, số 485, ngày 1 -2-2004
ĐỘC GIẢ: Câu 172 của Truyện Kiều xưa nay vẫn được đọc là:
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không
Từ chiêng được hiểu là một loại nhạc cụ và đi chung với trống thành trống chiêng (hay chiêng trống) còn thu không chỉ việc báo hiệu sắp đóng cửa thành lúc chập tối. Nhưng trong bài “Mặt trời gác núi, chiêng đà thu không?” đăng trên báo Khoa học & Đời sống, số 77, ngày 3-10-2003, tác giả Bùi Thiết đã bác bỏ chữ chiêng mà cho rằng đó là “chiên”. Tác giả này viết: “Chiêng là nhạc cụ thường mang tính biểu diễn hơn là mang tính quân lệnh, hiệu lệnh vì âm thanh của tiếng chiêng không dứt khoát.
“Không có tiếng chiêng thu không, mà nếu có tiếng thu không thì đó phải là trống thu không mới nghiêm quân lệnh và hiệu lệnh các cấp. Chúng tôi tìm thấy trong sách Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của ở mục Thu có cụm từ Trống thu không và được thích nghĩa rằng Trống bãi công việc hồi gần tối (tr. 1027).
“Vậy thì câu 172 phải được đọc là Mặt trời gác núi chiên đà thu không mới đúng nguyên tác?
“Thu không, theo Huình-Tịnh Paulus Của nghĩa là chừng bãi công việc chiều tối. Diễn ra cho rõ hơn là khoảng thời gian (chừng) thu về (bãi) không làm công việc nữa. Đó là lúc mặt trời gác núi. Xét trong văn cảnh chị em Thuý Kiều đi chơi Thanh minh, gặp Kim Trọng rồi trở gót trướng hoa để quay về nhà là lúc mặt trời vừa gác núi, là khoảng thời gian thôi làm việc ban ngày. Nhưng ở chốn đồng không mông quạnh, một vùng ngổn ngang gò đống kéo lên này, một vùng cỏ non xanh rợn chân trời này, có ai làm việc đâu mà phải thu không? Vậy ai không làm công việc nữa? Thu không ở nghĩa này không phải là một tính từ, mà là một động từ. Và chủ thể, đương nhiên phải là một người, một nhóm người hay một động vật nào đó. Thế mới có chiên đà thu không.
“Chiên (âm cổ) chỉ một loài động vật sinh sống ở núi thuộc họ nhà dê (sơn dương). Từ điển Nam Việt dương hệ tự vị của Taberd (in năm 1838) có ghi chú tên một loài thú gọi là chiên. Tự điển của Huình-Tịnh Paulus Của chú thích rõ hơn về giống chiên này, đó là loại thú giống dê mà rất hiền lành. Như vậy, đây là một loài vật ăn cỏ ban ngày, và cứ chiều tối sẽ về chuồng, giống như trâu, bò, dê vậy! Hiện nay, chúng tôi không có hiểu biết gì về loài chiên này, không biết chiên hiện còn có mặt trên đất nước ta nữa hay không (các nhà động vật học có thể giúp chúng tôi thêm thông tin chăng?).
“Thế là đã rõ, cứ đến lúc mặt trời gác núi, theo thói quen, các đàn chiên từ bãi cỏ buộc phải thu không, nghĩa là trở về chuồng trại qua đêm, để ngày mai lại ra bãi cỏ. Như thế, chiên đà thu không là chiên đã thôi không ăn cỏ để trở về”.
Trước cách hiểu khác lạ trên đây, một độc giả của báo Khoa học & Đời sống là ông Vũ Thế An (Hà Nội) có nêu thắc mắc và ông Bùi Thiết đã trả lời trong bài “Tại sao chiên lại thành chiêng?” đăng tiếp trên Khoa học & Đời sống, số 81, ngày 1710-2003. Ông Bùi Thiết đưa ra ba lý do không có gì mới so với bài trước:
Thứ nhất, Nguyễn Du viết chiên nhưng vì Truyện Kiều lưu hành rộng rãi ở Huế nên người Huế đã phát âm chiên thành chiêng lâu dần thành thói quen nên mới có chiêng như bây giờ.
Thứ hai, một số người sửa chiên thành chiêng là vì không hiểu có loài chiên Dê nên mới thay chiêng vào. Vả lại khi đọc chiêng đà thu không nghe văn chương hơn. Cũng có thể có người biết đó là chiên, nhưng cho chiên là con vật thô thiển, sao lại có mặt trong áng văn trác tuyệt này.
Thứ ba, nếu mọi người đều hiểu thu không như Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng thì tất sẽ xem xét lại chữ chiêng. Vì buộc phải thừa nhận có tiếng chiêng lúc chiều tối nên người ta đã gò ép thu không vào cách hiểu theo nghĩa là “báo hiệu lúc sắp đóng cửa thành” chứ đây chỉ là một kiểu gò ép theo lối suy đoán.
Xin hỏi ông An Chi có tán thành cách hiểu của ông Bùi Thiết không?
AN CHI: Bài “Mặt trời gác núi, chiêng đà thu không?” của Bùi Thiết, đăng trên Khoa học & Đời sống, số 77, ngày 3-10-2003, cũng đã được đăng trên tuần báo Văn nghệ, số 52, ngày 27-12-2003, dưới nhan đề “Đọc lại một câu Kiều”. Bài này cho thấy tác giả không nắm được những khái niệm quan trọng liên quan đến vấn đề mình đang bàn. Chẳng những ông không biết được chiên là con vật gì mà chiêng là cái vật gì thì ông cũng chỉ biết có một nửa!
Bùi Thiết cho rằng “chiêng là nhạc cụ thường mang tính biểu diễn hơn là mang tiếng quân lệnh, hiệu lệnh”. (nên không thể được dùng trong câu 172). Thế là ông đã không biết rằng ở Trung Quốc – ta không nên quên rằng Truyện Kiều kể lại một câu chuyện xảy ra ở bên Trung Quốc – có đến hai loại chiêng mà tiếng Hán là chinh 鉦. Loại mà Bùi Thiết biết thì có hình dạng như cái thanh la và khái niệm này được ghi nhận tại nghĩa 3 của chữ chinh trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993, tr. 1740) hoặc tại phần đầu nghĩa 1 của chữ này trong Từ nguyên. Còn loại thứ hai thì ông chưa hề biết đến. Đây là một loại nhạc cụ nằm trong “họ” nhà chuông là: chung (chuông), đạc (mõ), lệnh, nao (não bạt), v.v.. Loại chiêng này còn có tên là đinh ninh, hình dạng giống như chuông mà hẹp và dài hơn, có cán để cầm, gõ thì kêu, dùng trong khi hành quân – là công dụng mà ông Bùi Thiết không ngờ đến – như có thể thấy tại nghĩa 1 của chữ chinh trong Hán ngữ đại tự điển (đã dẫn) hoặc trong Trung Quốc cổ chung sử thoại của Đinh Thao*, v.v.. “Tiếng chiêng dậy đất” trong câu 2.222 không dùng vào việc quân thì dùng vào việc gì? Vì chiêng (chinh) là một loại nhạc cụ dùng trong hành quân nên danh từ chinh mới đi chung với danh từ cổ (= trống) làm thành ngữ danh từ đẳng lập chinh cổ (chiêng trống) để chỉ việc chinh chiến theo kiểu hoán dụ.
Về giống vật gọi là “chiên” thì ông Bùi Thiết tự nhận là “không có hiểu biết gì” nên đã kêu gọi “các nhà động vật học giúp thêm thông tin”. Ông đã quá thật thà nên mới làm phiền các nhà động vật học chứ chỉ cần đến quyển Nam Việt dương hệ (sic) tự vị của Taberd mà ông đã nêu thì ông đã có thể biết được đó là con gì rồi. Quyển từ điển này đã đối dịch một cách rành mạch và chính xác rằng chiên là “ovis” (của tiếng La Tinh). Ovis không phải con gì khác mà chính là cừu.
Vâng, chiên chỉ đơn giản có nghĩa là “cừu”, như cũng đã giảng trong Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967), Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên, v.v.. Ông Bùi Thiết không biết “chiên” là con vật gì cũng là chuyện hy hữu trong việc nghiên cứu, nhất là khi thảo luận về từ ngữ.
Bây giờ ta xét xem chiên (cừu) có “thu không” hay không. Ông Bùi Thiết đã dẫn lời giảng hai tiếng thu không từ Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của là “Chừng bãi công việc buổi chiều tối” và trống thu không là “trống bãi công việc, hồi gần tối” là nghĩa của hai tiếng thu công 收工 chứ không phải của thu không. Còn thu không thì lại là “(tiếng trống chuông) báo hiệu đóng cửa thành vào lúc gần tối, thời xưa” như đã giảng trong Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên và trong nhiều quyển từ điển khác. Nhưng cứ cho rằng thu không là “bãi việc lúc chiều tối” thì giống chiên (cừu) có làm việc đâu mà bãi?
Chúng chỉ nhởn nhơ gặm cỏ mà thôi! Chứ “bãi công việc hồi gần tối” thì lại là chuyện của những người lao động.
Ông Bùi Thiết nói một số người đã sửa chiên thành chiêng vì không biết có loài “chiên Dê” hoặc có biết nhưng lại cho rằng đây là giống vật thô thiển nên không thể có mặt trong áng văn trác tuyệt của Nguyễn Du. Ông bàn về văn chương mà cứ như nói chuyện đùa. Có lẽ cũng chẳng có ai ngoài ông ra lại cho rằng vì “chiên Dê” là một giống vật thô thiển nên nó không thể có mặt trong Truyện Kiều. Khả ố vì bần tiện như bọn sai nha đến nỗi Nguyễn Du phải dùng cái ẩn dụ “ruồi xanh” (câu 581) để ám chỉ mà còn len lỏi vào đó được huống chi là những con “chiên Dê” hiền lành và vô tội. Có điều là câu 172 không phải chỗ để Nguyễn Du nhắc đến… dê đến cừu làm gì.
Và khi mà cả về mặt ngữ nghĩa lẫn mặt hình ảnh, giống chiên (= cừu) chẳng liên quan gì đến câu 172 thì tất nhiên ta cũng chẳng có lý do gì để nói rằng cái chữ Nôm “chiên” đã bị viết nhầm thành “chiêng” một cách vô tình hay hữu ý. Đây chỉ đơn giản là chiêng, chính là chiêng, một loại nhạc cụ được dùng trong khi hành quân. Vậy nên xin để yên cho câu:
Mặt trời gác núi, chiêng đà thu không.
§ 964. Kiến thức ngày nay, số 486, ngày 10-2-2004
ĐỘC GIẢ: Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là một quyển tiểu thuyết “có lời bình”. Nhưng người thì nói bình luận gia là “Quán Hoa Đường”; kẻ lại bảo người bình luận là “Thánh Thán”. Xin cho biết đây chỉ là một người với hai cái tên khác nhau hay là hai người khác nhau.
AN CHI: Nhiều người cũng phân vân như ông. Điển hình cho sự phân vân đó là cách diễn đạt của Nguyễn Tài Cẩn mà ta có thể thấy được trong Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Nhắc đến hai cái tên đó, Nguyễn Tài Cẩn đã viết:
“Đọc lại nguyên tác, chúng tôi gặp ngay lời bình của Thánh Thán (tức/hay Quán Hoa Đường?) ở ngay đầu hồi thứ nhất”. (tr. 545)
Cái ngữ đoạn “Thánh Thán (tức/hay Quán Hoa Đường?)” chứng tỏ tác giả đã dè dặt một cách tối đa. Nếu sự thực đó chỉ là một người thì ông đã viết “Thánh Thán (tức Quán Hoa Đường)” còn nếu sự thực đó lại là hai người thì ông cũng đã viết “Thánh Thán (hay Quán Hoa Đường?)” rồi còn gì! Rõ ràng là Nguyễn Tài Cẩn đã dè dặt một cách rất khôn ngoan.
Nhưng có tác giả thì lại chẳng cần dè dặt gì hết. Trong bài “Về thực chất khái niệm “bản Phường” của Truyện Kiều” (Tạp chí Văn học, số 1-1998), tác giả Đào Thái Tôn đã mặc nhiên cho rằng Thánh Thán và Quán Hoa Đường là tên của hai người khác nhau*. Rồi trong bài tiếp theo nhan đề “Không có “bản Kinh” Truyện Kiều do vua Tự Đức đưa in” (Tạp chí Văn học, số 2-1998), Đào Thái Tôn vẫn tiếp tục mặc nhận đó là hai người khác nhau. Đặc biệt là khi in lại bài này trong quyển Văn bản Truyện Kiều – Nghiên cứu và thảo luận (Sở Văn hoá Thông tin Hà Tĩnh, in lần thứ hai, có sửa chữa và bổ sung, 2003) thì Đào Thái Tôn đã khẳng định một cách hiển ngôn rằng (Kim) Thánh Thán và (Quán) Hoa Đường là “tên của hai người Trung Quốc (khác nhau)”*. Tiếc rằng đây lại là một sự khẳng định sai.
Quán Hoa Đường là tên khu nhà ở của Thánh Thán, được dùng theo hoán dụ để chỉ chính chủ nhân. Trung Quốc lịch đại nhân danh đại từ điển do Trương Huy Chi, Thẩm Khởi Vĩ và Lưu Đức Trọng chủ biên (Thượng Hải Cổ tịch xuất bản xã, 1999) cho biết như sau:
“Kim Thánh Thán (1608 – 1661) là người huyện Ngô, tỉnh Giang Nam thời cuối Minh đầu Thanh, tên là Thái, tự Nhược Thái. Sang đời Thanh, đổi tên thành Nhân Thụy, tự là Thánh Thán. Là nho sinh đời Minh. Chỗ ở tên là Quán Hoa Đường, lại có tên là Xướng Kinh Đường (…)”. (Quyển hạ, tr. 1510)
Vậy rõ ràng Kim Thánh Thán và Quán Hoa Đường chỉ là tên của một người mà thôi.
§ 965. Kiến thức ngày nay, số 485, ngày 1 -2-2004
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 459, ngày 10-5-2003, ông có trả lời cho tôi là Bạc bà gặp Kiều lần đầu tiên ở ngay tại nhà mụ. Nhưng trong bài “Ai ngắm dung nhan tiểu thiền Thuý Kiều?” đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 10 (96)-2003, tác giả Nguyễn Khắc Bảo đã bác bỏ ý kiến đó và viết:
“Theo nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì (…). Thuý Kiều ở am Chiêu Ẩn quá nửa năm (…). Mụ Bạc là con người được Giác Duyên ghi nhận là am mây quen lối đi về dầu hương, nghĩa là mụ Bạc thường xuyên vào các ngày rằm, mồng một đều đến Chiêu ẩn am làm lễ (…). Ắt hẳn trong hơn chục lần sang dầu hương ở am, lại sẵn tư cách “bà mẹ nuôi” của Giác Duyên, bợm già họ Bạc làm gì chẳng có lần sục sạo nhìn thấy một tiểu thiền xinh đẹp mới xuất hiện ở am (…). Nếu chịu khó suy ngẫm kỹ một chút ai cũng có thể hiểu là: Thi hào đã sáng tạo và tả chính xác, chi tiết những động thái chuẩn bị cho cuộc đi trốn của Thuý Kiều (…). Vậy mụ Bạc phải được nhìn thấy dung nhan nàng Kiều từ khi được vãi Giác Duyên nhắn sang Chiêu ẩn am, chứ không phải “lần đầu tiên mụ nhìn thấy Kiều là ở ngay nhà mụ” như ông An Chi khăng khăng giảng giải cho độc giả Kiến thức ngày nay trong hai số 455 và 459”*.
Lập luận của ông Nguyễn Khắc Bảo còn có nhiều chi tiết đầy “kịch tính” liên quan đến “nghiệp vụ” của Bạc bà nữa nhưng ở đây tôi chỉ dẫn lại những ý mấu chốt.
Vậy xin ông An Chi vui lòng xem lại xem thực ra Bạc bà đã gặp Kiều lần đầu tiên tại đâu.
AN CHI: Câu trả lời của chúng tôi vẫn cứ là: Tại nhà của chính thị ta. Còn ông Nguyễn Khắc Bảo thì lại trộn lẫn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân vào Truyện Kiều của Nguyễn Du để biện luận. Việc làm này không ổn chút nào vì chẳng những kết cấu của Kim Vân Kiều truyện và của Truyện Kiều không hoàn toàn giống nhau mà chi tiết của hai tác phẩm cũng không hoàn toàn trùng nhau. Tuy thuật lại trung thành cốt truyện nhưng Nguyễn Du đâu có theo sát Thanh Tâm Tài Nhân “trên từng cây số”. Trong Kim Vân Kiều truyện, Bạc bà là mẹ nuôi của Giác Duyên và đã được giới thiệu thẳng là “một tay côn đồ trong hạng đàn bà” chứ trong Truyện Kiều thì – dù chỉ là bề ngoài và ban đầu – đó lại là một tín nữ “am mây quen lối đi về dầu hương”. Vậy tuy vẫn có thể so sánh các chi tiết của hai tác phẩm với nhau nhưng ta phải trả những chi tiết chỏi nhau về cho riêng từng tác phẩm mà phân tích chứ quyết không thể trộn lẫn được. Ông Nguyễn Khắc Bảo đã thực hiện phân tích theo kiểu “2 in 1”. Đó là chưa kể ông đã hiểu sai một số chỗ cốt lõi của những câu Kiều hữu quan nữa.
“Am mây quen lối đi về dầu hương” chỉ là một lời kể mang tính chất phiếm chỉ về thời gian còn ông Nguyễn Khắc Bảo thì nhất định phải gò việc đó vào các ngày rằm và mồng một hàng tháng trong vòng hơn nửa năm. Nhưng có phải ai muốn làm công quả cho nhà chùa cũng nhất thiết phải đến vào những ngày ấy đâu.
Ông lại cho rằng “họ Bạc làm gì chẳng có lần sục sạo nhìn thấy một tiểu thiền xinh đẹp mới xuất hiện ở am”. Nhưng làm sao mà một Phật tử đi viếng chùa lại có thể “sục sạo” một cách sỗ sàng như thế được?
Ông lại hiểu câu:
Nhắn sang dặn hết mọi đường
là “Giác Duyên đã nhắn mời Bạc bà sang Chiêu Ẩn am để trò chuyện dặn hết mọi đường”. Nhưng đây chỉ là do ông muốn “tạo điều kiện” cho Bạc bà sang Chiêu Ẩn am để chứng minh rằng thị ta đã nhìn thấy Thuý Kiều lần đầu tiên tại đó chứ Nguyễn Du đâu có nói như thế. Chữ sang ở đây không phải là một động từ chỉ sự di chuyển mà nhắn sang ở đây cũng không phải là một cấu trúc khiển động (causative). Ở đây, sang là một trạng từ chỉ hướng và nó chỉ hướng di chuyển của động từ cũng giống hệt như trong câu 1084:
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang
Trong Từ điển Truyện Kiều, Đào Duy Anh cũng hiểu chữ sang ở đây giống như chúng tôi vừa trình bày ở trên.
Vậy “nhắn sang dặn hết mọi đường” là “cho người sang nhắn để dặn Bạc bà hết mọi đường” chứ đâu có phải là “nhắn mời Bạc bà sang để dặn hết mọi đường”. Ông Nguyễn Khắc Bảo đã qui ngữ vị từ nhắn sang thành một cấu trúc khiển động chẳng qua là để chứng minh rằng với câu 2083 thì “mụ Bạc phải được nhìn thấy dung nhan nàng Kiều từ khi được vãi Giác Duyên nhắn sang Chiêu Ẩn am”. Thế là ông đã tự mâu thuẫn mà không hề hay biết vì trước đó thì ông đã cho phép thị ta “sục sạo để nhìn thấy một tiểu thiền xinh đẹp mới xuất hiện ở am” rồi còn gì! Nhưng dù Bạc bà có nhìn thấy Kiều trước hay là sau thì trong cả hai trường hợp đó, ông Nguyễn Khắc Bảo cũng đều sai, vì như đã phân tích, các luận cứ chủ yếu của ông đều sai. Trong Truyện Kiều, Bạc bà chỉ gặp Kiều lần đầu tiên tại nhà của chính thị ta.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì như thế; còn trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì sao? Thì cũng như thế mà thôi. Xin hãy đọc những gì đã xảy ra ở hồi thứ 17 trong cái ngày mà Kiều đã bị lộ và buộc phải rời khỏi Chiêu Ẩn am:
“Thuý Kiều nói
“ – (…) Trước hết hãy xin sư huynh tìm giúp cho em một chỗ yên thân đi đã (…)
“Giác Duyên nói:
“ – (…) Chỗ nhà bà mẹ nuôi của chị là họ Bạc có thể ở được.
“(…) Nhân khi đêm tối, Giác Duyên liền đưa Thuý Kiều đến nhà họ Bạc.
“Nguyên mụ Bạc này là một tay côn đồ trong hạng đàn bà, thấy nhan sắc Thuý Kiều, lại nghe nói là người lánh nạn đến thì trong lòng nảy ra ý nghĩ bất lương (…)”*.
Đấy, theo nguyên truyện là như thế. Bất cứ ai có khả năng cảm thụ văn học bình thường cũng đều có thể thấy rằng với đoạn trích dẫn trên thì đây hiển nhiên là lần đầu tiên Bạc bà và Thuý Kiều gặp nhau. Và thị ta cũng chỉ được giới thiệu lần đầu tiên rằng Kiều là người đi lánh nạn chứ làm gì có chuyện thị ta “có lần sục sạo nhìn thấy một tiểu thiền xinh đẹp mới xuất hiện ở am” hoặc “được nhìn thấy dung nhan nàng Kiều từ khi được vãi Giác Duyên nhắn sang Chiêu Ẩn am”!
Tóm lại, cả trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân lẫn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì lần đầu tiên Bạc bà gặp mặt Thuý Kiều đã diễn ra không phải tại bất cứ nơi nào khác mà là ở ngay tại nhà của chính thị ta.
§ 966. Kiến thức ngày nay, số 487, ngày 20-2-2004
ĐỘC GIẢ: Tôi và một số bạn bè tuy tuổi đã “cổ lai hy”, là dân “Tây học” cũ (thời thuộc Pháp) nhưng lại rất ham thích Hán Nôm. Cách đây đã lâu, tôi có gửi đến ông một câu hỏi nhưng đến nay chưa được trả lời nên xin được nêu lại như sau.
Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán của Viện Ngôn ngữ học do Như Ý, Nguyễn Văn Khang và Phạm Xuân Thành biên soạn (Nxb. Văn hoá, 1994) có giải thích câu “Tam hồn thất phách, tam hồn cửu phách” như sau:
“(…) Chỗ khác nhau giữa đàn bà và đàn ông là ở vía (phách): 1. đàn ông có ba hồn và bảy vía phụ thuộc vào thất khiếu (bảy lỗ) trên mặt gồm: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng. 2. đàn bà có ba hồn và chín vía phụ thuộc vào cửu khiếu (chín lỗ) gồm bảy lỗ như của đàn ông cộng với lỗ sinh dục và hậu môn”.
Xin hỏi: Tại sao đàn ông cũng có hậu môn mà lại không được tính thành một khiếu?
AN CHI: Chúng tôi đã trả lời về vấn đề “ba hồn bảy vía và ba hồn chín vía” cách đây 10 năm trên Kiến thức ngày nay, số 101, ngày 1-2-1993. Nhưng vì số 101 hiện nay không dễ gì tìm được nên, để ông và bạn đọc tiện tham khảo, chúng tôi xin ghi lại câu trả lời đó như sau.
Trước nhất, xin nói rằng tiếng Hán không có câu “Tam hồn cửu phách” (ba hồn chín vía). Sự phân biệt bảy vía của đàn ông với chín vía của đàn bà có thể chỉ là do một số người Việt Nam đặt ra kiểu “ta làm theo cách của ta” mà thôi. Họ giải thích rằng sở dĩ như thế là vì đàn ông có bảy lỗ mà đàn bà có tới chín lỗ. Bảy lỗ thì bảy vía còn chín lỗ thì chín vía. Bảy lỗ ứng với bảy vía thì đúng với quan niệm của dân gian cho rằng đó là bảy hồn bóng: bóng nhìn, bóng nghe, bóng thở và bóng nói. Hai (lỗ) mắt để nhìn, hai lỗ tai để nghe, hai lỗ mũi để thở và lỗ miệng để nói thì đúng là bảy lỗ. Bảy lỗ này, cả đàn ông lẫn đàn bà đều có. Vậy đàn bà nhiều hơn đàn ông hai lỗ nào? Câu trả lời của họ là: lỗ tiểu tiện và lỗ đại tiện. Nhưng chẳng lẽ đàn ông lại không có hai lỗ này? Rõ ràng cách phân biệt đàn ông bảy lỗ với đàn bà chín lỗ là điều thậm vô lý vì về phương diện này thì nam nữ “tuyệt đối bình đẳng”. Sách Hàn Phi tử, thiên “Giải lão” nói rằng “thân người có ba trăm sáu mươi đốt, bốn chi, chín lỗ”.
Nhưng do đâu mà lại có sự phân biệt trên đây? Có thể do đó là một sự hiểu nhầm. Tiếng Hán gọi bảy lỗ là thất khiếu và chín lỗ là cửu khiếu. Trong cửu khiếu thì bảy lỗ trên mặt gọi là thượng khiếu còn hai lỗ phía dưới của thân người thì gọi là hạ khiếu. Thượng khiếu cũng gọi là dương khiếu còn hạ khiếu cũng gọi là âm khiếu. Chúng tôi ngờ rằng người ta đã hiểu nhầm âm khiếu là lỗ… riêng của phụ nữ (do quan niệm “nam thuộc dương nữ thuộc âm”) nên mới cho rằng đàn bà hơn đàn ông hai cái lỗ mà thực ra các đấng mày râu cũng có, vẫn có!
Có lẽ vì thế nên mới sinh ra chuyện “đàn ông bảy vía, đàn bà chín vía” trong quan niệm của nhiều người Việt Nam chăng?
Trở lên là những gì chúng tôi đã trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 101. Dù cho lý do mà chúng tôi suy đoán có đúng hay là sai thì ta cũng không thể chấp nhận cách giải thích cho rằng đàn bà hơn đàn ông hai vía vì có nhiều hơn họ hai cái “khiếu” đã nói. Thất khiếu, cửu khiếu, thượng khiếu/dương khiếu, hạ khiếu/âm khiếu vốn là những khái niệm y học cổ truyền của Trung Hoa. Trong nền y học này thì hạ khiếu, tức âm khiếu là hai khái niệm liên quan đến sự bài tiết, một ở phía trước (tiểu tiện), một ở phía sau (đại tiện) chứ tuyệt nhiên không liên quan gì đến hoạt động sinh dục. Vì vậy nên Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán đã hoàn toàn sai khi nêu tên “lỗ sinh dục”.
Nếu tính đến cả chỗ này nữa thì nam nữ không thể “tuyệt đối bình đẳng” được: ngoài niệu đạo ra, nữ còn có âm đạo mà nam thì không. Vậy phái đẹp có đến mười còn phái mày râu thì chỉ có chín… lỗ mà thôi. Nếu lấy “khiếu” làm tiêu chuẩn mà tính thì nam phải có tới chín vía còn nữ thì lại có đến mười chứ không thể nào nam bảy nữ chín được.
Nhưng đã nói đến hồn vía thì phải nói đến quan niệm của Đạo giáo mà Đạo giáo lại quan niệm rằng phàm đã là người, thì bất kể nam hay nữ, cũng chỉ có “ba hồn bảy vía” (tam hồn thất phách) mà thôi. Đạo giáo đại từ điển do Mẫn Trí Đình và Lý Dưỡng Chính chủ biên (Hoa Hạ xuất bản xã, Bắc Kinh, in lần thứ hai, 1995) đã ghi rõ tại mục “tam hồn thất phách” như sau: “(Sách) Vân cập thất tiêm (nói rằng) phàm thân người thì có ba hồn (tam hồn): một hồn tên là thai quang (…) một hồn tên là sảng linh (…) một hồn tên là u tinh (…) Lại nói rằng phàm thân người thì có bảy vía (thất phách): một là thi cẩu, hai là phục thỉ, ba là tước âm, bốn là thôn tặc, năm là phi độc, sáu là trừ uế, bảy là xú phế”.
Rõ ràng chuyện “đàn ông bảy vía, đàn bà chín vía” là chuyện thậm phi lý. Nhưng nếu nó chỉ dừng lại và được khoanh vùng trong phạm vi của tín ngưỡng dân gian Việt Nam thì ta sẽ khỏi mất công bàn về mặt chữ nghĩa. Đằng này nó lại được các nhà biên soạn Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán ghi nhận bằng cách sáng chế ra cái ngữ đoạn “tam hồn cửu phách” mà mặc nhiên nhắn bảo với độc giả rằng đó là một thành ngữ gốc Hán nên ta mới phải đặt thành vấn đề.
Và vấn đề là tiếng Hán không hề có câu “Tam hồn cửu phách” cho nên việc đưa nó vào Từ điển giải thích thành ngữ gốc Hán chẳng qua chỉ là một sự ngụy tạo mà thôi.
§ 967. Kiến thức ngày nay, số 487, ngày 20-2-2004
ĐỘC GIẢ: Tôi có thắc mắc về một chi tiết trong truyện ngắn “Hèn Đại Nhân” của “người viết văn trẻ” Lê Đạt, in trong tập truyện ngắn cùng tên do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 1994. Xin trích phần cuối truyện:
“Tại một quầy sách bụi bặm, ông (Einstein) bỗng chú ý tới một bản thảo vì bút danh kỳ cục của tác giả ghi trên mặt bìa đã ố vàng: Le Lâche (Thằng hèn).
(…)
“Tuy không biết rõ tiểu sử tác giả, nhưng với trực giác của một nghệ sĩ nòi, Einstein linh cảm một nỗi khổ nạn bao la phía sau từ Le Lâche.
“Không đành lòng với biệt danh Thằng hèn khi cho công bố công trình kiệt xuất trên, cũng không tìm được tên cúng cơm của vị tác giả, vị cha đẻ của thuyết tương đối nghĩ được một cách giải quyết khá đẹp. Chính tay ông nắn nót viết lên bìa bằng chữ hoa:
LÂCHE LE GRAND
HÈN ĐẠI NHÂN”. (tr. 47 – 48)
Xin ông vui lòng cho biết có thật Einstein đã có “một cách giải quyết khá đẹp” hay không?
AN CHI: “Le Lâche” là một biệt hiệu có cấu trúc giống hệt với các họ Le Bas, Le Bel, Le Bon, Le Nain, v.v., vốn thoạt kỳ thuỷ cũng chỉ là những biệt hiệu của cá nhân mà thôi. Với những họ này thì quán từ “Le” không bao giờ còn có thể tách khỏi tính từ đứng sau (bas, bel, bon, nain) được nữa. Thậm chí với nhiều họ thì quán từ và tính từ còn viết liền với nhau: Leblanc, Lebrun, Ledoux, Lejeune, Lenoir, v.v.. Vì vậy nên khi Einstein bỏ quán từ “le” (mà chỉ giữ lại “lâche”) để nắn nót viết lên bìa công trình của Jean mấy chữ “Lâche Le Grand” thì nhà bác học này đã chia uyên rẽ thuý một cách thô bạo mà không hề hay biết.
Nhưng ngay cả nếu ông ta có giữ nó lại mà viết “Le Lâche Le Grand” thì ông ta cũng không thể bắt người Pháp hiểu rằng đó là “(nhân vật có cái tên là) Hèn vĩ đại” (“Hèn Đại Nhân”) được. Trong cảm thức của người Pháp thì đó chỉ là “le lâche Le Grand” (với “l” thường (không viết hoa) trong “le” và trong “lâche”) và đây là một ngữ đoạn cùng một kiểu cấu trúc với le paresseux Le Gros ((nhân vật) Le Gros lười biếng), le laborieux Deschamps ((nhân vật) Deschamps siêng năng), v.v.. Vậy le lâche Le Grand chỉ có thể được hiểu là “(nhân vật) Le Grand hèn nhát (hoặc hèn hạ)” mà thôi, chứ không thể hiểu theo bất cứ một cách nào khác mà lại đúng với ngữ pháp của tiếng Pháp được.
“Người viết văn trẻ” Lê Đạt có ý định điều khiển cho Einstein “chơi” cái cấu trúc kiểu: Charles le Chauve (Charles, Người hói đầu), Jean le Pieux (Jean Người sùng đạo), Jeanne la Folle (Jeanne Nàng điên), Louis le Bègue (Louis Người cà lăm), Pierre le Grand (Pierre Người vĩ đại (mà người ta thích dịch thành “Pierre Đại đế”)), v.v.. Thực ra thì kiểu cấu trúc này chỉ dùng:
1. cho các nhân vật lịch sử (chẳng hạn như những nhân vật đã kể ở trên);
2. với tên (prénom) như: Charles, Jean, Jeanne, Louis, Pierre, v.v., chứ không phải với họ (nom (de famille)) của các nhân vật đó.
Chính vì vậy cho nên khi Jean ghi hai từ “le Lâche” vào bìa cái công trình của anh thì anh ta đã tự nhận mình là “Jean le Lâche” nghĩa là “(nhân vật) Jean, Kẻ hèn hạ” rồi. Le Lâche là một biệt hiệu mà Jean đã tự mình chọn để thay cho cái tên thật của mình. Nếu Einstein muốn biến tác giả của công trình kia thành một nhân vật được lưu danh trong lịch sử thì ông ta phải gọi anh ta là “Jean le Grand” chứ không phải “Lâche le Grand”. Còn việc ông ta không biết được tên cúng cơm của Jean thì lại chỉ là một chuyện khác mà ta không bàn đến ở đây.
§ 968. Kiến thức ngày nay, số 488, ngày 1 -3-2004
ĐỘC GIẢ: Hán – Việt tứ tự thành ngữ của Nguyễn Xuân Trường (Tủ sách Học, Sài Gòn, 1973) có ghi nhận câu “Tang bồng hồ thỉ” (câu 689, tr. 128). Xin cho biết đây có phải là một thành ngữ gốc Hán không.
AN CHI: Nhiều tác giả đã ghi nhận như thế. Chẳng hạn mới đây, trong bài “Tang bồng hồ thỉ”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 12 (98)-2003, tác giả Dương Xuân Đống đã viết:
“Tang bồng hồ thỉ là một cụm từ gốc Hán. Về nghĩa đen, tang là gỗ dâu, bồng là cây cung (thực ra là cỏ bồng, có lẽ do in sai – AC), hồ là cây cung, thỉ là mũi tên. Cụ thể hơn là gỗ dâu dùng làm cung, cỏ bồng dùng làm tên. Nói gọn lại, tang bồng hồ thỉ là cung tên. Từ đó, về nghĩa bóng, tang bồng hồ thỉ, hoặc đảo ngược lại là hồ thỉ tang bồng, là tang hồ bồng thỉ hoặc rút gọn là tang bồng, là hồ thỉ đều nhằm biểu thị chí làm trai, tức là công danh sự nghiệp”*.
Tuy tác giả Dương Xuân Đống ghi nhận như thế nhưng rất tiếc là câu “tang bồng hồ thỉ” lại không hề tồn tại trong tiếng Hán nên ta sẽ không bao giờ có thể tìm thấy nó (với dạng như thế) trong sách vở của Trung Hoa. Đó là một hình thức đã bị làm cho lệch lạc chứ dạng chính thức và chính xác thì lại là: tang hồ bồng thỉ.
Quan hệ cú pháp của câu này là:
trong đó ta thấy có hai danh ngữ chính phụ đặt ngang hàng với nhau: tang hồ do hồ làm trung tâm còn tang là định ngữ và bồng thỉ do thỉ làm trung tâm còn định ngữ là bồng. Với quan hệ cú pháp này thì tang hồ bồng thỉ là cung bằng gỗ dâu (và) tên bằng cỏ bồng (“cung dâu tên bồng”).
Còn quan hệ cú pháp của câu tang bồng hồ thỉ thì lại là
trong đó ta thấy có hai danh ngữ đẳng lập là tang bồng và hồ thỉ mà danh ngữ đẳng lập trước (tang bồng) thì làm định ngữ cho danh ngữ đẳng lập sau (hồ thỉ). Với quan hệ cú pháp này thì tang bồng hồ thỉ là cung tên bằng gỗ dâu cỏ bồng (“cung tên dâu bồng”) chứ không phải “gỗ dâu dùng làm cung và cỏ bồng dùng làm tên” như tác giả Dương Xuân Đống đã giảng. Lời giảng này chứng tỏ tác giả đã không phân biệt thành phần chính với thành phần phụ về mặt cú pháp trong nguyên văn: “gỗ dâu dùng làm cung” không phải là cung làm bằng gỗ dâu mà “cỏ bồng dùng làm tên” cũng đâu có phải là tên làm bằng cỏ bồng. Bánh làm bằng bột, nhà xây bằng gạch, bàn ghế đóng bằng gỗ mun, v.v. phải khác với “bột dùng để làm bánh: “gạch dùng để xây nhà’; “gỗ mun dùng để đóng bàn ghe, v.v. chứ.
Trở lại với câu tang bồng hồ thỉ và cách hiểu do quan hệ cú pháp đã nói quy định (cung tên bằng gỗ dâu cỏ bồng), ta thấy đây là một cách diễn đạt nhập nhằng không thể chấp nhận được. Mà chẳng riêng gì tiếng Hán, tiếng Việt cũng không thể chấp nhận kiểu diễn đạt nhập nhằng như thế. Ta cứ tưởng tượng xem những câu như: nem công chả phượng, dây mơ rễ má, đầu voi đuôi chuột, v.v. mà lại bị đổi thành *nem chả công phượng, *dây rễ mơ má, *đầu đuôi voi chuột, v.v., thì ai mà hiểu cho được! Nếu mấy câu *đầu đuôi voi chuột, *dây rễ mơ má, *nem chả công phượng, v.v., gây sốc cho cái tai nghe và cái óc hiểu của người Việt như thế nào thì câu *tang bồng hồ thỉ cũng gây khó chịu cho người Trung Quốc như thế ấy. Tiếng Hán sẽ không bao giờ chấp nhận những câu như: kim qua thiết mã (qua vàng, ngựa sắt – chỉ chiến tranh), kê bì hạc phát (da gà tóc hạc – chỉ tuổi già), ngọc diệp kim chi (lá ngọc cành vàng), v.v. mà lại bị đổi thành *kim thiết qua mã, *kê hạc bì phát, *ngọc kim diệp chi, v.v.. Do đó, tang hồ bồng thỉ mà nói thành *tang bồng hồ thỉ là chuyện không bao giờ xảy ra (trong tiếng Hán).
Vậy xin chớ nói rằng *tang bồng hồ thỉ là một thành ngữ gốc Hán. Các tác giả nắm vững ngữ pháp của tiếng Hán và nguyên văn chính xác của câu thành ngữ đang xét đều ghi nhận nó là tang hồ bồng thỉ, chẳng hạn: Đào Duy Anh trong Hán – Việt từ điển, Dương Quảng Hàm trong Việt Nam thi văn hợp tuyển (in lần thứ năm, 1958, tr. 49, chú thích 2), Đào Văn Tập trong Tự điển Việt Nam phổ thông, Ban tu thư Khai Trí trong Tự điển Việt Nam, Nguyễn Quốc Hùng trong Hán Việt tân từ điển, và nhiều tác giả khác nữa.
Người ta có thể viện dẫn đến Nguyễn Công Trứ mà nói rằng để mở đầu cho một bài hát nói của mình thì nhà nho này cũng đã viết:
Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
Cái công danh là cái nợ nần.
Quả có những tài liệu đã ghi lại lời văn của Nguyễn Công Trứ như thế thật, chẳng hạn: Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ của Nguyễn Bách Khoa (Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 1951, tr. 41), Nguyễn Công Trứ – Con người, cuộc đời và thơ (Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996, tr. 168), bài đã dẫn của Dương Xuân Đống, v.v.. Nhưng đây là do người đời sau chép sai chứ Nguyễn Công Trứ đâu có quá yếu kém về tiếng Hán đến như thế. Mà cho dù ta có tìm được bằng chứng hiển nhiên là chính Nguyễn Công Trứ cũng đã viết “tang bồng hồ thỉ” thì ta vẫn phải “nói lại cho đúng” chứ không thể khẳng định rằng đó là một “cụm từ gốc Hán”, như tác giả Dương Xuân Đống đã viết.
§ 969. Kiến thức ngày nay, số 488, ngày 1 -3-2004
ĐỘC GIẢ: Từ điển thành ngữ Việt Nam của Viện Ngôn ngữ học do Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành biên soạn (Nxb. Văn hoá, 1993) có mục sau đây:
“Cao tằng tổ khảo. Tổ tiên, ông bà (tằng: cụ bốn đời; tổ: ông tổ; khảo: già, lão)”.
Xin cho biết giảng như thế có đúng không.
AN CHI: Giảng như thế thì không đúng.
Cao, tằng, tổ, khảo là bốn vai thuộc bốn thế hệ kế tiếp nhau từ đời khảo trở lên cho đến đời cao. Cao là cao tổ nói tắt; tằng là tằng tổ nói tắt còn tổ là tổ phụ nói tắt. Tổ phụ là ông nội, tằng tổ là ông cố (nội), cao tổ là ông sơ (nội) còn khảo ở đây là cha đã chết, nghĩa là cũng đã được thờ cúng (như tổ, tằng, cao). Vậy cao, tằng, tổ, phụ là ông sơ, ông cố, ông nội (và) cha (đã chết) chứ trong trường hợp này, tổ không phải là “ông tổ” chung chung mà khảo cũng chẳng phải là “già, lão”.
§ 970. Kiến thức ngày nay, số 488, ngày 1 -3-2004
ĐỘC GIẢ: Tại sao tiếng Anh lại gọi ký hiệu “&” (and = và) là “ampersand”?
AN CHI: Ký hiệu “&” là “chữ cái” thứ 27 trong bảng chữ cái của tiếng Anh, ngoài 26 chữ cái đã biết từ a, b, c, v.v., cho đến x, y, z. Nghĩa là trong bảng chữ cái đó, liền sau z là &. Vì vậy nên khi học trò ở Anh đọc (hoặc đọc thuộc lòng) bảng chữ cái đó thì chúng cũng phải “đọc tên” của ký hiệu “&”. Và hai chữ cuối cùng (z, &) được đọc là “zed and per se and”, nghĩa là “zed và (cái chữ) tự nó (có nghĩa là) và”. Với thời gian, người ta không còn nhận thức được rằng and per se and có nghĩa là “và (cái chữ) tự nó (có nghĩa là) và” nữa mà chỉ đơn giản ngỡ rằng “and per se and” là tên của ký hiệu “&”. Lại với thời gian, bốn âm tiết and, per, se, and dính vào nhau rồi -nd của and bị p – của per đồng hoá thành (âm môi) m nên ngày nay ta mới có danh từ ampersand để gọi ký hiệu “&”.
§ 971. Kiến thức ngày nay, số 488, ngày 1 -3-2004
ĐỘC GIẢ: Mới đây, mục “Tin vắn” trên báo Tuổi trẻ có một mẩu tin như sau: “Andrea Sarti, người phá kỷ lục thế giới về “hôn không nghỉ” (kissathon, diễn ra ở Vicenza, Bắc Ý) đã phải nhập viện và tiếp oxy (…) Sarti đã hôn người yêu Ann Chen liên tục trong 31 giờ 18 phút (…)”.
Tôi chẳng quan tâm đến chuyện hôn hít mà chỉ thắc mắc trong chữ kissathon, thì kiss là hôn nhưng athon là gì thì nghĩ mãi không ra.
AN CHI: Kissathon là một portmanteau word – khái niệm này đã được giới thiệu tại Chuyện Đông chuyện Tây; tiếng Pháp là mot-valise – gồm có kiss và phần sau (-athon) của marathon. Marathon có nghĩa là môn chạy đua đường trường dài 42,195km, rồi nghĩa bóng là hoạt động hoặc công việc dài hơi đòi hỏi nhiều công sức hoặc nhẫn nại. Vậy kissathon là một ẩn dụ có nghĩa là cuộc chạy đua marathon không phải bằng chân, mà bằng… môi, dĩ nhiên là… dài hơi (nếu không thì làm sao đến nỗi phải tiếp oxy!).