Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 0952 - 961

 

 

§ 952. Kiến thức ngày nay, số 479, ngày 1 -12-2003

ĐỘC GIẢ: Từ điển tiếng Việt1992 do Hoàng Phê chủ biên có mục:

“Ối (khẩu ngữ). Nhiều như không kể xiết, nhiều quá mức dự kiến. Còn ối việc phải làm. Mất ối thời gian. Ối người chưa biết chuyện”.

Rồi lại có mục:

“Khối (…) Số lượng nhiều đến mức không đếm xuể, chỉ có thể nói chung như một tổng thể (nghĩa 3)”.

Tôi thiển nghĩ có lẽ ối là một biến thể ngữ âm của khối. Không biết có đúng không?

AN CHI: Chúng tôi cho rằng ối và khối không có liên quan gì với nhau về nguồn gốc. Ối là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 猥 mà âm Hán Việt hiện đại là ổi, mà “nhiều” là cái nghĩa liên quan đến vấn đề đang bàn (bên cạnh một số nghĩa khác). Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh không ghi nhận nghĩa này (đây dù sao cũng chỉ là một quyển từ điển cỡ nhỏ) nhưng Hán – Việt tự điển của Thiều Chửu thì có (nghĩa 3). Đặc biệt, Mathews’ Chinese – English Dictionary thì đã cho một cách khá đầy đủ (xin phiên âm mục từ bằng chữ Hán thành âm Hán Việt cho tiện):

“Ổi: Many; plentiful.

ổi đa: many; numerous.

ổi đại: numerous and flourishing.

ổi thịnh: full to overflowing”.

Về nghĩa thì như thế còn về âm thì từ ổi sang ối chỉ có một bước nhỏ, giống như:

– bỉnh (bảnh) ~ bánh;

– (cầu) khẩn ~ khấn (vái);

– tản cũng đọc tán; v.v..

Tóm lại, ối không có liên quan gì về nguồn gốc với khối như ông đã gợi ý.

 

§ 953. Kiến thức ngày nay, số 479, ngày 1 -12-2003

ĐỘC GIẢ: Trong “chịu thương, chịu khó”, chữ “thương” hình như không liên quan gì đến ý nghĩa của cả cụm từ. Rất mong ông giải thích.

AN CHI: Thương là một yếu tố Hán Việt có nghĩa là làm hại, làm hư hao, như có thể thấy trong các cấu trúc ghép thương hại mà nghĩa gốc là hư hao; thương tổn (đồng nghĩa); thọ (thụ) thương là chịu hư hại, bị thương bị thiệt. Với cái nghĩa trên đây của chữ thương và các thí dụ trên đây về chữ này, ta thấy thương đã có thể đứng chung một trường nghĩa với khó trong chịu thương, chịu khó; nhất là nếu ta thấy rằng khó ở đây vốn có nghĩa là “khổ” (như trong nghèo khó) chứ không phải là phản nghĩa của dễ.

 

§ 954. Kiến thức ngày nay, số 479, ngày 1 -12-2003

ĐỘC GIẢ: Từ điển tiếng Việt1992 do Hoàng Phê chủ biên giảng thánh thần “như thần thánh”; còn “thần thánh” thì được giảng là “lực lượng siêu tự nhiên theo mê tín, như thần, thánh (nói khái quát)”. Xin cho biết giảng như thế đã đúng với khái niệm Saint-Esprit trong tiếng Pháp và Holy Spirit trong tiếng Anh chưa. Cũng xin cho biết luôn Saint-Esprit/Holy Spirit mà dịch thành “các thánh thần” thì có đúng hay không. Giữa église và Eglise, church và Church có gì khác nhau?

AN CHI: Khái niệm “thánh thần/thần thánh” mà Từ điển tiếng Việt 1992 (Hoàng Phê chủ biên) đã giảng là một khái niệm có thật trong tiếng Việt toàn dân và chẳng có liên quan gì đến Saint-Esprit trong tiếng Pháp và Holy Spirit trong tiếng Anh cả. Đồng thời Từ điển tiếng Việt 1992 là từ điển về tiếng Việt phổ thông chứ không phải từ điển chuyên ngành nên dĩ nhiên là nó cũng không nhất thiết phải giảng cả mấy tiếng thánh thần là “ngôi Ba Thiên Chúa” trong “Thiên Chúa Ba Ngôi” (Trinité/Trinity).

Còn dịch Saint-Esprit/Holy Spirit, tức ngôi Ba Thiên Chúa, thành “các thánh thần” thì rõ ràng là chuyện không thể chấp nhận được. Về chuyện này, Cao Xuân Hạo đã phê phán như sau:

“Ở ta cũng có hàng chục triệu người Công giáo, chỉ cần hỏi là biết ngay, nhưng từ mấy chục năm nay, trong tin tức cũng như trong phim ảnh, người ta đều nói “Nhân danh Cha và Con và Các thánh thần, A-men”, không thèm hỏi một người Công giáo bất kỳ để biết rằng đó là ba ngôi, ba vị, trong đó vị thứ ba là Thánh Thần, hay chính xác hơn nữa là Thánh Linh (Sanctus Spiritus) cùng làm thành một tổng thể là Thượng đế”*.

Trở lại với Từ điển tiếng Việt1992 do Hoàng Phê chủ biên, ta thấy quyển từ điển này giảng riêng từ “thánh” như sau:

“(…) 5. Đấng tạo ra trời, đất, chúa tể của muôn loài, theo một số tôn giáo. Hồi giáo thờ thánh Allah. 6. Từ đạo Cơ đốc dùng để gọi Chúa Jesus và những cái thuộc về Chúa, Tượng thánh. Ngày lễ thánh. Kinh thánh. Toà thánh”.

Thì cũng là chuyện “không hỏi một người Hồi giáo hay một người Công giáo bất kỳ nào” để biết rằng với Hồi giáo thì Allah chính là Thượng đế (chứ không phải “thánh”); còn với Công giáo thì thánh là “người đã được Giáo Hội phong thánh và buộc giáo hữu phải tôn kính” chứ không phải “Chúa Jesus”.*

Eglise với chữ “é” thường, cũng như church với chữ “c” thường, là nhà thờ. Còn Eglise với chữ “e” hoa, cũng như Church với chữ “c” hoa, là Giáo hội. Tiếc rằng quyển Từ điển Anh Việt (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) lại dịch sai từ Church với chữ “c” hoa. Danh từ saint được Oxford Advanced Learner’s Dictionary 1992 giảng như sau:

“Person who has been declared by the Christian Church to have deserved veneration through holy living, performing miracles, etc”.

Nhóm Hồ Hải Thuỵ đã dịch định nghĩa này như sau:

“Người đã được nhà thờ (sic) Cơ đốc giáo tuyên bố là xứng đáng với lòng tôn kính do sống thánh thiện, thực hiện những điều kỳ diệu, v.v..”.

“Nhà thờ” mà lại có quyền phong thánh ư? Đồng thời, miracle mà dịch thành phép lạ, phép mầu, có lẽ mới hợp với tính chất “chuyên ngành” hơn là “điều kỳ diệu” chăng?

 

§ 955. Kiến thức ngày nay, số 480, ngày 10-12-2003

ĐỘC GIẢ: Từ điển Annam – Lusitan – Latinh của Alexandre de Rhodes do Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên dịch từ tiếng Bồ Đào Nha (Lusitan) và tiếng La Tinh sang tiếng Việt (Nxb. Khoa học Xã hội, 1991) có mục từ:

“Eo, bàu (bầu) eo: Quả bầu tròn như đầu người”.

Tại sao eo lại là “tròn như đầu người”? Lẽ nào ta lại có thể gọi các “bà bầu” là “những bà có eo”?

AN CHI: A. de Rhodes đã dịch danh ngữ bầu eo sang tiếng Bồ Đào Nha là “abóbora com cabeça” và sang tiếng La Tinh là “cucurbita capitata”. Trong tiếng Bồ thì com là “với” và cabeça là “đầu”. Vậy com cabeça là “có đầu” (với (cái) đầu). Còn trong tiếng La thì capitata là giống cái của tính từ capitatus, cũng có nghĩa là “có đầu”. Vậy abóbora com cabeça và cucurbita capitata đều chỉ có nghĩa là “bầu có đầu” chứ không phải “bầu tròn như cái đầu”. A. de Rhodes đã hình dung đúng đặc điểm của trái bầu eo nhưng hiềm một nỗi là lời dịch (sang tiếng Bồ và tiếng La) của ông lại quá tối nghĩa nên mới khiến ba vị dịch giả người Việt biến trái bầu eo thành trái bầu tròn như đầu người!

Vậy bầu eo là bầu có hình dạng ra sao? Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng bầu eo là “bầu có eo ở đoạn trên, phân trái bầu làm hai, phần trên ốm như cổ ve chai, phần dưới phình to thật tròn, thường để già lấy vỏ đựng rượu hoặc đựng đồ dùng ở nhà bếp”.

Chính cái “phần dưới phình to thật tròn” của trái bầu eo đã được A. de Rhodes quan niệm như cái đầu, đối với cái cổ là “phần trên ốm như cổ ve chai” mà Việt Nam tự điển đã miêu tả.

Vậy bầu eo không phải là “quả bầu tròn như đầu người”. Nếu nó có đặc điểm này thì người ta đã gọi nó là bầu tròn chứ cớ chi lại gọi là bầu eo?

 

§ 956. Kiến thức ngày nay, số 480, ngày 10-12-2003

ĐỘC GIẢ: Xưa nay, câu thứ hai của Truyện Kiều vẫn được các bản quốc ngữ khác nhau phiên âm thành:

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

 

Theo tôi biết thì chính các bản Nôm cũng khắc “chữ tài chữ mệnh”. Nhưng bản Duy Minh Thị 1872 do Nguyễn Tài Cẩn công bố trong Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002) thì lại khắc:

Chữ tài chữ sắc (khéo là cợt nhau).

Vậy chữ nào mới đúng với bản gốc của thi hào Nguyễn Du và đâu là nguyên nhân của sự thay đổi ngôn từ này?

AN CHI: Về vấn đề ông hỏi, trong Tư liệu Truyện Kiều -Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002), Nguyễn Tài Cẩn đã phỏng đoán như sau:

“Xét kĩ bản in, chúng tôi thấy hai chữ tài, sắc là hai chữ mới khắc chêm vào, không thật ăn khớp với phong cách 6 chữ còn lại trong toàn câu. Hơn nữa chữ cợt (chữ Nôm miền Nam) là một chữ mới do chữ kết thêm dấu “cá nháy” chữa lại mà thành. Vậy chắc trước kia phải có hai chữ gì đó không phải là tài, sắc, mệnh mà lại đi đôi với nhau, kết với nhau. Đọc lại nguyên tác, chúng tôi gặp ngay lời bình của Thánh Thán (tức/hay Quán Hoa Đường?) ở ngay đầu hồi thứ nhất:

“Trong thiên này chữ tình tuy chỉ một chữ nhưng là đại kinh, và chữ khổ tuy chỉ một chữ nhưng là đại vĩ…”.

“Chúng tôi nảy sinh ý nghĩ: phải chăng trước kia Nguyễn Du vốn mở đầu theo sát nguyên tác là:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tình chữ khổ khéo là kết nhau

 

rồi về sau mới có sự đổi lại thành tài sắc cợt nhau để cuối cùng lại có sự nhuận sắc thành tài mệnh ghét nhau như hiện thấy?

“Nhuận sắc lại vì tuy truyện Tàu đi theo hướng hồng nhan bạc mệnh, nhưng Nguyễn Du đã lái sang một hướng hơi khác, kết luận theo thuyết tài mệnh tương đố: kết luận đã đổi thì mở đầu cũng phải đổi”*.

Về những ý kiến trên đây của Nguyễn Tài Cẩn, chúng tôi xin nhận xét như sau.

Chúng tôi thấy chữ tài và chữ sắc ở đây chẳng có gì là “không thật ăn khớp với phong cách của sáu chữ còn lại” trong câu thứ hai của bản Nôm Duy Minh Thị 1872. Riêng về chữ kết thì chúng tôi thừa nhận rằng dấu cá nháy bên phải của nó là một chi tiết đáng chú ý nhưng lại chưa nhất trí với Nguyễn Tài Cẩn về cách đọc chữ ấy thành “cợt”. Ông đã dẫn Bảng tra chữ Nôm miền Nam của Vũ Văn Kính (Hội Ngôn ngữ học Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) để chứng minh rằng đó là chữ “cợt” nhưng thực ra ông chỉ mới dẫn có phần tra ngược ở trang 24 chứ ở phần tra xuôi, trang 127 thì chữ (kết + cá nháy) có tới hai âm: cợt và ghét. Cũng xin nói thêm rằng trong hai câu 1214 và 1591 của chính bản Duy Minh Thị 1872 thì chữ cợt (chữ này chỉ được dùng có 2 lần) được viết bằng “khẩu + kiệt” chứ không phải “kết + cá nháy”. Vậy trong tình trạng “giằng co” này, ta cũng chẳng có lý do gì để nói rằng chữ đang xét không thể đọc thành “ghét”. Còn cái dụng ý của Nguyễn Tài Cẩn thì rất rõ ràng, như sẽ nói dưới đây.

Ông đọc chữ này thành “cợt” vì muốn chứng minh rằng dấu cá nháy là một chi tiết được chêm vào sau, nghĩa là thoạt kỳ thuỷ thì trên bản gỗ khắc (của tờ 2A), nó không có mặt vì có mặt lúc đó chỉ là chữ kết 結 mà thôi. Vậy chữ kết có thể là cái chữ gốc của Nguyễn Du. Và một khi chữ kết 結 đã bị sửa thành cợt thì những chữ khác cũng có thể được sửa lắm chứ. Theo hướng đó, ông nhìn thấy chữ tài và chữ sắc “trông hơi khác 6 chữ còn lại trong dòng, vậy chắc có hiện tượng chêm vào, thay 2 chữ trước kia vốn khác” mà ông đoán là chữ tình và chữ khổ. Nghĩa là, theo ông thì ban đầu Nguyễn Du đã viết:

Chữ tình chữ khổ khéo là kết nhau.

Nhưng chúng tôi xin lưu ý rằng dù không có dấu cá nháy thêm vào thì chữ 結 cũng không nhất thiết đọc thành “kết” vì ở hai câu 549 và 1619 của chính bản Duy Minh Thị 1872 thì nó lại được đọc thành “ghét”:

Ông tơ ghét bỏ chi nhau

Trước cho bỏ ghét những người,

như chính Nguyễn Tài Cẩn cũng đã phiên âm. Huống chi, chữ tài và chữ sắc ở đây thực tế cũng chẳng có gì là “hơi khác với 6 chữ còn lại”, như ông đã nhận xét. Vậy ta có thể khẳng định rằng Nguyễn Du đã không viết câu:

Chữ tình chữ khổ khéo là kết nhau.

Vấn đề cuối cùng là giữa hai câu

“Chữ tài chữ sắc khéo là cợt nhau” (a)

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” (b)

thì câu nào có trước? Nguyễn Tài Cẩn cho rằng (a) có trước rồi các bản A (Đào Duy Anh 1974), B (Kiều Oánh Mậu 1902), C (Thịnh Mỹ Đường 1879), D (Liễu Văn Đường 1871), v.v., mới đổi thành (b). Chúng tôi không nghĩ như thế. Nguyễn Du đâu có xoàng đến nỗi không thể bố cục được cho nhất quán giữa phần đầu và phần kết của Truyện Kiều, đến nỗi muốn chứng minh chuyện tài mệnh tương đố mà lại mở đầu bằng hai chữ tài, sắc để cho người đời sau phải hiệu đính thành tài, mệnh! Chúng tôi cho rằng (b) có trước, nghĩa là ngay từ đầu thì Nguyễn Du đã mở đầu bằng câu:

(Trăm năm trong cõi người ta),

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

 

Có thế thì mới nhất quán được với phần kết:

(Có đâu thiên vị người nào)

Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.

 

Các bản A, B, C, D ghi “chữ tài chữ mệnh” cho câu thứ hai là đã ghi đúng theo một/những bản gốc nào đó còn bản Duy Minh Thị 1872 thì lại khắc theo một bản khác, tạm gọi là bản X; bản này đã đổi chữ mệnh thành chữ “sắc” vì một nguyên nhân đặc biệt mà chúng tôi xin phỏng đoán như sau. Bản X được chép tay hoặc khắc in sau đời Gia Long nhưng trước năm 1825 (theo sự phân tích của Nguyễn Tài Cẩn thì nó ra đời trong khoảng 1803 – 1825), nghĩa là trong những năm đầu đời Minh Mạng. Với bản này thì tuy không có chuyện kỵ huý của Minh Mạng nhưng lại kỵ một chuyện khác có khi lại còn quan trọng và tế nhị hơn. Nguyễn Du đã trót viết:

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

nhưng khi Thánh Tổ nhà Nguyễn (1820 – 1840) lên ngôi thì lại lấy niên hiệu là Minh Mạng (Mệnh) nên đã làm phát sinh một sự “va chạm” mạnh về từ ngữ trong câu thứ hai của Truyện Kiều. Nhà vua lấy niên hiệu là “Minh Mạng” (soi sáng mệnh trời hay mạng sáng trời ban?) mà nhà biên tập hoặc người sao chép Truyện Kiều lại “tương” cho một câu

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

ở ngay đầu truyện thì có khác nào tuyên bố rằng Minh Mạng là một ông vua bất tài. Phải chăng vì muốn tránh sự “va chạm” có thể dẫn đến cái hoạ văn tự dễ như chơi này nên nhà biên tập hoặc người sao chép mới thay chữ “mệnh” bằng chữ “sắc” là một chữ lạc lõng?

Vậy theo chúng tôi thì “sắc” là một chữ lạc lõng mà nhà biên tập hoặc người chép tay của bản X đã đưa vào câu Kiều thứ hai để “thế mạng” cho chữ “mệnh/mạng” vì lý do đã nói. Nó đã được khắc ngay từ đầu trong bản Duy Minh Thị 1872 với 7 chữ khác cùng dòng, trong đó có cả chữ “tài”, chứ không phải là một chữ được chêm vào sau. Dĩ nhiên là cái lý do mà chúng tôi phỏng đoán có thể sai nhưng chúng tôi tin chắc rằng Nguyễn Du đã viết “chữ tài chữ mệnh” ngay từ đầu chứ không xoàng xĩnh đến nỗi lại mở đầu bằng hai chữ “tài, sắc” để rồi kết thúc bằng hai chữ “tài, mệnh”. Chuyện làm cho “đầu đuôi nhất quán” này tuyệt đối chẳng có gì khó nên ta khó có thể tưởng tượng rằng ngay từ đầu mà Nguyễn Du lại dùng chữ “sắc” chứ không phải chữ “mệnh” trong câu thứ hai của Truyện Kiều.

 

§ 957. Kiến thức ngày nay, số 481, ngày 20-12-2003

ĐỘC GIẢ: Câu 497 của Truyện Kiều là:

Hoa hương càng tỏ thức hồng

Xin hỏi: Hoa ở đây có phải là hoa thật (miền Nam gọi là “bông”) và hương ở đây có phải là mùi thơm hay không?

AN CHI: Sau đây là lời giảng hai tiếng hoa hương của câu 497 trong một số bản chú giải quen thuộc.

Truyện Thuý Kiều do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu-khảo (Tân Việt, Sài Gòn, in lần thứ năm, không ghi năm):

“Đây theo bản cũ dùng chữ hoa hương, nghĩa là người đẹp có hoa có hương thì lại đẹp thêm”*.

Truyện Kiều do Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Đức Vân hiệu đính và chú thích (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1965):

“Hoa hương: hoa có hương thơm. Thức hồng: vẻ hồng, chỉ vẻ đẹp của hoa. Ý nói: Kiều đã có sắc, lại có tài (hay thơ giỏi đàn) càng tăng thêm giá trị, ví như đoá hoa, đã đẹp lại thơm”*.

Truyện Kiều do Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích (Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1972):

“Hoa hương: hương tình. Hoa đây là hoa tình: chuyện trai gái yêu đương cợt nhả với nhau”*.

Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974):

“Hoa hương: Hoa và hương càng làm tỏ vẻ đẹp”*.

Truyện Kiều do Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải (Nxb. Khoa học Xã hội, 1995):

“Hoa hương: ý nói cái vẻ đẹp của người con gái như bông hoa còn nguyên nhị”*.

Những lời giảng trên đây tuy có những chỗ “tiểu dị” nhưng đều “đại đồng” ở chỗ cho rằng hai tiếng hoa hương ở đây dùng để tả người. Tiếc rằng cái chỗ “đại đồng” này thì lại hoàn toàn sai lầm vì các nhà chú giải chỉ ngắt riêng câu 497 ra mà giảng chứ không chịu đặt nó vào trong cả đoạn thơ hữu quan để thấy rằng đây thực chất chỉ là một câu tả vật, tả cảnh.

Xin đọc kỹ lại đoạn 445 – 528, kể chuyện Kiều lại trở qua nhà Kim Trọng trọ học trong cái đêm mà “một nhà mừng thọ ngoại hương” chưa về. Trong đoạn này, ba câu 446, 485 và 497 có liên quan với nhau một cách rất chặt chẽ và cực tế nhị để tạo ra một khung cảnh “mơ màng” cho cuộc tình nồng thắm:

446: Đài sen nối sáp (a), song đào thêm hương (b).

485: Ngọn đèn khi tỏ khi mờ.

497: Hoa hương càng tỏ thức hồng.

Câu 485 tả tiếp về cái ngọn đèn sáp trong 446 (a) còn câu 497 thì lại tả tiếp về cái mảnh hương trầm trong 446 (b). Mối quan hệ giữa 485 với 446 (a) thì quá dễ thấy nhưng mối quan hệ giữa 497 với 446 (b) thì lại có nhiều phần khó nhận thức vì ai cũng cứ ngỡ rằng hương ở đây là mùi thơm còn hoa thì là bông.

Nào phải như thế. Hương chính là mảnh chất thơm bằng gỗ trầm mà Kim Trọng đã thêm vào song đào (Đào Duy Anh phiên là “lò đào”) còn hoa thì lại là cái phần đã cháy đượm mà không bốc thành lửa của mảnh hương trầm (So sánh với hoa đèn). Vậy hoa hương ở đây không phải là hai danh từ đẳng lập. Đây là một danh ngữ kiểu chính phụ mà hoa là trung tâm còn hương là định ngữ, giống hệt như đèn là định ngữ của hoa trong danh ngữ hoa đèn, tuyệt đối chẳng liên quan gì đến khái niệm “người đẹp” hay “hoa còn nguyên nhị” cả.

Cái phần hoa của mảnh hương (hoa hương) càng rực đỏ (càng tỏ thức hồng) thì càng làm cho lửa tình cháy bỏng thêm như có thể thấy thể hiện nơi đầu mày cuối mắt của đôi uyên ương Kim Kiều (498: Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu).

 

§ 958. Kiến thức ngày nay, số 482, ngày 1 -1 -2004

ĐỘC GIẢ: Xin mạn phép nêu một câu hỏi có tính chất “phản ứng dây chuyền”. Trên Kiến thức ngày nay, số 476, ông có trả lời cho ông Ong Nam Hà về cách thi sĩ Tản Đà dịch bài thơ “Khúc Giang” của Đỗ Phủ và cho ông Lê Minh Đức về cách một số dịch giả khác dịch bài “Hành lộ nan” của Lý Bạch. Tản Đà dịch câu “Triều hồi nhật nhật điển xuân y” thành:

Khỏi bệ vua ra cố áo hoài

và ông đã nhận xét:

“Về hai câu đầu trong bản dịch của Tản Đà (…) thì chữ cố có thể gây bỡ ngỡ cho người đọc hiện nay vì ta khó hình dung được rằng “cố áo” lại là “đem áo đi cầm”. Mà ngay ở thời của Tản Đà, có lẽ cũng chẳng (hoặc ít) ai lại dùng từ cố đơn độc như thế vì ta thấy chỉ có ngữ vị từ đẳng lập cầm cố mới thông dụng mà thôi”.

Thế nhưng trong bản dịch một bài thơ khác, bài “Tự khuyến” của Bạch Cư Dị, chính thi sĩ Tản Đà cũng lại dùng chữ “cố” khi dịch câu “Thoát y điển tửu Khúc giang biên” thành:

Bến Khúc thèm men, cố áo đi.

(Trích từ Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr. 168).

Vậy với dẫn chứng này, liệu nhận xét trên đây của ông có còn hiệu lực nữa không?

Cũng trong bài “Tự khuyến” của Bạch Cư Dị, tôi lại thấy có mấy chữ “thập thiên nhất đẩu” ở câu thứ ba: “Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm” mà Tản Đà dịch thành:

Đấu rượu muôn đồng quen uống đắt.

Vậy mấy chữ này có cùng nghĩa với mấy chữ “(tửu) đẩu thập thiên”, trong bài “Hành lộ nan” của Lý Bạch không? Trong biên soạn, ông Nguyễn Quảng Tuân cho biết câu thứ ba trên đây có một dị bản là:

Thập niên nhất đẩu do xa ẩm

mà ông dịch nghĩa là “Một đấu rượu mà trong bao năm (mười năm) tôi đã phải mua chịu (trả dần)” (Sđd, tr. 169) và dịch thành thơ là:

Một đấu, bao năm thường uống chịu.

(Sđd, tr. 170)

Ông Nguyễn Quảng Tuân cho biết ông thấy câu dị bản trên đây trong Bạch Hương Sơn di tập. Ông Tuân cho rằng câu dị bản này đúng hơn so với câu trong bản của thi sĩ Tản Đà. Vậy ý ông thế nào?

Liên quan đến chuyện giá cả, một người bạn nói với tôi rằng không chỉ có chuyện “đẩu tửu thập thiên” (một đấu rượu giá mười ngàn tiền) mà còn có cả chuyện đẩu tửu bách thiên, nghĩa là một đấu rượu giá tới (một) trăm ngàn. Vậy đây là do lạm phát kinh tế hay là lạm phát ngôn từ và nếu là lạm phát ngôn từ thì đây là sản phẩm của thi hào hay văn kiệt nào?

Cuối cùng, chữ “cơ” mà ông Nguyễn Quảng Tuân chép lại từ Bạch Hương Sơn thi tập lại là 羈 (Sđd, tr. 169) mà ông Tuân giảng là “ràng giữ, kiềm chế” (Sđd, tr. 170) chứ không phải cơ 饑 là “đói” như trong bản của Tản Đà (Sđd, tr. 167). Chữ xa ở câu 3, ông Nguyễn Quảng Tuân ghi theo Bạch Hương Sơn thi tập thành 賒 (Sđd, tr. 169) mà ông giảng là “mua chịu trả dần” (Sđd, tr. 170) chứ không phải xa 奢 là “xa xỉ, hoang phí” như trong bản của Tản Đà.

Xin ông cho biết ý kiến về tất cả những chuyện trên đây.

AN CHI: Chúng tôi sẽ phải thay đổi nhận xét của mình về chữ “cố” của Tản Đà nếu ta chứng minh được rằng một số (hoặc nhiều) tác giả khác cũng dùng vị từ này một cách đơn độc trong những văn cảnh khác. Còn ở đây, với bản dịch bài “Tự khuyến” của Bạch Cư Dị, người dùng nó theo kiểu đã thấy cũng lại là Tản Đà và Tản Đà cũng dùng nó theo kiểu đó trong một văn cảnh tương tự như khi dịch bài “Khúc giang” của Đỗ Phủ. Vì vậy nên chúng tôi xin vẫn mạn phép bảo lưu ý kiến của mình trong khi chờ đợi.

Bốn chữ “thập thiên nhất đẩu” (mười ngàn một đấu) trong câu 3 của bài “Tự khuyến” chính là một biến thể của mấy chữ “đẩu thập thiên” trong bài “Hành lộ nan” của Lý Bạch và mấy chữ “đẩu tửu thập thiên” trong bài “Tương tiến tửu” cũng của nhà thơ này.

Ông Nguyễn Quảng Tuân cho rằng dị bản “Thập niên nhất đẩu do xa ẩm” đúng hơn câu trong bản mà Tản Đà sử dụng vì theo ông thì:

“Câu thứ 3 mà viết là thập thiên nhất đẩu (mười ngàn một đấu rượu) thì vô lý! Làm gì có giá ấy? Bán cái áo làm sao cho có được mấy ngàn?”*.

Chuyện mà ông Nguyễn Quảng Tuân cho là vô lý (mười ngàn một đấu rượu) thì chúng tôi đã trình bày rõ trên Kiến thức ngày nay, số 476. Mấy tiếng “(tửu) đẩu thập thiên” là một lối nói đã có từ thế kỷ III (của CN) trong “Danh đô thiên” của Tào Thực (192 – 232 CN) mà Lý Bạch đã vận dụng vào hai bài “Hành lộ nan” và “Tương tiến tửu”. Đây “chỉ là một ngoa dụ dùng để nói lên cái quý, cái đắt của rượu chứ không thông báo về thời giá của thị trường” nên dĩ nhiên cũng chẳng có gì là vô lý cả và càng không liên quan gì đến giá tiền của cái áo. Và khi Bạch Cư Dị (772 – 846) vận dụng lối nói “thập thiên nhất đẩu” thì chẳng qua ông chỉ lặp lại cái việc mà trước ông một thế hệ, Lý Bạch (701 – 762) đã từng làm. Còn cái luận lý của hai câu

Thập thiên nhất đẩu do xa ẩm,

Hà huống quan cung bất trị tiền.

 

thì lại là ở chỗ: Trước kia, một đấu rượu đáng giá mười ngàn mà ta còn dám phóng tay cởi áo đem cầm để mua uống huống chi là bây giờ đã có rượu quan không phải tốn tiền thì tội gì mà chẳng uống?

Ông Nguyễn Quảng Tuân đã theo Bạch Hương Sơn thi tập mà chép “Thập niên nhất đẩu do xa ẩm” và chính ông đã tự mình mâu thuẫn với mình ngay trong cách dịch. Ngay trong cùng một trang (Sđd, tr. 169) mà ở trên thì ông dịch thành “một đấu rượu mà trong bao năm (mười năm) tôi đã phải mua chịu (trả dần)” còn ở dưới thì ông lại dịch thành “trong mười năm (nhiều năm) đã phải uống rượu mua chịu từng đấu một”. Thập niên nhất đẩu chỉ có thể là “mười năm một đấu”, nghĩa là tính ra – nếu có thể tính theo kiểu toán học – thì mỗi năm chỉ có một phần mười đấu mà thôi và ta tuyệt nhiên chẳng có cơ sở nào để diễn dịch thành “mỗi năm từng đấu một” như ông đã làm cả.

Huống chi, chữ xa 賒 mà ông đã chép theo Bạch Hương Sơn thi tập và giảng là “mua chịu trả dần” lại còn có thể dùng thay cho chữ xa 奢 trong xa xỉ như đã cho trong một số quyển từ điển (nên nó cũng có nghĩa là “xa xỉ, hoang phí”).

Cái ngoa dụ đang xét chỉ dừng lại ở con số “mười ngàn” chứ nhân mười thành “trăm ngàn” (bách thiên) thì quả thật chúng tôi không thấy có.

Chỉ thấy có thành ngữ đẩu tửu bách thiên với chữ thiên 篇 là “bài (thơ)”, “bản (nhạc)”, v.v. mà thôi. Đẩu tửu bách thiên (đấu rượu trăm bài) vẫn được hiểu là uống xong một đấu rượu mà đã có thể làm trăm bài thơ. Thành ngữ này bắt nguồn từ bài “Ẩm trung bát tiên ca” của Đỗ Phủ, với câu:

Lý Bạch nhất đẩu thi bách thiên.

Về chữ xa, chúng tôi đã nói ở trên còn về chữ cơ trong bản của Bạch Hương Sơn thi tập mà ông Nguyễn Quảng Tuân đã chép và dịch là “ràng giữ, kiềm chế” thì xin nhận xét như sau. Nghĩa này mới chỉ là một trong nhiều nghĩa của chữ đang xét mà cũng không phải là cái nghĩa thích hợp ở đây. Chữ cơ này còn có nghĩa là “ở nhờ”, “sống gởi” nữa. Vậy cơ bần ở đây là “sống gởi túng nghèo” chứ không phải “bị giam hãm trong cảnh nghèo túng”. Cơ bần không thể nào lại là một cấu trúc kiểu “vị từ (giam hãm) + trạng ngữ (trong cảnh nghèo túng)” cả. Nó chỉ có thể là một ngữ vị từ đẳng lập nghĩa là gồm có hai vị từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa mà thôi.

Vì vậy nên chữ “cơ” dù có viết theo bản của Tản Đà hay bản Bạch Hương Sơn thi tập thì cũng phải cùng từ loại với chữ “bần”. Đó là một tính từ (vị từ tĩnh) chứ không phải là một động từ (vị từ động) nên không thể có nghĩa là “ràng giữ kiềm chế”.

 

§ 959. Kiến thức ngày nay, số 484, ngày 20-1 -2004

Bổ sung cho câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 482 liên quan đến chữ “cơ” trong “cơ bần”.

AN CHI: Liên quan đến chữ cơ, chúng tôi đã viết:

“Đó là một tính từ (vị từ tĩnh) chứ không phải là một động từ (vị từ động) nên khôngthể có nghĩa là ràng giữ, kiềm chế”*.

Để một số bạn đọc khỏi ngỡ ngàng, chúng tôi đã chú thích “tính từ (vị từ tĩnh)” và “động từ (vị từ động)” chứ thật ra từ loại tính từ (theo quan niệm cũ) không hoàn toàn trùng hợp với vị từ tĩnh mà từ loại động từ (theo quan niệm cũ) cũng không hoàn toàn trùng hợp với vị từ động. Cơ, với nghĩa “ở nhờ, sống gởi” thực chất là một vị từ tĩnh (nó không chỉ hành động) và ta tuyệt đối không thể liên hệ đến loger của tiếng Pháp hoặc (to) lodge của tiếng Anh để kết luận rằng đó là một động từ. Lý do cũng đơn giản: Tiếng Hán không phải là tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.

 

§ 960. Kiến thức ngày nay, số 482, ngày 1 -1 -2004

ĐỘC GIẢ: Tôi là một trong “nhiều bạn đọc khác” đã được ông trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 216, ngày 20-7-1996 về cụm từ “cửu huyền thất tổ”. Tôi đã đọc rất kỹ phần trả lời của ông. Trong ba cách hiểu mà ông nêu, ông đã chọn cách hiểu thứ hai (bảy đời ông bà ở trên (chín tầng) trời) vì chỉ có cách này mới thích hợp với ý nghĩa của sự thờ phượng. Tuy vậy, vì đã quen với cách trả lời của ông, tôi vẫn đoán được là chính ông cũng chưa thật hài lòng về cách hiểu đó. Xin hỏi từ bấy đến nay ông có tìm thấy thêm cách hiểu nào khác hoặc có thấy cần bổ sung điều gì không. Tôi tin là nhiều bạn đọc khác cũng muốn hỏi như tôi.

AN CHI: Đúng như ông đoán, chính cá nhân chúng tôi cũng chưa thật hài lòng về phần trả lời cho cách hiểu bốn tiếng cửu huyền thất tổ trên Kiến thức ngày nay, số 216. Nhưng ở thời điểm 20-7-1996 thì khả năng và điều kiện cá nhân chỉ cho phép chúng tôi cố gắng trả lời đến như thế. Chắc ông và bạn đọc cũng sẵn lòng thông cảm cho.

Mà đến bây giờ chúng tôi vẫn chẳng thấy có cách hiểu nào khác hợp lý hơn. Chỉ xin nói thêm đôi điều như sau:

Trên số 216, chúng tôi đã căn cứ theo Từ nguyên mà viết rằng cửu huyền thất tổ là “bảy đời ông bà ở trên (chín tầng) trời (…) tính từ đời ông bà nội của ego trở lên” (tr. 50). Từ nguyên giảng cửu huyền là “cửu thiên” (nghĩa 1) mà cửu thiên thì được chính quyển từ điển này giảng là “trời chín tầng” (cửu trùng chi thiên (nghĩa 2)). Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của cũng giảng cửu thiên là “chín tầng trời”. Còn thất tổ thì được Từ nguyên giảng là “ông bà bảy đời (thất thế chi tổ tiên) (nghĩa 2)”. Từ nguyên không nói rõ đó là những đời nào còn chúng tôi thì đã căn cứ theo quan niệm thông thường mà cho rằng đó là “bảy đời ông bà tính từ đời ông bà nội ego trở lên”. Nhưng gần đây, tra trong Đạo giáo đại từ điển do Mẫn Trí Đình và Lý Dưỡng Chính chủ biên (Hoa Hạ xuất bản xã, Bắc Kinh in lần thứ hai, 1995) thì thấy quyển từ điển này đã cho một lời giảng hơi khác nên xin ghi ra đây để ông và bạn đọc tham khảo:

“Thất tổ. Xưng phụ, tổ, tằng, cao, truyền chi chi tổ, khai lâm tri tổ, lập tính chi tổ vi thất tổ”. (tr. 31)

Nghĩa là:

“gọi cha, ông nội, ông cố, ông sơ, ông tổ “truyền nhánh” (truyền chi), ông tổ “mở rừng” (khai lâm), ông tổ lập họ là thất tổ”.

Với cách hiểu trên đây trong Đạo giáo đại từ điển thì cha của ego cũng là một đời trong thất tổ.

 

§ 961. Kiến thức ngày nay, số 482, ngày 1 -1 -2004

ĐỘC GIẢ: Có tác giả cho rằng chữ giở là lật, như trong lần giở, giở sách, giở báo, v.v., cũng có thể viết thành dở. Vậy chữ giơ là đưa (ra, lên) như trong giơ tay, giơ đầu chịu báng, v.v., có thể viết thành dơ hay không?

AN CHI: Trước nhất xin nói về cặp dở/giở. Từ điển chính tả phổ thông của Viện Văn học, thuộc Ủyban Khoa học nhà nước do nhóm Từ Lâm, Nguyễn Lân, v.v., biên soạn (Nxb. Khoa học, Hà Nội, in lần thứ hai, 1963) cho rằng dở là hình thức chuẩn nên đã ghi như sau:

“dở sách, dở trò, dở dói (cũng viết giở sách, giở trò, giở giói)”. (tr. 88)

“giở, xem dở”. (tr. 116)

Nhưng Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên thì quan niệm ngược lại nên mới viết:

“dở (cũ, ít dùng). Giở. Dở sách ra xem”. (tr. 271) và

“giở (…) Giở tờ báo ra xem. Giở từng trang sách. Giở gói cơm nắm ra ăn”. (tr. 406)

Thực ra thì trong trường hợp này, chính giở mới là hình thức chuẩn vì nó nằm trong mối tương ứng ngữ âm bl- ~ tr- ~ gi-, giống như:

– blả ~ trả ~ giả;

– blá ~ trá~ (dối) giá;

– blai ~ trai ~ giai;

– blăng ~ trăng ~ giăng;

– blời ~ trời ~ giời; v.v.

Các trường hợp trên đây chẳng liên quan gì đến d- cả. Vì vậy nên ta không thể viết: “dả” nhời (giả nhời = trả lời), “dai” gái (giai gái), ông “dẳng” ông “dăng” (ông giẳng ông giăng), ối dời ơi (ối giời ơi) v.v.. Giở là kết quả của quá trình chuyển biến:

– blở ~ trở ~ giở

nên cũng không thể viết thành “dở”.

Xin chú ý: Tất cả các trường hợp có bl- đã nêu ra trên đây đều có thể được tìm thấy trong Từ điển Việt – Bồ – La của A. de Rhodes.

Còn giơ trong giơ tay, giơ đầu chịu báng thì lại khác hẳn vì không nằm trong mối tương ứng bl- ~ tr- ~ gi-. Đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 旟 mà âm Hán Việt hiện đại là dư, có nghĩa là… giơ lên. Vì vậy nên lẽ ra nó phải được viết thành “dơ”. Dĩ nhiên đây chỉ là xét theo từ nguyên.

 

 

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3