Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 4: Câu hỏi 0942 - 951

 

 

§ 942. Kiến thức ngày nay, số 475, ngày 20-10-2003

ĐỘC GIẢ: Tôi là dân “cò lửa”, gốc ở miệt Cửa Lò (Nghệ An) mà không biết tại sao quê mình lại có một cái tên “nóng” đến thế. Mong ông An Chi vui lòng dò tìm hộ xem có chút manh mối nào không.

AN CHI: Một vài tác giả cho rằng sở dĩ quê ông có một cái tên “nóng” đến thế là vì các vị tiền bối đã phiên âm nó từ tiếng Mã Lai.

Cách đây trên 30 năm, trong Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (Bách Bộc, Sài Gòn, 1971), Bình Nguyên Lộc đã khẳng định rằng Cửa Lò bắt nguồn từ tiếng Mã Lai Kưala, “là tên chỉ những nơi sông đổ ra biển, hoặc đổ vào một con sông khác”*. Và 28 năm sau, Trần Trí Dõi cũng viết: “Một cửa sông khác ở Nghệ An cũng có tên Mã Lai: cảng Cửa Lò (Kưa lo)”*. Rồi trong một bài viết khác, Trần Trí Dõi đã nói rõ thêm như sau:

“Trong ngôn ngữ Nam Đảo người ta gặp danh từ kưala với nghĩa là “cửa sông” hay sông “cửa sông”. Từ danh từ chung có nghĩa ấy, kưala dần dần chuyển khi thì thành Cà Lồ (sông), khi thì thành Cửa Lò (cửa sông ở Nghệ An), khi thì thành Kì La (sông và cửa sông ở Hà Tĩnh), v.v.. Như vậy, tên gọi ban đầu ấy có thể là Kula/Kưala vốn là của người Nam Đảo (Austronesian) hay Mã Lai cổ (Malayo) về sau Việt hoá thành Cà Lồ”*.

Trước khi phân tích xem có thật Cửa Lò do “Kưala” mà ra hay không, xin nhận xét về mấy khái niệm cơ bản như sau.

Thứ nhất, Malayo không phải là “Mã Lai cổ” như Trần Trí Dõi đã chú thích. Như chúng tôi đã nói rõ trên Kiến thức ngày nay, số 463, ngày 20-6-2003, đó chỉ là thành tố thứ nhất trong tính từ/danh từ Malayo-Polynesian, một cấu trúc ghép kiểu đẳng lập gồm có hai thành tố Malay và Polynesian, nối với nhau bằng hình vị “o”, gắn vào thành tố trước, kiểu như Franco-Prussian (Pháp-Phổ), Greco-Roman (Hy-La), Tibeto-Burman (Tạng-Miến), v.v.. Nếu tách ra khỏi cấu trúc ghép thì thành tố thứ nhất phải trở lại với hình thái bình thường của nó: Franco → French, Greco → Greek, Tibeto → Tibetan, v.v..

Cũng vậy, “Malayo” không tồn tại riêng vì nó sẽ trở lại với hình thái bình thường của nó là Malay . Và Malay chỉ đơn giản là “Mã Lai” còn “Mã Lai cổ” thì phải là “Ancient Malay”, “Archaic Malay” hoặc “Palaeo-Malay.”

Thứ hai, “của người Nam Đảo (Austronesian) hay Mã Lai cổ (Malayo)” là một cách diễn đạt rất tối nghĩa: vì từ “hay” có thể ứng với dấu “=” hoặc dấu “≠” nên ta không thể biết được theo tác giả thì “Nam Đảo” và “Mã Lai cổ” ở đây có đồng nhất hay không. Rất may mắn là ở một đoạn trước đó, chính tác giả đã khẳng định giúp ta một cách rạch ròi rằng “ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesian) tức Mã Lai cổ”*. Nhưng chính điều khẳng định này thì lại hoàn toàn sai: Austronesian là một họ của các ngôn ngữ đang “sống”, những sinh ngữ (living languages) hẳn hoi, trong đó có cả tiếng Mã Lai (Malay) hiện đại thì làm sao lại có thể nói “ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesian) tức Mã Lai cổ”?

Thứ ba là tác giả đã theo Bình Nguyên Lộc mà ghi “kưala” còn sở dĩ Bình Nguyên Lộc ghi như thế chẳng qua chỉ để làm cho “kưa (la)” nghe giống “Cửa (Lò)” mà thôi. Chứ trên toàn bộ lãnh thổ của hai quốc gia Malaysia và Indonesia hiện nay thì cái từ đang xét vẫn luôn luôn là “kuala”, từ Kuala Dungun, Kuala Lumpur, Kuala T(e)rengganu, v.v. của Malaysia cho đến Kuala Kapuas, Kuala Keriau, Kuala Kurun, v.v. của Indonesia. Vậy trở xuống, xin mạn phép bỏ cái dấu “râu” của chữ “ư” mà ghi thành “kuala”.

Và xin nhấn mạnh rằng kuala là một đơn vị từ vựng của tiếng Mã Lai hiện đại (như chính Bình Nguyên Lộc cũng đã thấy) chứ không phải “Mã Lai cổ”.

Bây giờ xin phân tích xem có phải Cửa Lò là do tiếng Mã Lai kuala mà ra hay không. Trần Trí Dõi thì chỉ khẳng định mà hoàn toàn không biện luận còn Bình Nguyên Lộc thì đã sai ngay từ đầu trong phần biện luận của mình. Ông đã dựa vào một điều ghi chép sai lầm của một “du khách Ăng Lê” mà khẳng định rằng “danh từ cửa chắc chắn chỉ xuất hiện sau năm 1792, tức chỉ mới đây thôi” để đi đến kết luận “sự thật thì cửa là tiếng Mã Lai kưala”*.

Bình Nguyên Lộc không ngờ rằng danh từ cửa đã có mặt trong từ vựng của tiếng Việt muộn nhất cũng là vào nửa đầu của thế kỷ XV. Nó đã xuất hiện với một tần số rất “dễ thấy” trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (1380 – 1442): cửa quyền (các bài 6, 20, 27), cài cửa (b.20), cửa song (b.21), cửa Nho (b.27), cửa vương hầu (b.30), cửa nhà (b.30), cửa ngọc (b.40), cửa mận tường đào (b.46), v.v.. Đây là điểm sai thứ nhất.

Điểm sai thứ hai lại càng thô thiển hơn: chẳng có nhà ngữ học chín chắn nào lại chịu nói rằng “chỉ mới đây thôi”, nghĩa là “sau năm 1792” mà người Việt lại còn đi mượn từ cửa ở tiếng Mã Lai kuala, mà lại mượn để làm địa danh!

Không có bất cứ một lý do ngôn ngữ hoặc lịch sử nào có thể chống chế cho một kiểu kết luận nhẹ dạ đến như thế. Bất cứ ai đủ tỉnh táo cũng có thể thấy rằng Cửa Lò là một địa danh do chính người Việt đặt ra bằng những “chất liệu” sẵn có của tiếng Việt. Thật vậy, xét về danh từ chung thì cửa trong Cửa Lò nằm trong cùng một hệ thống với cửa trong cửa ải, cửa bể, cửa biển, cửa lạch, cửa sông, v.v.; còn xét về danh từ riêng thì nó nằm trong cùng một hệ thống với Cửa trong Cửa Bạng (Thanh Hoá), Cửa Cấm (Hải Phòng), Cửa Đáy (Ninh Bình), Cửa Hội (Nghệ An), Cửa Sót (Hà Tĩnh), Cửa Tùng (Quảng Trị), v.v.. Chữ nghĩa đã rành rành như thế thì liệu có nên nhiễu sự mà đi tìm nguồn gốc của địa danh Cửa Lò trong tiếng Mã Lai hay không?

Huống chi, đã đụng đến chuyện địa danh thì không thể chỉ nhờ vào ngữ học mà xong xuôi được vì nó còn liên quan đến địa lý lịch sử, lịch sử các lớp địa danh (sự loại bỏ và thay thế), đặc điểm của hệ động vật và hệ thực vật, đặc điểm các ngành nghề, sự tồn tại của các đặc sản, v.v., của địa phương hữu quan. Chẳng hạn, ngay đối với địa danh Cửa Lò, thì liên quan đến địa lý lịch sử và lịch sử các lớp địa danh, Hippolyte Le Breton đã cho biết như sau:

“Đầu thế kỷ XV, chưa có địa danh Cửa Lò. Ngọn núi nằm giữa quan lộ (quốc lộ 1A) và Cửa Lò xưa kia là một hòn đảo. Hai nhánh sông Cấm bao quanh đảo, bắt đầu từ cái làng ngày nay gọi là Đò Cấm, gần nhà ga cùng tên. Nhánh phía Bắc còn lại đến ngày nay, nhánh Nam tạo thành Cửa Xá – một cửa sông – nhưng ngày nay đã hoàn toàn bị lấp. Từ thuở ấy ở Cửa Xá có những bãi bồi biển (…)”*.

Từ đoạn văn trên đây của Hippolyte Le Breton – mà Hà Văn Tải đã dẫn lại từ Tạp chí Sông Lam, số 56-2003 – ta dễ dàng thấy rằng gốc Mã Lai, mà lại là “Mã Lai cổ”, của địa danh Cửa Lò chỉ là một câu chuyện giả tưởng.

Trở lại với thực tế, chúng tôi tán thành ý kiến của tác giả Chu Trọng Huyến, đăng trên báo Nghệ An cuối tuần ngày 6-4-2003:

“Thuở trước tổ tiên ta chưa biết phơi muối bằng cách làm ra nước ót mà phải đun nước biển cho đến khô để thành muối (…) Hai bên cửa con sông Cấm đổ ra biển thuở đó có nhiều lò nấu muối, được đắp cao. Đêm đêm lửa lò đỏ rực. Những con thuyền vào lộng ra khơi cứ nhìn vào ánh lửa lò thì biết đó là cửa sông để cho thuyền về đậu. Vì thế cửa biển ấy được gọi là Cửa Lò”*.

Việc nấu muối ở Nghệ An xưa đã được ghi nhận trong Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn* nên ý kiến của Chu Trọng Huyến rất đáng tin. Nhưng chính Hà Văn Tải thì lại có cách giải thích khác:

“Ông (H. Le Breton – AC) nói đầu thế kỷ XV chưa có Cửa Lò, nhưng chúng ta biết trước đó đã có Lô Sơn tức Núi Lò. Vậy từ “Lò” đã có trước khi có tên Cửa Lò. Phải chăng là từ Núi Lò đến Cửa Lò. Xem trên bản đồ ta thấy rất rõ những ngọn núi Đầu Rồng, Đầu Gà nhô ra xa (lò ra ngoài xa). Núi Lò đến những lò nấu muối bắt đầu từ thời Nguyễn Xí (thế kỷ XV) và từ Cửa Xá được chuyển thành Cửa Lò”*.

Đoạn văn trên đây để lộ một điều phi lý: đặc điểm “lò ra ngoài xa” của núi Đầu Rồng và núi Đầu Gà mà lại được lấy để đặt tên cho một ngọn núi khác, là Núi Lò, tức Lô Sơn. Vì vậy nên chúng tôi tán thành Chu Trọng Huyến, nhất là vì tác giả này đã dẫn lời (trong văn bia) của Nguyễn Xí, là người đã được phong đất dọc bờ biển từ Cửa Lò đến Cửa Hội:

“Dư tính Nguyễn huý Xí, thế cư hải tân dĩ chử diêm vi nghiệp”, nghĩa là “Ta họ Nguyễn, tên Xí, cả đời ở vùng bờ biển, lấy việc nấu muối làm nghề sinh sống”.

Cứ như trên thì địa danh Cửa Lò chẳng có liên quan gì đến ngôn ngữ của người “Nam Đảo hay Mã Lai cổ” cả.

 

§ 943. Kiến thức ngày nay, số 476, ngày 1-11 -2003

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 432, ngày 10-8-2002, ông có giới thiệu một bài thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ là bài “Khúc giang”, lại có kèm theo bản dịch của thi sĩ Tản Đà, được xem là một trong những người dịch thơ Đường rất tài hoa.

Được dịp đọc nguyên tác và bản dịch, tôi rất thích thú. Nhưng vì bị hạn chế về một vài mặt nên việc thưởng thức bài thơ gốc và bản dịch không được trọn vẹn mà muốn tra cứu thêm thì không có điều kiện. Vậy nếu có thể được, mong ông trích giới thiệu thêm phần giải nghĩa (dịch nghĩa tiếng Hán) trong từng câu của bài nguyên tác. Và cũng xin ông nói rõ thêm về hai câu đầu trong bản dịch của Tản Đà.

AN CHI: Để bạn đọc khác tiện tham khảo, chúng tôi xin đăng lại nguyên văn bài “Khúc Giang”.

Triều hồi nhật nhật điển xuân y,

Mỗi nhật giang đầu tận tuý quy.

Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,

Nhân sinh thất thập cổ lai hy.

Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,

Điểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi.

Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,

Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.

 

Đây là bài thứ hai trong hai bài “Khúc giang nhị thủ” của Đỗ Phủ, làm vào mùa xuân năm Càn Nguyên nguyên niên (758), lúc Đỗ Phủ đương nhiệm chức Tả thập di. Dưới đây là một số chú thích về từ ngữ:

– Khúc giang : Tên đầy đủ là Khúc giang trì, ở phía Đông Nam huyện Tràng An, tỉnh Thiểm Tây hiện nay. Ban đầu do Hán Vũ đế tạo lập, về sau được Đường Huyền Tông sửa sang thêm nên mới trở thành một nơi thắng cảnh hấp dẫn hơn.

– Triều hồi: ra về sau buổi chầu (vua).

– Điển xuân y : đem cầm (gá) áo mặc mùa xuân. Điển là cầm cố.

– Tửu trái : nợ rượu. Có thể hiểu thành “nợ tiền rượu” hoặc “nợ (với) rượu”.

– Tầm thường : bình thường, thông thường.

– Hành xứ : khắp nơi.

Nghĩa của từng câu đã được Nguyễn Quảng Tuân dịch như sau:

Ngày ngày khi ở trong triều ra về ta đem cầm cái áo xuân để mua rượu.

Mỗi ngày, ta uống thật say ở đầu sông rồi mới trở về.

Nợ rượu thường thường nơi nào cũng có.

Người đời từ xưa đến nay ít ai được thọ tới bảy mươi tuổi.

Nhiều con bươm bướm châm hoa thấp thoáng hiện.

Những con chuồn chuồn giỡn nước dập dờn bay.

Hãy nói cho mọi người biết rằng: theo thời gian phong cảnh đều thay đổi.

Ta hãy tạm cùng nhau thưởng ngoạn, đừng nên để lỡ dịp*.

Về hai câu đầu trong bản dịch của Tản Đà:

Khỏi bệ vua ra, cố áo hoài,

Bên sông say khướt, tối lần mai

 

thì chữ cố có thể gâybỡ ngỡ cho người đọc hiện nay vì ta khó hình dung được rằng “cố áo” lại là “đem áo đi cầm”. Mà ngay ở thời của Tản Đà, có lẽ cũng chẳng (hoặc ít) ai lại dùng từ cố đơn độc như thế vì ta thấy chỉ có ngữ vị từ đẳng lập cầm cố mới thực sự thông dụng mà thôi. Vậy “cố áo hoài” là một cách diễn đạt không lấy gì làm sáng sủa. Mà “khỏi bệ vua ra” cũng là một kiểu đặt câu không quen thuộc với tiếng Việt và xin thú thật rằng cấu trúc này gây cho chúng tôi cái cảm tưởng rằng đây là một trường hợp Tây nói tiếng ta. Ta không thể viện bất cứ cái cớ nào để nói rằng vì đây là “ngôn ngữ thơ” nên dịch giả phải được “đặc cách”.

Đó là nhận xét về câu đầu. Còn ở câu thứ hai thì ba chữ “tối lần mai” cũng đi quá xa với cái nghĩa của hai tiếng “mỗi nhật” trong nguyên tác. Mỗi nhật chẳng qua là mỗi ngày, hằng ngày, ngày nào cũng vậy chứ đâu có phải là tối ngày sáng đêm, thâu đêm suốt sáng mà nói là “tối lần mai”!

Có lẽ do những điều chúng tôi vừa trình bày trên đây nên chính ông cũng thấy “khó nghĩ” với hai câu đầu trong bản dịch của Tản Đà chăng?

 

§ 944. Kiến thức ngày nay, số 476, ngày 1-11 -2003

ĐỘC GIẢ: Câu đầu bài “Hành lộ nan” của Lý Bạch là:

Kim tôn thanh tửu đẩu thập thiên.

Tôi thấy ba chữ “đẩu thập thiên” đã được nhiều dịch giả dịch khác nhau: người thì dịch là “đấu mười ngàn”, người lại dịch là “mười ngàn đấu”. Bài “Tương tiến tửu” (cũng của Lý Bạch) cũng có mấy chữ đó ở câu 20:

Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước.

Mấy chữ này cũng được nhiều dịch giả dịch khác nhau kiểu như trên. Vậy xin ông vui lòng cho biết hiểu thế nào mới đúng vì các vị dịch giả kia người nào cũng thâm nho cả. Nếu là “đấu mười ngàn” thì đây là mười ngàn gì vì có người nói đây là mười ngàn đồng (tiền)?

AN CHI: Thập thiên (mười ngàn) ở đây đúng là giá tiền của một đấu rượu. Trung Quốc lịch đại danh thi phân loại đại điển do Hồ Quang Chu và Chu Mãn Giang chủ biên, tập 4 (Quảng Tây Nhân dân xuất bản xã, in lần thứ 2, 1992) đã chú về ba chữ “đẩu thập thiên” trong bài “Hành lộ nan” như sau:

“Nhất đẩu tửu trị thập thiên tiền” (tr. 232, chú thích 2), nghĩa là “một đấu rượu giá mười ngàn tiền”.

Quyển sách này cũng đã giảng về bốn chữ “đẩu tửu thập thiên” trong bài “Tương tiến tửu” yhệt như trên (tr. 365, chú thích 14).

Thật ra thì theo sđd, mấy chữ trên đây đã xuất hiện từ thế kỷ III của CN trong “Danh đô thiên” của Tào Thực (192 – 232 CN):

Quy lai yến Bình Lạc,

Mỹ tửu đẩu thập thiên

 

Nghĩa là:

Lúc trở về mở tiệc ở đạo quán Bình Lạc, dùng rượu ngon giá đến mười ngàn một đấu.

Dĩ nhiên “đẩu (tửu) thập thiên” chỉ là ngoa dụ dùng để nói lên cái quý, cái đắt của rượu ngon mà thôi, chứ không thông báo về thời giá của thị trường.

Nhưng cũng chính vì thứ rượu đang uống quá đắt nên, trong cái đà “trăm phần trăm” nọ, Lý Bạch mới viết tiếp:

Chủ nhân hà vị ngôn thiểu tiền,

Kính tu cô thủ đối quân chước

Ngũ hoa mã, thiên kim cừu

Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,

Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.

 

Nghĩa là:

Cớ sao chủ nhân bảo thiếu tiền

Mua ngay về tôi cùng bác rót

Ngựa năm sắc, áo cừu ngàn vàng

Bảo trẻ đem đổi lấy rượu ngon

Để cùng bác quên sầu vạn cổ.

 

Và nếu trở lại với bài “Hành lộ nan”, ta sẽ thấy hai câu đầu là:

Kim tôn thanh tửu đẩu thập thiên

Ngọc bàn trân tu trị vạn tiền

 

Nghĩa là:

Rượu trong (đựng) chén vàng một đấu mười ngàn,

Món ngon (để) mâm ngọc giá đáng muôn tiền.

Rõ ràng là hai cấu trúc đẩu thập thiên và trị vạn tiền là những phần Thuyết dùng để nói lên cái giá trị bằng tiền của từng phần Đề tương ứng là kim tôn thanh tửu và ngọc bàn trân tu. Vậy “đẩu (tửu) thập thiên” không phải là “mười ngàn đấu rượu”. Rất tiếc là vì hiểu sai nên có người đã dịch sai. Trần Trọng Kim, chẳng hạn, đã dịch hai câu

Trần Vương tích thời yến Bình Lạc,

Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước

 

trong bài “Tương tiếng tửu” thành

“Trần-vương Bình-lạc mua vui,

Mười ngàn đẩu rượu chơi-bời thoả-thuê”*.

 

Nếu quả đúng là “mười ngàn đấu rượu” thì đây chẳng còn là chuyện Lý Bạch cùng “bạn nhậu” Sầm Huân và Nguyên Đan Khâu uống rượu nữa mà sẽ là chuyện “ngâm rượu” mấy tay “bợm” này trong “mười ngàn đấu” chất cay đó chứ chẳng chơi!

 

§ 945. Kiến thức ngày nay, số 477, ngày 10-11 -2003

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Đọc cuốn Văn bản Truyện Kiều -Nghiên cứu và thảo luận”, đăng trên tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 8 (230)-2003, tác giả Lê Thành Lân đã tự giới thiệu là “vốn chẳng có kiến thức gì về văn bản Truyện Kiều cũng như những vấn đề thuộc về chữ nghĩa Truyện Kiều”. (tr. 116)

Thế nhưng tác giả lại làm được một việc quan trọng là phân kỳ cho lịch sử việc nghiên cứu Truyện Kiều thành năm “bước ngoặt”. Có lẽ tác giả tự nhận như trên chỉ vì khiêm tốn nhưng không biết năm “bước ngoặt” kia có vấn đề gì hay không.

AN CHI: Trước nhất, chúng tôi thành thật xin lỗi vì đã không sắp xếp được để trả lời luôn cho câu hỏi này của ông trên Kiến thức ngày nay, số 472. Bây giờ xin đi vào vấn đề.

Bài “Đọc cuốn Văn bản Truyện Kiều – Nghiên cứu và thảo luận” của Lê Thành Lân, đăng trên tạp chí Văn hoá Nghệ thuật số 8 (230)-2003 (xin gọi là “bài VHNT”) chính là bài “Một bước ngoặt trên con đường tìm hiểu Truyện Kiều”, đã đăng trên tạp chí Hán Nôm, số 3 (52)-2002 (xin gọi là “bài TCHN”), có thay đổi về nội dung của các “bước ngoặt”.

Trong bài TCHN, Lê Thành Lân đã nêu ra năm “bước ngoặt” sau đây cho lịch sử của công cuộc nghiên cứu Truyện Kiều:

– “Bước ngoặt thứ nhất: Truyện Kiều được in ra vào năm 1871 bởi Liễu Văn Đường tàng bản”.

– “Bước ngoặt thứ hai: Truyện Kiều được chú giải trong bản in của Kiều Oánh Mậu vào năm 1902”.

– “Bước ngoặt thứ ba: Vào năm 1965, bản Kiều của ông Nguyễn Văn Hoàn được in (…) được biên soạn với một phương pháp văn bản học khoa học”.

– “Bước ngoặt thứ tư: Đó là việc công bố cuốn Văn bản Truyện Kiều – Nghiên cứu và thảo luận (của Đào Thái Tôn)”.

– “Bước ngoặt thứ năm: Đó là việc Đào Thái Tôn sẽ giới thiệu bản Kiều Liễu Văn Đường in năm 1871 (…) trong một ngày gần đây”.

Kiểu “phân kỳ” trên đây không ổn chút nào.

“Bước ngoặt thứ nhất” là một cái mốc hoàn toàn vô lý: bản Liễu Văn Đường 1871 được khắc in chẳng qua chỉ để đáp ứng nhu cầu thưởng thức Truyện Kiều chứ tuyệt đối không mang tính chất nghiên cứu vì nó hoàn toàn không được chú giải. Sở dĩ nó được Lê Thành Lân nâng cấp thành một “bước ngoặt” chẳng qua là vì nó ăn theo “bước ngoặt thứ năm” là “bước ngoặt” “sẽ” (!) chứng kiến sự ra đời của chính nó (bản Liễu Văn Đường 1871) nhưng “do Đào Thái Tôn giới thiệu” mà thôi.

Nhưng chính “bước ngoặt thứ năm” này mới lại là một cái mốc thậm phi lý: người ta chỉ phân kỳ cho quá khứ và hiện tại chứ phân kỳ cho tương lai sao được! “Biết ra sao ngày sau?”

Cũng vì “đi trước thời đại” nên tác giả Lê Thành Lân mới không lường được chuyện gì sẽ xảy ra. “Bản Liễu Văn Đường 1871 do Đào Thái Tôn giới thiệu” ở đâu chưa thấy thì đã thấy:

– Truyện Kiều – Bản Nôm cổ nhất Liễu Văn Đường 1871 do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, do Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học ấn hành tháng 9-2002; và

– Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 của Nguyễn Tài Cẩn, do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành quý IV-2002 (sẽ gọi tắt là Tư liệu Truyện Kiều).

Đào Thái Tôn chưa kịp tạo ra “bước ngoặt thứ năm” thì đã có người khác làm rồi. Chính vì sự bất ổn của kiểu “phân kỳ” trong bài TCHN và nhất là vì “bước ngoặt thứ năm” đã bị người khác “đón lõng” nên Lê Thành Lân đã phải điều chỉnh nội dung của “năm bước ngoặt” đó và bổ sung thêm một vài chỗ thành bài VHNT để gởi cho tạp chí Văn hoá Nghệ thuật. Sau đây là nội dung đã điều chỉnh của các “bước ngoặt”:

– “Bước ngoặt thứ nhất: Truyện Kiều được chú giải trong bản in của Kiều Oánh Mậu năm 1902”.

– “Bước ngoặt thứ hai: Vào năm 1965, bản Kiều của ông Nguyễn Văn Hoàn được in. Đây là lần đầu tiên Truyện Kiều được biên soạn với một phương pháp văn bản học khoa học”.

– “Bước ngoặt thứ ba: Năm 1974, Đào Duy Anh cho in Từ Điển Truyện Kiều”.

– “Bước ngoặt thứ tư là việc công bố bài Giáo sư Hoàng Xuân Hãn trả lời phỏng vấn của đài R.F.I. do bà Thuỵ Khuê thực hiện vào các năm 1996, 1997 (…) nó đã vạch ra một phương hướng mới và những phương pháp mới để tìm về nguyên tác Truyện Kiều”.

– “Bước ngoặt thứ năm: Đó là việc Đào Thái Tôn khẳng định không có “bản Phường do Phạm Quý Thích in”, không có “bản Kinh do Tự Đức cho in” và “bản Tiên Điền” không phải nguyên tác của Nguyễn Du”.

Dĩ nhiên là kiểu “phân kỳ” mới này cũng chẳng ổn chút nào.

Nếu chỉ lấy việc chú giải làm tiêu chuẩn thì “bước ngoặt thứ nhất” ở đây lại trễ đến hơn một phần tư thế kỷ vì trước bản Kiều Oánh Mậu 1902 ta đã có bản quốc ngữ 1875 của Trương Vĩnh Ký. Chưa nói đến chuyện chú giải, chỉ riêng về mặt văn tự mà chuyển từ Nôm sang quốc ngữ lần đầu tiên cũng đã là một bước ngoặt rồi.

“Bước ngoặt thứ năm” cũng chẳng ổn tí nào vì nó được Lê Thành Lân lăng-xê một cách quá vội vàng. Đào Thái Tôn khẳng định rằng không có bản Kinh do Tự Đức cho in cũng như không có bản Phường do Phạm Quý Thích in. Nhưng Mai Quốc Liên đã phản bác lại ý kiến của Đào Thái Tôn trong bài “Đôi lời thưa lại Đào quân”, đăng trên tạp chí Văn học, số 6-1998 mà sau hơn 5 năm, đến nay ta vẫn chưa thấy Đào quân phản hồi. Vậy ý kiến của Đào Thái Tôn đâu đã phải là “lời sau chót”! Cứ cho rằng ý kiến đó hoàn toàn chính xác thì việc nó có xứng đáng làm thành một “bước ngoặt” hay không cũng còn là chuyện phải bàn.

Và ta còn nhiều chuyện phải bàn nữa chung quanh năm “bước ngoặt” của Lê Thành Lân.

Chẳng hạn như chuyện sau đây. Lê Thành Lân đã không tiếc lời ca tụng công việc nghiên cứu Truyện Kiều của Hoàng Xuân Hãn mà bản Duy Minh Thị 1872 chính là bản được vị học giả này xem là bản “số 1” trong tám bản Kiều mà ông định dùng để làm quyển Kiều tầm nguyên của mình*. Thế nhưng khi bản Duy Minh Thị 1872 ra mắt công chúng, mà lại do một nhà văn bản học Hán Nôm đầy uy tín và kinh nghiệm là Nguyễn Tài Cẩn giới thiệu và mô tả thì Lê Thành Lân lại chẳng hề đả động đến khi dựng lên bảng phân kỳ “năm bước ngoặt” mới cho bài VHNT. Nó không xứng đáng bằng bản Liễu Văn Đường 1871 mà Đào Thái Tôn chưa kịp công bố chăng?

Còn nếu bảo rằng ở thời điểm đó mà tác giả Lê Thành Lân vẫn chưa biết đến công trình này của Nguyễn Tài Cẩn thì thử hỏi tác giả đã đủ tư cách để làm cái việc trọng đại là định ra những bước ngoặt cho công cuộc nghiên cứu Truyện Kiều hay chưa? Có một chi tiết tế nhị mà Nguyễn Tài Cẩn đã thuật lại là Đào Thái Tôn có mời ông cùng nghiên cứu bản Liễu Văn Đường 1871 nhưng ông đã không hưởng ứng vì ông muốn mô tả bản Duy Minh Thị 1872*.

Lại như chuyện sau đây nữa. Lê Thành Lân ngưỡng mộ và ca tụng Hoàng Xuân Hãn hết ý, gọi ông là “nhà Việt Nam học số Một”* mà riêng trong việc nghiên cứu Truyện Kiều thì bài trả lời của Hoàng Xuân Hãn cho đài R.F.I. “đã vạch ra một phương hướng mới và những phương pháp mới để tìm về nguyên tác Truyện Kiều”*. Thế nhưng với kiểu phân kỳ “năm bước ngoặt” của chính Lê Thành Lân trong bài TCHN thì ta chẳng thấy tăm dạng của Hoàng học giả ở nơi nao còn Đào học giả lại “đứng tên” đến những hai “bước ngoặt” (một bước cũng đã quá vinh dự rồi!) mà tréo ngoe trái cựa thay, “bước ngoặt thứ năm” thì còn chưa xảy ra.

Đó là vào nửa đầu của năm 2002. Đùng một cái, cuối quý III, Nguyễn Quảng Tuân công bố Liễu Văn Đường 1872. Lại đùng một cái nữa, đến quý IV, Nguyễn Tài Cẩn công bố Duy Minh Thị 1872. Cái khung “năm bước ngoặt” của Lê Thành Lân cũng chấn động theo. Không còn cách nào khác hơn là phải điều chỉnh nội dung của nó. Đến nước này, Lê Thành Lân mới “thỉnh” Hoàng Xuân Hãn vào đứng ở “bước ngoặt thứ tư” với bài trả lời phỏng vấn cho đài R.F.I. Công của Hoàng Xuân Hãn đối với việc nghiên cứu Truyện Kiều đã là một hằng số. Nếu Lê Thành Lân thực sự kính mộ học giả Hoàng Xuân Hãn thì phải “dành” cho ông một chỗ đứng ngay từ đầu trong “năm bước ngoặt” của bài TCHN mới phải chứ có đâu lại cho ông ấy ra rìa rồi bây giờ mới “xét vớt”.

 

§ 946. Kiến thức ngày nay, số 478, ngày 20-11-2003

ĐỘC GIẢ: Khi con cái của động vật bốn chân động dục, người trong Nam nói là nó “rượn(g) đực”. Sở dĩ tôi phải viết chữ “rượn(g)” kiểu nước đôi như vầy là vì các quyển từ điển quen thuộc đều viết “rượn” nhưng một ông bạn già của tôi lại nói là phải viết “rượng” mới đúng. Vậy xin ông cho biết ý kiến.

AN CHI: Đúng là về chính tả hiện hành thì các quyển từ điển quen thuộc đều viết “rượn”: Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Dictionnaire annamite – français của J. F. M. Génibrel, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội; 1967), Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên, v.v.. Nhưng theo chúng tôi thì đúng ra chữ này phải viết là “rượng”.

Đây là một từ của tiếng địa phương ở trong Nam, là miền mà phụ âm cuối -n đã bị nhập làm một với phụ âm cuối -ng. Do đó, đan và đang, chăn và chăng, thiên và thiêng, v.v., đều được phát âm thành đang, chăng, thiêng, v.v..

Cũng vì lý do này mà người ta cho rằng từ đang xét là một từ có -n cuối nhưng phụ âm cuối này đã bị người miền Nam phát âm thành -ng (và cả tiếng thành “rượng”). Và cũng vì thế cho nên các nhà làm từ điển mới viết nó thành “rượn”, nghĩ rằng làm như thế mới là đưa chính tả về đúng với từ nguyên mà không ngờ rằng lẽ ra nó phải được viết thành rượng.

Thật vậy, rượng là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 痒, cũng viết 癢, mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là dưỡng, có người đọc thành dạng, có nghĩa là ngứa ngáy. Về mối quan hệ r ~ d, xin lấy cái thí dụ đầu tiên liên quan đến một từ đồng nghĩa với rượng là rực trong rạo rực. Đây cũng là một từ Việt gốc Hán và từ này bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ * mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là dực, cũng có nghĩa là… ngứa ngáy. Ngoài ra, ta còn có hàng loạt thí dụ khác; -rang (cơm) ~ dương 烊 (nướng trên lửa), – (nở) rộ ~ dụ 裕 (nhiều), – rũ (tù) ~ dũ 瘐 (chết đói hoặc chết rét trong tù), v.v..

Xin phân biệt với rượn, có nghĩa là gần rách, gần bục ra (nói về vải) vì đây là một điệp thức của rạn trong rạn nứt, đều là những từ gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 爛, mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là lạn, có nghĩa là mục nát.

Vậy rượng (đực) ~ dưỡng/dạng (= ngứa) là một hiện tượng hoàn toàn bình thường và vì thế nên lẽ ra chữ “rượn” trong trường hợp này phải viết với -ng cuối thành rượng mới đúng.

 

§ 947. Kiến thức ngày nay, số 478, ngày 20-11-2003

ĐỘC GIẢ: Tôi đọc lại câu trả lời của ông trên Kiến thức ngày nay, số 171, ngày 2-4-1995, giải thích hai câu:

Vị Thuỷ đầu can nhật

Kỳ Sơn nhập mộng thần

 

Và bất giác lại nhớ đến hai câu thơ trong Chinh phụ ngâm:

Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.

 

Rõ ràng là cảnh tha ma, mộ địa. Các cụ ông ngày xưa viếng nhau bằng bức trướng “Kỳ Sơn vân ám” cũng là cảnh đau buồn. Vậy mong ông cho biết:

Hai “Kỳ Sơn” nói trên có liên quan gì đến nhau không.

Xuất xứ của câu “Kỳ Sơn” (non Kỳ) đau buồn trên đây.

AN CHI: Đó là hai “Kỳ Sơn” khác nhau, và tên cũng viết bằng hai chữ “Kỳ” khác nhau.

Kỳ Sơn 岐 山 mà chúng tôi nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 171 là “đất gốc của Hậu Tắc mà con cháu về sau sẽ dựng nên cơ nghiệp nhà Chu”, nằm trên tỉnh Thiểm Tây. Còn Kỳ Sơn 祈 山 (cũng gọi là Kỳ Liên) trong câu sau thì lại thuộc tỉnh Cam Túc, là nơi mà tướng nhà Hán là Hoắc Khứ Bệnh từng đánh tan quân Hung Nô và giết chết rất nhiều giặc nên mới “làm nền” cho cái cảnh chết chóc thê thảm như đã thấy. Hai câu

“Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”.

 

được dịch theo ý từ nguyên văn chữ Hán của Đặng Trần Côn:

“Kỳ Sơn cựu trủng nguyệt mang mang

Phì Thuỷ tân phần phong niễu niễu”.

 

Nghĩa là:

Trăng vằng vặc soi trên mộ xưa Kỳ Sơn,

Gió hiu hiu thổi qua mả mới Phì Thuỷ.

 

 

§ 948. Kiến thức ngày nay, số 478, ngày 20-11 -2003

ĐỘC GIẢ: Khi trích dẫn nguyên văn bài “Di sản Hoàng Xuân Hãn” (bản thảo tạm thời) của ông Nghiêm Xuân Hải, con rể của học giả Hoàng Xuân Hãn, trên Kiến thức ngày nay, số 329, ngày 1-10-1999, ông đã ghi như sau:

“Bản nôm Liễu Văn Đường 1871, có ở INALCO, code (sic) VN.IV.468 Liễu Văn Đường mà chưa xin được”.

Xin ông cho biết công dụng của chữ “sic” mà ông đã ghi trong ngoặc đơn sau chữ “code” của ông Nghiêm Xuân Hải (chữ “code” này hoàn toàn đúng chính tả).

AN CHI: Tuy chúng tôi đã mấy lần trả lời về ý nghĩa và công dụng của chữ sic tại Chuyện Đông chuyện Tây nhưng vì gần đây nhiều bạn đọc lại gửi thư hỏi nên chúng tôi xin mượn cách đặt vấn đề của ông Phan Công Minh để trả lời chung như sau.

Không chỉ trong bản thảo tạm thời bài “Di sản Hoàng Xuân Hãn”, mà trong bài viết lại và bổ sung để chính thức đăng trên tờ Hợp lưu, số 65, tháng 6 và tháng 7-2002, tác giả Nghiêm Xuân Hải cũng viết:

“Bản Liễu Văn Đường 1871, có ở INALCO code (sic) VN.IV.468 Liễu Văn Đường”*.

Chữ “sic” của chúng tôi trong ngoặc đơn sau chữ “code” trong câu đã dẫn có tác dụng thông báo rằng “code” là một chữ viết và dùng sai của người được trích dẫn (Nghiêm Xuân Hải) mà người trích dẫn (An Chi) đã chép lại theo chữ gốc chứ không sửa lại. Code là mật mã (và một số nghĩa khác) còn cote thì mới là ký hiệu. Vậy lẽ ra tác giả Nghiêm Xuân Hải phải viết là “cote VN.IV.468 Liễu Văn Đường”.

Từ điển tiếng Việt 1992 (do Hoàng Phê chủ biên) giảng chữ “sic” như sau:

“Từ dùng trong ngoặc đơn, đặt sau một từ ngữ (sic) hay một câu, để chỉ rằng nguyên văn là đúng như thế, nhằm nhấn mạnh tính chất kì quặc của từ ngữ hay câu được dẫn ra ấy, hoặc nhằm biểu thị ý mỉa mai của bản thân người viết (người trích dẫn – AC)”

Khi dẫn Từ điển tiếng Việt 1992 như trên, chúng tôi cũng đã dùng chữ “sic” trong ngoặc đơn sau mấy chữ “một từ ngữ” vì đây là một cách viết sai mà chúng tôi đã dẫn đúng nguyên văn. Từ ngữ là một ngữ danh từ đẳng lập, y hệt như chữ nghĩa, câu cú, sách báo, v.v.. Những ngữ danh từ kiểu này chỉ có thể dùng ở số phức (với các từ hoặc ngữ như: những, nhiều, hằng loạt, v.v.) chứ không thể dùng ở số đơn (với một) như đã thấy. Chính Từ điển tiếng Việt 1992 cũng đã giảng từ ngữ là “từ và ngữ (nói khái quát)”. Vậy thì làm sao có thể nói “một từ ngữ” (hoặc “một chữ nghĩa”, “một câu cú”, v.v.) cho được?

 

§ 949. Kiến thức ngày nay, số 478, ngày 20-11-2003

ĐỘC GIẢ: Tôi lên mạng tìm hiểu về “taliban” thì thấy có một quyển sách của Ahmed Rashid nhan đề là “L’ ombre des taliban”. Xin hỏi: tại sao chữ “taliban” ở số nhiều (“des”) mà lại không có “s” ở cuối?

AN CHI: Le petit Larousse illustré 2002 ghi nhận số nhiều của taliban là taliban hoặc talibans. Xét về nguồn gốc thì taliban đã là số nhiều của talib trong tiếng Á Rập. Vậy nếu muốn dùng “s” để chỉ số nhiều cho thật thích hợp thì có lẽ nên viết “L’ombre des talibs” chăng? Còn trong tình trạng mà tiếng Pháp đang chấp nhận, thì ta có thể mặc nhiên hiểu rằng taliban là số nhiều bác học (savant) còn talibans là số nhiều bình dân (populaire).

 

§ 950. Kiến thức ngày nay, số 478, ngày 20-11-2003

ĐỘC GIẢ: Những chữ “cò” trong các trường hợp sau đây:

Cái cò lặn lội bờ sông;

– Hà Nam danh giá nhất ông cò;

– Cò nhà đất, cò xe, cò cơm, v.v.

Có liên quan gì với nhau không?

AN CHI: Chúng tôi thành thật xin lỗi ông vì khi trả lời cho ông Dương Văn Nhật (Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) về mấy chữ “cò” này trên Kiến thức ngày nay, số 474, chúng tôi đã để sót quý danh mà không ghi vào phần danh tính và địa chỉ của người hỏi. Xin ông vui lòng đọc câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 474 và xin bổ sung thêm một chữ nữa là:

– cò (người sửa bản in – thông dụng ở Sài Gòn và Nam Bộ trước đây) là do tiếng Pháp correcteur mà ra.

Thế là ta có đến ba từ “cò” gốc Pháp:

– cò¹ (cảnh sát trưởng thời Pháp) < commissaire (de police);

– cò² (kẻ môi giới mua bán) < commissionnaire; và

– cò³ (người sửa bản in) < correcteur.

Trong ba từ trên thì cò¹ và cò³ đã trở thành những từ lịch sử; ngược lại, cò² thì đang thịnh hành trong sinh hoạt xã hội ngày nay.

Viết thêm cho lần in năm 2018. – Thực ra, cò² chính là cò mồi nói tắt. Đây là một danh ngữ không xa lạ gì với người nông dân Việt Nam, từ Bắc chí Nam. Cò mồi, thật có, giả có. Thật, là con cò đích thực (Ảnh 1), giả là cò do con người “chế” ra (Ảnh 2) nhưng đều nhằm mục đích bẫy cò. Chẳng qua cò² được dùng theo nghĩa bóng vì đó là một ẩn dụ đã từ vựng hoá. Khi viết “cò² < commissionaire”, chúng tôi đã thấy ngờ ngợ nhưng có lẽ do tổ trác nên vẫn nghiêng về gốc Pháp của nó một cách ngu xuẩn. Nay xin cải chính: Cò² là kết quả của một sự rút ngắn từ danh ngữ cò mồi để trở thành một từ độc lập từ xửa từ xưa, đồng nghĩa với commissionaire là tiếng Tây mà người Việt Nam có biết đến sớm nhất cũng là từ cuối thế kỷ XIX.

 

 

§ 951. Kiến thức ngày nay, số 479, ngày 1 -12-2003

ĐỘC GIẢ: Chữ “tá” (= mười hai đơn vị hàng hoá cùng loại) trong “một tá bút chì”, “một tá kim băng; v.v., có phải do tiếng Pháp “tas” (= đống) mà ra không?

AN CHI: Tá không bắt nguồn từ tiếng Pháp tas mà từ tiếng Anh dozen, có nghĩa là tập hợp của mười hai đơn vị hàng hoá cùng loại. Nhưng người Việt đã không mượn thẳng nó từ tiếng Anh mà lại mượn từ tiếng Hoa (Quảng Đông). Số là người Trung Quốc đã phiên âm danh từ dozen của tiếng Anh và ghi nó bằng hai chữ 打 臣 (mà âm Hán Việt là “đả thần”). Về sau họ đã rút ngắn nó và chỉ còn dùng có âm tiết thứ nhất, ghi bằng chữ 打 mà người Quảng Đông đọc thành “tá” (chứ không đọc thành “tả” – vì nó đâu có nghĩa là “đánh”!). Nhiều quyển (hoặc bộ) từ điển tiếng Hán quen thuộc đều có ghi nhận hình thức phiên âm này, chẳng hạn: Từ nguyên, Từ hải, Vương Vân Ngũ đại từ điển, v.v.. Tiếng Việt đã mượn thẳng âm “tá” này từ tiếng Quảng Đông.

 

 

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3