Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 923 - 932
§ 923. Kiến thức ngày nay, số 465, ngày 10-7-2003
ĐỘC GIẢ: Chữ Salem là lời chúc, lời chào tốt đẹp. Còn Jeru trong Jerusalem có nghĩa là gì?
AN CHI: Theo Morris Dictionary of Word and Phrase Origins của William and Mary Morris*, thì Jerusalem bắt nguồn từ tiếng Do Thái yarah, có nghĩa là “thành phố” và shalem, biến thể của shalom, có nghĩa là “hòa bình”.
Còn Origins của Eric Partridge (London, Third Edition, 1961, p. 319) thì giảng khác và kỹ hơn một chút, rằng đó là tiếng Do Thái Yĕūshālaim (vốn không có “h” sau “s”), cùng gốc với tiếng Assyrian Ur-sa-li-immu, mà bằng chứng còn được lưu giữ trên những tấm thẻ bằng tiếng Ai Cập đào được ở Tell El-Amarna (Ai Cập), có niên đại khoảng 1450 tr. CN, với hình thức Uru-sa-lim, chắc hẳn phải có nghĩa là “Thành phố (hoặc Lãnh thổ) Hòa bình”.
§ 924. Kiến thức ngày nay, số 466, ngày 20-7-2003
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 460, sau khi nhận xét về câu thơ:
Phù Dung la liệt vạn sơn triều
của Châu Cảnh Dương, ông đã viết tiếp: “Dĩ nhiên đây chỉ là ngoa dụ mà thôi”.
Xin cho biết ngoa dụ là gì. Ngoa dụ có khác ngoa ngôn và ngoa ngữ không?
AN CHI: Ngoa dụ là một biện pháp tu từ, thực hiện bằng cách cường điệu đặc điểm muốn nhấn mạnh của đối tượng được nói đến nhằm đề cao hoặc hạ thấp nó theo cảm nhận hoặc dụng ý của người viết. Vì vậy nên biện pháp này luôn luôn có một phần “sai” sự thật (ngoa = sai); đó là phần được nói quá đi để đạt đến yêu cầu mong muốn. Cái phần Thuyết “la liệt vạn sơn triều” (muôn (ngọn) núi rải rác (đều) chầu về) chính là một cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa “sai” sự thật dùng để nói về phần Đề “Phù Dung”, một quả đồi thực tế chỉ cao có 58m mà thôi. Tác giả họ Châu nói rằng hàng vạn anh khổng lồ (thực ra chữ vạn ở đây chỉ diễn đạt một số nhiều bất định) phải chầu về một anh tí hon. Như thế là ngoa dụ.
Trong Hà Tiên thập vịnh (cả xướng lẫn hoạ), có khá nhiều ngoa dụ. Có khi chỉ cái nhan đề cũng đã là một ngoa dụ rồi. Thạch Động thôn vân (“Động đá nuốt mây”), chẳng hạn. Cao được bao nhiêu mà đòi “nuốt mây”? Vào đến câu phá đề (trong bài xướng của Mạc Thiên Tứ) thì nghe còn “khủngkhiếp” hơn:
Sơn phong tủng thuý để tinh hà
Dịch nghĩa:
Ngọn núi cao vút, xé toạc mây xanh lao thẳng đến tận đáy sông ngân hà”*.
Dĩ nhiên là nếu những lời trên đây của Mạc Thiên Tứ mà đúng sự thật thì con người sẽ ít vất vả hơn rất nhiều trong việc tìm hiểu nguồn gốc của vũ trụ. Đấy cũng là ngoa dụ.
Vậy ngoa dụ là một biện pháp tu từ. Nếu nó vừa phải thì không sao (mà lại hay) chứ nếu nó “quá quắt” thì nó rất dễ gây sốc cho người đọc. Còn ngoa ngôn thì đã được nhất trí hiểu là lời nói sai thông thường, lời bịa đặt (không liên quan đến chuyện tu từ) như đã được giảng trong: Từ điển Việt Nam phổ-thông của Đào Văn Tập (Sài Gòn, 1951), Tự điển Việt Nam của Ban tu thư Khai Trí (Sài Gòn 1971), Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Hà Nội, 1967), Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Hà Nội, 1992), Việt- Hán thông-thoại tự-vị của Đỗ Văn Đáp, Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán – Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng (Sài Gòn, 1975), v.v.. Từ điển tiếng Hán cũng giảng hai tiếng ngoa ngôn như thế (Từ Nguyên, Từ hải, bản cũ, Từ hải bản tu đính 1989, Vương Vân Ngũ đại từ điển, v.v.).
Còn ngoa ngữ thì có sách xem là đồng nghĩa với ngoa dụ, có sách xem là đồng nghĩa với ngoa ngôn. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức đã cho như sau:
“Ngoa ngữ. Lối viết hay nói bằng cách tán rộng sự thật, khiêu (sic) -gợi hình ảnh hoặc phong-phú-hóa, hoặc nói quá đáng cốt làm linh-động ý-nghĩa lời nói hay câu văn”.
Còn Hán – Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng thì giảng ngoa ngữ như ngoa ngôn.
Trên đây dù sao cũng là hai cách hiểu có thể chấp nhận được cho hai tiếng ngoa ngữ. Nhưng gần đây, chúng tôi mới thấy được một cách hiểu mới lạ và rất bất ngờ.
Tạp chí Xưa & Nay, số 139, tháng 5-2003, trong mục “Đọc sách”, có giới thiệu quyển Ngoa ngữ trong dân gian Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Hoa (Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2001) với lời mào đầu nguyên văn như sau:
“Nói nôm na, đây là cuốn sách khảo sát về những câu chửi của người Việt (Chúng tôi nhấn mạnh – AC). Tác giả đã dày công sưu tầm và phân loại, cung cấp cho chúng ta những dẫn chứng phong phú của ngôn ngữ Việt Nam (…). Để giúp bạn đọc hiểu thêm về công trình này, chúng tôi xin trích lời giới thiệu (…)”. (Bđd, tr. 29)
Chúng tôi không có quyển sách đặc biệt này để xem tác giả giải thích khái niệm “ngoa ngữ” như thế nào. Nhưng cứ theo câu đầu tiên của lời mào đầu trong Xưa & Nay thì có thể suy ra rằng người viết lời mào đầu đã “nói theo” tác giả của quyển sách đó để khẳng định rằng ngoa ngữ chính là “(những) câu chửi”. Còn người viết lời giới thiệu là Tô Hoài thì kết thúc lời giới thiệu của mình như sau:
“Tôi cho rằng tiếng chửi trong dân gian là một hiện tượng độc đáo. Bởi tiếng chửi khi nào cũng được nảy sinh trong hoàn cảnh và trạng thái mạnh mẽ, ác liệt va chạm (…) Tôi hoan nghênh công trình sưu tầm bước đầu của Nguyễn Văn Hoa về Ngoa ngữ trong dân gian Việt Nam. Tưởng như hàng ngày mà lại đặc biệt, đã giúp tôi thấu đáo thêm được những khía cạnh lý thú của ngôn ngữ Việt Nam”.
Xưa nay, chưa có bất cứ một quyển từ điển tiếng Hán hoặc từ điển Hán – Việt nào giảng rằng ngoa 訛 lại có nghĩa là “chửi” vì nghĩa đích thực của nó là: sai, lầm; dối trá, giả dối; gạt gẫm để lấy tiền. Có lẽ tác giả Nguyễn Văn Hoa đã suy từ các ngữ vị từ đẳng lập điêu ngoa, ngoa ngoắt trong đó ngoa là một thành tố để định ra cho nó cái nghĩa là “chửi” chăng? Nhưng ta cũng chẳng làm sao tìm ra được cái nét nghĩa “chửi” trong điêu ngoa, ngoa ngoắt cả. Liên quan đến những chuyện “trẹo nghĩa” như thế này, trong bài “Chẳng nên “chung thuỷ” như thế” (Ngôn ngữ & Đời sống, số 10, năm 2002) Lê Xuân Mậu đã đặt vấn đề và giải quyết như sau:
“Có thể dùng một từ có sẵn, với nghĩa mới “áp đặt” bừa như vậy không? Câu trả lời là “được”. Đó là chuyện thường thấy trong việc dùng từ, tạo từ. Cái chuyện “bình cũ rượu mới” không phải là chuyện khó hiểu”. (Bđd, tr. 46)
Chúng tôi cho rằng nếu đã là “bừa” thì dứt khoát không thể chấp nhận. Còn nếu vì dốt nên dùng sai rồi lâu ngày thành quen thì lại là chuyện khác. Đây là chuyện từ nguyên dân gian. Nhưng đã nói đến chuyện từ nguyên dân gian thì cũng phải thừa nhận rằng đó là chuyện do sự thiếu hiểu biết mà ra. Ta không thể chấp nhận sự bừa bãi một cách bừa bãi như Lê Xuân Mậu đã chủ trương được.
Trở lại với từ tổ ngoa ngữ, xin khẳng định rằng đó dứt khoát không phải là “câu chửi”, “tiếng chửi”.
§ 925. Kiến thức ngày nay, số 466, ngày 20-7-2003
ĐỘC GIẢ: Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, in lần thứ hai, do Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1987) đã giảng tại mục “Áo” như sau:
“Áo khăn: Nghĩa đen là cái áo và cái khăn chít trên đầu. Nên nhớ người Trung Quốc đội mũ chứ không chít khăn, người Việt chít khăn. Cái khăn (chữ Hán là cân) là của phụ nữ dùng để quàng trên đầu chứ không phải để chít. Nguyễn Du dùng áo khăn để chỉ y phục nam giới là nhìn với con mắt Việt Nam, nói theo giọng Việt Nam”.
Xin cho biết điều này có đúng hay không và đây là phần gốc của học giả Đào Duy Anh hay phần do nhà đa ngôn ngữ Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa.
AN CHI: Phần sai đó là do ông Phan Ngọc sửa chữa và bổ sung và ông đã “chữa lành thành què”.
Sự thật là đàn ông Trung Hoa cũng chít khăn chứ không riêng gì người Việt Nam. Lịch sử Trung Hoa đã ghi nhận những cuộc khởi nghĩa Khăn vàng (Hoàng cân) cuối đời Đông Hán và quân Khăn đỏ (Hồng cân) cuối đời Nguyên. Vậy chẳng những họ có chít khăn mà trong hai cuộc khởi nghĩa trên đây, nghĩa quân lại còn lấy khăn và màu khăn mà làm dấu hiệu chung cho đại nghiệp của mình nữa. Việc dùng khăn trong sinh hoạt bình thường hằng ngày của các tầng lớp khác nhau cũng được ghi nhận trong sách vở, đặc biệt là việc dùng khăn vào đời Minh, là thời đã diễn ra câu chuyện trong Truyện Kiều. Sách Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc do Ngô Vinh Chính và Vương Miện Quý chủ biên đã viết như sau:
“Đời Minh quan phục vẫn là khăn đầu và áo bào cổ tròn. Nhưng bấy giờ khăn đầu sơn đen, ngắn và rộng, gọi là ô sa mạo (mũ lụa đen). Bọn thống trị nhà Minh đặt ra loại khăn “bình định bốn phương” và mũ “thống nhất lục hợp” để tỏ ý nền thống trị được củng cố. Loại khăn và mũ này dùng cho thư sinh, nhà buôn và dân đô thị”*.
Cứ như trên thì việc dùng chi tiết “áo khăn dịu dàng” để tả cách phục sức của chàng “thư sinh” Sở Khanh là rặt Trung Quốc, mà lại đúng là Trung Quốc đời nhà Minh (bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng), chứ đâu phải Nguyễn Du “nhìn với con mắt Việt Nam” và “nói theo giọng Việt Nam”.
§ 926. Kiến thức ngày nay, số 467, ngày 1-8-2003
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 433, ngày 20-8-2002, ông có nói rằng hấu trong dưa hấu có nghĩa là “đỏ” rồi viết tiếp:
“Nếu đúng hấu có nghĩa là “đỏ” thì đây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 煦 âm Hán Việt hiện đại là hú, mà “đỏ” là một trong các nghĩa đã được ghi nhận trong từ điển”.
Không phải tôi không tin ông nhưng tôi tra từ điển của cụ Đào Duy Anh chỉ thấy giảng hú là “ấm áp – nhân từ”. Còn từ điển của cụ Thiều Chửu thì ghi: “1. Khí ấm, hơi ấm. 2. hú ẩu: ấp ấm. 3. hú hú: âu yếm, vồn vả”. Tôi đâm hoang mang. Vậy, nếu có thể, xin ông giải thích thêm.
AN CHI: Sở dĩ ông tra từ điển của Đào Duy Anh và của Thiều Chửu mà không tìm thấy cái nghĩa của chữ hú / do chúng tôi nêu ra là vì đó chỉ là những quyển từ điển phổ thông còn việc nghiên cứu từ nguyên thì lại đòi hỏi phải tìm đến những quyển từ điển lớn hơn, đầy đủ hơn. (Vả lại, chúng tôi cũng không nói rằng nghĩa đó đã được ghi nhận trong tất cả các quyển từ điển). Hán ngữ đại tự điển của Hán ngữ đại tự điển biên tập uỷ viên hội (Thành Đô (Tứ Xuyên), 1993)) ghi rõ rằng Thuyết văn giải tự của Hứa Thận giảng hú là “màu đỏ”, rồi tại nghĩa 2 lại giảng rõ thêm là “ánh mây đỏ lúc mặt trời mọc”. Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur cũng giảng là “lumière du soleil” (ánh mặt trời) và “couleur rouge” (màu đỏ). Khang Hy tự điển cũng dẫn Ngọc thiên mà giảng là “màu đỏ”.
Vậy “đỏ” là một cái nghĩa đã được khẳng định của chữ hú còn từ hú sang hấu thì chỉ có một bước như chúng tôi đã chứng minh trên số 433.
§ 927. Kiến thức ngày nay, số 467, ngày 1-8-2003
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 463, ngày 20-6-2003, ôngcó khẳng định rằng tiếng Hà Lan là một trong những ngôn ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ Germanic nguyên sơ. Nhưng cách đây một năm, trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (81) -2002, trong bài “Sao lại gọi là Châu Mĩ Latinh?”, tác giả Phạm Văn Tình đã xếp tiếng Hà Lan vào “ngữ hệ Latinh (dòng Roman)”. Nguyên văn của tác giả này như sau: “Các nước này (Trung Mỹ, Nam Mỹ) thuộc ngữ hệ Latinh (dòng Roman) tức là bắt nguồn từ các ngôn ngữ như Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan,…”. Vậy xin đề nghị ông An Chi cho biết rõ tiếng Hà Lan thuộc ngữ hệ nào.
AN CHI: TiếngHà Lan (Dutch) làmộtngôn ngữ Germanic, nghĩa là một trong những ngôn ngữ bắt nguồn từ ngôn ngữ Germanic nguyên sơ của ngữ hệ Ấn – Âu (Indo-European family). Đây là một đại ngữ hệ gồm có nhiều chi mà Germanic chỉ là một bên cạnh các chi khác như: Hellenic (trong đó có tiếng Hy Lạp cổ đại (Ancient Greek)), Italic (trong đó có tiếng La Tinh), Celtic (trong đó có tiếng Gaulois là tiếng của tổ tiên người Pháp nay đã tuyệt diệt), Slavonic (trong đó có tiếng Nga), Aryan hoặc Indo-Iranian (trong đó có tiếng Sanskrit), v.v..
Tiếng La Tinh chỉ là một ngôn ngữ riêng biệt của chi Italic trong ngữ hệ Ấn – Âu nên không làm gì có “ngữ hệ La Tinh” (mà lại còn có cả “dòng Roman” phụ thuộc vào nữa). Tiếng La Tinh về sau đã phân hóa mà thành tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Ru-ma-ni, v.v. và chính các thứ tiếng này đã được gọi là những ngôn ngữ Roman chứ làm gì có “ngữ hệ La Tinh (dòng Roman)”!
Tác giả này cũng đã sai khi viết: “Một nhóm theo ngữ hệ Anglo – Saxon gồm Mĩ và một nửa Canada”. Làm gì có “ngữ hệ Anglo – Saxon”. Anglo – Saxon chỉ là một ngôn ngữ riêng biệt và đó là một cách gọi dành cho tiếng Anh cổ đại, nay đã được thay thế bằng cách gọi “Old English”. Vì vậy nên khi ta thấy một cái tên sách, chẳng hạn như The Student’s Dictionary of Anglo – Saxon của Henry Sweet (Oxford, 1953 (First Edition 1896)) thì ta phải hiểu rằng đó là một quyển từ điển về tiếng Anh cổ đại, chứ không phải là về cả một “ngữ hệ”!
Tác giả này cũng đã sai vì cách diễn đạt thiếu cẩn trọng sau đây: “Còn ngữ hệ Latinh tức là các ngôn ngữ được sản sinh từ nguồn gốc của tiếng Latinh”. Các ngôn ngữ mà tác giả muốn nói đến được sản sinh ra trực tiếp từ tiếng La Tinh chứ sao lại “từ nguồn gốc của tiếng La Tinh” vì nguồn gốc của thứ tiếng này thì lại là tiếng Italic nguyên sơ, bản thân nó đã hóa thân thành các ngôn ngữ nhánh trong đó có tiếng La Tinh rồi.
Trở lại với tiếng Hà Lan, xin nhắc lại và nhấn mạnh rằng đó là một ngôn ngữ Germanic như đã được ghi nhận trong tất cả các công trình ngữ tộc học. Sự tường thuật của tác giả trong mục “Lượm lặt gần xa” của Ngôn ngữ & Đời sống, số 7-2002 chẳng qua chỉ là một sự nhầm lẫn mà thôi.
§ 928. Kiến thức ngày nay, số 467, ngày 1-8-2003
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 444, sau khi nhắc lại cách tác giả Vũ Đức Phúc đọc câu Kiều thứ 327 thành:
“Nằm tròn nhờ Cuội cung mây”,
(Trần trần một phận ấp cây đã liều)
Ông đã giễu Vũ Đức Phúc:
“Chúng tôi không cho rằng Nguyễn Du lại muốn “tấu hài” mà “dàn cảnh” cho Kim Trọng “nằm tròn”(!) để nhờ vả thằng Cuội trên cung trăng (…)”.
Ông còn lý luận nhiều nữa để “chê” Vũ Đức Phúc nhưng tôi cho rằng chính Vũ Đức Phúc đã đúng vì dân gian có câu:
Bắc thang lên đến cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời
Từ ngữ giữa đôi bên (Vũ Đức Phúc và dân gian) ăn khớp nhau đến như thế thì còn sai được ở chỗ nào nữa?
AN CHI: Hai bản Kiều Nôm thuộc loại xưa nhất là Liễu Văn Đường 1871 và Duy Minh Thị 1872 đều khắc chữ thứ tư của câu 327 là *. Mới đây, trong Bản Kinh đời Tự Đức 1870 do Nguyễn Quảng Tuân công bố (Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2003), ta cũng thấy chữ thứ tư của câu đó được chép y hệt như thế.
Chữ đó chỉ có thể đọc thành gửi (gởi), chứ không đọc thành “cuội” được. Cái lý ở đây cũng rất đơn giản: thành phù của nó là cải 改 còn thanh phù của chữ “cuội” thì lại là hội 會 (cũng đọc cối), như đã ghi rõ trong:
– Đại tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính (Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, tái bản, 2002, tr. 201);
– Giúp đọc Nôm và Hán Việt của L.m. Anthony Trần Văn Kiệm (Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1999, tr. 366); v.v..
Về chữ thì đã như thế mà về lời thì vấn đề lại không đơn giản như ông nói vì hai câu mà ông đã nêu thực ra chỉ là phần nửa đầu của bốn câu:
Bắc thang lên đến cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
Bởi hay nói dối, Cuội ngồi gốc cây.
Đấy, phải nhìn “toàn văn” thì mới thấy thằng Cuội phải “ấp cây” cả đời “trên cung mây” là vì hắn ta mang tội nói dối chứ hắn ta có tương tư cô nàng nào dưới phàm trần hoặc trên tiên cảnh đâu! Vậy thì thơ của Nguyễn Du và lời của dân gian ở đây bất quá chỉ là “láng giềng” của nhau về mặt từ ngữ mà thôi chứ về ý tứ thì lại cách xa nhau… một trời một vực. Chúng tôi cho rằng ở đây Nguyễn Du chỉ mượn cái “vỏ” của dân gian thôi chứ cái “ruột” thì lại là của… Đỗ Phủ trong bài “Xuân nhật ức Lý Bạch” (Ngày xuân nhớ Lý Bạch):
Vị Bắc xuân thiên thụ,
Giang Đông nhật mộ vân.
Tạm dịch là:
Cây ngày xuân Vị Bắc,
Mây buổi chiều Giang Đông.
Vị Bắc ở đây chỉ Tràng An là nơi Đỗ Phủ đang ở (lúc làm bài thơ) còn Giang Đông là miền Giang Tô, Chiết Giang là nơi Lý Bạch đang ở. Xuất phát từ hai câu trên đây của Đỗ Phủ, người ta mới “tóm” lại thành câu vân thụ chi tư, nghĩa là: nỗi niềm nhớ nhau của mây và cây, để chỉ sự nhớ nhung. Vậy theo chúng tôi, thì hai câu 327 – 328 chỉ liên quan đến điển vân thụ chi tư mà thôi.
Ý kiến của chúng tôi về chuyện “mây” và “cây” rõ ràng như thế nhưng nếu ý kiến này có sai đi nữa thì hai câu đó cũng dứt khoát không liên quan gì đến hai câu mà ông nêu, thực chất chỉ là hai câu đầu trong bốn câu ca dao “trào phúng” về cái tật nói dối đã làm cho thằng Cuội nổi tiếng khắp… thế gian.
Kim Trọng mà muốn “lên nhờ thằng Cuội nó nói với Nguyệt lão trên (sic) cung trăng cho để buộc cả hai người với nhau”, kể ra cũng đã can đảm. Chứ cá nhân chúng tôi thì… chả dám vì biết đâu chừng hắn ta chẳng “nẫng” tay trên của mình! Nói dối như Cuội mà lại. Hắn hứa một đàng mà làm một nẻo thì ta cũng chẳng có được thuốc tiên của Hằng Nga để bay lên cung trăng mà tìm.
§ 929. Kiến thức ngày nay, số 467, ngày 1-8-2003
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết trong bốn tiếng “sĩ, nông, công, cổ”, chữ “cổ” có nghĩa là gì.
AN CHI: Trong bài “Những tàn dư của sinh hoạt kinh tế sơ khai và tín ngưỡng nông nghiệp ở Vĩnh Phú” (Dân tộc học, số 1, 1975), tác giả Khổng Diễn đã cho nơi cước chú như sau: “Cho đến nay, chúng tôi chưa thật rõ ý nghĩa của chữ cổ (trong “sĩ, nông, công, cổ” – AC) nên còn phải được nghiên cứu thêm” (tr. 43, chú thích 2). Tuy nói “còn phải được nghiên cứu thêm” nhưng Khổng Diễn lại vội kết luận: “Trò tứ dân của làng Phù Liễn (Tam Dương) theo quan niệm của địa phương thì chưa có lớp thương nhân nên người ta gọi là sĩ, nông, công, cổ”. (tr. 43). Thực ra thì cổ là một từ đồng nghĩa với thương. Vậy “sĩ, nông, công, cổ” chính là “sĩ, nông, công, thương”; nghĩa là trò tứ dân của làng Phù Liễn theo quan niệm của địa phương cũng đã có lớp thương nhân rồi chứ không phải là chưa như tác giả đã khẳng định chỉ vì chính mình “chưa thật rõ ý nghĩa của chữ cổ”.
§ 930. Kiến thức ngày nay, số 468, ngày 10-8-2003
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 371, ngày 1-12-2000, ông có giải thích rằng, theo ông, hai chữ Nôm 双 曰 trong thơ văn cổ đọc là sông vát, còn sông vát là âm xưa của hai chữ sinh hoạt 生 活. Vậy sông vát có nghĩa là: sự hoạt động; đời sống, cuộc sống; cuộc đời; cảnh ngộ, hoàn cảnh; kế sinh nhai, nghề mưu sinh. Ông cho rằng “các nghĩa này thực sự phù hợp từng nghĩa một với từng câu thơ tương ứng có hai chữ 双 曰 và với chủ đề của từng bài thơ hữu quan trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập đời Lê Thánh Tông, Bạch Vân Am quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm và trong một số câu lẻ tẻ khác”.
Nhưng mới đây, trên tạp chí Văn học, số 7-2003, trong bài “Về hai chữ Nôm song viết”, tác giả Nguyễn Thị Oanh lại cho rằng hai chữ đó đọc là hôm sớm và có thể được hiểu là: buổi tối và buổi sáng, cả ngày lẫn đêm; (chỉ) sự thường xuyên, luôn luôn và hiểu theo nghĩa rộng là: ngày tháng, quanh năm, hết năm này đến năm khác và cuối cùng là sự cần mẫn, tần tảo. Tác giả này khẳng định: “Nói chung trong cả 26 trường hợp trên đây (câu có hai chữ đang xét – Người hỏi), nghĩa của hôm sớm chẳng những phù hợp với văn cảnh mà nó xuất hiện, mà còn đạt đến sự tinh tế cao trong thưởng thức văn học (…) nếu thay bằng các từ thong thả, nhàn nhã, vui thú hay tài sản, của cải, v.v.. chắc hẳn rất khó thuyết phục người đọc”. Rồi tác giả này kết luận: “Phải chăng hôm sớm chính là đáp số của XY (cách đọc và nghĩa của 双 曰 – Người hỏi) mấy thập kỉ đi tìm của chúng ta”.
Ý ông thế nào?
AN CHI: Chúng tôi cho rằng kết luận như thế thì hơi sớm. Rồi nói rằng “nghĩa của hôm sớm chẳng những phù hợp với văn cảnh mà nó xuất hiện, mà còn đạt đến sự tinh tế cao trong thưởng thức văn học” thì cũng là chủ quan. Sau đây là mấy dẫn chứng:
– “3. Hôm sớm hằng lề phiến sách cũ, Hôm dao đủ bữa bát cơm thoa (Ngôn chí, bài 19) (Hôm sớm thường xuyên bên phiến sách cũ; sớm tối cũng đủ bát cơm xoàng)”. (Bđd, tr. 60)
Chúng tôi không cho rằng “sự tinh tế cao trong thưởng thức văn học” lại có thể cho phép người đọc dễ dàng chấp nhận hai câu thơ liền nhau mà lại đều bắt đầu bằng cùng một từ (là “hôm”) theo cách đọc của tác giả Nguyễn Thị Oanh cho hai câu thực của bài Ngôn chí thứ 19 (theo bản Đào Duy Anh thì đây là bài Ngôn chí thứ 17 và là bài thứ 18 trong Quốc âm thi tập). Bình đối là một yêu cầu khắt khe đối với hai câu thực và hai câu luận trong một bài thất ngôn Đường luật. Thế mà chẳng những chữ đầu tiên của hai câu thực ở đây chỉ là một nên không hề có đối chữ mà nghĩa của hai tiếng đầu trong cả hai câu còn hoàn toàn trùng nhau (hôm sớm = hôm dao) nên cũng hoàn toàn không có đối ý. Đối với một bài thơ chỉ có 56 tiếng, có khi dưới 56 (nếu có xen những câu lục ngôn) như ở bài Ngôn chí thứ 17 này (chỉ có 54 tiếng) thì một sự trùng chữ và một sự trùng nghĩa, như đã thấy là một sự lãng phí thực sự lớn mà hệ quả là phạm vi cấu tứ (bằng ngôn từ) bị thu hẹp lại một cách đáng kể. Chẳng có “sự tinh tế cao nào trong thưởng thức văn học” mà lại cho phép người cảm thụ chấp nhận chuyện như thế cả.
– “24. Nẻo gã con thơ nhẫn đến tuổi đà cả, dạy dỗ lễ nghĩa, cưới gả dượt học, no kiếm hôm sớm, cưu mang khó khăn, bực nhọc nhẫn chết, ắt chẳng thốt thửa công ơn ấy (Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, tờ 18a, dòng 7)”. (Bđd, tr. 62)
Chúng tôi thật lòng lấy làm lạ tại sao đã dẫn đến Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, mà tác giả lại còn hồn nhiên đưa hai tiếng “hôm sớm” vào ngôn cảnh trên đây để làm cách đọc cho hai chữ hữu quan vì hai tiếng đó tuyệt đối không liên quan gì đến nội dung của lời kinh. Phật thuyết thực chất là một tác phẩm song ngữ; nói cho chính xác là một bổn kinh bằng Hán văn có kèm theo lời dịch sang tiếng Việt ghi bằng chữ Nôm. Mấy chữ mà tác giả đọc thành “no kiếm hôm sớm” là một ngữ đoạn vị từ dùng để dịch mấy chữ “bị cầu tư nghiệp”*. Tư nghiệp là của cải và bị cầu tư nghiệp là tìm kiếm của cải đầy đủ; ngữ vị từ này đã được dịch bằng bốn chữ Nôm (ở tờ 18a, hai chữ cuối d.5 và hai chữ đầu d.7) mà bà Hoàng Thị Ngọ đọc thành “no kiếm song nghề” (Sđd, tr. 154, d.15-16). Tuy chưa biết “song nghề” đã phải là một cách đọc tuyệt đối chính xác hay chưa nhưng ta có thể khẳng định rằng “hôm sớm” dứt khoát là một cách đọc hoàn toàn sai vì làm sao mà tư nghiệp lại có thể có nghĩa là “hôm sớm” cho được!
Vậy rõ ràng trong hai trường hợp trên đây thì “hôm sớm” là một cách đọc hoàn toàn không thích hợp cho hai chữ “song viết”. Chẳng những thế, nó lại còn không thích hợp trong bất cứ trường hợp nào cả, như sẽ chứng minh dưới đây. Tuy thừa nhận ý kiến của Nguyễn Tài Cẩn cho rằng chữ thứ hai trong “song viết” “là một tiếng bắt buộc phải thuộc thanh trắc” nhưng tác giả Nguyễn Thị Oanh đã không thấy được rằng tiếng thuộc thanh trắc đó lại còn bắt buộc phải là một âm tiết khép (nghĩa là tận cùng bằng -k (-c), -ch, -t, -p), chứ không thể là mở, nửa mở hoặc nửa khép. Tóm lại, theo thuật ngữ truyền thống, đó chỉ có thể là một tiếng thuộc nhập thanh. Đã thế, âm cuối của nó chỉ có thể là -t. Xin chứng minh bằng bài thơ Nôm vần trắc sau đây của Bùi Xương Tự (1656 – 1728):
Cửa Đạt
Cảnh thanh mát thú càng thanh mát,
Mọi cửa đều thông danh cửa Đạt.
Sóng lẩn đầu ghềnh thuở gió doi,
Khói lòa mặt nước khi sương toát.
Thanh thơi bến liễu tiện vào ra,
Ngang dọc thuyền lan dầu cạy bát.
Bờ cõi văng băng chẳng cấm ngăn,
Mặc ai chiếm lấy làm song viết*.
Trong một ngôn cảnh như trên thì chẳng có nhà văn bản học nào lại dám đọc câu cuối thành “Mặc ai chiếm lấy làm hôm sớm”. Còn nếu chúng tôi lại mạn phép đổi “song viết” thành sông vát thì năm tiếng: mát, đạt, toát, bát, vát sẽ vần với nhau đẹp một cách không chê vào đâu được!
Rồi nếu chúng tôi lại mạn phép hiểu hai tiếng sông vát ở đây theo cái nghĩa “của cải”, “vốn liếng”, “tài sản” mà tác giả Nguyễn Thị Oanh muốn bác bỏ thì ý tứ của bài thơ sẽ trở nên đẹp đẽ một cách trọn vẹn:
“Đấy, cửa Đạt có quang cảnh thanh mát như thế, tiện vào ra cho thuyền lan ngang dọc không ai cấm ai ngăn như thế, ai có muốn chiếm lấy làm của cải (vốn liếng, tài sản) thì cứ chiếm. Ta đây cóc cần!”
Nghĩa “tài sản/tư nghiệp” đã được nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương chứng minh là “cái nghĩa thườngxuyên nhất (hay có mặt nhất) “trong tất cả các trường hợp đã biết của hai chữ song viết*, mà chúng tôi chủ trương đọc là sông vát, âm xưa của hai chữ sinh hoạt (như đã chứng minh rõ ràng trên Kiến thức ngày nay, số 371). Vì vậy nên nghĩa của sinh hoạt cũng là nghĩa của sông vát: sự hoạt động; đời sống, cuộc sống; cuộc đời; cảnh ngộ, hoàn cảnh; kế sinh nhau, nghề mưu sinh (như cũng đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 371).
Lần này xin nói thêm rằng sông vát còn có một nghĩa đặc biệt đáng chú ý nữa là: “sản phẩm”, “vật dụng”, như có thể thấy, chẳng hạn, trong Nguyên điển chương, Thủy hử, v.v..* Nghĩa này, kết hợp với các nghĩa trên kia dễ dàng cho phép ta suy ra cái nghĩa “của cải/tư nghiệp”, vốn chỉ là một cái nghĩa phái sinh hoàn toàn tự nhiên: của cải/tư nghiệp, suy đến cùng, chẳng qua là những “sản phẩm”, “vật dụng” mà người ta tích lũy được trong quá trình “hoạt động mưu sinh” (kể cả hành động chiếm đoạt và lừa đảo).
Với tất cả các nghĩa trên đây, ta có thể kiểm chứng và thấy rằng sông vát là:
– Gia cảnh trong các bài 10,13,49 của Quốc âm thi tập và bài 122 của Bạch Vân quốc ngữ thi;
– Cuộc sống trong các bài 18, 59 của Quốc âm thi tập, bài 113 của Bạch Vân quốc ngữ thi, các bài 54, 59, 60, 61, 62, 63 thuộc “Phong cảnh môn” của Hồng Đức quốc âm thi tập;
– Của cải trong các bài 113,156,164 của Quốc âm thi tập, các bài 35, 47 của Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 32 thuộc “Thiên địa môn” và bài 64 thuộc “Phong cảnh môn” của Hồng Đức quốc âm thi tập.
Nhưng dù là nghĩa nào thì cái nghĩa này cũng nằm trong cùng một bộ nghĩa của một đơn vị từ vựng duy nhất là sông vát. Đơn vị này có thể chuyển loại thành vị từ với các nghĩa: hoạt động, sinh sống; ăn ở, cư xử; v.v. (sinh hoạt trong tiếng Hán cổ đại và hiện đại cũng chuyển loại như thế). Nhưng ngay trước mắt thì đây mới chỉ là một khả năng “dự phòng”.
Cuối cùng, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 371, “song viết” còn có thể có (những) cách đọc và cách hiểu khác nữa. Chẳng hạn, trong câu thơ của Nguyễn Huy Hổ, thì đó là song vát (“o” chứ không phải “ô”):
“Song vát, trăng tà, nét sổ xiên”.
Ba cái dáng nghiêngvới ba vị từ riêngbiệt: cửa sổ (hoặc song cửa sổ) thì vát; trăng thì đã tà còn cái nét sổ lẽ ra phải thẳng thì lại xiên. Một sự chơi chữ độc đến như thế mà bị đổi thành
“Hôm sớm (!) trăng tà nét sổ xiên”
thì có đau hay không?
§ 931. Kiến thức ngày nay, số 469, ngày 20-8-2003
ĐỘC GIẢ: Trong Hồng Đức quốc âm thi tập (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1982), hai tiếng song viết đã được dùng nhiều lần, đặc biệt là ở bốn bài số 59 (Vịnh người đánh cá), số 60 (Vịnh người hái củi), số 61 (Vịnh người đi cày), số 62 (Vịnh người chăn trâu) của phần “Phong cảnh môn”. Câu thứ hai của bốn bài này đều như nhau, chỉ khác ở mấy chữ ngư, tiều, canh, mục ở cuối câu:
– Song viết ai bằng song viết ngư (tr. 161),
– Song viết ai bằng song viết tiều (tr. 162),
– Song viết ai bằng song viết canh (tr. 162),
– Song viết ai bằng song viết mục (tr. 163).
Hai nhà phiên âm và chú giải (Phạm Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên) cho biết “vì chưa rõ nghĩa nên vẫn theo đúng mặt chữ mà phiên âm là song viết”. (Sđd, tr. 57, chú thích 2)
Được biết hiện đang có hai cách hiểu đáng tin tưởng nhất về hai chữ này: một đằng thì cho rằng hai chữ đó phải đọc là rông vát với nghĩa gốc là “lang thang, xuôi ngược” và một số nghĩa phái sinh khác; một đằng thì cho rằng hai chữ đó vẫn đọc là song viết và có nghĩa là “tài sản/tư nghiệp”.
Xin cho biết ông theo đằng nào hoặc theo ông thì “song viết” trong bốn câu trên đây đọc như thế nào và có nghĩa là gì.
AN CHI: Ý kiến cá nhân về hai chữ “song viết” đã được chúng tôi phát biểu cách đây hơn hai năm trên Kiến thức ngày nay, số 371, ngày 1-12-2000 và mới đây đã được bổ sung trên Kiến thức ngày nay, số 468, ngày 10-8-2003.
Chúng tôi thừa nhận nghĩa “tài sản/tư nghiệp” cho một số trường hợp như đã nêu trên Kiến thức ngày nay, số 468 nhưng lại không gắn cái nghĩa này vào cách đọc thành “song viết”. Lý do là như sau. Căn cứ quan trọng để gắn cái nghĩa “tài sản/ tư nghiệp” vào cách đọc này là hai chữ Nôm dùng để dịch hai chữ Hán tư nghiệp (= tài sản) trong sách Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Những người chủ trương thuyết đang xét đã đọc hai chữ này thành “song viết” nên ta có:
Tư nghiệp = tài sản = song viết.
Vậy song viết có nghĩa là “tài sản”.
Nhưng trong Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999) thì tác giả là bà Hoàng Thị Ngọ đã không đọc hai chữ đó thành “song viết” mà lại đọc thành “song nghề” (Xem Sđd, tr. 154, d.15-16). Chúng tôi đã đối chiếu với nguyên bản in trong sách này (tờ 18a, d.7, tức dòng chữ Nôm thứ 4) thì thấy đó quả không phải là 双 曰 (song viết) mà là . Chữ thứ hai này có đến 12 nét trong khi chữ viết 曰 chỉ có 4 nét. Chúng tôi đoán có lẽ vì cho rằng đó là chữ nghi 宜 (mà âm xưa hơn nữa là nghì) bị khắc nhầm nên bà Hoàng Thị Ngọ mới đọc thành nghề. Về phần mình, nếu đó là chữ 宜 thì chúng tôi xin mạn phép đọc thành “ngơi” vì đây chính là hình vị thứ hai trong cấu trúc cơ ngơi, nên nó mới được ghép với “song”(và tạm đọc thành “song ngơi”) để dịch hai chữ tư nghiệp. Nhưng dù có được đọc như thế nào thì đó cũng dứt khoát không phải là chữ viết 曰. Đây chính là lý do buộc chúng tôi phải tách cái nghĩa “của cải” ra khỏi cách đọc thành “song viết” mà đi tìm cách đọc khác. Và như đã thấy trên Kiến thức ngày nay, số 468, chúng tôi gắn nó vào cách đọc thành sông vát, mà nghĩa được chúng tôi khẳng định là nghĩa của hai tiếng sinh hoạt, như đã chứng minh rõ ràng trên Kiến thức ngày nay, số 371. Tuy hai tiếng sông vát chưa hề được ghi nhận ở bất cứ nơi nào nhưng ta hoàn toàn có thể kiểm chứng các nghĩa của nó với âm Hán Việt hiện đại là sinh hoạt và ta có, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 468:
– Sông vát¹ = sinh hoạt¹ = (ngữ danh từ) I.1. sự hoạt động; 2. đời sống, cuộc sống, cuộc đời, sinh hoạt; 3. nếp sống; 4. cảnh ngộ, hoàn cảnh; 5. kế sinh nhai, nghề mưu sinh. II.1. sản phẩm, vật dụng; 2. của cải, tài sản, vốn liếng.
– Sông vát² = sinh hoạt² = (ngữ vị từ) 1. hoạt động; 2. sinh sống; 3. ăn ở, cư xử.
Với hai chuỗi ngữ nghĩa trên đây, ngữ danh từ sông vát¹ và ngữ vị từ sông vát² có thể luân phiên với nhau để giúp ta giải thích một cách thuận lợi và hợp lý hầu hết các ngôn cảnh trong đó có hai chữ “song viết” mà không phải thay đổi cách đọc, như sẽ thử ứng dụng sơ bộ ở một phần sau.
Còn bây giờ xin nói qua về hai tiếng rông vát của Nguyễn Tài Cẩn. Cho đến nay, tác giả này đã có ba bài viết về hai chữ song viết mà chẳng có bài nào lại không uyên bác và đầy chất phương pháp luận mẫu mực. Nhưng có lẽ chính vì quá uyên bác nên nó lại xa với cảm thức bình thường và tự nhiên là trong tuyệt đại đa số các trường hợp thì song viết phải là một ngữ danh từ chứ không phải một ngữ vị từ (như rông vát). Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã so sánh song viết với rông vát trong các ngôn cảnh hữu quan một cách khá tỉ mỉ và kết luận rằng “giả thiết song viết đã thắng thế rõ rệt ở 14 trong tổng số 20 câu”. Với 6 câu còn lại thì ngoài câu ở bài Phong cảnh môn số 64 của Hồng Đức quốc âm thi tập trong đó song viết và rông vát nằm ở thế quân bình, ở 5 câu trong bài 49, 156, 164 của Quốc âm thi tập, và hai bài Phong cảnh môn số 54, 63 của Hồng Đức quốc âm thi tập thì chưa có một chứng cứ ngôn từ nào để xác định dứt khoát tính từ loại của song viết (hay rong vát) cả*.
Vậy tuy ta có thể học tập rất nhiều ở tác giả của thuyết trên đây, nhất là về mặt phương pháp, nhưng ta vẫn không thể tin rằng kết quả mà ông đã khẳng định lại là đáp số cho cách đọc và cách hiểu về hai chữ đang xét.
Bây giờ chúng tôi xin thử ứng dụng cách đọc, và nhất là cách hiểu của chúng tôi vào bốn câu mà ông đã nêu. Trong bốn câu đó thì đây là sông vát¹ dùng với nghĩa I.2. Thay vì sông vát, dưới đây chúng tôi sẽ điền cái nghĩa đó (= cuộc sống) vào cho dễ thấy vấn đề và dễ thẩm định đúng sai:
– Cuộc sống ai bằng cuộc sống ngư;
– Cuộc sống ai bằng cuộc sống tiều;
– Cuộc sống ai bằng cuộc sống canh;
– Cuộc sống ai bằng cuộc sống mục.
Liên quan đến bốn câu trên, tác giả của thuyết rông vát cho rằng ở đây các nhân vật ngư, tiều, canh, mục “tự hào là tự hào về cái “vui thú” trong cuộc sống của các vị”. Lý do của ông là:
– Đề mục chung cho cả loạt bài được gọi là đề mục tứ thú (= bốn thú).
– Khi các vị kể cho nhau nghe về mỗi người thì bài thơ đặt tên là Tứ thú tương thoại (= Bốn thú cùng nhau trò chuyện).
– Trong các bài xướng hoạ, nhiều dị bản có chữ thú trong hai câu mở đầu, nhất là ở câu 2.
– Nhưng, gút lại lạc thú của bốn vị dật dân, cao sĩ thường gắn bó với thiên nhiên này là gì? Đó là thú nhàn cư*.
Khi gút lại vấn đề, tác giả đã tạo cho chúng tôi một chỗ dựa quan trọng. Cuối lập luận của mình, ông đã đưa chữ thú xuống hàng thứ yếu mà đài hai chữ nhàn cư lên. Thú thì có nhiều thứ thú nhưng ở đây lại là thú nhàn cư. Mà trong hai tiếng nhàn cư thì chính chữ cư mới là trung tâm. Nhàn thì có nhiều thứ nhàn: nhàn bộ, nhàn du, nhàn đàm, nhàn sự, v.v.. Còn ở đây thì lại là nhàn cư. Nhàn cư là sống rảnh rang, rỗi việc, là sống một mình, là sống trong cảnh hưu trí; tóm lại, có thể nói đó là cuộc sống “tự do, phóng khoáng, hoàn toàn thoát khỏi mọi vòng câu thúc”, đúng như Nguyễn Tài Cẩn đã viết (Bđd, tr. 1). Một cuộc sống như thế, thử hỏi có cuộc sống của hạng người nào khác có thể sánh được?
Sông vát ai bằng sông vát ngư (tiều, canh, mục)?
Rõ ràng “song viết” trong bốn câu thơ đang xét là hai tiếng có nghĩa là “cuộc sống”, “đời sống”, “sinh hoạt”, v.v. mà chúng tôi đã đọc thành sông vát. Ưu thế của cách đọc và cách hiểu của chúng tôi là ở chỗ ngữ danh từ sông vát còn có thể chuyển đổi từ loại thành ngữ vị từ và các nghĩa trong chuỗi ngữ nghĩa của hai cấu trúc, một danh từ tính và một vị từ tính này, có thể thay thế cho nhau để lấp đầy một cách đủ sức thuyết phục những khoảng trống ngữ nghĩa do hai chữ “song viết” “đứng tên”.
Hai tiếng rông vát cùng với chuỗi ngữ nghĩa mà Nguyễn Tài Cẩn đã nêu thì không đủ sức thuyết phục nhưng cách đọc “songviết” cùng với nghĩa “tài sản/tư nghiệp” thì lại không thể ứng vào mọi trường hợp mà không trở thành gượng ép, chẳng hạn trong hai câu đề của bài 58 trong Quốc âm thi tập. Huống chi ngay cả cách đọc thành “song viết”, như đã nói, vẫn đang còn là một điều nghi vấn. Chúng tôi mạo muội cho rằng ở đây mà đọc thành sông vát¹ với nghĩa I.3 thì sẽ thích hợp hơn:
Buồng văn khép cửa lọn ngày thu,
Đèn sách nhàn làm nếp sống nhu (nho).
Hai chữ “song viết” được “đóng khung” trong cái cảnh “suốt ngày thu nhà thơ đóng cửa để hưởng nhàn bằng thú đèn sách” có lẽ phải là để nói lên chuyện nếp sống thì mới đúng hơn là chuyện “của cải”.
Ngay cả ở hai câu luận của bài “Phong cảnh môn” số 54 trong Hồng Đức quốc âm thi tập mà có ý kiến cho là “trường hợp đầu tiên cho thấy giả thiết rông vát thắng thế”, thì “sông vát” có vẻ như cũng có thể được điền vào để góp phần “xử lý” cách hiểu hợp lý cho hai chữ “song viết”:
“Ngư hà sông vát² ngày hằng đủ,
Bạng duật đôi co thế ngại dòm”
có thể được hiểu là:
(Ngư ông cho rằng mình) sinh sống hằng ngày bằng con cá con tôm đánh bắt được đã là đủ lắm rồi;
Còn chuyện trai cò đôi co thì lại là cái “thế” (nghĩa là cái nếp sống tranh giành) mà (ngư ông) không quan tâm (“ngại dòm”).
Không biết may ra cách đọc và cách hiểu của chúng tôi có góp được một phần nào vào việc tìm hiểu âm và nghĩa đích thực của hai chữ “song viết” hay không. Xin cứ mạo muội trình bày như trên để thỉnh giáo ở các vị chuyên gia.
§ 932. Kiến thức ngày nay, số 470, ngày 1-9-2003
ĐỘC GIẢ: Trong cuốn Thơ nghìn nhà do Nguyễn Hà tuyển dịch và do nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1994, có bài “Tây Thi thạch” của Lâu Dĩnh. Nguyên văn trong cuốn sách này như sau:
Tây Thi tức nhật cán sa tân
Thạch thượng thanh đài tứ sát nhân
Nhất khứ Cô Tô bất phục phản
Ngạn bàng đào lý vị thuỳ xuân?
Ông Nguyễn Hà dịch nghĩa như sau:
Bến này ngày trước Tây Thi giặt lụa
Phiến đá bây giờ mọc rêu xanh buồn chết người
Một chuyến đi Cô Tô không trở về nữa
Đào mận đôi bờ tươi tốt cho ai?
Cũng bài “Tây Thi thạch” này, ở tập Thơ Đường do cụ Khương Hữu Dụng tuyển dịch và do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 1995, thì lại có mấy chỗ dị biệt. Nguyên văn trong quyển tuyển dịch của cụ Khương Hữu Dụng như sau:
Tây Thi tích nhật hoãn sa tân
Thạch thượng thanh đài sầu sát nhân
Nhất khứ Cô Tô bất phục phản
Ngạn bàng đào lý vị thuỳ xuân?
Cụ Khương Hữu Dụng dịch thành thơ như sau:
Ngày trước Tây Thi giặt bến này
Giờ rêu in đá não người thay
Cô Tô một chuyến đi, đi biệt
Đào lý đôi bờ xuân với ai?
Như vậy, trong câu đầu, có hai chỗ dị biệt quan trọng: tức nhật 即日 hay là tích nhật 昔日, cán 幹 hay là hoãn 浣? Câu thứ hai thì đó là tứ 賜 hay là sầu 愁? Câu thứ ba và thứ tư thì có ba chữ khác nhau ở cách viết: phản 反 hay 返, ngạn 岸 hay 崖, và bàng 傍 hay 旁?
Xin cho biết trong từng trường hợp thì chữ nào đúng và tại sao?
AN CHI: Chúng tôi tra trong Toàn Đường thi, hoàn thành năm Khang Hy thứ 45 (1706), ấn bản của Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã năm 1996, lần in thứ 14, tr. 482, thì thấy nguyên văn bài “Tây Thi thạch” của Lâu Dĩnh như sau:
西施石
西施昔日浣紗津
石上青苔思殺人
一去姑蘇不復返
岸傍桃李為誰春
Dưới đây là phần phiên âm:
Tây Thi thạch
Tây Thi tích nhật hoãn sa tân
Thạch thượng thanh đài tư sát nhân
Nhất khứ Cô Tô bất phục phản
Ngạn bàng đào lý vị thuỳ xuân
Xin dựa vào văn bản này để trả lời về những chữ mà ông hỏi.
Chữ thứ 3 và chữ thứ 4 của câu đầu là tích nhật (= ngày xưa) chứ không thể là “tức nhật” (= ngay ngày hôm ấy) được vì nếu là ngay ngày hôm ấy mà Tây Thi vẫn còn giặt lụa nơi phiến đá đó thì làm sao đã có được thanh đài (= rêu xanh)? Vả lại, chính dịch giả Nguyễn Hà cũng dịch thành “ngày trước” thì làm sao có thể là “tức nhật”?
Chữ thứ 5 của câu đầu đã bị dịch giả viết sai thành 幹. Chữ cán là giặt phải có ba chấm thủy và viết là 澣. Âm chính xác của nó là hoãn và chữ này cũng có thể viết thành 浣 như trong bản của Khương Hữu Dụng (và trong Toàn Đường thi).
Chữ thứ 5 của câu 2 không thể là tứ. Tứ có nghĩa là ban cho, hoàn toàn không hợp với nghĩa của cả câu. Huống chi chính dịch giả cũng đã dịch thành “buồn” thì làm sao chữ đó lại có thể là “tứ” được? Nhưng đó cũng không phải là “sầu” (= buồn, “não”) mà là tư 思 và tư có nghĩa là nhớ.
Chữ “phản” ở câu 3 viết theo cách của bản nào cũng được vì đó là những đồng nguyên tự (chữ cùng gốc) như Vương Lực đã chứng minh trong Đồng nguyên tự điển (Bắc Kinh, 1997, tr. 581)1
Chữ đầu của câu 4 là 岸 (ngạn) chứ không phải 崖 (nhai). Ngạn là bờ sông còn nhai là sườn núi.
Chữ “bàng” của câu 4 viết theo cách của bản nào cũng được vì đó cũng là những đồng nguyên tự (Xem Vương Lực, sđd, tr. 371).
Nhân tiện, xin nói thêm rằng dịch giả Nguyễn Hà đã viết sai chữ thứ 6 của câu 2 thành 刹. Đây là chữ sát thuộc bộ đao ⺉, có nghĩa là tháp, là chùa bên Phật giáo, đồng thời cũng là chữ sát trong sát na, dùng để phiên âm tiếng Sanskrit kṣaṇa, có nghĩa là khoảng thời gian cực ngắn. Còn sát là giết thì lại thuộc bộ thù 殳 và viết là 殺, như có thể thấy trong văn bản Toàn Đường thi.
Dịch giả cho biết trong Thơ nghìn nhà có “khoảng 40% số bài, ở các tuyển tập thơ Đường xuất bản trước đã nhiều người dịch, nhưng hình như chưa chuyển hết được cái hay của nguyên tác”. (“Lời vào sách”, tr. 9). Vậy ta có thể hiểu rằng, với Thơ nghìn nhà, thì hình như các bài dịch sẽ có thể làm được điều đó. Nhưng muốn “chuyển hết được cái hay của nguyên tác” thì trước hết người dịch phải giữ cho đúng tự và từ của bản gốc.