Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 933 - 941

§ 933. Kiến thức ngày nay, số 470, ngày 1-9-2003

ĐỘC GIẢ: Nghe nói học giả Hoàng Xuân Hãn cũng có phát biểu ý kiến về hai chữ “song viết” trong thơ văn cổ. Xin cho biết cụ Hoàng Xuân Hãn đã giảng như thế nào.

AN CHI: Nếu chúng tôi không nhầm thì học giả Hoàng Xuân Hãn chưa bao giờ công khai trình bày ý kiến về hai chữ “song viết”. Điều mà ta được biết chắc chắn là ông có “giảng” về hai tiếng đó trong một cuộc tiếp xúc có tính chất cá nhân.

Trong bài “Vài điều về thơ Nôm Nguyễn Trãi”, đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn học (California), số 139, 11-1997, tr. 48 – 51, tác giả Nguyễn Đình Hòa có thuật lại như sau:

“Hôm 27 tháng 5 năm 1981, trong cuộc phỏng-vấn tại tư-thất của thầy ở Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn có nói với tôi rằng song chính là xong với nghĩa “achevé”, “vraiment”, “tout à fait”, “rất”, “thật”, còn viết nghĩa là “rằng”, và cả hai chữ (“song viết” – AC) nghĩa là “thật là”. Giáo sư Hoàng còn dạy tôi rằng đời Lê, người ta còn nói làm song với nghĩa là “rất tốt”.

Tất cả những gì ta biết được về ý kiến của Hoàng Xuân Hãn đối với hai chữ “song viết” chỉ tóm gọn trong đoạn tường thuật trên đây của Nguyễn Đình Hòa mà thôi.

Xin thú thật rằng chúng tôi rất kinh ngạc khi được đọc đến lối giải thích này vì tất cả các ngôn cảnh đã biết đều đòi hỏi hai chữ “song viết” phải là những thực từ còn Hoàng Xuân Hãn thì lại trao cho chúng ta hai từ “song viết” hoàn toàn “rỗng ruột”, nghĩa là những hư từ. Ta hãy thử điền cái nghĩa mà Hoàng Xuân Hãn đã giảng vào những câu hữu quan trong các bài 59, 60, 61 và 62 của phần “Phong cảnh môn” trong Hồng Đức quốc âm thi tập xem sao:

- Thật là ai bằng thật là ngư;

- Thật là ai bằng thật là tiều;

- Thật là ai bằng thật là canh;

- Thật là ai bằng thật là mục.

Hoàn toàn vô nghĩa. Xin vui lòng đối chiếu với cách hiểu của chúng tôi về bốn câu này trên Kiến thức ngày nay, số 469. Bất cứ ai đã nghiền ngẫm thật kỹ về tất cả các văn cảnh trong đó hai tiếng “song viết” đã xuất hiện cũng đều có thể thấy rằng lối giảng này hoàn toàn không có căn cứ. Dĩ nhiên là với một lối giảng như thế thì chẳng cứ gì bốn câu trên đây mà bất cứ câu nào có hai chữ “song viết” cũng đều trở nên vô nghĩa, ít nhất thì cũng là tối nghĩa. Trí giả thiên lự tất hữu nhất thất; điều này không có gì đáng lấy làm lạ.

§ 934. Kiến thức ngày nay, số 470, ngày 1-9-2003

ĐỘC GIẢ: Chươngtrình “Vui để học” trên HTV7 mới đây có một câu hỏi nội dung như sau: “Liệt sĩ Phạm Hồng Thái đã tham gia cuộc khởi nghĩa nào trong ba cuộc khởi nghĩa sau đây: A. Hoàng Sào; B. Hoàng Cân; C. Hoàng Hoa Cương? Câu trả lời của người dẫn chương trình là: Khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương. Xin cho biết hỏi và trả lời như thế có đúng hay không.

AN CHI: Câu hỏi và lời đáp có sai ở hai điểm sau đây:

Thứ nhất, cuộc khởi nghĩa mà “Vui để học” muốn nói đến là cuộc khởi nghĩa đánh chiếm Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) bất thành do Hoàng Hưng và các đồng chí của ông chỉ huy. Đây là một sự kiện thuộc Cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Khởi nghĩa thất bại, điểm lại có 72 người hy sinh nên người ta gọi là “Thất thập nhị liệt sĩ”. Các liệt sĩ này được chôn cất tại Hoàng Hoa Cương nên còn gọi là “Hoàng Hoa Cương liệt sĩ”. Vậy chỉ có “các liệt sĩ Hoàng Hoa Cương” chứ chẳng làm gì có tên gọi “khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương”.

Thứ hai là Phạm Hồng Thái không liên quan gì đến cuộc khởi nghĩa trên đây. Ông nhận nhiệm vụ đi ám sát toàn quyền Merlin (của Pháp) và tuẫn tiết ở Quảng Châu đêm 18-6-1924, được chôn cất ở chân núi Bạch Vân rồi về sau mới được cải táng vào nghĩa trang Hoàng Hoa Cương. Ông chỉ yên nghỉ cùng một nơi với 72 liệt sĩ Hoàng Hoa Cương, hy sinh trước ông đến 13 năm mà thôi.

§ 935. Kiến thức ngày nay, số 471, ngày 10-9-2003

ĐỘC GIẢ: Trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 5 (91)-2003, tác giả Nguyễn Khắc Bảo có bài “Vài ý kiến về cuốn Tư liệu Truyện Kiều, bản Duy Minh Thị 1872”, nhận xét về việc tác giả Nguyễn Tài Cẩn “phiên âm chưa chính xác một số chữ Nôm của bản Duy Minh Thị 1872”. Xin cho biết những nhận xét đó có xác đáng hay không.

AN CHI: Mới đây, cũng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 8(94)-2003, Nguyễn Tài Cẩn đã có bài “Đôi lời bàn thêm với ông Nguyễn Khắc Bảo về vấn đề phiên Nôm”. Nguyễn Tài Cẩn đã khẳng định rằng giữa ông và ông Nguyễn Khắc Bảo đã có “một sự khác nhau cơ bản về phương pháp” và chính sự khác nhau này “đã làm nẩy sinh ra tất cả các sự khác nhau khác, trong cách đọc, trong cách hiểu, cũng như trong cách trình bày, biện luận”. Nguyễn Tài Cẩn đã nêu ra ba nhược điểm quan trọng trong phương pháp của ông Nguyễn Khắc Bảo rồi phân tích từng điểm một để đưa ra những nguyên tắc văn bản học thích hợp. Đối chiếu cách xử lý vấn đề của đôi bên trong từng trường hợp, ta sẽ dễ dàng thấy rằng một đằng là những thao tác nhà nghề còn một đằng thì lại là những bước đi mang dáng dấp… tài tử. Nhưng, theo chúng tôi, nhờ sự chịu đọc của mình mà ông Nguyễn Khắc Bảo cũng đã đúng ít nhất là ở mục 7 (trong bảy mục) mà ông đã nêu lên để nhận xét về cách Nguyễn Tài Cẩn phiên âm chữ thứ 7 của câu 2128.

Chúng tôi cho rằng trong trường hợp này, Nguyễn Tài Cẩn đã không có lý từ phần biện bạch cho cách đọc chữ thành “náy” trong Tư liệu Truyện Kiều (xin gọi là phần một) cho đến phần ông “xin rút lui giả thuyết nảy sinh, náy sinh và từ nay xin yên tâm đọc là sắm sanh” (xin gọi là phần hai) trong bài bàn thêm phần này.

Trong phần một, Nguyễn Tài Cẩn cho biết sở dĩ mình vẫn còn nghi ngờ cách đọc chữ thành sắm là vì hai lẽ:

– Nếu cho tâm 忄 cộng nãi 乃 là chữ sám viết tắt thì trái với tất cả các tài liệu về Hán học mà ông hiện có: người Trung Quốc không bao giờ viết tắt như vậy, giới Hán học cũng không bao giờ viết tắt như vậy nên chắc đây là một cách viết sai. Cách viết sai chữ Hán sám thành là do ảnh hưởng của cách viết Nôm chữ sắm (thành ) mà ra.

– Nhưng ngay trong chữ Nôm, viết tâm + nãi mà đọc sắm thì cũng sai, vì phụ âm “n” sao lại đưa đến “s”? Và vần “ai” sao lại đưa đến vần “ăm” được?

Vì vậy, Nguyễn Tài Cẩn buộc phải chuyển sang những hướng tìm tòi khác và đọc thành “náy”.

Trở lên là lập luận của tác giả Nguyễn Tài Cẩn. Tuy nhiên chúng tôi thấy lập luận của ông không vững.

Thứ nhất, Nguyễn Tài Cẩn đã không có lý khi biện luận rằng “tâm + nãi” mà đọc thành sám thì trái với tất cả các tài liệu về Hán học mà ông đang có. Cái lý này chỉ có thể đứng vững được khi nào ông bảo đảm rằng tất cả các tài liệu Hán học mà ông đang có cũng là toàn bộ các tài liệu mà toàn thể giới Hán ngữ học trên thế giới đang có, không sót bất cứ một tài liệu lớn, nhỏ nào.

Thứ hai là, ngay tại Việt Nam, ta cũng đã có một tài liệu Hán học có ghi nhận chữ sám này: đó là Hán – Việt tự điển của Thiều Chửu. Ông Nguyễn Tài Cẩn cho rằng “đây là một cách viết sai do chịu ảnh hưởng của lối viết Nôm chữ sắm mà ra”. Thế là Nguyễn Tài Cẩn vô hình trung cũng đã thừa nhận rằng trong hệ thống chữ Nôm, ta đã có một chữ sắm mà tự dạng là . Chữ này phải được dùng với một tần số cao và được rất nhiều người biết đến thì mới có thể lọt được vào cái kho chữ Hán đồ sộ mà trở thành một kẻ nhập cư “bất hợp pháp” như đã thấy. Nhưng khả năng một chữ Nôm mà trở thành (hoặc ảnh hưởng đến sự ra đời của) một chữ Hán như thế là một điều không thực tế.

Thứ ba là, tác giả Nguyễn Tài Cẩn đã không có lý khi ông biện luận rằng “viết tâm + nãi mà đọc thành sắm thì cũng sai vì phụ âm “n” sao lại đưa đến “s” và vần “ai” sao lại đưa đến vần “ăm” được?”. Thực ra nếu ta có một chữ sắm mà sự tồn tại đã làm giàu cho cái kho chữ Hán kếch sù thêm một đơn vị nữa (là = sám) thì cái chữ Nôm đó phải xuất hiện từ những lý do khác mà ta cần tìm hiểu chứ không phải từ những mối quan hệ ngữ âm mà tác giả Nguyễn Tài Cẩn đã bài bác.

Thứ tư là, thực ra thì trước ông Nguyễn Khắc Bảo đến 32 năm, Vũ Văn Kính và Bùi Hữu Sủng cũng đã đọc chữ là “sắm” trong Đoạn trường tân thanh khảo lục do Vạn Lợi ấn quán ấn hành tại Sài Gòn năm 1971*. Chữ này về sau đã được Vũ Văn Kính đưa vào Bảng tra chữ Nôm sau thế kỷ XVII rồi Đại tự điển chữ Nôm. Chúng tôi cho rằng đây cũng là một việc làm cần tìm hiểu một cách thận trọng chứ không phải là do hai tác giả kia “đọc mò” mà ra.

Thứ năm là cứ cho rằng toàn bộ các tài liệu của Trung Quốc đều không có chữ sám thì ta lại còn có riêng một nền Hán văn Việt Nam trong đó tiền nhân của chúng ta cũng có thể đã có đặt ra thêm vài ba chữ riêng cho mình. Kho Hán tự đồ sộ không có chữ * nhưng sách Tam thiên tự của người Việt vẫn cứ dạy một cách tự nhiên “phiến: quạt, du *: dù”(Xem chữ 175 và 176). Người Nhật cũng đã làm như thế nên ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy chữ 辻, chẳng hạn, của họ, trong từ điển của Trung Quốc.

Thứ sáu là nói thì nói thế chứ chúng tôi tin rằng sám lại là một chữ có thật trong kho Hán tự. Có điều, có thể đây là một trong các “đặc sản” của Đạo giáo và/hoặc Phật giáo nên nó mới không được phổ biến rộng rãi trong mọi giới và mới không được ghi nhận trong các quyển tự thư chính thống và/ hoặc thông dụng mà thôi. Thiều Chửu là một vị cư sĩ (Phật giáo) nên việc ông biết và muốn giới thiệu cái chữ sám đó trong quyển từ điển của mình là một việc chính đáng và cũng đáng tin. Ta không thể nghĩ rằng ông đã có bản Duy Minh Thị 1872 để lấy cái chữ Nôm sắm mà làm chữ Hán sám được. Chúng tôi có hỏi thăm ở một vài người có hiểu biết về Đạo giáo ở Chợ Lớn thì được biết rằng chữ sám có tồn tại và một vị trước ở Khánh Vân Nam Viện (đường Lò Siêu, Quận 11) còn hứa sẽ tìm tài liệu để “minh chứng” với chúng tôi nữa.

Bây giờ xin nói về phần hai của tác giả Nguyễn Tài Cẩn, là phần trong đó ông “xin nêu lên ngay để cùng chia vui” vì ông “đã giải quyết được mối băn khoăn về chữ sắm”! Ông cho biết:

“Đầu năm nay dùng kính lúp xem kĩ lại thì hóa ra không phải thế: bên cạnh bộ tâm không phải chữ nãi! Có một nét ngang rất nhỏ ở phía bên trái của nó. Mà nếu đúng thế thì kí hiệu tưởng là chữ nãi phải chia làm hai nửa: nửa bên trái là chữ thiên (với nghĩa là “ngàn”), nửa bên phải chắc là dấu cá nháy do viết nhanh, khắc không chuẩn mà thành (…) tâm + thiên thì đúng là chữ sám viết tắt của người Trung Quốc! Và sám + dấu cá nháy thì đúng là chữ sắm! Vậy xin giới Hán Nôm đính ngoa cách viết tâm + nãi, còn chúng tôi thì (…) xin rút lui giả thuyết nảy sinh, náy sinh”

Chúng tôi thì thấy hoàn toàn ngược lại rằng chính kính lúp mới giúp cho ta thấy càng rõ hơn chữ đang xét đúng là “tâm + nãi” chứ tuyệt đối không phải “bộ tâm + thiên (= nghìn) + dấu cá nháy”, nghĩa là không phải bị khắc không chuẩn, như ông đã phân tích. Đó là “tâm + nãi”, nghĩa là , rõ mồn một. Để làm bằng, chúng tôi xin sao in dưới đây một góc tờ 55A nơi có chữ sắm – của bản Duy Minh Thị 1872 do Nguyễn Tài Cẩn công bố trong Tư liệu Truyện Kiều (tr. 277) để bạn đọc tiện nhận xét:

Chữ sắm chính là chữ thứ 2 của hàng dọc bên phải. Cái mà Nguyễn Tài Cẩn cho là “một nét ngang rất nhỏ ở phía bên trái của chữ nãi 乃” thì thực chất lại là một phần của bộ tâm . Đó là cái phần ló ra phía bên phải của nét sổ 丨 nhưng do bị “đứt mạch” nên ta mới thấy bộ tâm bị in thành . Sự “đứt mạch” này có nhiều nguyên nhân: hoặc do giấy không tốt, không liền mặt; hoặc do bản khắc không bằng phẳng; hoặc do mực không đều; v.v. Chứ nếu “liền mạch” thì đó sẽ là chứ không phải . Vậy cái nét ngang rất nhỏ bên phải nét sổ, tức “bên trái của chữ nãi 乃”, là của bộ tâm chứ không phải là nét ngang của chữ thiên 千 (= nghìn) vì chữ này tuyệt đối không có mặt ở đây.

Tóm lại, có thể thấy cái chữ Nôm đang xét đúng là chứ dứt khoát không thể là như Nguyễn Tài Cẩn đã suy diễn.

§ 936. Kiến thức ngày nay, số 472, ngày 20-9-2003

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Đọc cuốn Văn bản Truyện Kiều – Nghiên cứu và thảo luận” đăng trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 8-2003, tác giả Lê Thành Lân có viết về học giả Hoàng Xuân Hãn như sau:

“Cụ ít nhận được sự “đồng cảm” và thiếu thời gian. Tại sao tôi lại viết như vậy? Bởi vì, nhiều công trình nghiên cứu của cụ không được “trong nước” đón nhận ngay một cách “mặn nồng”. Cụ phải tìm cách tự in tự xuất bản ở nước ngoài hoặc công bố ở trong Nam. Cụ nói: “Sách tôi soạn, chỉ có Sài Gòn in một ít trong báo Sử Địa, rồi sau này báo Tập san Khoa học Xã hội (Paris) in ra. Còn báo Minh Tân thì chính tôi với Bích bỏ tiền ra in lấy, mới in được; hồi sau không còn nữa vì không có phương tiện”. (La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập I, tr.;61)”. (Bđd,tr. 114)

Tôi xin hỏi: Tại sao một học giả lớn như cụ Hãn lại ít nhận được sự “đồng cảm” và nhiều công trình nghiên cứu của cụ lại không được “trong nước” đón nhận ngay một cách “mặn nồng”? Báo Minh Tân là báo nào và nhận vật tên “Bích” là ai?

AN CHI: Theo chỗ chúng tôi biết thì ở Paris những năm 1954 – 1975 chẳng có tờ báo nào của Việt kiều có tên là “Minh Tân” cả. Đây chỉ có thể là do chính học giả Hoàng Xuân Hãn nói nhầm hoặc do người phỏng vấn là bà Thụy Khuê ghi nhầm mà thôi. Minh-Tân là nhà xuất bản do kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích (nhân vật “Bích” mà ông hỏi) làm giám đốc, ban đầu đặt ở số 6, đường Albert Sorel, Paris XIV, sau dời về số 7, đường Guénégaud, Paris VI, mà “đại diện thẩm quyền” tại Việt Nam là Bích Vân thư xã, 105, đại lộ Galliéni, Sài Gòn (nay là Trần Hưng Đạo, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).

Ông Nguyễn Ngọc Bích đã giới thiệu về công việc của mình như sau:

“Vào khoãng (sic) tháng bảy 1949, nhiều bạn ở Paris đưa ra vấn đề làm sách giáo khoa và phổ thông bằng tiếng mẹ đẻ. Nhiều anh em, sau khi bàn cải (sic) châu đáo, thấy rằng rất có lợi mà giao cho một người gánh trọn trách nhiệm về việc xuất bản, thì những bạn khác mới khỏi bận bịu lặt vặt, hầu có rồi rãnh (sic) mà nghĩ về phần sáng tác. Tất cả đều đồng ý mong mỏi cho tôi gánh cái trách nhiệm ấy. Sau mấy ngày lưỡng lự, tôi bằng lòng với cái nguyên tắc mà tôi đã tuyên bố trước mặt mọi anh em là: tôi làm việc không lấy tiền công lại không lấy một đồng lời nào cả; và được bao nhiêu, tôi sẽ dùng nhập vào vốn để bành trướng công việc.

Do theo đó mà nhà xuất bản Minh-Tân ra đời”*.

Chính nhà xuất bản Minh-Tân đã ấn hành của Hoàng Xuân Hãn hai công trình:

− La-sơn phu-tử, 1952 và

− Chinh-phụ-ngâm bị-khảo, 1953

chứ chẳng có “báo” Minh-Tân nào cả.

Còn Hoàng Xuân Hãn ít nhận được sự “đồng cảm” và một số công trình của ông không được “trong nước” đón nhận ngay một cách “mặn nồng” thì chỉ là chuyện do tác giả Lê Thành Lân suy diễn mà thôi.

Lê Thành Lân đã dẫn lời của Hoàng Xuân Hãn để chứng minh cho lời khẳng định của mình nhưng nguyên văn đầy đủ của chính vị học giả này thì lại như sau:

“Công việc tôi, từ 54, ít ra cũng từ 45, hồi tôi đương còn in được, đương còn ở nhà, anh em giúp đỡ nhau. Đến năm 51, tôi sang bên Pháp thì tự nhiên đối với nhà thì mình đứt chân, mà với bên này tôi không muốn tìm cách vào trong các cơ quan Pháp để có phương tiện in. Cho nên sách tôi soạn, chỉ có Sài Gòn in một ít trong báo Sử Địa, rồi sau này báo Tập san Khoa học Xã hội (Paris) in ra. Còn báo (sic) Minh-Tân thì chính tôi với Bích bỏ tiền ra in lấy, mới in được; hồi sau không có nữa vì không có phương tiện”*.

Đọc kỹ những lời lẽ trên đây của Hoàng Xuân Hãn, ta thấy ông đã kể lại công việc của mình một cách trung thực, khách quan và hoàn toàn không có ý phàn nàn hoặc chê trách ai. Ở một đoạn sau, ông nói tiếp:

“Người ở trong nước, tự nhiên là ấn loát dễ dàng hơn chứ. Người đã chạy ra ngoài rồi mà bây giờ lại muốn in sách để về trong nước thì cũng có sự không tốt cho một số người ở bên nhà. Cho nên không ai nghĩ đến tôi, đến chuyện tôi làm”. (Sđd, tr. 461 – 462)

Thì cũng vẫn cứ là một cách kể trung thực, khách quan và không hề phàn nàn hoặc chê trách một ai. Hơn thế nữa, Hoàng Xuân Hãn còn thẳng thắn nhận mình là “người đã chạy ra ngoài”. Xin nhớ rằng Hoàng Xuân Hãn từng là thành viên trong phái đoàn Chính phủ (liên hiệp kháng chiến) Việt Nam tham dự Hội nghị trù bị Đà Lạt 1946 để đàm phán với Pháp. Và vì tự nhận như thế nên ông đã chủ động không đưa sách về “trong nước” để in (“in sách để về trong nước” chỉ là một cách “nói nhịu” của Hoàng Xuân Hãn hoặc một cách “viết nhịu” của người phỏng vấn), sợ rằng làm như thế “thì cũng có sự không tốt cho một số người ở bên nhà”. Và vì ông đã chủ động không liên lạc nên “trong nước” không ai nghĩ đến ông, không ai biết đến chuyện ông làm là điều tất nhiên, chẳng có gì phải phàn nàn. Mà đã như thế thì làm sao có được chuyện “mặn nồng” hay thờ ơ?

§ 937. Kiến thức ngày nay, số 472, ngày 20-9-2003

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 466, khi giải thích “ngoa” là sai, ông có cho rằng “điêu ngoa” là một ngữ vị từ đẳng lập. Tôi hơi băn khoăn, không biết riêng “điêu” có phải là điển cố không. “Nói điêu” có phải là “nói như Điêu Thuyền” không? Tôi từng nghe người vùng Nghệ Tĩnh khi gặp người nói sai sự thật, họ không gọi là đồ “điêu ngoa” mà gọi là đồ “điêu trác” (Điêu Thuyền – Đổng Trác). Tôi vốn không rành về ngôn ngữ, lại hay suy diễn chủ quan; rất mong được ông cho biết ý kiến.

AN CHI: Điêu trong nói điêu là một yếu tố Hán Việt mà chữ Hán là 刁 – và cũng là một từ độc lập -, có nghĩa là “gian xảo: “dối trá: cùng trường nghĩa với ngoa 訛 nên mới đi đôi với từ này thành điêu ngoa, một ngữ từ đẳng lập, giống như điêu ác, điêu trá, điêu xảo, v.v.. Ta có thể dễ dàng tìm thấy các ngữ vị từ đẳng lập này trong một số từ điển tiếng Hán hoặc Hán Việt. Còn điêu trác thì sao? Ngữ vị từ đẳng lập này chẳng liên quan gì đến họ hoặc tên của Điêu Thuyền và Đổng Trác cả. Tiếng nói ở vùng Nghệ Tĩnh có vị từ trác, có nghĩa là “đánh lừa nói chơi cho vui”*. Phương ngữ Nam Bộ cũng còn lưu giữ từ này và dùng với nghĩa “chơi khăm” (thí dụ: bị tổ trác, v.v.). Chính từ trác này đi chung với điêu để tạo ra ngữ vị từ đẳng lập điêu trác mà ông đã nghe người Nghệ Tĩnh dùng theo nghĩa của điêu ngoa.

§ 938. Kiến thức ngày nay, số 472, ngày 20-9-2003

ĐỘC GIẢ: Trong sách Kinh Dịch, đạo của người quân tử, ở các quẻ số 37, 45, 55, 59, có chữ cách 假 mà ông Nguyễn Hiến Lê giảng là “khéo léo”. Tôi tìm trong Đào Duy Anh và Thiều Chửu không thấy chữ “cách” nào có tự dạng như thế. Xin ông vui lòng đừng phụ lão mọt sách Kiến thức ngày nay, từ số 41 đến nay không thiếu số nào.

AN CHI: Âm thông dụng nhất của chữ đó là “giả” (trong giả danh, giả mạo, giả tá, v.v.) mà Đào Duy Anh viết thành “dả”. Còn sở dĩ cả Đào Duy Anh lẫn Thiều Chửu đều không ghi nhận âm “cách” cho chữ đó là vì từ điển của hai vị này chỉ là sách thuộc loại phổ thông mà thôi. Từ hải đã ghi cho nó đến 5 âm:

1. giả (giai ả thiết, âm giả, mã vận);

2. hà (hề nga thiết, âm hà, ma vận);

3. hạ (hệ á thiết, âm hạ, mạ vận);

4. giá (ký á thiết, âm giá, mạ vận);

5. cách (ca hách thiết, âm cách, mạch vận).

Âm của nó trong Kinh Dịch chính là âm thứ 5 trong Từ hải và quyển từ điển này cũng nêu thí dụ “Vương cách hữu miếu” mà ta có thể thấy ở quẻ số 59. Đây là nói về phần âm.

Còn về phần nghĩa thì Nguyễn Hiến Lê đã giảng không nhất quán. Cùng một kiểu cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa mà “Vương cách hữu gia” ở quẻ số 37 được ông giảng là “Vua (hoặc gia chủ) rất khéo về việc trị gia (Cách là rất tốt)”, nhưng “Vương cách hữu miếu” ở quẻ số 59 thì lại được ông giảng là “Vua tới nhà Thái miếu”. Cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa thì đồng dạng mà cách trong trường hợp trước có nghĩa là “rất khéo”, “rất tốt” còn trong trường hợp sau lại có nghĩa là “tới”. Điều này cho phép ta nghi ngờ lối giảng của Nguyễn Hiến Lê. Từ hải giảng cách là “chí 至” mà chí thì có thể có nghĩa là “đến, tới”, cũng có thể có nghĩa là “tốt, đẹp”. Nhưng trong cả hai quẻ số 37 và số 59 thì nó chỉ có thể có một trong hai nghĩa trên đây mà thôi.

§ 939. Kiến thức ngày nay, số 473, ngày 1-10-2003

ĐỘC GIẢ: Trên Chuyện Đông chuyện Tây, ông đã nhận xét về Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập I (1995) và tập II (2002). Nay tập III đã phát hành; ông có nhận xét gì không?

AN CHI: Dịp giáp Tết Quý Mùi 2003, chúng tôi có nhận được thơ của ông Trần Bạch Đằng và bản thảo bông 2 của Từ điển Bách khoa Việt Nam tập III do ông gởi đến.

Thay mặt Bộ phận phía Nam của Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, ông đề nghị nêu nhận xét tổng quát hoặc đi sâu vào sở trường của mình về công trình quan trọng đó. Nhưng do thời gian quá ngắn ngủi (gởi ý kiến ngay sau Tết) nên chúng tôi đã gởi thơ cám ơn và xin lỗi ông vì chúng tôi không làm kịp. Chúng tôi có hứa là sẽ nêu nhận xét sau khi sách phát hành. Xin nhận xét sơ bộ như sau:

I. Những chỗ sai sót về nội dung (Xin nêu tên mục trước rồi sau dấu hai chấm là nhận xét về (những) chỗ sai sót trong mục đó).

1. Ngày: Trái Đất không thể “quay chung quanh nó” dù chỉ một vòng. Nó chỉ có thể quay chung quanh trục của nó mà thôi.

2. Ngôn ngữ thế giới: Cái mà quyển từ điển muốn nói đến là “các ngôn ngữ trên thế giới” còn “ngôn ngữ thế giới” thì lại là một cái tên mục hoàn toàn tối nghĩa.

3. Nhân duyên: Chẳng làm gì có đến “nhị thập nhân duyên” (hai mươi nhân duyên) vì chỉ có thập nhị (mười hai) mà thôi. Đến mục “nhân quả”, ta vẫn còn đọc được như sau: “Thuyết nhân quả, Phật giáo diễn đạt thành Nhị thập nhân duyên”.

4. Nói lái: Tác giả của mục từ này viết rằng đây là một “biện pháp tu từ độc đáo của tiếng Việt”. Thực ra đây chẳng phải là “đặc sản” của tiếng ta vì tiếng Tàu cũng có, dĩ nhiên là với tác dụng tu từ, như chúng tôi đã khẳng định và chứng minh cách đây mười năm, trên Kiến thức ngày nay, số 113. Hiện tượng này trong tiếng Anh gọi là spoonerism, (như cũng đã có nêu ở một kỳ Chuyện Đông chuyện Tây) còn trong tiếng Pháp là contrepèterie.

5. Phụ âm: Tác giả của mục này viết rằng “trong các ngôn ngữ, hệ thống phụ âm được phân loại theo vị trí cấu âm và phương thức cấu âm”. Thực ra chẳng có ngôn ngữ nào mà lại phân biệt phụ âm theo hai tiêu chí đó cả vì đặc điểm về vị trí cấu âm và đặc điểm về phương thức cấu âm của phụ âm nào trong bất cứ ngôn ngữ nào cũng đều được thể hiện đồng thời, nghĩa là cùng một lúc. Chỉ có ngôn ngữ học, cụ thể là ngữ âm học, mới trừu tượng hóa mà phân chia phụ âm theo từng tiêu chí đó để miêu tả mà thôi.

6. Sử học mĩ thuật: Chỉ có lịch sử (của) mỹ thuật chứ làm gì có “sử học mỹ thuật”.

7. “Quán tô mương”: Tên mục này sai ở tiếng đầu tiên và cái sai này không phải do khâu in ấn vì mục từ này được sắp xếp rất đúng với thứ tự của bảng chữ cái: sau “quán ngữ”, “quán tính” và trước “quán từ”, “quang chu kì”, v.v.. Tiếng đầu tiên là quám (với phụ âm cuối -m) chứ không phải “quán”*. Vậy đây là quám tô mương và lẽ ra mục này phải được xếp sau “quái thai học” và trước “Quan Âm”. Đây là một cái sai về kiến thức chứ không phải về chính tả.

8. Quần vợt: Tác giả của mục từ này đã sai, hoặc ít nhất cũng là nói không đầy đủ, khi viết rằng quần vợt là “môn thể thao đánh bóng qua lưới trên một sân chuyên dùng (…) kích thước 40⨯20m”. Với một cỡ sân dài và rộng như thế này thì dù có “cơ bắp” đến cỡ như Serena Williams hoặc Jennifer Capriati cũng phải chạy… “mệt nghỉ” và chắc chẳng có tay vợt nào dám lên lưới (vì làm sao lùi kịp khi đối thủ lốp bóng (qua đầu mình)). Thực ra, kích thước 20⨯40m bao gồm cả phạm vi nền dành cho trọng tài và giám biên, những người nhặt bóng và cả chỗ ngồi giải lao “chớp nhoáng” cho các đấu thủ. Chứ nền sân thi đấu chính thức thì chỉ có 8,23m chiều ngang (nếu đánh đôi thì tính thêm mỗi bên một hành lang rộng 1,37m (thành 10,97m)) trên 23,77m chiều dài mà thôi. Tác giả cũng còn kể thiếu đôi nam, đôi nữ khi viết rằng “thi đấu quần vợt bao gồm đơn nam, đơn nữ, nam nữ phối hợp”.

9. Sài Gòn – Gia Định: Mục từ này được ghi vẻn vẹn như sau:

“Thành phố, tỉnh cũ; từ 2-7-1976, đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh”.

Ghi như trên thì không chính xác: công dụng của dấu gạch nối (giữa “Sài Gòn” và “Gia Định”) và công dụng của dấu phẩy (giữa “thành phố” và “tỉnh cũ”) hoàn toàn khác nhau. Dấu gạch nối gắn kết “Sài Gòn” và “Gia Định” thành một ngữ đoạn thống nhất là “Sài Gòn – Gia Định” còn dấu phẩy thì lại ngăn cách “thành phố” và “tỉnh cũ” là hai ngữ đoạn tuy đồng chức nhưng lại hoàn toàn riêng biệt. Vậy, với nhận thức chính xác về quy tắc cú pháp của tiếng Việt, ta không thể biết được tác giả muốn nói gì với cách hành văn cụt lủn trên đây. Sài Gòn – Gia Định là một thành phố chăng? Hay đó là một tỉnh cũ? Còn cái ý của tác giả thì hẳn là: Sài Gòn là một thành phố còn Gia Định là một tỉnh cũ. Nhưng câu văn, dù là văn “tắt”, cũng không phải là sơ đồ, nên không thể trình bày như thế được, trừ phi ta có một kiểu văn gọi là “văn sơ đồ”.

Huống chi, Thành phố Hồ Chí Minh cũng đâu chỉ gồm có Sài Gòn – Gia Định cũ, vì

“Ngày 2-7-1976, Quốc hội khóa VI chính thức đặt tên Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm cả thành phố Sài Gòn, toàn thể tỉnh Gia Định và một phần các tỉnh Hậu Nghĩa, Bình Dương (vùng của huyện Củ Chi)”*.

Xin nhấn mạnh thêm rằng Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập III có một thiếu sót lớn là đã không ghi nhận thành một mục từ riêng tên của thành phố Sài Gòn mà ai cũng biết là thành phố lớn nhất nước, ngay cả khi chưa được mở rộng và đổi tên thành “Thành phố Hồ Chí Minh”.

10. Sự biến Tây An: Nhân vật được nói đến ở mục này không phải “Trương Ngọc Lương” mà là Trương Học Lương.

II. Những chỗ sai khi ghi chú hoặc phiên âm tiếng nước ngoài (Cũng theo trình tự như ở mục I).

1. Nam thập tự: Cross không phải tiếng La Tinh mà là tiếng Anh. Crux mới là tiếng La Tinh.

2. Nạn kinh: Âm chính xác của mục từ này là Nan kinh.

3. Nasakom: “Kommunisme” không phải là chữ Indonesia (mà cũng chẳng phải Anh hay Pháp). Còn cách viết đúng ở đây là Komunis.

4. Năm sabat: Trong “sabbatucal” thì chữ “u” phải được thay bằng chữ “i” thành sabbatical.

5. Nêpan: Trong “Nepanese”, chữ “n” phải được thay bằng “l” thành Nepalese.

6. Ngôn ngữ Chăm: Nhóm ngôn ngữ “Malai-Pôlynêdi” không phải là “Malayo-Polynésie” mà là Malayo-Polynesian (nếu là tiếng Anh) hoặc malayo-polynésien (nếu là tiếng Pháp).

7. Ngữ nghĩa kí hiệu: “Denotation semantic” là tiếng Anh “bồi” còn tiếng Anh chính xác là denotational semantics (ở hai mục kế tiếp, “semantic” cũng thiếu “s”).

8. Nhà trắng: Không phải “White house” mà là White House.

9. Nhân Mã Cung Thủ: “Vương miện Nam” không phải “Corona Austrina” mà là Corona Australis.

10. Nhân sinh: “Anthropogen” không phải là tiếng Anh vì tiếng Anh là anthropogenesis hoặc anthropogeny.

11. Palăng: Palăng chẳng có liên quan gì đến tiếng Ý palanco vì đó là cách phiên âm từ tiếng Pháp palan từ thời Pháp.

12. Pancansila: Tiếng Indonesia không phải là “pancansila” mà là pantjasila (năm nguyên tắc xây dựng nước Indonesia).

13. Pecxich: Không liên quan gì đến tiếng Anh “Persian” mà là do tiếng Pháp persique.

14. Pêgu (Hamsavatt): Không phải “Hamsavatt” mà là Hamsavati.

15. Phái Coocđơliê: Không phải “Cordelies” mà là Cordeliers.

16. Phát kiến địa lý: “Magenllan” là hình thức ta lai Tây còn hình thức chính xác là Magellan.

17. Phụ đề: Không phải “soustitre” mà là sous-titre.

18. Platôn: Hình thức gốc không phải… y chang “Platôn” mà là Plato.

19. Pôliê (cánh đồng cacxtơ): Tác giả chú rằng đây là do tiếng Anh polje nhưng thực ra đó là do ảnh hưởng của nhánh Slav (trong ngữ hệ Ấn Âu) mà đại diện là polê của tiếng Nga, có nghĩa là cánh đồng.

20. Saphia (Anh saphire): Nếu là tiếng Anh thì phải viết với hai chữ “p” thành sapphire nhưng đây lại là do tiếng Pháp saphir mà dân ta đã phiên âm từ tiếng Tây và từ thời Tây.

Xin tạm nêu một số lỗi như trên và cuối cùng xin nhắc rằng tên của nhà văn Nguyễn Trọng Quản cần phải được ghi vào Từ điển Bách khoa Việt Nam. Ông là tác giả của Truyện Thầy Lazarô Phiền, quyển truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ, ra mắt công chúng từ năm 1887 tại Sài Gòn. Nguyễn Trọng Quản phải có một “chỗ ngồi” trong Từ điển Bách khoa Việt Nam cùng với những Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, v.v. là những người đã “có chỗ”.

§ 940. Kiến thức ngày nay, số 474, ngày 10-10-2003

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Về bốn con ngựa cùng kéo một cỗ xe”, đăng trên Kiến thức ngày nay, số 472, tác giả Lê Vy cho rằng trong câu “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” thì tứ mã “chính là một trong những con ngựa thuộc giòng ngựa Tứ Xuyên”, “một giòng ngựa hay, tuy nhỏ con nhưng chạy nhanh và dai sức, thường được tuyển làm ngựa trạm”. Tôi ngờ ngợ về cách hiểu này: không biết chữ “tứ” trong “tứ mã” và chữ “tứ” trong “Tứ Xuyên” viết có giống nhau hay không?

AN CHI: Ông ngờ ngợ cũng là phải vì tác giả Lê Vy đã lăng-xê một cách hiểu độc đáo mà ngay cả các nhà làm từ điển của Trung Hoa cũng chưa bao giờ ngờ đến. Từ xưa đến nay, họ chỉ giảng rằng tứ mã trong câu “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” là “bốn con ngựa cùng kéo một cỗ xe” mà thôi. Lời giảng thì dài ngắn khác nhau nhưng tất cả các quyển từ điển tiếng Hán đều giảng theo cái nghĩa mà chúng tôi vừa nêu. Trình tự cũng có thể khác: hoặc giảng hai chữ tứ mã trước rồi mới nêu câu tục ngữ tám tiếng, mỗi vế bốn tiếng đó làm thí dụ; hoặc nêu thẳng cả câu tám tiếng đó để giảng, nhưng cũng đều giảng hai tiếng tứ mã theo cái nghĩa đã nói. Ông và bạn đọc có thể tham khảo và kiểm chứng ở nguồn thư tịch mà Huệ Thiên đã nêu rõ trong bài “Về “ba chữ còm” của ông Lê Bầu”, đăng trên Kiến thức ngày nay, số 465 (tr. 7-11, mục 3).

Từ 2.500 năm nay, người Trung Quốc vẫn hiểu như thế; cho nên nói rằng tứ chính là “một con ngựa trong giòng (sic) ngựa Tứ Xuyên” thì ta tất phải xem xét lại. Quả nhiên là tác giả đã không phân biệt được hai chữ “tứ” khác nhau: tứ trong Tứ Xuyên là 四 còn tứ trong tứ mã thì lại là 駟. Vì vậy nên ta tuyệt đối không thể lấy chữ sau mà ghi âm “tứ” cho địa danh Tứ Xuyên cũng như không thể lấy chữ trước mà “trám” vào câu tục ngữ đang xét. Huống chi từ xưa đến nay người Trung Quốc chưa bao giờ gọi tắt tên của tỉnh Tứ Xuyên thành “Tứ” vì họ chỉ gọi là Xuyên hoặc Thục mà thôi.

Chẳng những nhầm lẫn ngay từ đầu như trên, tác giả Lê Vy còn bộc lộ một kiểu lập luận rất ngộ nghĩnh mà chúng tôi xin nêu ra đây để ông và bạn đọc nhận xét thêm.

Tác giả đã đưa ra hai chữ “ký” hoàn toàn lạc lõng để dẫn người đọc đến với cái nghĩa của chữ “tứ” mà ông phát hiện. Ông viết:

“Chữ ký, ngoài chữ “ký” có nghĩa là ký thác, uỷ thác, phó thác, gởi… còn có một chữ “ký” khác tuy đồng âm nhưng lại có nghĩa là một giòng (sic) ngựa tốt, ngựa hay”.

Ta không thể biết ông căn cứ vào đâu mà đem cái chữ “ký” là “uỷ thác”, “phó thác” ra để đối lập với chữ “ký” là “ngựa tốt”, “ngựa hay” khi mà cái kho Hán tự đồ sộ có đến 20 chữ “ký” (cố nhiên là với 20 tự dạng khác nhau và mấy chục nghĩa khác nhau). Tại sao không phải “ký” là “ghi”, “nhớ”, hoặc “ký” là “mong muốn”, “trông chờ”, hoặc “ký” là “đầu lợn”, v.v. mà cứ phải “ký” là “uỷ thác”, “phó thác” mới được?

Lập luận trên đây chỉ có giá trị nếu tiếng Hán chỉ có vẻn vẹn hai chữ “ký” do ông nêu ra mà thôi. Còn đằng này chữ ký trong câu tục ngữ đang xét lại là 既, có nghĩa là “đã”. Nhất ngôn ký xuất là “một lời đã (trót) nói ra”.

Nhưng kiểu lập luận dưới đây lại ngộ nghĩnh hơn. Tác giả viết:

“Một con ngựa kéo cỗ xe độc mã, bốn con ngựa kéo cỗ xe tứ mã, hai tỷ lệ một trên một và bốn trên bốn rõ ràng là ngang nhau”.

Ngang thế nào được? Một con ngựa kéo một cỗ xe độc mã thì tỷ lệ đúng là một trên một còn bốn con ngựa kéo một cỗ xe tứ mã thì tỷ lệ phải là bốn trên một chứ sao lại “bốn trên bốn”, trừ phi ta tăng cường thêm ba cỗ xe khác để làm “rờ-moọc” đằng sau cái cỗ xe tứ mã kia. Vậy ở đây ta có bất đẳng thức 4/1 > 1/1 chứ không phải cái đẳng thức 4/4 = 1/1 vì trong ngữ danh từ xe tứ mã thì chữ tứ chỉ số ngựa chứ đâu có phải số xe. Vậy bốn con ngựa kéo một cỗ xe phải nhanh hơn một con ngựa kéo một cỗ xe chứ. Ấy thế nhưng tác giả lại dựa vào cái đẳng thức “ảo” của mình để kết luận:

“Do vậy, về chữ “Tứ” trong vế tiểu đối “Tứ mã nan truy”, tôi tán thành ý kiến của ông Lê Bầu”.

Nhưng ông Lê Bầu chỉ sai ở chỗ nói rằng tứ là một giống ngựa giỏi không xác định còn ông Lê Vy thì lại sai một cách “sáng tạo” hơn: giống ngựa giỏi đó là “đặc sản” của đất Tứ Xuyên! Thế là chẳng những ông đã sai về chữ Hán và tiếng Hán mà ông còn sai cả về lịch sử của Trung Hoa nữa: lỗi anachronism*, như sẽ phân tích dưới đây.

“Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”

là một câu tục ngữ mà các học giả Trung Hoa đã nắm rất rõ lai lịch: nó bắt nguồn từ một câu trong Luận ngữ. Hán Đại thành ngữ đại từ điển (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, 1997) giảng như sau:

“Yī yàn jì chù, sì mă nán zhuī: Vị thoại dĩ xuất khẩu, vô pháp thu hồi. Ngữ xuất Luận ngữ, “Nhan Uyên”: Tứ bất cập thiệt”. (tr. 974)

Nghĩa là:

“Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy: Nói lời đã nói ra thì không có cách gì lấy lại được. Câu này có xuất xứ từ Luận ngữ, thiên “Nhan Uyên”, với câu “Xe bốn ngựa không lẹ bằng lưỡi”.

Rõ ràng “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy” là một khúc biến tấu trên một chủ đề* của Luận ngữ: “Tứ bất cập thiệt”. Luận ngữ là một công trình ghi chép những lời giáo huấn hoặc bình luận của Đức Thánh Khổng, dĩ nhiên là có xen vào cả lời của các đệ tử của ngài, mà cụ thể câu “Tứ bất cập thiệt” ở đây là của Tử Cống. Tử Cống (520 tr. CN – ?) sống vào cuối thời Xuân Thu (770 tr. CN – 476 tr. CN)* thì làm sao ông có thể biết đến địa danh “Tứ Xuyên” mà “thắng” “một trong những con ngựa thuộc giòng (sic) ngựa Tứ Xuyên” vào câu “Tứ bất cập thiệt”? Vâng, địa danh “Tứ Xuyên” mãi đến đời Tống (960 CN – 1279 CN) mới được đặt ra chứ ở thời của Tử Cống thì chỉ có nước Ba, nước Thục mà thôi. Từ hải, bản tu đính 1989, giảng mục “Tứ Xuyên tỉnh” như sau:

“Giản xưng Xuyên hoặc Thục. Tại Trường Giang thượng du (…) Xuân Thu Chiến Quốc thời vi Ba, Thục đẳng quốc địa; Tần trí Ba, Thục nhị quận; Hán thuộc Ích Châu; Đường thuộc Kiếm Nam đạo cập Sơn Nam Đông, Tây đẳng đạo; Tống trí Xuyên Hiệp lộ, hậu phân Ích, Tỷ, Lợi, Quỳ tứ lộ, tổng xưng Tứ Xuyên lộ”.

Nghĩa là:

“(Tỉnh Tứ Xuyên) gọi tắt là Xuyên hoặc Thục, nằm ở thượng du sông Trường Giang. Thời Xuân Thu Chiến Quốc là đất của các nước Ba, Thục, v.v.; đời Tần đặt làm hai quận Ba và Thục; đời Hán thuộc Ích Châu; đời Đường thuộc đạo Kiếm Nam, các đạo Sơn Nam Đông, Sơn Nam Tây, v.v.; đời Tống đặt lộ Xuyên Hiệp, sau chia thành bốn lộ Ích, Tỷ, Lợi, Quỳ, gọi chung là lộ Tứ Xuyên”.

Sử sách đã ghi chép như thế nên rõ ràng là “con ngựa thuộc giòng (sic) ngựa Tứ Xuyên” không có chỗ đứng trong chủ đề “Tứ bất cập thiệt” để có thể phi nước “đại” vào khúc biến tấu “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Phát hiện của tác giả là một cách hiểu sai cả về ba mặt: văn tự, từ ngữ và lịch sử.

Còn có hay không một “giòng (sic) ngựa Tứ Xuyên” mà ông Lê Vy đã dẫn ra từ một lời cước chú không nhớ rõ xuất xứ thì lại không phải là chuyện mà chúng tôi cần bàn đến ở đây.

§ 941. Kiến thức ngày nay, số 474, ngày 10-10-2003

ĐỘC GIẢ: Cò nhà, cò đất và đủ thứ cò: chữ “cò” này do đâu mà ra?

AN CHI: Tiếng Việt, nhất là trong phương ngữ Bắc Bộ, có ngữ danh từ cò mồi mà Từ điển tiếng Việt 1992 giảng là “cò dùng làm chim mồi; dùng để ví kẻ chuyên dụ người khác vào tròng trong các trò bịp bợm”.

Nhưng cò trong cò đất, cò nhà, v.v. không đồng nhất với cò trong cò mồi. Đó là một từ của phương ngữ Nam Bộ và là kết quả của một thao tác phiên âm có rút ngắn từ tiếng Pháp commissionnaire, có nghĩa là người làm môi giới trong việc mua bán. Dĩ nhiên là từ cò này cũng không đồng nhất với cò có nghĩa là sếp cảnh sát vì từ sau này lại là kết quả phiên âm từ commissaire (de police).

Xem Từ hải, bản tu đính 1989, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, in lần thứ 4, 1997, tr. 362, cột 1.

Xin xem: Huệ Thiên “Sấu là một yếu tố cổ Hán Việt”, Thông tin Khoa học & Công nghệ, Thừa Thiên – Huế, số 4-1999, tr. 127 – 128.

Xin xem thêm bài “Chữ vằn liền với chữ văn một vần” của Huệ Thiên, đăng trên tạp chí Văn, bộ mới, số 1, tháng 4-2000, tr. 71 – 73.

Có thể xem 100 chỗ sai của quyển tự vị này tại bài “Những chỗ dịch sai của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên trong Tự vị Annam Latinh” trong Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2017, tr. 419 – 432.

“Đè trong Truyện Kiều nghĩa là gì?”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 1-1998, tr. 18.

Xuất xứ của thiên chuyên khảo này lại được Sơn Nam ghi như sau: “Revue Indochinoise, quyển XVI, tháng 7 – 12 năm 1911”. (Bến Nghé xưa, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1981, tr. 88, chú thích 16).

Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1979, tr. 186 – 195; Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 79 – 85.

Xin tham khảo Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, quyển thượng, Hà Nội, 1958, tr. 109 – 117.

Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 43.

Xin xem thêm câu 667 Kiến thức ngày nay, số 368, ngày 1-11-2000).

Dẫn theo Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 562.

“The Consonantal System of Old Chinese”, Asia Major, 9.1 (1962), p. 133.

Dẫn theo Hán ngữ đại tự điển, Thành Đô, 1993.

Thông báo Dân tộc học, 2-1973, tr. 41 – 49.

Xem chẳng hạn, Huệ Thiên, “Từ Nguyên của bù nhìn” Thông tin Khoa học & Công nghệ, Thừa Thiên – Huế, số 1-1998, tr. 80 – 84.

Tạp chí Văn học, số 2-1974, tr. 77 – 93.

Xin xem các nghĩa này tại mục “sinh hoạt” và các mục hữu quan trong Từ Nguyên, Từ hải, v.v..

Dẫn theo Hoàng Thị Ngọ, Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999, tr. 154, 161.

Xin đối chiếu âm và nghĩa của chữ đang xét trong Từ Nguyên, Từ hải, Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển, Hán ngữ đại tự điển v.v..

Để cho rõ thêm vấn đề, xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Hà Nội, 1979, tr. 249, 250.

Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 43.

Xem Nguyễn Văn Tài, “Thử bàn về vị trí của tiếng Chứt, tiếng Cuối trong nhóm Việt – Mường”, Dân tộc học, số 2, 1976, tr. 64.

Xem “Về một số từ cổ trong cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa”, Ngôn ngữ, số 3, 1978, tr. 41 – 42.

Xem An Nam dịch ngữ, Vương Lộc giới thiệu và chú giải, Hà Nội – Đà Nẵng, 1995, tr. 133.

Xem sđd, chương 2, mục 2.21, tr. 81.

Tiếng Việt- mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 393.

Xem ser. 1223, a, tr. 314.

Dẫn theo Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, quyển thượng, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr. 109.

Về vấn đề này, xin xem thêm: Huệ Thiên, “Về những địa danh “thuần Việt” thời Hùng Vương”, Thông tin Khoa học & Công nghệ, Thừa Thiên – Huế, số 4-1996, Xuân Đinh Sửu, tr. 18 – 25.

“Bănh” là cách ghi theo Dictionnaire cambodgien – français của J.B. Bernard (Hồng Kông, 1902) và Vocabulaire français – cambodgien et cambodgien -français của M. Moura (Paris, 1878).

Xem L. Wieger, Caractères chinois, Imprimerie de Hien-hien, 1924, p. 666.

L. Wieger, sđd, no.81, p. 210, B.

Xem chẳng hạn, Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 311.

Xem chẳng hạn Nguyễn Tài Cẩn, sđd, tr. 208 – 210.

Xin xem thêm câu 709.

Xin xem thêm ở câu 1051.

Xem bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb. Khoa học Xã hội, 1991.

Niculin, “Kẻ chợ – đọc một số trang trong Sách sổ sang chép các việc”, Tạp chí Văn học, 7-2000, tr. 13.

Niculin, bđd, tr. 14.

Dẫn theo Niculin, bđd, tr. 14.

Những làng cổ có tên là “kẻ” Thế giới mới, số 424,19-2-2001, tr. 35.

Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên ghi “sống nhăn” còn chúng tôi thì viết “sống nhăng” vì nhăng là một từ gốc Tày – Thái, có nghĩa là còn sống, là còn, như có thể thấy ở từ nhằng của tiếng Tày.

Chiều chiều, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 1999, tr 66

Làng xã ngoại thành Hà Nội, Hà Nội, 1985, tr. 116.

Xem Bùi Thiết, sđd, tr. 74 – 75.

Xem Bùi Thiết, sđd, tr. 276.

Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo), Nxb. Giáo dục, 1995, tr. 176 – 177.

Theo cách gọi của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 333.

Proverbs and Common Sayings from the Chinese, New York, 1965, p. 362.

Xem bản in lần thứ tư, Thượng Hải, 1997, tr. 304, mục “Hậu Nghệ” 后羿.

Xem L’ étymologie, P.U.F, Paris, 1972, pp. 11 – 12.

https://www.cyphoma.com/reunion/annonces/pieces-equipements-et- accessoires/enveloppe-en-tres-bonne-etat-roule-que-1-j-dqs.

Kính thiên văn vũ trụ Hubble được tàu con thoi Discovery đưa lên quỹ đạo ngày 25-4-1990. Sự “cận thị” của nó đã được sửa chữa từ ngày 2 đến ngày 13 tháng 12 năm 1993, trong chuyến bay của tàu con thoi Endeavour. Xin chú ý rằng cuộc đàm đạo giữa nhà vật lý vũ trụ Trịnh Xuân Thuận với Jacques Vauthier được xuất bản thành sách năm 1992.

Sđd, tr. 61.

Sđd, tr. 69.

Nguyễn Xiển, sđd, tr. 38 – 41.

Kiến thức ngày nay, số 385.

Đặng Nghiêm Vạn và các tác giả, Các dân tộc tỉnh Gia Lai – Công Tum, Nxb.Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1987, tr. 96 – 97.

Xin xem lại Kiến thức ngày nay, số 391 tr. 50, c.1 và c.2

Xin xem lại cột 1, tr. 50, Kiến thức ngày nay, số 391.

Lời của Lê Mạnh Thát, sđd, tr. 119.

Sđd, tr. 127 – 128.

Đinh Khắc Thuân, bđd, tr. 15.

“Về mối quan hệ Việt – Mường, Tày – Thái qua tư liệu dân tộc – ngôn ngữ học”, Dân tộc học, 3-1978, tr. 15.

Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1979, tr. 27.

La science chinoise et l’Occident, traduit par Eugène Jacob, Editions du Seuil, 1973, p. 115.

Xem “Về mối quan hệ nguồn gốc của các ngôn ngữ nhóm Việt, Mường”, Ngôn ngữ, 1-1979, tr. 49.

Coỏng Túng wả (Quảng Đông thoại): tiếng Quảng Đông. Xin xem thêm Huệ Thiên, “Hằm pà làng và trăm thứ bà giằn”, Kiến thức ngày nay, số 87, 1-7-1992, tr. 19 – 20.

Xem Hà Văn Tấn, Phạm Đức Dương, “Về ngôn ngữ Tiền Việt – Mường”, Dân tộc học, 1-1978, tr. 67.

“Kỉ nhân hay kì nhân”; Ngôn ngữ & Đời sống, 6-2001, tr. 42.

Bđd trên Kiến thức ngày nay, số 89, tr. 44.

Nguyệt san Giác ngộ, số 65, 8-2001, tr. 28 – 30.

Nguyễn Tài Cẩn, sđd, tr. 86.

Kinh Vu lan, Phật tử Hồng Nhật và Hồng Trí ấn tống, 1994, tr. 18 – 20.

Kiến thức ngày nay, số 399, tr. 54.

Kiến thức ngày nay, số 89, tr. 44.

Bản dịch của Thánh kinh Hội tại Việt Nam, Sài Gòn, 1975, tr. 144.

Bản dịch của Thánh kinh Hội tại Việt Nam, Sài Gòn, 1975, tr. 83 – 84, 16:2-4, 8, 13-15, 31.

Xem chẳng hạn, Sử ký của Tư Mã Thiên, Nhữ Thành dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1988, tr. 44.

Xem chẳng hạn, Mario Pei, The Story of Language, New York & Toronto, 1966, p. 72.

Xem bản dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, Tự vị Annam Latinh, Nxb. Trẻ, 1999, tr. 240.

Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb. Khoa học Xã hội, 1991, tr. 61.

Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Hà Nội, 1986, tr. 481.

Xem Từ điển tiếng Việt 1992.

Bế Viết Đẳng và các tác giả khác, Người Dao ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, 1971, tr. 19.

Từ điển tiếng Việt 1992.

Về mot-valise, xin xem Kiến thức ngày nay, số 399, tr. 55, c.1.

Chữ 語 đọc ngữ là danh từ, đọc ngự là động từ.

Cao Xuân Hạo đã viết như sau: “Người Việt nhận diện ra các tiếng tục ngay cả khi không hề có calembour (một kiểu chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm – AC) và trong những ngữ cảnh ít thuận lợi cho việc nhận diện nhất như trong các tên riêng ngoại quốc đa âm tiết chẳng hạn. Những tiếng như cu, đít, ghe ngay trong bối cảnh này cũng bị hiểu như tiếng tục và do đó thường được ghi trẹ đi để tránh cách hiểu đó”. (“Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng”, Ngôn ngữ, số 2-1985, tr. 28).

Xin xem lại ở Kiến thức ngày nay, số 410.

Những khúc ngâm chọn lọc, tập I, Nxb. Giáo dục, 1994, tr. 131, chú thích 13.

Đồng nguyên tự điển, 1997, tr. 344 – 345.

Dẫn theo Truyện Kiều tập chú của Trần Văn Chánh – Trần Phước Thuận – Phạm Văn Hoà, Nxb. Đà Nẵng, 1999, tr. 547.

Tìm tòi & cảm nhận, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2001, tr. 47 – 48.

Xem Cổ sử Việt Nam, Chương IV, tr. 72 – 82 và Lịch sử Việt Nam, quyển thượng, Chương V, tr. 59 – 66.

Xem bản phiên âm và chú giải của Trần Xuân Ngọc Lan, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 155, 157.

Hà Văn Tấn và Hoàng Văn Khoán, “Luyện kim và chế tác kim loại thời Hùng Vương”, Hùng Vương dựng nước, tập 4, Hà Nội, 1974, tr. 205 – 206.

Xem bản dịch của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, Nxb. Trẻ, 1999, tr. 68.

Thế giới mới, số 475, tr. 111 – 112.

Tuổi trẻ chủ nhật, số 40, 1992

Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, bản dịch của Tổ Ngôn ngữ học, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1973, tr. 296.

Thế giới mới, số 478, tr. 93

Xem Carl Darling Buck, A Dictionary of Selected Synonyms in the Principal Indo – European Languages, third edition, 1971, p. 231, art. 4.27.

Ngôn ngữ, số 4, 1991, tr. 1 – 4

Thế giới mới, số 480, tr. 111

“Giao lưu văn hóa Việt – Pháp, những dấu ấn trong ngôn ngữ”, trong Giao lưu văn hóa & ngôn ngữ Việt – Pháp, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr. 55.

Về hai danh từ tiếng Ý này, xin xem lại Kiến thức ngày nay, số 419, tr. 48, c.1.

Theo Thơ Đường, Tản Đà dịch, Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr. 49.

Xem Từ hải, bản tu đính 1989, Thượng Hải, 1997, tr. 2.325.

Xem Từ hải 1989, tr. 2320 hoặc Cổ đại Hán ngữ từ điển, Bắc Kinh, 1998, tr. 574.

Bulletin des amis du Royaume Lao, n⁰ 7-8, 1972, p. 186, n.18.

Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 330 – 331.

Thuý Kiều truyện tường chú, quyển thượng, tái bản lần thứ nhất, Sài Gòn, 1973, tr. 235, chú thích 6.

“Góp ý kiến về vấn đề Hùng Vương”, trong Hùng Vương dựng nước, tập 2, Hà Nội, 1972, tr. 279.

Xin xem bài “Giải cứu tàu Magdalena Oldendorff” trên báo Tuổi trẻ ngày 29-62002.

Giải mã truyện Tây du, bản in mới có sửa chữa và tăng bổ với sự cộng tác của Lê Anh Minh, Nxb. Trẻ, 2001, tr. 44 – 46.

Theo Thơ Đường, Tản Đà dịch, Nguyễn Quảng Tuân biên soạn, Thành phố Hồ Chí Minh, 1989, tr. 82 – 83.

Luận ngữ, Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu, Nxb. Văn học, 1995, tr. 39 – 40.

“Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng”, trong: Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 201.

Cao Xuân Hạo, bđd, tr. 201.

Xem Đồng nguyên tự điển, Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 1997, tr. 115.

Xem sđd, tr. 6, chú thích 6, chẳng hạn.

Những khúc ngâm chọn lọc, tập I, Nxb. Giáo dục, 1994, tr. 131, chú thích 13.

Harper Collins Publishers, Second Edition, 1988, p. 188.

“Chữ húy trong hai bản Kiều Nôm 1871, 1872”, Ngôn ngữ, số 1-2002, tr. 6.

Harper Collins Publishers, Second Edition, 1988.

“Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long”, Sử Địa, số 19-20, 1970, tr. 3.

“Hà Tiên, chìa khóa Nam tiến của dân tộc Việt Nam xuống đồng bằng sông Cửu Long”, sđd, tr. 260.

Xem Vũ Văn Kính, Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr. 34, c.3 và Bảng tra chữ Nôm miền Nam, Hội Ngôn ngữ học Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr. 32, c.3.

Tiếng Việt Văn Việt Người Việt, Nxb. Trẻ, 2001, tr. 209 – 210.

“Một số từ gốc Hoa trong phương ngữ Nam Bộ”, trong Nam Bộ xưa & nay của nhiều tác giả, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh – Tạp chí Xưa & Nay, 1999, tr. 344.

“Về hai chữ hên và xui”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 9-2002, tr. 32.

Xem bđd và cả phần đính chính ở trang cuối của Ngôn ngữ & Đời sống, số 10 2002.

In trong Nam Bộ xưa & nay của nhiều tác giả, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh -Tạp chí Xưa & Nay, 1999.

“Những yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ”, Tạp chí Hán Nôm, số 2-2000, tr. 28.

Xin xem bìa quyển Huỳnh Thúc Kháng tự truyện với dòng thủ bút của chính cụ, sao in tại tr. 31, Xưa & Nay, số 135

Xem ấn bản của Nxb. Khoa học Xã hội, tập 4, Hà Nội, 1993, tr. 595 (tờ 20a, d.6; tờ 20b, d.3, 4, 7, 9).

Xem chẳng hạn, Hán ngữ đại tự điển, Thành Đô, 1993, bộ “thuỷ”, tr. 745.

Kiến thức ngày nay, số 446, tr. 13.

Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, tập 1, 1998, tr. 95 – 96.

Kiến thức ngày nay, số 447, tr. 67.

Kiến thức ngày nay, số 447, tr. 68.

Kiến thức ngày nay, số 447, tr. 68.

Kiến thức ngày nay, số 447, tr. 109.

Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967, tr. 144.

Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967, tr. 222.

Sđd, tr. 342, chú thích 78.

Xem Phan Huy Lê và các tác giả khác, Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, tr. 247.

Xin xem, chẳng hạn; André Crépin. Histoire de la langue anglaise, Paris, 1967, p.70.

Ngôn ngữ, số 11-2002.

Kiến thức ngày nay, số 450, tr. 59.

Ngôn ngữ & Đời sống, số 12-2002, tr. 25 – 27.

“Chân dung tiểu thiền Thuý Kiều”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 10-2002, tr. 22.

Xem chẳng hạn, Nguyễn Tài Cẩn, Một số vấn đề về chữ Nôm, Hà Nội, 1985, tr. 156 – 157, hoặc Lê Văn Quán, Nghiên cứu về chữ Nôm, Hà Nội, 1981, tr. 183.

Về cách hiểu chữ “dệt”, chúng tôi đã có bài nhận xét trên Ngôn ngữ & Đời sống, và cả trên Kiến thức ngày nay, số 400, 401 và 439.

Nguyễn Khắc Bảo, bđd, tr. 22.

Xem Nguyễn Tài Cẩn, sđd, tr. 82 – 83, 224 – 225, 370 – 371.

Thanh Tâm Tài nhân, Truyện Kim Vân Kiều, Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân dịch, Nxb. Hải Phòng 1994, tr. 271.

Về khái niệm này, xin xem lại Kiến thức ngày nay, số 407, ngày 1-12-2001, Chuyện Đông chuyện Tây, tr. 49.

Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 46 – 47.

Xem Kiến thức ngày nay, số 457, tr. 51.

“i.e.” là cách viết tắt tiếng La Tinh “id est” có nghĩa là “tức là”, “nghĩa là”.

Jr. (= Junior) đối với Sr. (= Senior). Jr. thường là tên con trùng với tên cha (Sr.).

Xem Lê Trung Hoa, Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học, Nxb. Khoa học Xã hội, 2002, tr. 39.

Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, tr. 411, chú thích 101.

Harper Collins Publishers, New York, 1971, p. 322.

Dẫn theo Lý Thị Mai, Tao đàn Chiêu Anh Các, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 2003, tr. 51.

Bản dịch do Lương Duy Thứ chủ biên, Nxb. Văn hóa – Thông tin, 1994, tr. 132 -133.

Xem Hoàng Thị Ngọ, Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1999, phần sao in nguyên bản, tờ 18a, hai chữ cuối d.6 và hai chữ đầu d.8.

Dẫn theo Nguyễn Đăng, “Thơ Nôm Bùi Xương Tự”, Nghiên cứu Hán Nôm, 1-1986, tr. 98.

Nguyễn Đức Dương, “Song viết hay rong vát?”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (93)2003, tr. 1-3.

Xem Cổ đại Hán ngữ từ điển của Tổ biên tập Cổ đại Hán ngữ từ điển, Bắc Kinh, 1998, tr. 1393, hoặc Từ hải, bản tu đính 1989, in lần thứ 4, Thượng Hải, 1997, tr. 1944; v.v..

Xem “Song viết hay rong vát?”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (93)-2003, tr. 1 – 3.

Xem Nguyễn Tài Cẩn, “Lại bàn thêm về hai chữ song viết”, Ngôn ngữ, số 1 (164) 2003, tr. 5.

Xin xem tr. 88 ở phần chữ quốc ngữ và tr. 134 ở phần chữ Nôm.

Đào Duy Anh, Hán – Việt từ điển, Minh-Tân, Paris, 1950, “Thơ công khai gởi anh Đào Duy Anh”, tác giả bộ Hán – Việt từ điển.

La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập 1, tr. 461.

Xem Trần Hữu Thung, Thái Kim Đỉnh, Từ điển tiếng Nghệ, Nxb. Nghệ An, 1998, tr. 257.

Xem chẳng hạn, Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái, Đặng Nghiêm Vạn chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 11, 14, 17, 19, v.v..

Trần Văn Giàu (chủ biên), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập I, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, tr. 231.

Anachronism: sai sót hoặc mâu thuẫn về niên đại (lịch sử) – Chúng tôi chưa tìm được một cách dịch thật gọn bằng tiếng Việt.

Chúng tôi xin mượn hình ảnh của Cao Xuân Hạo trong bài “Bảy khúc biến tấu trên một chủ đề của Khổng Phu Tử”, bàn về chủ đề “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.”, đăng trên một kỳ Văn nghệ (trung ương), năm 2003.

Theo truyền thống là từ năm 722 tr. CN đến năm 481 tr. CN.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3