Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 911 - 922

§ 911. Kiến thức ngày nay, số 461, ngày 1-6-2003

ĐỘC GIẢ: “Tin thế giới thu qua vệ tinh” trên HTV7 tối 28-4-2003 (buổi 19g45) có phát hình cái gọi là việc Mỹ đã phát hiện được nơi Irak cất giấu vũ khí giết người hàng loạt hay vũ khí sinh học gì đó mà lại có cả “những khẩu súng bốc khói”. Xin cho biết “súng bốc khói” là thứ vũ khí gì.

AN CHI: Đó là thứ mà người Mỹ gọi là “smoking gun”. Dĩ nhiên là nếu dịch từng chữ một (kiểu như first name là “tên đầu tiên”)* thì smoking gun sẽ là “súng (gun) bốc khói (smoking)”. Còn cái nghĩa đích thực của danh ngữ smoking gun trong lối nói thông thường ở Mỹ thì lại là “tang chứng hiển nhiên”, chứ chẳng phải là bất cứ thứ vũ khí nào cả.

§ 912. Kiến thức ngày nay, số 461, ngày 1-6-2003

ĐỘC GIẢ: Tôi có đọc câu hỏi của ông Phạm Đức Nhuận, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh và câu trả lời của ông trên Kiến thức ngày nay, số 454. Câu hỏi cũng sát mà câu trả lời cũng hay. Nhưng tôi cũng xin phép hai ông để thử đưa ra ý kiến riêng là có thể hiểu từ “trước” của bác Tô Hoài như trong mấy thí dụ sau:

– Nhân dân Palestine rất phẫn nộ trước những cuộc tấn công tàn bạo của Israel;

– Bộ y tế đã có những biện pháp ngăn ngừa hữu hiệu trước nguy cơ lây lan của dịch SARS; v.v.

Nghĩa là phải chăng ta có thể hiểu chữ “trước” đó với khái niệm về không gian chứ không phải về thời gian?

AN CHI: Giới từ trước có thể đi chung (và đứng trước) danh từ hoặc danh ngữ để tạo nên ngữ giới từ chỉ một trong các loại ý nghĩa sau đây:

1. Nơi chốn;

2. Thời gian; hoặc

3. Tình thế.

Muốn biết ngữ giới từ đó chỉ loại nào trong ba loại ý nghĩa trên đây, ta phải xét đến nghĩa của danh từ (hoặc ngữ danh từ) đi liền theo sau giới từ trước. Chẳng hạn, trong câu:

“Hàng ngàn người Indonesia đã biểu tình phản đối chiến tranh trước đại sứ quán Mỹ ở Jakarta”.

thì, căn cứ vào nghĩa của đại sứ quán, ta có thể khẳng định rằng: “trước đại sứ quán Mỹ ở Jakarta” là một ngữ giới từ chỉ nơi chốn (mà ông gọi là “khái niệm về không gian”).

Chứ trong câu nói của Tô Hoài (xin xem lại Kiến thức ngày nay, số 454, tr. 55, c.2-3) thì vì thời kỳ hẳn hoi và luôn luôn là một danh ngữ chỉ khái niệm về thời gian nên ta không có cách nào để hiểu được rằng “trước thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp đô hộ” lại là một ngữ giới từ chỉ nơi chốn cả.

Còn trong hai câu mà ông đưa ra thì “trước những cuộc tấn công tàn bạo của Israel” và “trước nguy cơ lây lan của dịch SARS” lại không phải là những ngữ giới từ chỉ nơi chốn. Đó là những cấu trúc chỉ tình thế.

Ngữ giới từ (và giới từ trước) chỉ tình thế khác với ngữ giới từ chỉ nơi chốn và ngữ giới từ chỉ thời gian ở điểm căn bản sau đây: (ngữ) danh từ của loại thứ nhất bao giờ cũng chỉ nguyên nhân gây ra hành động hoặc cảm xúc do (ngữ) vị từ hữu quan biểu hiện còn (ngữ) danh từ của hai loại sau thì lại hoàn toàn vô can đối với hành động hoặc cảm xúc đó. “Những cuộc tấn công tàn bạo của Israel “làm cho” nhân dân Palestine phẫn nộ “còn” nguy cơ lây lan của dịch SARS “buộc Bộ y tế phải” có biện pháp ngăn ngừa hữu hiệu”. Chứ “đại sứ quán Mỹ ở Jakarta” không phải là nguyên nhân của cuộc biểu tình đã nói mà “thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp đô hộ” cũng chẳng phải là nguyên nhân của việc nhà văn Tô Hoài “sinh ra và lớn lên”.

Tóm lại, ngữ giới từ đang xét trong câu nói của nhà văn Tô Hoài chỉ có thể là một cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa chỉ thời gian mà thôi. Trong cấu trúc đó, nếu ta vẫn giữ lại giới từ trước thì tức là ta muốn nói hoặc thừa nhận rằng cho đến thời điểm đang xét, nhà văn Tô Hoài đã thọ bách niên.

Còn nếu ta muốn tránh một sự hiểu nhầm như thế thì chỉ có cách thay “trước” bằng “trong” như chúng tôi đã gợi ý trên Kiến thức ngày nay, số 454 mà thôi.

§ 913. Kiến thức ngày nay, số 461, ngày 1-6-2003

ĐỘC GIẢ: Tại sao ở miền Nam – còn ở miền Trung và miền Bắc thì ít thấy, khi người nhà qua đời, người ta thường đặt trước quan tài hoặc bàn thờ một tấm vải có viết chữ trịnh 奠. Xin cho biết ý nghĩa của chữ này.

AN CHI: Chữ mà ông đã nêu không phải là “trịnh” 鄭 mà là điện 奠. Điện là tiến cúng, hoặc phẩm vật tiến cúng. Chính vì có nghĩa như thế nên nó mới hiện diện một cách trang trọng ở giữa tấm quần bàn, thường là bằng vải màu trắng, treo trước bàn tụng (từ mặt bàn trở xuống) để “thông báo” rằng chiếc bàn đó là nơi bày biện các phẩm vật dùng để cúng cho người vừa quá cố.

Tập tục này ở miền Nam là do ảnh hưởng của người Hoa mà ra, nghĩa là một ảnh hưởng hậu kỳ và riêng biệt ở miền Nam chứ không phải đã có từ thời Bắc thuộc hoặc từ những cuộc chiếm đóng tạm thời của quân Minh hoặc quân Thanh.

§ 914. Kiến thức ngày nay, số 461, ngày 1-6-2003

ĐỘC GIẢ: Người đàn bà góa chồng gọi là quả phụ còn người đàn ông góa vợ thì gọi là gì?

AN CHI: Ta vẫn thường nghe bốn tiếng “quan, quả, cô, độc”. Quan là góa vợ; quả là góa chồng; cô là không cha mẹ; độc là không con cái. Người đàn ông góa vợ gọi là quan phu.

§ 915. Kiến thức ngày nay, số 461, ngày 1-6-2003

ĐỘC GIẢ: Xin giải thích giúp chữ quan trong “quan, hôn, tang, tế”, một trong bốn việc quan trọng của đời người nay không thấy nói đến nữa.

AN CHI: Trước nhất, xin nói rằng quan là một cách đọc sai vì đúng ra phải là quán. Chữ 冠 có hai âm: đọc thành quan, nó có nghĩa là (cái) mũ; đọc thành quán, nó có nghĩa là đội mũ. Vậy với thanh bình, nó là danh từ còn với thanh khứ thì nó là động từ. Trong trường hợp đang xét, nó là động từ. Vì vậy nên phải đọc thành quán. Quán lễ, một trong bốn thứ lễ (quán lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ) là “lễ gia quan”, nghĩa là lễ đội mũ.

Về thứ lễ này, sách Lịch sử văn hóa Trung Quốc do Đàm Gia Kiện chủ biên (Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang và Phan Văn Các dịch, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993) đã nói rõ như sau:

“Quán lễ thực chất là một thứ lễ thành niên. Trước đây đã có học giả chỉ ra rằng rất nhiều dân tộc ở xã hội nguyên thủy đều có lễ thành niên. Nam nữ thanh niên đến lứa tuổi quy định phải cử hành những nghi thức nhất định mới được thừa nhận là thành viên hoàn toàn của thị tộc. Quán lễ chính là dấu vết còn lại của loại nghi thức đó thời xa xưa.

Theo các lễ thư ghi chép, đàn ông thời cổ đại hai mươi tuổi thì làm quán lễ. Trong sách Nghi lễ có thiên Sĩ quán lễ trình bày rõ nghi tiết quán lễ của tầng lớp quan viên. Quán lễ cử hành ở tông miếu. Bố của chàng thanh niên sắp được gia quan (đội mũ trưởng thành) phải dùng “phệ” (một phép bói) để quyết định ngày làm lễ, và qua “phệ” phải quyết định mời vị khách nào gia quan cho con mình. Sau khi xác định thì báo ngày cho vị khách ấy. Đến hôm làm lễ, sáng sớm chuẩn bị mọi thứ đâu vào đấy, chàng thanh niên sắp gia quan đứng ở trong phòng. Ông bố mời khách vào cửa, vào miếu, đứng vào chỗ, chàng thanh niên ra khỏi phòng, rồi đứng vào chỗ. Sau đó làm lễ. Khách mặc vào cho chàng thanh niên những phục sức quy định, làm tất cả ba lần, gọi là thủy gia (mặc lần đầu), tái gia (mặc lần thứ hai) và tam gia (mặc lần thứ ba); sau đó chúc rượu chàng. Chàng thanh niên xuống thềm phía tây, vào bái kiến mẹ chàng. Sau khi gặp mẹ, chàng trở lại phía đông của thềm tây, để khách đặt tên cho. Thế là lễ thành, bố chàng tiễn khách ra cổng miếu.

Chàng thanh niên được gia quan gặp anh chị em ruột rồi sau đó đi chào vị tiên chỉ cùng các chức sắc của làng. Bố chàng thết rượu các vị khách được mời, tặng năm cuộn lụa và hai tấm da hươu, cuối cùng, kính cẩn tiễn khách ra cổng”. (Sđd, tr. 32 – 33)

Cứ như trên thì gia quan (= quán) là đội mũ còn quán lễ là lễ đội mũ; danh từ (quan), động từ (quán), phân biệt rất rõ ràng. Tiếc rằng một số nhà làm tự điển lại nhầm lẫn nên đã biến quán lễ thành “quan lễ”, như Đào Duy Anh (Hán – Việt từ điển, quyển hạ, Minh Tân, Paris, 1950, tr. 150), Nguyễn Quốc Hùng (Hán – Việt tân từ điển, Khai Trí, Sài Gòn, 1975, tr. 542), v.v.. Cũng do một sự nhầm lẫn tương tự nên mới có lối nói “quan, hôn, tang, tế”, như ông đã nêu trong câu hỏi và như có thể thấy trong một số sách, báo khác.

Vậy, xin mạn phép đề nghị đọc bốn chữ đang xét thành:

“Quán, hôn, tang, tế”.

cho đúng chữ, đúng nghĩa.

§ 916. Kiến thức ngày nay, số 462, ngày 10-6-2003

ĐỘC GIẢ: Vào nhà thờ, thấy trên thập tự giá có chữ INRI. Hỏi, được một vị linh mục cho biết đó là những chữ viết tắt của “Iesu Nazareth Rex Iudeorum”, nghĩa là “Giêsu, vua của xứ Nazareth”.

Theo tôi biết, trong tiếng La Tinh, tiếng Anh, tiếng Pháp, chỉ có hai chữ “j ” và “g” (trước nguyên âm) mới đọc uốn lưỡi. Khi phiên âm sang tiếng Việt phải viết bằng “gi”. Còn các chữ “z” và hai nguyên âm sát nhau thì khi phiên âm phải dùng chữ “d”, thí dụ: zéro (dê-rô), billard (bi-da), you (du). Cũng theo qui luật tương tự, chữ “s” khi phiên âm sang tiếng Việt phải viết thành “x”.

Như vậy, tên Đức Giáo chủ Thiên chúa giáo, tiếng Việt phải viết là Dêxu mới đúng. Hoặc, để khỏi lẫn lộn giữa “d” và “đ”, thì viết Dzêxu.

Kính mong ông cho biết ý kiến.

AN CHI: “Iesu Nazareth Rex Iudeorum” là một cách viết thiếu chính xác, mà cũng không có nghĩa là “Giêsu, vua của xứ Nazareth”. Cách viết đúng là “Iesus Nazarenus Rex Iudaeorum”, có nghĩa là “Jesus, người xứ Nazareth, vua của người Do Thái”. Tiếng Pháp thường dịch là “Jésus, le Nazaréen, roi des Juifs” còn tiếng Anh là “Jesus of Nazareth, King of the Jews”.

Bốn tiếng này thấy trong sách Phúc âm theo Thánh Jean (John), 19:19. Sách Tân-ước, bản dịch của Hội Ghi-đê-ôn Quốc-tế, 1965, dịch bốn từ đó là:

“Jêsus người Na-xa-rét, vua dân Do-thái”.

Bản dịch của Thánh-kinh Hội tại Việt Nam, Sài-gòn, 1975 dịch là:

“Jêsus người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa”.

Còn Kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước của Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) thì dịch là:

“Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do-thái”.

Chúng tôi xin mạn phép đưa ra một nhận xét nhỏ về cách dịch của nhóm này.

Nazarenus có nghĩa là “thuộc về Nazareth”, “xuất xứ từ Nazareth”; nên tiếng Anh mới dịch thành “of Nazareth”; và vì đối tượng liên quan đến Nazareth ở đây lại là con người nên tiếng Pháp mới dịch thành “le Nazaréen” còn tiếng Việt (trong hai bản trước) là “người Na-xa-rét”. Riêng nhóm đang nói thì lại dịch thành “Giê-su Na-da-rét”. Một vài tác giả khác cũng dịch như thế; chẳng hạn Nguyễn Đình Diễn, tác giả quyển Từ điển Công giáo Anh – Việt (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2002), tại mục “JesusI” cũng đã ghi: “Giêsu Na-gia-rét”.

Đây là một cách diễn đạt mơ hồ vì nó dễ gây hiểu lầm rằng “Na-da(gia)-rét” là họ của Đức Jesus, kiểu như Hugo là họ của Victor (trong Victor Hugo), Dickens là họ của Charles (trong Charles Dickens), Gogol là họ của Nicolaï (trong Nicolaï Gogol), v.v..

Vậy để cho độc giả khỏi hiểu lầm rằng trong “Giê-su Na-da(gia)-rét” thì “Na-da(gia)-rét” là họ của Đức Jesus – điều này rất nguy hiểm – có lẽ ta nên đổi thành “Giê-su xứ Na-da(gia)-rét” hoặc “Giê-su người Na-da(gia)-rét” mới phải.

Về phần phát âm và phiên âm, chúng tôi xin lưu ý ông rằng chữ “j” La Tinh không giống như chữ “j” của Anh hoặc của Pháp; mà ngay chữ “j” của Anh và chữ “j” của Pháp cũng ghi những phụ âm khác nhau.

Của Pháp là phụ âm [ʒ], của Anh là phụ âm [dʒ] trong khi của La Tinh thì lại là bán nguyên âm [j] mà người Mỹ thích ghi bằng ký hiệu [y] .

Trong tiếng Pháp “g” chỉ đọc “uốn lưỡi”(thành [ʒ] giống “j”) khi nó đứng trước “e” và “i” chứ không phải “trước nguyên âm” nói chung (vì trước “a”, “o”, “u” thì đó là [g]). Còn trong tiếng Anh thì “g” trước “e” và “i” không phải bao giờ cũng đọc “uốn lưỡi” (thành [dʒ]) vì nó còn có thể là “g” “cứng”(hard) như trong gift (quà, tặng phẩm), get (được, có được, v.v.), v.v.. Mà “j” cũng không phải luôn luôn là [dʒ] vì, cá biệt, nó còn có thể là [h] như trong jacal (một loại nhà nhỏ vách đất mái cỏ của người Mexico), javelina (một giống lợn lòi châu Mỹ), jota (một vũ điệu Tây Ban Nha), v.v.; là [j] như trong jarl (thủ lĩnh ở Bắc Âu thời cổ), jarovize (xuân hoá), và [ʒ] trong hàng loạt từ mượn thẳng từ tiếng Pháp.

Về mối quan hệ (trong phiên âm) giữa “z” của Pháp và Anh với “d” của tiếng Việt thì “d” chỉ thể hiện “z” khi nó được phát âm theo phương ngữ Bắc Bộ (thành [z]) chứ không phải phương ngữ Nam Bộ (thành [j]). Trong các thí dụ mà ông đã nêu thì với dê-rô (zéro), “d” là [z] (của Bắc Bộ) nhưng với bi-da (billard) và du (you), thì đó phải là [j] (của Nam Bộ). Nghĩa là trong mấy thí dụ của mình, ông đã dùng chữ “d” để phiên cả phụ âm [z] và bán nguyên âm [j ]. Mà như thế thì không nhất quán.

Sự không nhất trí giữa mọi người trong quan niệm phiên âm hiện nay cũng gây ra một tình trạngkhông nhất quán trong phiên âm, như có thể thấy một cách “đại trà” trên sách báo. Vì vậy nên, trước mắt, chúng tôi cho rằng nên giữ nguyên dạng nhân danh và địa danh của các ngôn ngữ được ghi bằng chữ cái La Tinh. Đối với một số ngôn ngữ khác như Nga, Hy Lạp, v.v. thì chuyển tự sang chữ cái La Tinh. Còn đối với các ngôn ngữ hoặc quá xa lạ hoặc khó chuyển tự thì theo cách phiên âm trên sách báo bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh.

Xin tạm trình bày sơ lược như trên còn trở lại với ngữ danh từ Iesus Nazarenus thì chúng tôi xin dịch và phiên như sau:

“Jesus, người của xứ Nazareth”, nói gọn hơn thì là “Jesus xứ Nazareth” hoặc “Jesus, người Nazareth”.

§ 917. Kiến thức ngày nay, số 462, ngày 10-6-2003

ĐỘC GIẢ: Tôi xin có ý kiến bổ sung vào vấn đề tên họ trong tiếng Anh trên Kiến thức ngày nay, số 457, tr. 51 – 52 như sau:

Ngoài first name (given name, Christian name, forename) và last name (family name, surname) ra, còn có full name (tên họ đầy đủ) và middle names (các tên đệm). Cuối phần ghi chú của mục từ “name”, trong Oxford Advanced Learner’s Dictionary, lần xuất bản thứ 5, in năm 1995, có câu:

“Your full name is all the names you have, including your middle names (i.e.* other names your parents gave you) which you do not say very often”.

(Tên họ đầy đủ của bạn là tất cả các tên và họ mà bạn có, gồm cả các tên đệm của bạn (nghĩa là các tên khác mà cha mẹ đặt cho bạn), các tên đệm này thường ít khi bạn nói đến.)

Tên đệm (middle name) có thể là một như Luther trong Martin Luther King, Jr.* hoặc hơn một như Edward Burghardt trong William Edward Burghardt Du Bois (thường viết tắt là “W.E.B. Du Bois”). Đó là tên của hai lãnh tụ da đen đấu tranh cho quyền công dân của người da đen ở Mỹ.

AN CHI: Khi thảo câu trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 457, chúng tôi đã có đắn đo và quyết định dẫn Oxford Advanced Learner’s Dictionary (OALD), Fourth Edition 1989, Fifth Impression 1992 cho gọn vì chúng tôi nghĩ rằng chỉ cần đặt first name trong thế đối lập với last name (họ) thì cũng đã đủ để khẳng định rằng first name chỉ là “tên” (chứ không phải “tên đầu tiên”) rồi. Chứ nếu cần nêu thêm middle name(s), thì OALD, Sixth edition 2000 (4th impression 2002) còn dành riêng một đoạn rõ ràng hơn cho khái niệm này chứ không lồng vào full name để giảng trong ngoặc đơn như ở ấn bản năm 1995 mà ông đã dẫn. Ấn bản 2002 của OALD đã cho như sau:

“Your middle name(s) = any name your parents gave you other than the one that is placed first. The initial of this name is often used as part of your name, especially in America: John T. Harven”.

((Các) tên đệm của bạn = bất cứ cái tên nào cha mẹ đặt cho bạn ngoài cái tên đứng đầu. Chữ cái (con chữ) đầu của cái tên ấy thường dùng làm một phần cho họ tên của bạn, đặc biệt là ở Mỹ, thí dụ: John T. Harvey.)

Ngoài ra, chúng tôi cũng xin phép ông để nói thêm với bạn đọc rằng dịch là chuyển tải ý tưởng của nguyên ngữ (ngoại ngữ) sang bản ngữ (tiếng mẹ đẻ) theo đặc điểm từ vựng và/ hoặc ngữ pháp của bản ngữ chứ không phải là áp đặt đặc điểm về cấu trúc của tiếng nước ngoài vào tiếng mẹ đẻ. Chính vì thế nên first name chỉ là “tên” hoặc “tên chính” chứ không phải “tên đầu tiên” còn middle name là “tên đệm” hoặc “tên phụ” chứ không phải “tên (ở) giữa”. Cũng như trong phần câu “the initial of this name is often used as part of your name” thì chữ “name” trước chỉ là “tên” nhưng chữ “name” sau thì lại phải là “họ (và) tên” mới đúng và đủ ý.

§ 918. Kiến thức ngày nay, số 463, ngày 20-6-2003

ĐỘC GIẢ 1: Tôi đã đọc cuốn Nhận thức mới về đất Hà Tiên của ông Trương Minh Đạt do tạp chí Xưa & Nay và Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2001, trong đó có bài “Hà Tiên – Điểm cư trú xưa của người Việt cổ” mà ông đã phê phán trên Kiến thức ngày nay, số 460, tr. 51 – 53. Bài viết của Trương Minh Đạt rất công phu mà ông chỉ đưa ra có “ba điểm chính” để phê phán trong ba trang Kiến thức ngày nay thì có tương xứng với bài của tác giả hay không?

Tôi chỉ vì khách quan mà đặt vấn đề như vậy chứ không thiên hẳn về bên nào cả. Mong ông vui lòng cho biết thêm cao kiến.

ĐỘC GIẢ 2: Trên Kiến thức ngày nay, số 460, nhân nói về bài của ông Trương Minh Đạt, ông có nhắc đến bài báo của ông Lê Trọng Khánh rồi viết: “Rất tiếc là bài báo này thì lại quá dễ dãi về mặt khoa học, đặc biệt là về mặt ngữ học mà nếu có dịp thì chúng tôi sẽ phân tích kỹ hiến bạn đọc”.

Ông đã “hứa” nhiều chuyện rồi và tôi biết là do chuyện nọ “đuổi” chuyện kia nên có chuyện ông đã quên luôn. Vậy lần này xin ông nói luôn về bài báo đó cho sốt dẻo (và cho khỏi quên).

AN CHI: Chúng tôi kết hợp cách đặt vấn đề của hai ông để trả lời chung như sau.

Bài “Những tín hiệu thu nhận từ bản lược đồ địa danh -ngôn ngữ Việt cổ – Bước đầu góp phần vào việc tiếp cận một số vấn đề lịch sử cổ đại” của Lê Trọng Khánh, đăng trên Nghiên cứu lịch sử, số 4 (263), tháng 7-8 năm 1992, như đã nói, là một bài quá dễ dãi về mặt khoa học, đặc biệt là về mặt ngữ học nên nó không thể chống đỡ được cho cái luận điểm quá quan trọng mà tác giả muốn đưa ra.

Tác giả Lê Trọng Khánh muốn “thử nghiệm ứng dụng địa danh học vào nghiên cứu lịch sử cổ đại” nhưng lại chưa quen với thường thức ngữ học nên mới viết những câu như:

“Ngôn ngữ đã tạo nên lớp địa danh: Pù (núi), Tà (sông) vẫn tồn tại trong hệ thống từ cơ bản của tiếng Việt Mường, Tày Thái và các ngôn ngữ khác cùng hệ thống”. (Bđd, tr. 34)

Một câu chỉ dài 35 chữ mà đã có ít nhất đến sáu chỗ sai:

Thứ nhất, ai đã thực sự làm quen với ngữ học cũng phải biết rằng những ngôn ngữ bà con (xa hoặc gần) với nhau là những ngôn ngữ cùng hệ, nghĩa là cùng ngữ hệ, chứ không phải cùng “hệ thống”. Hệ thống là một cách nói dành riêng để chỉ từng ngôn ngữ một trong cái tổng thể của nó. Và người ta nói rằng ngôn ngữ là một hệ thống của những hệ thống; đó là hệ thống ngữ âm, hệ thống từ vựng và hệ thống ngữ pháp.

Thứ hai, ngữ đoạn danh từ “lớp địa danh Pù (núi), Tà (sông)” là một cách nói vô nghĩa. Người làm ngữ học nghiêm túc không thể diễn đạt dễ dãi như thế vì cái mà tác giả này muốn nói đến lại là “lớp địa danh hai âm tiết (cá biệt có thể hơn hai) mà âm tiết thứ nhất là Pù (núi) hoặc Tà (sông)”. Chứ chỉ có “Pù” hoặc “Tà” thì thành thế nào được địa danh, càng không thể thành được cả một “lớp địa danh”.

Thứ ba, khi một ngôn ngữ nguyên sơ (ngôn ngữ “mẹ”) đã phân hóa thành các ngôn ngữ nhánh (ngôn ngữ “con”) thì bản thân nó không còn tồn tại nữa. Chẳng hạn khi ngôn ngữ Germanic nguyên sơ đã phân hóa thành tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hà Lan, tiếng Thụy Điển, tiếng Đan Mạch, tiếng Iceland, v.v. thì nó không còn tồn tại nữa vì chính nó đã “hóa kiếp” thành những ngôn ngữ nói trên rồi. Vậy thì làm sao ngôn ngữ nguyên sơ nào đó của tác giả Lê Trọng Khánh lại còn có thể tồn tại được trong “tiếng Việt Mường, Tày Thái và các ngôn ngữ khác cùng hệ thống”?

Thứ tư là vì, như đã nói, ngôn ngữ là một hệ thống của những hệ thống (ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp) cho nên làm sao một ngôn ngữ “mẹ” lại có thể tồn tại chỉ trong từ vựng của các ngôn ngữ “con”, mà lại chỉ tồn tại trong “hệ thống từ cơ bản”, nghĩa là chỉ trong phần cốt lõi của từ vựng mà thôi?

Thứ năm là tác giả này đã sai khi gắn kết “lớp địa danh Pù (núi), Tà (sông)” vào “hệ thống từ cơ bản của tiếng Việt Mường, Tày Thái (…)” vì địa danh không nằm trong từ vựng, càng không phải là từ vựng cơ bản.

Thứ sáu là ta cũng không thể tìm ra được từ “pù” (núi) và từ “tà” (sông) trong từ vựng của tiếng Việt Mường, như tác giả này đã nói trừ phi ta dùng ý chí của mình để tưởng tượng ra.

Với những cái sai sơ đẳng như thế về ngữ học thì làm sao tác giả có thể hy vọng đưa việc “ứng dụng địa danh học vào việc nghiên cứu lịch sử cổ đại”? Nếu đi sâu vào mặt phương pháp luận thì còn có nhiều điều đáng nói hơn nữa. Ông Trương Minh Đạt đã dựa vào một bài viết như thế để đưa ra “nhận thức mới” của mình. Tiếc rằng cách lập luận của ông Trương Minh Đạt chẳng những không khác gì của ông Lê Trọng Khánh về tính chất, mà mức phiêu lưu thì lại càng cao hơn. Sau đây là một số dẫn chứng.

Lê Trọng Khánh đã lăng-xê cái khái niệm “ngôn ngữ (hoặc tiếng) Malayo” đến 19 lần trong bài của mình. Ông Trương Minh Đạt ngỡ rằng đó là một ngôn ngữ (hoặc nhóm ngôn ngữ) có thật ở Đông Nam Á nên đã ứng dụng “nguyên xi” cái cách diễn đạt đó vào bài của mình (Xem sđd, tr. 11, 18). Thực ra thì Malayo là thành tố thứ nhất trong tên của ngữ hệ Malayo-Polynesian, (mà có tác giả cho là một phân hệ của ngữ hệ Austronesian). Malayo-Polynesian là một cấu trúc ghép đẳng lập gồm có hai thành tố Malay và Polynesian, nối với nhau bằng hình vị “o” (mà có tác giả cho rằng có nghĩa là “và”) gắn vào thành tố trước, kiểu như Franco-Prussian (Pháp-Phổ), Greco-Roman (Hy-La), Tibeto-Burman (Tạng-Miến), v.v.. Nếu tách ra khỏi cấu trúc ghép thì yếu tố thứ nhất phải trở lại hình thái bình thường của nói: Franco → French, Greco → Greek, Tibeto → Tibetan, v.v.. Cũng vậy, Malayo sẽ trở lại hình thái nguyên thủy của nó là Malay. Vậy ta chỉ có ngôn ngữ (hoặc các ngôn ngữ) Malay – mà tiếng Việt đã có sẵn hai tiếng Mã Lai để dịch – chứ chẳng làm gì có ngôn ngữ (hoặc các ngôn ngữ) “Malayo” như ông Lê Trọng Khánh đã lăng-xê rồi ông Trương Minh Đạt đã nói theo! Đó là dẫn chứng thứ nhất.

Sau đây là dẫn chứng thứ hai. Trong nguyên văn của mình, Lê Trọng Khánh đã viết: “Ngôn ngữ đã tạo nên lớp địa danh: Pù (núi), Tà (sông) vẫn tồn tại trong hệ thống từ cơ bản của tiếng Việt Mường, Tày Thái (…)” (Bđd, tr. 34). Tuy đây là một câu có đến 6 chỗ sai (như đã phân tích) nhưng riêng cách mệnh danh “tiếng Việt Mường”, “(tiếng) Tày Thái” thì lại là một cách diễn đạt chính xác (Việt đi với Mường, Tày đi với Thái), nghĩa là đúng với sự phân định ngữ hệ mà mọi người đều biết. Thế nhưng khi đưa vào bài của mình, thì lần đầu, ông Trương Minh Đạt lại viết thành “Tiếng Việt, Mường, Tày, Thái” (Sđd, tr. 11) với ba dấu phẩy; lần thứ hai, ông lại viết “tiếng Việt – Mường – Tày- Thái” (Sđd, tr. 17), với ba dấu nối. Người làm ngôn ngữ học so sánh nghiêm túc không bao giờ dùng dấu câu một cách tùy tiện như thế. Dấu phẩy dùng để liệt kê các ngôn ngữ cùng chi, cùng ngành, v.v. còn dấu nối thì lại dùng để nối tên của hai ngôn ngữ (hoặc nhóm ngôn ngữ) đại diện cho một ngành hoặc một chi. Và trong ngôn ngữ học lịch sử chúng tôi chưa bao giờ thấy tên của bốn ngôn ngữ kết hợp với nhau bằng ba dấu nối theo kiểu mà ông Trương Minh Đạt đã sáng tạo.

Sau đây là dẫn chứng thứ ba trực tiếp đi vào phương pháp lịch sử – so sánh để cho thấy bài của ông Trương Minh Đạt có một cái “sườn” rất dễ gãy.

Lê Trọng Khánh đưa ra yếu tố “pù” và cho biết rằng “tài liệu đã thu được qua việc khảo sát điền dã, thư tịch cổ và bản đồ phạm vi phân bố hệ thống địa danh cổ có thành tố Pu, Pù (núi) rất rộng từ vùng Lưỡng Việt (Quảng Đông, Quảng Tây – Trung Quốc) cho đến tận miền Đông Nam Bộ (Xem Bđd, tr. 33). Rất tiếc rằng ta khó lòng kiểm chứng hàng loạt địa danh mà Lê Trọng Khánh cho là có yếu tố “Pù” ở Lưỡng Việt: yếu tố này được viết bằng chữ (hoặc những chữ) nào thì ông không hề cho biết; từng địa danh một nằm ở tọa độ nào thì ông cũng không hề cho hay. Đến như những địa danh ở miền Đông Nam Bộ mà ông đã nêu (như “Pù Đốp”, “Pù Bông”, “Pù Gia Mập”, v.v.) thì dân Nam Bộ không xài “p” mà chỉ nói bằng “b” (Bù Đốp, Bù Gia Mập, v.v.); đồng thời bù cũng không có nghĩa là “núi”, mà là “làng”*. Cách đây hơn 80 năm, trong Le langage (Paris, 1921, p. 360), J. Vendryes đã cảnh báo rằng:

“Tous les sosies ne sont pas des parents”.

(Không phải tất cả những kẻ giống hệt nhau đều là bà con (với nhau)).

Có phải ai cũng có thể dễ dàng trở thành bà con với người khác một cách dễ dãi như thế đâu. Thế nhưng ông Trương Minh Đạt còn dễ dãi hơn cả ông Lê Trọng Khánh khi ông kết nối yếu tố “pu/pù” của tác giả này với những “phù nông” của Mã Lai và “phnom” của Khmer (Xem sđd, tr. 25). Nghĩa là ông chỉ cần “trông mặt mà bắt hình dong” chứ không thiết gì đến ngữ âm học lịch sử và/hoặc phương pháp so sánh. Ông mặc nhận rằng ở đây phù trong phù nông (sic) của Mã Lai có “bà con” với ph- trong phnom của Khmer. Thực ra, nếu phnom có thể “bung ra” thành phù nông (ph- > phù) thì phù cũng chỉ là một tiền âm tiết, nghĩa là một âm tiết lướt và phù nông có mô hình trọng âm [01] nên cái âm tiết được “nhấn” phải là nông. Chứ cái âm tiết lướt phù kia thì có nghĩa lý gì mà đem nó ra để so sánh. Huống chi người Mã Lai chỉ nói gunong chứ có bao giờ nói “phù nông”!

§ 919. Kiến thức ngày nay, số 464, ngày 1-7-2003

ĐỘC GIẢ: Tôi xin hỏi về hai câu 267 – 268 trong Truyện Kiều, theo bản Đào Duy Anh:

Thẳm nghiêm kín cổng cao tường

Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.

Xét về mặt đối ý (hô, ứng tương hợp), tại sao không “kín cống” mà lại “kín cổng”? Phải “kín cống” mới “cạn dòng lá thắm”, cũng như “cao tường” mới “dứt đường chim xanh” chứ.

AN CHI: Trong hai bản Kiều Nôm cổ nhất là Liễu Văn Đường 1871 và Duy Minh Thị 1872, cũng như trong bản Nôm đầu thế kỷ XX là Kiều Oánh Mậu 1902 thì chữ thứ tư của câu 267 là ^. Nguyễn Tài Cẩn đã có nhận xét ngắn gọn về cách đọc chữ này như sau:

“Có thể đọc cống hoặc cổng. Nhưng theo Tản Đà, đọc cống thì hợp lý hơn: kín cống thì mới cạn dòng lá thắm được”*.

Tản Đà đã nói như thế. Nguyễn Tài Cẩn chỉ thuật lại mà không bình phẩm nhưng thực tế ông cũng đã chọn cách đọc này cho phần phiên âm của mình ở trang 90. Còn chúng tôi thì lại mạo muội cho rằng nếu cống mà kín thì dòng sẽ không cạn; nó sẽ tràn, sẽ ngập, hoặc sẽ trào ra ở bất cứ chỗ nào nước có thể thoát đi được. Nói cho đúng ra thì cái sự “cạn dòng” chỉ có thể là kết quả của sự khô nước, ít nhất cũng là sự thiếu nước mà thôi, chứ làm sao lại có thể do sự “kín cống” gây ra cho được? Minh chứng cho điều vừa nói là cái sự ngập đường trong mùa mưa tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chỉ do cái sự “kín cống”, nghẹt cống, thiếu cống mà ra. Huống chi, đã không làm thì thôi, chứ đã làm thì người ta phải làm cống “hở” (cho nước thoát đi) chứ ai lại làm cống “kín”?

Vậy cái chữ “cống” của thi sĩ Tản Đà là một chữ không thích hợp và sở dĩ chúng tôi buộc phải lý sự như trên thì chỉ là để nói rằng ta không nên hiểu ngữ đoạn vị từ “cạn dòng lá thắm” theo nghĩa đen của từng tiếng. Và khi ta đã không cần hiểu chữ “cạn” theo nghĩa đen thì ta tất cũng chẳng cần bận tâm đổi cổng thành “cống” mà làm gì vì bốn tiếng kín cổng cao tường vốn là một thành ngữ đã tồn tại như thế từ lâu. Huống chi, nếu ta cứ tự trói mình vào nghĩa đen, thì ta cũng buộc phải thừa nhận rằng “tường cao” cũng chẳng thể nào “dứt đường chim xanh” được.

Chim bay về núi tối rồi

(Ca dao)

Đến núi mà chim còn có thể bay về được thì “tường cao” đã… nhằm nhò gì!

Hóa ra nếu cứ hiểu từ ngữ ở đây theo nghĩa đen thì ta lại vô tình biến Nguyễn Du thành một ông già lẩm cẩm, ăn nói cứ mâu thuẫn lung tung: cứ bít cống lại thì nước sẽ cạn, cứ xây tường cho cao thì chim khỏi bay qua! Và biết đâu có người sẽ giải thích rằng sở dĩ Kiều nói với Kim Trọng câu

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh

(Câu 504)

thì chẳng qua chỉ là vì nàng không đủ… vật liệu và nhân công để làm việc đó mà thôi.

§ 920. Kiến thức ngày nay, số 464, ngày 1-7-2003

ĐỘC GIẢ: Chuyện Đông chuyện Tây có nhắc đến Bảng tra chữ Nôm miền Nam của Vũ Văn Kính. Tôi mạn phép suy ra rằng thế là ta có một bộ phận chữ Nôm gọi là “chữ Nôm miền Nam”. Lại Chuyện Đông chuyện Tây cũng có nhắc đến bản Nôm 1872 của Truyện Kiều do “Nam Việt Gia Định thành cư sĩ Duy Minh Thị trùng san”. Vậy bản Nôm này có chữ Nôm miền Nam hay không? Nếu có, xin cho một số dẫn chứng.

AN CHI: Chúng ta vừa may mắn được biết “dung nhan” của bản Nôm mà ông đã nhắc qua công trình Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 của Nguyễn Tài Cẩn (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Vì bản Kim Vân Kiều tân truyện (tên chính thức của bản Duy Minh Thị này do người Gia Định biên tập nên việc nó chứa đựng một số chữ Nôm miền Nam cũng là điều dễ hiểu, nếu không phải là tất yếu. Dưới đây, xin nêu và phân tích một số dẫn chứng, thấy được trên văn bản do Nguyễn Tài Cẩn công bố, có liên hệ đến cách phiên âm (đặt trong từng câu thơ hoàn chỉnh) của tác giả này.

1. Câu 68:

Xa nghe cũng phục tiếng nàng tìm chơi.

Chữ thứ tư trong bản Duy Minh Thị là . Đây là chữ “mặn”. Tuy thừa nhận rằng “ở Nam bộ vẫn đọc mặn” nhưng Nguyễn Tài Cẩn lại đọc thành “phục” vì, theo ông, “thanh phù viết tắt không phải là chữ mạn mà là chữ phục thiếu nét” (Sđd, tr. 402, chú thích 31).

Thực ra, đó không phải là phục 复 thiếu nét, mà là mạn 曼 vừa thiếu vừa dư (cái chuyện vừa thiếu vừa dư là một hiện tượng bình thường trong chữ Nôm). Huống chi chính Nguyễn Tài Cẩn cũng sẵn sàng thừa nhận rằng ở Nam Bộ vẫn đọc chữ đó thành “mặn”. Vậy câu 68 là:

Xa nghe cũng mặn tiếng nàng tìm chơi.

Nghĩa 4. của từ mặn đã được Từ điển tiếng Việt 1992 cho như sau:

“Có sự đậm đà, tha thiết. Mặn tình. Mặn chuyện. Không mặn mua nên trả rẻ”.

Vậy chính chữ “mặn” mới nói lên được cái sự “hảo ngọt” của “người khách ở viễn phương” kia một cách thấm thía.

2. Câu 261:

Một dòng cỏ mọc xanh rì.

Chữ thứ hai trong bản Duy Minh Thị là *. Đây là chữ “vùng”. Thanh phù của nó là dùng/dụng 用. Trong chữ Nôm miền Nam, việc dùng chữ có phụ âm đầu d- để hài thanh cho chữ có phụ âm đầu v- là chuyện thông thường vì trong khẩu ngữ bình dân thì “d” và “v” đều phát âm như nhau.

Vậy câu 261 là:

Một vùng cỏ mọc xanh rì,

như đã được phiên trong bản Truyện Kiều quốc ngữ của Vũ Văn Kính (Viện Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.61).

3. Câu 434:

Ngọn đèn trông suốt trướng huỳnh hắt hiu.

Chữ thứ tư trong bản Duy Minh Thị là 卒. Đây chính là chữ “lọt”. Bảng tra chữ Nôm miền Nam của Vũ Văn Kính (Hội NNH – Thành phố Hồ Chí Minh 1994) có ghi “lọt 捽” (tr. 38, 89). Chữ thứ tư câu 434 trong bản Duy Minh Thị chính là chữ lọt trong Bảng tra của Vũ Văn Kính bị lược bỏ nghĩa phù thủ 扌.

Vậy câu 424 là:

Ngọn đèn trong lọt trướng huỳnh hắt hiu.

4. Câu 452:

Trăm năm tạc một chữ đồng tàng xương.

Chữ thứ bảy trong bản Duy Minh Thị là 藏. Đây là chữ “tạng”. Chữ Nôm miền Nam dùng tạng để ghi âm “tạn”. Tạn có nghĩa là tận; sát; thấu đến.

Vậy câu 452 là:

Trăm năm tạc một chữ đồng tạn xương.

Nguyễn Tài Cẩn phiên thành “tàng xương” và cho rằng phải chăng hai chữ này muốn nói cái ý “giấu kín đến tận trong xương”. Thật ra thì tạn xương mới chính là “tận trong xương” nhưng vì chữ tạn khó hiểu và không còn thông dụng nên một số bản mới đổi “tạn” thành “đến” mà chép câu 452 thành:

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

5. Câu 616:

Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ.

Chữ thứ nhất trong bản Duy Minh Thị là 披 (âm Hán Việt là “phi”). Đây là chữ “phải” (thì cũng là “gặp”!). Bảng tra của Vũ Văn Kính (đã dẫn) có ghi “Phai 披” (tr. 48) và “披 Phai” (tr. 84). Và từ phai đến phải chỉ còn có một bước.

Vậy câu 616 là:

Phải cơn vạ gió tai bay bất kỳ,

cũng có nghĩa là…

Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ.

6. Câu 975:

Cớ sao chịu tốt một bề.

Chữ thứ tư trong bản Duy Minh Thị là 卒. Đây là chữ luốt. Luốt là “kém, nhỏ” (Huình-Tịnh Paulus Của, Đại Nam quấc âm tự vị). Bảng tra của Vũ Văn Kính (đã dẫn) có ghi: “Luốc 卒”(tr. 39) và “卒, luốc” (tr. 67). Trong Nam, luốt và luốc phát âm như nhau. Vậy chữ thứ tư của câu 975 là “luốt” và cả câu là:

Cớ sao chịu luốt một bề.

Tú bà mắng Kiều cam chịu “yếu thế”, “lép vế” (luốt) để cho Mã giám sinh làm nhục chứ không chịu “văng vào mặt” hắn.

7. Câu 1217:

Cúi đầu vâng dạy mấy lời.

Chữ thứ tư trong bản Duy Minh Thị là 代. Đây là chữ đợi (Hán Việt là đại). So sánh: nhiệt đới = nhiệt đái; khí giới = khí giái; v.v.. “Dạy” là việc của Tú bà còn “đợi” thì mới là việc của Thuý Kiều. Vâng đợi là một cấu trúc đẳng lập nói lên sự phục tùng của Kiều trước cái “uy” của Tú bà. Ta không thể theo cái “công thức” “phụng giáo” mà bắt tiếng Việt phải nói “vâng dạy”.

8. Câu 1383:

Hương càng sóng lửa càng nồng.

Chữ thứ ba trong bản Duy Minh Thị là 㳥. Âm của nó là lộng. Đây chính là chữ lộng trong lộng gió, gió lộng, dùng để chỉ sự chuyển động lan tỏa nhanh và mạnh, đặc biệt là của không khí hoặc chất hơi. Chữ lộng còn chuyển nghĩa theo hoán dụ từ nguyên nhân sang kết quả như còn có thể thấy trong ngữ vị từ lộng óc, có nghĩa là nhức óc vì sự lan tỏa nhanh và mạnh của âm thanh.

Vậy câu 1383 là:

Hương càng lộng, lửa càng nồng.

Chúng tôi mạo muội cho rằng chữ lộng và chữ nồng đi chung với nhau thì có vẻ như là nói được nhiều về mối tình đắm đuối của Thúc Sinh và Kiều hơn là “sóng”(theo cách hiểu của Nguyễn Tài Cẩn = sánh đối, quyện vào nhau) đi với nồng.

Trở lên là một số dẫn chứng về chữ Nôm miền Nam trong Kim Vân Kiều tân truyện do Duy Minh Thị biên tập và đưa khắc in tại Phật Trấn (Quảng Đông) năm 1872. Xin tạm nêu lên như trên để ông và bạn đọc thẩm định.

§ 921. Kiến thức ngày nay, số 465, ngày 10-7-2003

ĐỘC GIẢ: Quyển Học chữ Nôm của cụ Vũ Văn Kính (Nxb. Đồng Nai, 1995) có một câu nguyên văn như sau:

“Chữ chung 終 là cuối hết, khi đọc sang âm Nôm là giung (ăn giê giung) thì lại đổi phụ âm đầu còn nguyên âm và phụ âm cuối vẫn để nguyên”. (tr. 27)

Xin cho biết “ăn giê giung” là ăn cái gì hoặc ăn như thế nào. Có phải đó là “ăn dế ăn giun” mà “dế giun” được viết thành “giế giung” (theo kiểu miền Nam?) rồi chữ “giế” bị in thiếu dấu sắc nên mới thành ra “giê” hay không? Hay “giê giung” chỉ là một kiểu láy na ná như “dung dăng” (giung giăng”?) trong “dung dăng dung dẻ”?

AN CHI: Nếu chúng tôi không nhầm thì “ăn giê giung” là một lối nói rất xưa bên Công giáo trong buổi đầu của việc truyền đạo, khi các giáo sĩ phương Tây và các cộng sự người Việt chưa tìm được cách diễn đạt thích hợp bằng tiếng Việt để dịch danh từ “jejum” của tiếng Bồ Đào Nha (Xin nhớ rằng tiếng Bồ là ngôn ngữ “quốc tế” mà người phương Tây dùng để giao dịch ở Đông Nam Á trong buổi đầu tiếp xúc). Jejum là sự ăn chay. Vậy ăn giê giung chẳng qua chỉ là ăn… chay mà thôi.

Vũ Văn Kính đã đưa ra một thí dụ quá “độc”, đến nỗi ngay cả người Công giáo Việt Nam ngày nay khi nghe nói đến cũng chẳng biết nó diễn đạt cái gì.

Thực ra thì, ngay từ giữa thế kỷ XVII, người ta cũng đã tận dụng ngữ vị từ ăn chay sẵn có trong tiếng Việt để diễn đạt hành động thoạt đầu được gọi là “ăn giê giung” rồi. Ngữ vị từ đó đã có mặt trong Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La Tinh) của A.de Rhodes (Roma, 1651) tại các mục:

“Ăn chay: jejuar (tiếng Bồ): jejuno (là ngôi thứ nhất, số ít, thì hiện tại của động từ La Tinh mà bất định thức là jejunare)”. (cột 6)

“Chay: jejum (tiếng Bồ): jejunium (tiếng La) (…) Ngày ăn chay: dia de jejum (tiếng Bồ): dies jejunii (tiếng La)”. (cột 93)

Rõ ràng là ngay từ giữa thế kỷ XVII thì các nhà truyền giáo phương Tây và người Công giáo Việt Nam cũng đã dùng ngữ vị từ ăn chay để chỉ hành động mà tiếng Bồ gọi là jejuar còn tiếng La là jejunare, và dùng ngữ danh từ ngày ăn chay để chỉ cái mà tiếng Bồ gọi là dia de jejum còn tiếng La là dies j ejunii (jejunii là sinh cách số ít của jejunium). Vì vậy nên đến nửa sau của thế kỷ XIX, thì M. H. Ravier mới dùng mấy tiếng chay hoặc ăn chay để dịch các từ ngữ hữu quan của tiếng La Tinh trong quyển Dictionarium Latino – Annamiticum (Từ điển La Tinh – An Nam) của ông, ấn hành tại Ninh Phú năm 1880:

“Jejunatio. Sự ăn chay (…)”;

“Jejunator. Kẻ ăn chay (…)”;

“Jejunium. 1. Sự ăn chay (…) 2. Ngày chay”;

“Jejun-o, are. 1. Ăn chay (…) tịnh trai”; v.v..

Cách đây ba thế kỷ rưỡi, A. de Rhodes đã thu nhận ngữ vị từ ăn chay để đối dịch bằng tiếng Bồ Đào Nha và tiếng La Tinh; rồi cách đây hơn 120 năm M. H. Ravier cũng đã dùng nó để đối dịch các từ ngữ tương ứng trong tiếng La Tinh. Vậy mà đến cuối thế kỷ XX, lại còn có người Việt Nam đưa ngữ vị từ đồng nghĩa với nó và đã bị chính người Công giáo phế bỏ là “ăn giê giung” ra làm thí dụ cho người “học chữ Nôm” thì đó quả là chuyện oái oăm!

§ 922. Kiến thức ngày nay, số 465, ngày 10-7-2003

ĐỘC GIẢ: Trên Chuyện Đông chuyện Tây của Kiến thức ngày nay, số 455, liên quan đến câu Kiều thứ 2089, ông có viết:

“Cấu trúc cú pháp kiểu “lạt phấn”, “nhàm son” rất quen thuộc trong tiếng Việt”.

Ý kiến này làm tôi hơi băn khoăn bởi lẽ các thí dụ mà ông nêu ra có thể phân thành ba loại:

1. Bự phấn;

2. Trụi lông, trơ xương, sún răng, rậm râu;

3. Nghẹt xăng, nguyên xi, nghẽn mạch.

Nếu để ý ta sẽ thấy có sự khác nhau giữa “lạt phấn”, “nhàm son” với “bự phấn”. Phấn son là những thứ dùng để trang điểm cho mặt người thêm đẹp. Nhưng với “lạt phấn”, “nhàm son” thì đối tượng được làm đẹp đã có tác động ngược, làm thấp vai trò của phấn son. Còn “bự phấn” mang nghĩa xấu, làm xấu đối tượng được làm đẹp.

Với loại 2, chúng ta có sự khác nhau về đối tượng khảo sát: phấn, son là thứ ngoại lai còn lông, xương, răng, râu là những bộ phận của con người. Sắc đẹp của con người làm cho phấn lạt son nhàm còn trụi lông, trơ xương, sún răng, rậm râu là những hiện tượng sinh học tự nhiên xảy ra trên cơ thể người vì những lý do khác nhau và thường không phải là điều mà con người mong đợi. Không ai muốn mình trụi lông, trơ xương hoặc sún răng cả. Rậm râu thì có thể nhưng điều này thì do ý thức quyết định chứ tuyệt nhiên không giống như “lạt phấn”, “nhàm son” – do vẻ đẹp tự nhiên gây ra.

Cuối cùng là loại thứ 3, ở cột này, xăng, xi, mạch là đối tượng bị tác động, khác với phấn, với son bị nhân tố con người tác động tới.

AN CHI: Toàn bộ phần góp ý của bà (ông?) đã đi vào nội dung ngữ nghĩa của các thí dụ hữu quan còn chúng tôi thì lại muốn nói đến cái cấu trúc cú pháp của toàn bộ các thí dụ đó. Xét về mặt này thì, bất kể nội dung cụ thể của từng trường hợp nói về cái gì, toàn bộ các cấu trúc đó đều là những ngữ vị từ do một vị từ tĩnh (bự, trụi, trơ, sún, rậm, v.v.) làm trung tâm và theo sau là một danh từ (phấn, lông, xương, răng, râu, v.v.) đóng vai bổ ngữ cho vị từ đó. Ta có vô số thí dụ về kiểu ngữ vị từ này trong lời ăn tiếng nói hằng ngày: bạc đầu, bảnh trai, bạo gan, bạo mồm bạo miệng, bạo phổi, bằng mặt (không) bằng lòng, bằng vai phải lứa, bẻm mép, bí thế, v.v.. Chính vì thế nên chúng tôi mới viết rằng kiểu cấu trúc cú pháp này rất quen thuộc trong tiếng Việt.

Còn nghĩa của các cấu trúc đó thì lại là chuyện khác. Hai ngữ vị từ cùng kiểu cấu trúc đã nói có thể đối nghĩa, nghịch nghĩa hẳn với nhau. Ai cũng muốn cho mình được đầy túi chứ có ai muốn bị nhẵn túi? Thế nhưng đầy túi và nhẵn túi thì lại là hai ngữ vị từ cùng một kiểu cấu trúc cú pháp. Ai mở hiệu buôn cũng muốn cho cửa hàng của mình đắt khách chứ có ai thích ế khách? Thế nhưng đắt khách và ế khách thì lại là hai ngữ vị từ cùng một kiểu cấu trúc cú pháp. Thí sinh nào cũng muốn đủ điểm chứ có ai lại khấn cho mình bị thiếu điểm khi đi thi? Thế nhưng đủ điểm lại là một ngữ vị từ cùng kiểu cấu trúc cú pháp với thiếu điểm. Cũng thế đối với các cặp: bong da và liền da, đói bụng và no bụng, xấu mặt và đẹp mặt, trống chỗ và kín chỗ, và vô số các cặp khác. Vậy vấn đề ở đây chẳng có liên quan gì đến chuyện nghĩa tốt hay nghĩa xấu, chuyện những thứ ngoại lai hay vốn là bẩm sinh của con người, chuyện con người mong đợi hay không mong đợi, chuyện hiện tượng sinh học tự nhiên hay ý thức của con người, v.v. như bà (ông?) đã nêu lên.

Cuối cùng nhạt (lạt) phấn nhàm son có phải là “đẹp đến nỗi làm cho phấn nhạt son nhàm” hay không thì, sau số 455, chúng tôi cũng đã phân tích kỹ thêm trên số 459 rồi nên xin bà (ông?) vui lòng xem lại số này.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3