Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 905 - 910

§ 905. Kiến thức ngày nay, số 457, ngày 20-4-2003

ĐỘC GIẢ: Firstname có phải là “tên đầu tiên” hay không?

AN CHI: Quả có người đã hiểu firstname là “tên đầu tiên”, đúng như ông đã hỏi. Bằng chứng là trong bài “Hòa kết – một phương thức cấu tạo từ mới”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 3-2003, tác giả Phạm Hiển đã viết:

“Callanetics (là) tên đầu tiên của Callan Pinckney hòa kết với athletics”. (Bđd, tr. 12)

Ở đây ta có nhân vật Callan Pinckney mà first name là Callan còn Pinckney là last name. Nếu first name là “tên đầu tiên” thì, để cho xứng đôi, last name tất nhiên phải là “tên cuối cùng”. Nhưng tiếc rằng sự thật lại chẳng phải như thế vì first name đơn giản chỉ là “tên” còn last name thì đơn giản chỉ là “họ”. Dịch first name thành “tên đầu tiên” thì có khác gì dịch hôtel de ville (tòa thị chính) thành “khách sạn thành phố”! Từ điển Anh – Việt của Viện Ngôn ngữ học do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu, Bùi Ý hiệu đính (Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội, 1975) dịch first name thành “tên thánh” thì cũng chẳng đúng chút nào vì tên thánh là Christian name mà Christian name và first name không phải là hai khái niệm đồng nhất.

Tại mục từ “name”, Oxford Advanced Learner’s Dictionary, ấn bản 1992, đã giảng rõ như sau:

“Your first name (US often given name) is, in English speaking countries, the name given to you by your parents at birth. The name common to your family is your family name or, more usually, surname. In Christian countries Christian name is often used for firstname. Forename, also meaning first name, is formal and is often found on documents, application forms, etc”.

(Tại các nước nói tiếng Anh, first name (ở Mỹ thì thường dùng given name) của bạn là tên mà cha mẹ bạn đặt cho bạn lúc bạn chào đời. Tên chung cho gia đình bạn là family name, hoặc thông dụng hơn, là surname của bạn. Ở các nước theo Ki Tô giáo, Christian name thường dùng thay cho first name. Forename, cũng có nghĩa là first name, thì có tính chất nghi thức và thường thấy trong văn kiện, trong các hình thức đơn từ, v.v.).

Cứ như trên thì hiển nhiên first name, given name, Christian name, forename đơn giản chỉ là “tên” còn family name, surname, last name đơn giản chỉ là “họ” mà thôi. Và Christian name chỉ có thể dùng thay cho firstname ở các nước theo Ki Tô giáo (cũng có thể là trong quan niệm của cả những người theo Ki Tô giáo ở những nước khác) chứ nói chung thì first name không nhất thiết phải là Christian name nên, như đã nói, đây cũng không phải là hai khái niệm đồng nhất.

§ 906. Kiến thức ngày nay, số 457, ngày 20-4-2003

ĐỘC GIẢ: Trong các bản Kiều quốc ngữ quen thuộc, hai câu 1477 – 1478 trước nay vẫn là:

Phận bồ từ vẹn chữ tòng,

Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.

Nhưng mới đây, trong Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002), Nguyễn Tài Cẩn lại đọc câu sau thành:

Đổi thay nhạn cá đã cùng đầy niên

mà không thấy biện luận gì. Vậy lý ra câu này phải đọc như thế nào mới đúng?

AN CHI: Ta không thể trách Nguyễn Tài Cẩn được vì mục đích chủ yếu của ông chỉ là cung cấp cho người đọc thực tế của các dị bản, đặc biệt là nguyên văn chữ Nôm của bản Duy Minh Thị 1872. Và với văn bản Nôm này mà đọc câu 1478 thành:

Đổi thay nhạn cá đã cùng đầy niên

thì không thể bắt bẻ gì được vì không có cách đọc nào hợp lý hơn. Điều đáng nói là với văn bản và cách đọc đúng này thì câu thơ lại trở nên khó hiểu. Để gỡ rối cho độc giả, tác giả Nguyễn Khắc Bảo đã có bài “Chim yến hay cá chép?”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 3-2003. Tác giả này cho ta biết mấy điểm chính sau đây:

1. Câu “Đổi thay nhạn cá đã cùng đầy niên” được Kiều Oánh Mậu tiếp thu ý kiến từ các quan văn triều Tự Đức mà sửa thành “Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên”. Kiều Oánh Mậu thấy “con cá” có vẻ dân dã quá nên đổi thành “chim yến” rồi tiện thể đổi luôn chữ “cùng” thành chữ “hòng”. Cùng ở đây là “chỗ hoặc lúc đến đấy là hết giới hạn của một cái gì” như đã giảng trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên. Còn chữ “hòng” ở đây mà hiểu là “gần sắp” như Đào Duy Anh đã giảng trong Từ điển Truyện Kiều thì không đúng vì đây chỉ là một cái “nghĩa mới” mà trước kia nó không hề có. Vả lại, chữ cộng 共 mà đọc thành “hòng” thì không có cơ sở vì nếu đúng là hòng thì phải viết thành * như ở câu 2804.

2. Con cá cũng là một vật mang thư như con chim nhạn. Vậy nhạn cá ở đây là “tin tức” và câu “Đổi thay nhạn cá đã cùng đầy niên là lời Thuý Kiều cảnh tỉnh chàng Thúc đã “đổi thay lòng dạ” với mụ vợ cả. Suốt một năm ròng vui duyên mới đến nỗi quên bẵng không chịu “nhắn cá gửi chim” về nhà.

Trở lên là hai điểm chính trong cách lý giải đầy tự tin của tác giả Nguyễn Khắc Bảo. Chỉ tiếc rằng nó lại hàm chứa nhiều điều không ổn.

Thứ nhất là khi ông Nguyễn Khắc Bảo “nói vui” rằng Đào Duy Anh đã cho chữ hòng một cái “nghĩa mới” là “gần sắp” thì chính ông lại không ngờ đây là một cái nghĩa cổ của nó mà Huình-Tịnh Paulus Của vẫn còn kịp ghi lại trong Đại Nam quấc âm tự vị:

“Hòng. Đã gần, đã rắp ranh”.

cùng với một loạt thí dụ cụ thể và sinh động. Mà thực ra thì trước đó, trong Tự vị Annam – Latinh (1772 – 1773), Pigneaux de Béhaine cũng đã ghi nhận như thế rồi.

Thứ hai là trong bản Duy Minh Thị 1872 thì cái chữ Nôm đang xét không phải là 共 như ông Nguyễn Khắc Bảo đã viết mà lại là 供. Chúng tôi cho rằng rất có thể đây chính là chữ hòng 洪 mà bộ thủy ⺡ đã bị nhầm thành bộ nhân 亻.

Thứ ba là “đã hòng đầy niên” (= đã gần trọn năm) là một cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa rất xuôi tai còn “đã cùng đầy niên” là một lối nói “hơi bị” bí hiểm. “Bí hiểm” không phải vì người đọc không đủ trình độ để hiểu mà vì người nắm vững quy luật của tiếng Việt không ai lại ép duyên hai tiếng cùng (với nghĩa đã nêu) và đầy thành từ tổ đẳng lập “cùng đầy” như cách hiểu của ông Nguyễn Khắc Bảo.

Thứ tư là nếu nhạn cá phải được hiểu là “tin tức” thì câu:

“Đổi thay nhạn cá đã cùng đầy niên”

phải được hiểu là suốt một năm ròng chàng Thúc vẫn có “thư đi từ lại”, vẫn có “trao đổi tin tức”… đều đều về nhà với nàng Hoạn chứ đâu phải “lờ quên không chịu thư từ về nhà” như ông Nguyễn Khắc Bảo đã suy luận.

Thứ năm là chỉ cần có năng lực cảm thụ thông thường thì ai cũng có thể thấy được rằng câu 1478 chỉ nói về cái khoảng thời gian trong đó sự việc được nói đến ở câu 1477 đã diễn ra:

“Từ ngày thiếp về làm vợ chàng đến nay đã gần trọn một năm”.

chứ tuyệt đối không nói lên bất cứ một ý nào khác.

Tóm lại, câu 1478 hoàn toàn chẳng liên quan gì đến việc chàng Thúc có gửi thư hay không gửi thư về nhà cho vợ cả cả.

§ 907. Kiến thức ngày nay, số 458, ngày 1-5-2003

ĐỘC GIẢ: Câu 812 của Truyện Kiều lâu nay vẫn được đọc là:

Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường.

“Đùng một cái”, trong bài “Mạt cưa hay là mặt cưa” đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 11-2002, tác giả Nguyễn Khắc Bảo đã đưa ra cách đọc:

Mặt cưa mướp đắng đôi bên một phường.

Lý do của tác giả này là:

1. Tác giả đã tìm đọc 34 bản Kiều Nôm thì chỉ có hai bản chép tay của Chiêm Vân Thị và bản ký hiệu R987 của Thư viện Quốc gia viết chữ 末 (có thể đọc thành “mạt” hay “mặt”). Còn toàn bộ các bản khác, kể cả bản Kiều Oánh Mậu 1902 đều chép chữ * (mạt + diện) nên phải đọc là “mặt”. Một vài bản Kiều quốc ngữ nửa đầu thế kỷ XX cũng phiên thành “mặt”.

2. Câu chuyện dùng để giải thích mấy tiếng mạt cưa mướp đắng chỉ mới xuất hiện vào năm 1926 khi Bùi Khánh Diễn chú giải Truyện Kiều:

“Xưa có người buôn bán gian giảo, lấy mạt cưa mang ra chợ bán giả làm cám để lừa người, rủi lại gặp kẻ mang mướp đắng lại đến đổi, người kia thấy mướp đẹp bèn đổi, chẳng hóa ra hai bên đều phải lừa nhau”.

Sang năm 1927, Bùi Kỷ – Trần Trọng Kim chú giải rõ hơn là “bán mướp đắng giả làm dưa chuột” và từ đây quả dưa chuột “mới chính thức bước vào các bản chú giải rồi được lưu truyền cho đến tận bây giờ”.

Đến năm 1965, “ông Nguyễn Văn Hoàn lại sáng tạo thêm tình tiết việc lừa đảo ấy xảy ra khi bọn chúng đợi lúc nhá nhem tối mới đem ra chợ bán”.

Cốt truyện mỗi lúc một khác chứng tỏ câu chuyện này chỉ là kết quả hư cấu của các nhà chú giải mà thôi.

3. Bản Kiều Oánh Mậu 1902 chú giải:

“Cứ xỉ: thượng diện đột ao bất tề. Khổ qua: bì ngoại diệc nhiên”.

Dịch nghĩa:

“Mặt răng cưa: trên mặt lồi lõm không bằng phẳng – Mướp đắng: mặt ngoài da cũng lồi lõm như thế”.

Sang năm 1929, Hồ Đắc Hàm cũng giảng:

“Mặt cưa là răng cưa, trên mặt cưa có răng lồi ra. Mướp đắng có da lóm vào, nếu đem răng cưa mà đặt vào da mướp, thì chỗ lồi chỗ lóm vừa bám khít nhau. Đây nói Giám Sinh là tên đĩ trai, Tú bà là con đĩ già, hai bên cùng một phường nhà thổ với nhau”.

Tác giả Nguyễn Khắc Bảo kết luận:

“Vậy thì chỉ có một cách đọc duy nhất đúng là:

Mặt cưa mướp đắng đôi bên mộtphường

và nên hiểu là:

Bọn Tú bà – Mã giám sinh là loại người xấu xa, đột ao bất tề = lồi lõm khúc khỉu, điêu ngoa đáo để, mặt mũi sần sồ gớm ghiếc như nhau nhưng chúng vẫn chung lưng với nhau, câu kết chặt chẽ, bám khít nhau trong một phường vô lại, phường nhà thổ để làm hại Thuý Kiều và bao cô thanh nữ nhà lành khác”.

Trở lên là ý kiến ông Nguyễn Khắc Bảo; còn ý của ông thì như thế nào?

AN CHI: Trước nhất, ông Nguyễn Khắc Bảo đã không có lý vì ông chỉ dựa vào chữ * trong hầu hết các bản Kiều Nôm và vào cách đọc thành “mặt” trong mấy bản Kiều quốc ngữ để khẳng định rằng “các bậc túc nho xưa đã không hề đọc là mạt cưa mướp đắng”. (Bđd, tr. 20, c.3). Các vị chỉ để lại có cái chữ * mà thôi chứ các vị đọc nó như thế nào thì làm sao ông Nguyễn Khắc Bảo có thể biết được trừ phi ông có băng từ hoặc đĩa CD do họ để lại hoặc trừ phi họ có chú thích về nội dung (như Kiều Oánh Mậu, chẳng hạn). Còn Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Đắc Hàm và Tản Đà mà đọc chữ đó thành “mặt” thì cũng là chuyện dễ hiểu vì thanh phù của nó là mạt 末, rất gần với âm “mặt” còn nghĩa phù là diện 面, có nghĩa là “mặt”. Nhưng một chuyện khác cũng không kém phần dễ hiểu là các nhà phiên âm này, không có ý định làm văn bản học, nhất là một thứ văn bản học thật sự khoa học và triệt để. Chứ Nguyễn Tài Cẩn, một trong những nhà văn bản học hàng đầu của Việt Nam đầu thế kỷ XXI thì vẫn cứ đọc cái chữ đó thành “mạt” mà không cần biện giải một lời nào mặc dù ông đã ghi chú, nhận xét và trao đổi đến 1009 trường hợp khác nhau trong công trình Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Nghĩa là, theo Nguyễn Tài Cẩn thì chữ đang xét mà đọc thành “mạt”, là chuyện hoàn toàn bình thường. Còn chúng tôi thì xin mạo muội nói thêm rằng, với chữ Nôm, đặc biệt là với những người viết chữ Nôm “thực dụng” và “lẹ tay”, thì nghĩa phù (yếu tố biểu nghĩa) nhiều khi chẳng có… nghĩa gì cả. Xin đơn cử một thí dụ: chữ “năm” (thời gian mười hai tháng) trong các câu 182,1599, 3078 của bản Duy Minh Thị 1872 đều “bị” viết thành “ *” với nghĩa phù ngũ 五, chỉ số lượng, chứ không phải nghĩa phù niên 年, chỉ thời gian mười hai tháng*. Đây chỉ là một kiểu “bạn dỏm” (false friend); nếu tin theo thì ta sẽ chỉ có thể bị mắc lừa mà thôi.

Thứ hai, tác giả Nguyễn Khắc Bảo đã dẫn Kiều Oánh Mậu 1902 nhưng lại dẫn thiếu trung thực, ít nhất cũng là dẫn không đầy đủ. Thực ra, ngoài hai dòng mà Nguyễn Khắc Bảo đã dẫn (rồi dịch), Kiều Oánh Mậu còn chú thích thêm rất rõ ràng:

“* hoặc tác 末, cứ tiết dã”. (tờ 21a, d.7 (từ phải sang), nửa dưới),

Nghĩa là:

“(chữ) * (có bản) còn viết là 末, (nghĩa là) mạt cưa vậy”.

Vậy chính Kiều Oánh Mậu cũng thừa nhận rằng có bản khắc chữ 末 (mạt) và đó là mạt cưa còn chính Nguyễn Khắc Bảo thì lại cố tình lờ đi cái chi tiết quan trọng này.

Thứ ba, chuyện mạt cưa, mướp đắng đã có từ lâu đời, trễ nhất cũng là từ đời Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Bằng chứng là nó đã có mặt tại câu thừa đề của bài “Tương phùng” trong Hồng Đức quốc âm thi tập:

“Ấy khuôn hay mẹo thợ nào lừa?

Mướp đắng khen ai đổi mạt cưa!”

Rõ ràng chuyện mua bán dưa dỏm cám dỏm cho nhau là chuyện đã được lưu truyền muộn nhất cũng là từ nửa sau của thế kỷ XV, cách nay trên 500 năm chứ đâu phải “câu chuyện trên chỉ bắt đầu xuất hiện vào năm 1926 khi cụ Bùi Khánh Diễn chú giải Truyện Kiều” như tác giả Nguyễn Khắc Bảo đã gán oan.

Thứ tư, lối phiên âm thành “mặt cưa” và nhất là lối giải thích về hai tiếng này, như đã thấy, rất dễ gây sốc cho những ai có cảm thụ văn học bình thường. Trừ trường hợp đang xét, trong đó người ta đã cả tin vào nghĩa phù “dỏm” là diện 面 để phiên cái chữ hữu quan thành “mặt”, không ai gọi lưỡi cưa, răng cưa hoặc phần có răng của cái cưa là “mặt cưa” cả. Lưỡi cưa theo nghĩa rộng là phần đối lập với cán cưa còn trong phạm vi của lưỡi cưa (nghĩa rộng) thì lưỡi cưa theo nghĩa hẹp là cái chiều có răng đối lập với sống cưa. Đây mới đích thực là cách dùng từ chính xác của người bản ngữ chứ “mặt cưa” thì chỉ là một danh ngữ ảo do anh “bạn dỏm” kia gợi ra mà thôi. Và vì đã trót phiên âm như thế nên một vài nhà chú giải của nửa đầu thế kỷ XX đã phải “khuôn” cách hiểu của mình theo hai tiếng “mặt cưa” mà đưa ra những lời giảng hoàn toàn khiên cưỡng. Nhưng độc đáo nhất chính là lời tổng hợp đầu thế kỷ XXI của tác giả Nguyễn Khắc Bảo (mà ông đã dẫn trong câu hỏi).

Lời tổng kết đanh thép đó chứng tỏ tác giả Nguyễn Khắc Bảo không phân biệt được là với câu 812 thì Nguyễn Du muốn tả diện mạo hay tính cách của nhân vật. Thực ra thì ngoại hình của Mã giám sinh đã được miêu tả từ trước ở hai câu 627 – 628 còn ngoại hình của Tú bà thì mãi đến câu 923 – 924 Nguyễn Du mới nói đến. Chứ câu 812 thì chỉ nói về tính cách của hai nhân vật này mà thôi.

Huống chi, nếu quả đây có là một câu miêu tả diện mạo, thì ta cũng khó lòng biết được thế nào là “loại người đột ao bất tề = lồi lõm khúc khỉu”. Ta chỉ có thể hình dung những đường cong tuyệt mỹ với vòng ngực, vòng eo và vòng… mông của các siêu người mẫu và các hoa hậu chứ cái sự “lồi lõm khúc khỉu” của thân thể người ta thì ta… đành chịu. Còn nếu tác giả lại bảo rằng mình dùng mấy tiếng “lồi lõm khúc khỉu” để tả tính tình của nhân vật thì đến cả các bậc thầy về tiếng Việt cũng đành chào thua.

Thực ra thì mấy tiếng mạt cưa mướp đắng ở đây chỉ dùng để nói về bọn làm ăn gian lận mà thôi nhưng vì quá tin vào cái sự “lồi lõm khúc khỉu” kia, đặc biệt là vào lời giảng của Hồ Đắc Hàm (“nếu đem răng cưa mà đặt vào da mướp thì chỗ lồi chỗ lóm vừa bám khít nhau”) nên ông Nguyễn Khắc Bảo mới nhấn mạnh bằng cách in nghiêng mấy chữ “bám khít nhau” để nói về sự “chung lưng” giữa Tú bà và Mã giám sinh. Đúng là một sự giảng văn “bám khít” vào lời văn.

Về lời tổng kết trên đây của ông Nguyễn Khắc Bảo, chúng tôi còn có nhiều điều cần nói nhưng xin chờ khi có bạn đọc nào góp ý hoặc gợi ý thì sẽ bàn tiếp. Ở đây chúng tôi chỉ xin khẳng định một cách dứt khoát rằng bốn chữ đầu của câu 812 là “mạt cưa mướp đắng (đôi bên một phường)”. Đây là những từ ngữ đã thấy trong câu thừa đề của bài “Tương phùng” trong Hồng Đức quốc âm thi tập:

Mướp đắng khen ai đổi mạt cưa!

Còn từ ngữ của câu 821 (Mẹo lừa đã mắc vào khuôn) thì cũng đã có mặt trong câu phá đề của chính bài thơ đó:

Ấy khuôn hay mẹo thợ nào lừa?

Đây là một điều hoàn toàn chắc chắn.

§ 908. Kiến thức ngày nay, số 459, ngày 10-5-2003

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Chân dung tiểu thiền Thuý Kiều” đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 10-2002, tác giả Nguyễn Khắc Bảo có viết:

“Mụ Bạc bà nhìn thấy Thuý Kiều ở Chiêu Ẩn am tuy đang “ăn mặc nâu sồng” nhưng vì vốn có vẻ đẹp “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” thì dù không thoa phấn (lướt phấn) cũng chẳng thèm bôi son (gièm son) mà cái “tòa thiên nhiên” trời cho vẫn “rõ màu trong ngọc trắng ngà” (…)”. (Bđd, tr. 22)

Trên Kiến thức ngày nay, số 455, ông An Chi có nhận xét rằng đó là một cách nhìn hơi “xếch”.

“Xếch” (sex) quá ấy đi chứ! Ai lại đòi thấy cả cái “tòa thiên nhiên” của một vị tiểu ni sư bao giờ! Mang tội chết! Nhưng tác giả lại hoàn toàn đúng khi viết rằng “Bạc bà nhìn thấy Thuý Kiều ở Chiêu Ẩn am đang ăn mặc nâu sồng”. Thế mới đúng chứ ai lại đã tu hành mà còn thoa son đánh phấn dù “phấn thì không đậm mà son thì cũng chẳng thắm” như ông An Chi đã viết? Vả lại, Nguyễn Du đã bao giờ nói là Kiều có trang điểm trong trường hợp này đâu?

AN CHI: Tác giả bài “Chân dung tiểu thiền Thuý Kiều” đã không đọc kỹ trích đoạn hữu quan nên mới nhầm lẫn như thế chứ mụ Bạc đâu có “nhìn thấy Thuý Kiều ở Chiêu Ẩn am”. Lần đầu tiên mụ nhìn thấy Kiều là ở ngay tại nhà mụ sau khi vãi Giác Duyên đã dàn xếp:

Nhắn sang dặn hết mọi đường,

Dọn nhà hãy tạm cho nàng chứa chân.

Và khi Kiều lánh sang nhà Bạc bà thì nàng đã “ra dân”, nghĩa là đã hoàn tục, chứ có còn là người tu hành nữa đâu mà “ăn mặc nâu sồng”. Nguyễn Du thường theo sát nguyên truyện mà nguyên truyện thì đã kể như sau:

“Giác Duyên nói:

– Còn em thì chỗ nhà bà mẹ nuôi của chị là họ Bạc có thể ở được. Vậy em nên đổi thay quần áo rồi sang bên ấy.

Thuý Kiều nói:

– Em không có quần áo thường tục thì làm thế nào?

Giác Duyên nói:

– Để chị đi sắm cho.

Giác Duyên liền đến cửa hàng quần áo, mua mấy bộ đem về cho Thuý Kiều. Thuý Kiều thay mặc nữ trang, còn những quần áo nhà đạo thì để lại cho Giác Duyên cả”*.

Rõ là nàng đã “ra dân”;

Rũ nâu sồng, mặc áo quần trần gian.

Đã thế thì việc “làm đẹp” chỉ còn là một “công đoạn” tự nhiên tiếp theo vì đây chẳng qua chỉ là “quán tính” nghề nghiệp của nàng trước kia mà thôi. Huống chi nàng đâu phải là người tự nguyện xuất gia đầu Phật. Đó chẳng qua là do ác ý của Hoạn thư để triệt con đường thế tục của nàng chứ thực lòng nàng thì:

Tu là tu gượng kẻo là,

Ai Quan Âm đó, Phật Bà với ai!

Vậy ta không nên để cho mấy tiếng “ăn mặc nâu sồng” kia huyễn hoặc mà dị ứng với sự “làm đẹp” của Kiều trong trường hợp này. Và cũng không nên áy náy vì không thấy Nguyễn Du trực tiếp kể rằng nàng có “làm đẹp”. Cứ nói huỵch toẹt ra hết mọi thứ thì còn gì là văn chương. Vậy Nguyễn Du đã nói bằng cách nào? Thưa rằng ông đã nói bằng tiền giả định*. Khi Nguyễn Du viết:

Thấy nàng nhạt phấn nhàm son

thì ông đã cho ta một tiền giả định là Kiều có “làm đẹp” bởi nếu không phải như thế thì làm sao có chuyện phấn trên má nàng không đậm mà son trên môi nàng cũng chẳng thắm?

Tóm lại thì Kiều có “làm đẹp”. Còn sở dĩ nàng “làm đẹp” mà vẫn bị nhạt phấn nhàm son thì chỉ là vì nàng đang ở trong cái thế phải chạy trốn nên mới không có điều kiện để trang điểm cho chu đáo đó thôi.

§ 909. Kiến thức ngày nay, số 459, ngày 10-5-2003

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 455, ông đã bài bác cách giải thích của GS. Nguyễn Tài Cẩn về bốn tiếng “lạt phấn nhàm son” trong câu 2089 của Truyện Kiều. Thế nhưng những thí dụ về Cổ Hán ngữ mà GS. Cẩn đưa ra làm căn cứ để biện luận, thì ông lại lờ đi. Vậy liệu sự bài bác của ông có vững chắc hay không?

AN CHI: Trong lập luận của mình, chúng tôi đã viết: “Ta không thể hình dung được rằng Nguyễn Du lại có thể bắt ép tiếng Việt ở thời của ông lại phải theo cú pháp của tiếng Hán thời thượng cổ”. Chính vì sự khẳng định này nên chúng tôi thấy không cần thiết phải nhận xét về những thí dụ liên quan đến cổ Hán ngữ mà Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra. Còn lần này, vì ông đã đặt vấn đề như thế nên chúng tôi xin nói rõ hơn như sau.

Nguyễn Tài Cẩn viết:

“Trong văn ngôn, tính từ có cách dùng đặc biệt là có thể đặt trước một danh từ chỉ sự vật, và sự vật đó:

– hoặc được coi là có tính chất nêu ở tính từ

– hoặc bị làm cho có tính chất đó.

Ví dụ: Khổng Tử đăng Đông sơn nhi tiểu Lỗ (Khổng Tử lên núi Đông sơn và coi nước Lỗ tuồng như là nhỏ) – Thỉnh Vương đại chi (Xin Vua làm cho nó lớn lên [nó = cái can đảm của Vua] ).

Nói tóm lại, tiểu chi (đại chi) có thể có nghĩa là:

a. Coi cái đó là nhỏ (hoặc là lớn)

b. Hoặc làm cho cái đó nhỏ đi (hoặc lớn lên).

Theo mô hình cú pháp đó, ở đây phải hiểu như sau:

– Lạt phấn là thấy nàng đẹp, “làm cho phấn bị lạt đi”.

– Nhàm son là thấy nàng đẹp, “làm cho son bị nhàm đi”.

Lối khen theo cú pháp lắt léo này không dễ hiểu đối với nhiều người”*.

Nguyễn Tài Cẩn nói như thế nhưng chính cách lập luận của ông, đặc biệt là câu chuyển ý

“Theo mô hình cú pháp đó, ở đây phải hiểu như sau”.

có khi lại còn “lắt léo” hơn.

“Mô hình cú pháp đó” là của tiếng Hán thời thượng cổ, còn “ở đây” lại là tiếng Việt thời Nguyễn Du thì “theo” thế nào được? Vậy tuy tài tình đến mức có thể làm ảo thuật với từ ngữ của tiếng Việt trong nhiều câu thơ tuyệt đẹp nhưng Nguyễn Du chắc chắn sẽ không diễn trò đu dây từ tiếng Hán ở thời của Tư Mã Thiên sang tiếng Việt ở thời của mình. Đưa mô hình cú pháp cổ Hán ngữ ra để giải thích về tiếng Việt thời cận đại là một sự áp đặt không thể chấp nhận.

Huống chi Nguyễn Tài Cẩn đã không đúng ngay từ đầu khi ông khẳng định rằng trong những thí dụ mà ông đã nêu thì tiểu và đại là tính từ. Không, đây không còn là tính từ nữa vì hai từ này đã chuyển loại thành động từ. Vấn đề này đã được Phạm Tất Đắc trình bày rất kỹ tại các đoạn 488 – 496 trong quyển Văn pháp chữ Hán (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 524 – 34). Có điều là tác giả này chưa gọi đó là những động từ gây khiến (causative verbs) theo thuật ngữ hiện nay mà thôi. (Các tác giả Trung Quốc dịch causative là sử động, trí động hoặc sử dịch). Tính từ thì làm sao có thể có được “cách dùng đặc biệt” mà Nguyễn Tài Cẩn đã nêu?

Vậy tiểu và đại ở đây là những động từ gây khiến chứ không phải tính từ. Động từ và tính từ là hai từ loại có thuộc tính ngữ pháp đối lập hẳn với nhau nên không thể lẫn lộn được. Nguyễn Tài Cẩn thừa biết điều này nhưng vẫn khẳng định rằng đó là tính từ chẳng qua là để “móc nối” với hai tính từ lạt và nhàm trong câu Kiều thứ 2089 đó thôi. Nghĩa là để kết luận rằng nếu trong cổ Hán ngữ, tính từ tiểu là “làm cho nhỏ đi”, tính từ đại là “làm cho lớn lên” thì trong tiếng Việt thời Nguyễn Du, tính từ lạt cũng phải có nghĩa là “làm cho lạt đi” và tính từ nhàm cũng phải có nghĩa là “làm cho nhàm đi”. Tiếc rằng tiếng Hán là tiếng Hán mà tiếng Việt thì vẫn cứ là tiếng Việt nên tiếng Việt chỉ có thể được giải thích một cách đúng đắn bằng những quy tắc cú pháp của chính nó mà thôi.

Nhưng, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 455, đây không phải là chuyện cú pháp mà là chuyện tu từ nếu quả thật bốn tiếng lạt phấn nhàm son dùng để tả vẻ đẹp của Kiều. Và vì, như cũng đã phân tích trên Kiến thức ngày nay, số 455, bốn tiếng này không phải dùng để tả vẻ đẹp của Kiều nên đây cũng chẳng phải là chuyện tu từ gì cả. Nhạt phấn nhàm son (từ đây xin thay lạt bằng nhạt theo cách đọc trên Kiến thức ngày nay, số 455) chẳng qua chỉ là “phấn thì không đậm còn son thì cũng chẳng thắm” mà thôi. Có thể có ý kiến cho rằng nhạt phấn là “phấn không đậm” thì nghe được chứ nhàm son mà là “son chẳng thắm” thì khó thông. Xin thưa rằng tính từ nhàm có quá trình chuyển nghĩa như sau: 1. quá quen thuộc vì thường thấy, thường nghe, thường gặp, v.v. nên không còn đáng quan tâm → 2. không có gì lạ → 3. thường, xoàng, dở, kém, v.v.. Nghĩa thứ 3 này chính là cái nghĩa mà chúng tôi đã vận dụng để hiểu rằng nhàm son là “son cũng chẳng thắm” như đã trình bày trên Kiến thức ngày nay, số 455.

Vậy sự bài bác của chúng tôi như thế nào thì chúng tôi xin mạo muội trình bày thêm như trên để ôngvàbạn đọc phán xét.

§ 910. Kiến thức ngày nay, số 460, ngày 20-5-2003

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Hà Tiên – điểm cư trú xưa của người Việt cổ?”, in trong tập Nhận thức mới về đất Hà Tiên (Tạp chí Xưa & Nay và Nxb. Trẻ, 2001), tác giả Trương Minh Đạt đã khẳng định:

“Có thể nói được thời xa xưa, vùng đất Hà Tiên chính thống là vùng đất Phù Dung (Phù Youn) của người Lạc Việt”. (Sđđ, tr. 28)

Xin cho biết ông có nhận xét gì về lời khẳng định trên và về cả bài viết đó.

AN CHI: Trong toàn bộ quyển Nhận thức mới về đất Hà Tiên thì vấn đề nêu lên trong bài “Hà Tiên – Điểm cư trú xưa của người Việt cổ?” là nhận thức mới nhất và độc đáo nhất. Tác giả quyển này đã vận dụng ý kiến hoặc kết quả nghiên cứu của một số tác giả thuộc một số lĩnh vực khác nhau để dựng nên bài viết quan trọng của mình; đặc biệt là ông đã dựa vào mấy cứ liệu ngôn ngữ trong một bài báo của Lê Trọng Khánh, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4, tháng 7-8 năm 1992, để dẫn độc giả vào một sự thuyết giảng hào hứng và uyên bác. Rất tiếc là bài báo này thì lại quá dễ dãi về mặt khoa học, đặc biệt là về mặt ngữ học mà nếu có dịp thì chúng tôi sẽ phân tích kỹ hiến bạn đọc.

Ở đây, chỉ xin nhận xét cách ghi chú về các ký hiệu trong bản “Lược đồ địa danh ngôn ngữ Việt cổ” của tác giả, in lại trong sách của Trương Minh Đạt mà thôi. Lê Trọng Khánh đã phân loại và ghi chú như sau (số thứ tự do chúng tôi thêm vào):

“1. Địa danh thượng cổ: Pù, Tà;

2. Địa danh Việt cổ: Kẻ, Sách, Nà;

3. Địa danh cổ (Phù Nam Chân Lạp): (Malayô), (Môn Khơme)”. (Sđd, tr. 35)

Với mỗi loại ký hiệu, ta thấy đều có một phần khái quát và một phần cụ thể nhưng ở phần nào ta cũng không thể biết được tác giả đã lấy cái gì làm tiêu chí phân loại. Ở phần khái quát, nếu bảo rằng tác giả đã lấy tên ngôn ngữ làm tiêu chí thì ta chỉ thấy có tên của tiếng Việt ở 2; còn ở 1 và 3 thì chỉ có “thượng cổ” và “cổ” chứ không thấy tên của bất cứ ngôn ngữ nào. Nếu bảo lấy từng giai đoạn trong sự phát triển lịch đại của ngôn ngữ làm tiêu chí thì “Việt cổ” ở 2 cũng có thể đưa xuống 3, vì cả hai đều “cổ”. Huống chi, thượng cổ cũng là “cổ”, trung cổ cũng là “cổ” mà “cận cổ” thì cũng là “cổ” nên chữ “cổ” ở 2 và ở 3 là một chữ “cô đơn” vì ta chẳng làm sao biết được nó là thứ “cổ” nào. Rồi ở phần cụ thể, nếu bảo lấy từng “địa danh” riêng biệt (Pù, Tà, Nà, v.v.) để minh họa thì “(Malayô)” và “(Môn Khơme)” ở 3 lại không phải là “địa danh”. Nhưng cái điều “đại trái cựa” là ở 3, trong phần khái quát, tác giả lại ghi “Phù Nam”, “Chân Lạp”, là những cái cụ thể của “Malayô” và “Môn Khơme” còn trong phần cụ thể thì ông lại ghi “Malayô” và “Môn Khơme” là những cái khái quát của chính “Phù Nam” và “Chân Lạp”.

Một bài viết với những sai sót sơ đẳng như đã phân tích thì phỏng có bao nhiêu giá trị để chứng minh cho cái luận điểm quan trọng mà tác giả bài viết muốn lăng-xê? Và ông Trương Minh Đạt sẽ chèo chống như thế nào khi ông lại “mượn đôi ý trong bài viết đó để triển khai và soi tỏ một vấn đề từ lâu vẫn băn khoăn?” Ta hãy phân tích một mẩu ngữ liệu của ông làm mẫu. Về từ “pù” – một trong ba chữ “pù, tà, nạy” nằm trong cẩm nang của Lê Trọng Khánh – Trương Minh Đạt đã nối kết với các địa danh “Phù Youn” và “Srock Youn” rồi lập luận như sau:

1. “Khảo sát kỹ, ta sẽ thấy nguồn gốc danh xưng “ấp Việt Nam” hay Srock Youn không phải chỉ bắt đầu do cách gọi của người Khmer. Người Khmer chỉ có mặt tại vùng này (Hà Tiên – AC) sau thế kỷ VII, khi họ chiếm cứ đất của người Phù Nam. Chủ nhân sinh sống trên vùng đất này được minh định bằng chữ Youn = Việt. Chữ Srock là đơn vị cư dân (ấp hay xóm) theo tiếng Khmer. Vì nơi đó có nhóm người Việt ở sẵn từ trước nên gọi là Srock Youn. Cơ bản hơn, địa danh Srock Youn gắn liền với tên một quả đồi trong ấp: Phnom Youn. Srock Youn nằm dưới chân Phnom Youn”. (Sđd, tr. 22)

2. “Chưa hết, xét các áng cổ văn bằng chữ Hán, viết về Hà Tiên, ta thấy còn rất nhiều Phnom Youn = Núi Việt, tại Hà Tiên”. (Sđd, tr. 22)

Nhưng thế nào là “rất nhiều”?

Trương Minh Đạt giải đáp bằng cách đưa ra cái tên “Phù Dung” mà nói rằng nó đã được nhắc đến trong Hà Tiên thập vịnh và Gia Định thành thông chí, đặc biệt với những câu thơ của Châu Cảnh Dương, Đan Bính Ngự, Lộ Phùng Cát và Vương Sưởng trong Hà Tiên thập vịnh. Rồi tác giả khẳng định:

“Toàn khu đồi núi hướng Tây bán đảo Hà Tiên ngày xưa có một tên gọi chung là Phù Dung Vạn Sơn”. (Sđd, tr. 24 – 25)

3. “Chữ phù dung được đặt cho quần thể núi non ở bán đảo Hà Tiên vào thế kỷ thứ 18, chính xác là do tên gọi Phù Youn, theo cách phát âm của người Xiêm hoặc Mã Lai (là những người thường xuyên đi qua, ghé lại hải phận Hà Tiên). Họ đã gọi tất cả vùng núi non ở Mũi Nai là Phù Youn. Người Hoa phiên âm thành Phù Dung. Bởi vì người Xiêm gọi “phù” là núi (người Mã Lai gọi là Phù Nông, người Khmer gọi là Phnom). Tất cả các người Xiêm, Khmer, Chăm, Mã Lai, Lào đều gọi người Việt là “Youn” để phân biệt với dân tộc họ. Trước thế kỷ 18, cả vùng núi non chỉ được biết là Phù Youn, có nghĩa là khu núi của người Việt.

Ấy là cách gọi khách quan của người nước ngoài. Ngày nay trong dân chúng người Khmer còn gọi hai quả đồi tên Phnom Youn, người Việt Nam thông dụng gọi (một quả) là núi Phù Dung. Rõ ràng vùng đất này khi xưa có chủ nhân là người Việt”. (Sđd, tr. 25)

Trở lên là ba điểm chính trong lập luận của Trương Minh Đạt về chữ “pù”. Chúng tôi xin lần lượt nhận xét về từng điểm như sau.

1. Tác giả khẳng định rằng “danh xưng Srock Youn không phải chỉ bắt đầu do cách gọi của người Khmer” vì “chủ nhân xưa sinh sống trên vùng đất này được minh định bằng chữ Youn = Việt” trước đó rồi. Thế nhưng việc người Khmer gọi người Việt bằng Yuôn (chúng tôi chọn cách ghi khác với ông Trương Minh Đạt) là một thực tế lịch sử đã được khẳng định chứ Srock Yuôn mà lại là đất xưa của người Việt cổ thì chỉ là kết quả của một sự “chẩn đoán lịch sử từ xa” mà thôi. Cứ “chẩn đoán” kiểu đó thì dân Việt Nam ở Little Saigon sẽ có thể là chủ nhân xưa của California và bao nhiêu China Town trên địa cầu này đều là đất xưa của Tàu cả.

2. Sở dĩ tác giả khẳng định rằng ở Hà Tiên có rất nhiều “Phnom Youn” là vì, theo tác giả, “Phnom Youn” chính là “Phù Dung” mà Hà Tiên xưa thì lại có “Phù Dung Vạn Sơn”. Nhưng ta hãy xem tác giả lấy ở đâu ra đến “Vạn Sơn = Muôn Núi” (dịch vạn thành “muôn” cho sát nghĩa gốc chứ vạn ở đây chỉ có nghĩa là “nhiều”). Té ra ông đã lấy hàng chục ngàn quả núi đó ra từ một câu thơ của Châu Cảnh Dương trong bài “Bình san điệp thuý”:

Phù Dung la liệt vạn sơn triêu

(theo cách phiên âm của ông) mà ông dịch là

“Rặng núi Phù Dung la liệt sớm”. (Sđd, tr. 23)

Có mấy điều quan trọng cần nêu về cách hiểu, cách phiên âm và cách diễn đạt của tác giả.

Về cách diễn đạt, nếu “la liệt sớm” là một cấu trúc cú pháp – ngữ nghĩa chính xác thì nó sẽ cho phép ta liên tưởng đến các cấu trúc khác đại loại như: la liệt muộn, la liệt rồi, chưa la liệt, còn lâu mới la liệt, v.v.. Vậy rõ ràng đây là một cách diễn đạt bất ổn.

Về cách hiểu, cũng là cách dịch, thì la liệt trong tiếng Hán không phải là “la liệt” trong tiếng Việt. Đây chỉ là những anh “bạn dỏm” (false friends) của nhau mà thôi. La liệt ở đây chỉ đơn giản là “rải rác” và cũng chẳng liên quan gì đến triêu (= sớm) cả vì đó là định ngữ của vạn sơn. La liệt vạn sơn chẳng qua là “muôn núi rải rác”.

Về cách phiên âm thì cái chữ 朝 mà tác giả đọc thành “triêu” (rồi hiểu là “sớm”) ở đây phải đọc thành “triều” nên có nghĩa là “chầu”.

Phù Dung la liệt vạn sơn triều

có nghĩa là

“Muôn ngọn núi rải rác chầu về (ngọn) Phù Dung”.

Tuy đây là một ngọn đồi chỉ cao có 58m nhưng trong con mắt của Châu Cảnh Dương, thì nó là một ngọn núi thuộc hàng “number one” nên mới được bao nhiêu ngọn khác chầu về. Dĩ nhiên đây chỉ là ngoa dụ mà thôi.

Do hiểu sai hẳn thực chất của chữ nghĩa nên tác giả mới dám khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng “câu thơ miêu tả vùng núi có nhiều ngọn, có chung một tên gọi là Phù Dung Vạn Sơn”. Chẳng trách ông đã “thấy còn rất nhiều Phnom Youn = Núi Việt tại Hà Tiên” qua các áng cổ văn bằng chữ Hán.

3. Tác giả khẳng định rằng tên “Phù Youn” là “cách gọi khách quan của người nước ngoài” (không phải người Khmer) và đó là người Xiêm hoặc người Mã Lai. Theo ông, người Xiêm gọi núi là “phù” còn người Mã Lai thì gọi là “phù nông”, do đó, mới ra cái tên “Phù Youn”. Thực ra thì núi trong tiếng Mã Lai là gunong (Indonesia: gunung). Người Mã Lai có bao giờ gọi núi là “phù nông”! Chẳng qua tác giả đã “khuôn” tiếng Mã Lai theo cái mô hình “Phù Youn” của ông mà thôi. Còn người Xiêm thì chắc chắn là đã phải đến Hà Tiên sau người Khmer chứ trước thế nào được. Vậy thì chỉ có chuyện người Xiêm và người Mã Lai “nói theo” người Khmer chứ chắc chắn không có chuyện ngược lại.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3