Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 895 - 904

§ 895. Kiến thức ngày nay, số 452, ngày 1-3-2003

ĐỘC GIẢ: Tôi thường nghe câu:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài;

Chẳng thanh lịch cũng là người Tràng An.

Theo tôi hiểu, đây là câu nói ca ngợi sự lịch lãm của người Hà Nội. Nhưng Hà Nội chưa bao giờ mang tên “Tràng An” còn Tràng An là một địa danh của Trung Quốc, là kinh đô của nhà Hán và một số triều đại kế tiếp. Vậy tại sao trong câu trên đây lại có hai chữ “Tràng An”?

AN CHI: Danh từ riêng “Tràng An” đã được dùng theo ẩn dụ để chỉ “kinh đô” nói chung trong nhiều văn cảnh khác nhau bằng tiếng Hán, rồi bằng cả tiếng Việt. Vì vậy nên, trong câu mà ông đã nêu, nó mới được dùng để chỉ Hà Nội, mà một tên xưa hơn là Thăng Long, còn tên dân dã là i

§ 896. Kiến thức ngày nay, số 453, ngày 10-3-2003

ĐỘC GIẢ: Trong Từ điển Anh – Việt của Viện Ngôn ngữ học do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu và Bùi Ý hiệu đính (Hà Nội, 1975), mục từ “love” có mấy nghĩa đáng chú ý sau đây: “1. Lòng yêu, tình thương (…) 6. (thể) Điểm không, không (quần vợt): love all không-không (hai bên cùng không được điểm nào); love forty không – bốn mươi; a love set một ván thua trắng (người thua không được điểm nào)”.

Xin hỏi: Từ “love” (tình yêu) có tội tình gì mà dân chơi quần vợt lại dùng nó để chỉ điểm “không” trong môn thể thao này?

AN CHI: Đúng ra thì ở đây đã có hai từ “love” thực sự khác nhau. Vậy “nhét” cái nghĩa “điểm không” hay “không điểm (nào)” vào làm một nghĩa của từ love mà nghĩa gốc là “tình yêu thương” là một việc làm không phải lẽ. Tiếc rằng không chỉ quyển từ điển mà ông đã dẫn mới làm như thế. Các quyển từ điển song ngữ khác về tiếng Anh (như Anh – Pháp, Anh – Hán, v.v.) và cả từ điển tường giải (đơn ngữ) tiếng Anh (như của Oxford, Cassel, Webster, v.v.) cũng không hề làm khác.

Song ngữ như Anh – Hoa đại từ điển của Trịnh Dịch Lý (Zheng Yili) và Tào Thành Tu (Cao Chengxiu) do Thương vụ ấn thư quán ấn hành tại Bắc Kinh năm 1996 (tu đính đệ nhị bản) thì ghi:

“love. 1. ái, nhiệt ái, ái đái (xin chú ý rằng đây là danh từ chứ không phải động từ – AC) (…) 9. (thể) linh phân (không điểm); love all song phương linh phân (hai bên (đều) không điểm)”.

Còn tường giải như Webster’s New World College Dictionary, Third Edition, ©1997 thì cũng ghi cho từ “love” đang xét cái nghĩa đã nói: “Tennis a score ofzero” ((Quần vợt) điểm không (không bàn thắng)).

Vậy xử lý nghĩa của từ love như đã thấy thì chỉ là đem râu ông nọ cắm cằm bà kia mà thôi. Về từ nguyên của từ love có nghĩa là “không (điểm, bàn thắng)”, trong quyển Morris Dictionary of Word and Phrase Origins (Harper Collins Publishers, 1988), William và Mary Morris cho biết rằng một độc giả của hai ông bà đã giải thích đại ý như sau:

Tiếng lóng ở Mỹ đã dùng danh ngữ goose egg (trứng ngỗng) để chỉ chữ số “0” (zero). Ẩn dụ này đã đi vào tiếng Pháp theo lối sao phỏng thành l’oeuf ((quả) trứng) mà người Pháp dùng để chỉ điểm số “không” trong thi đấu. Lúc còn sống ở Tân Caledonia (Nouvelle Calédonie) là một vùng lãnh thổ hải ngoại của Pháp, vị độc giả này thường nghe dùng, và tự mình cũng dùng l’oeuf để chỉ điểm “không” trong quần vợt, chẳng hạn quarante – l’oeuf là “40 – 0”. Vị này còn nói thêm rằng mình đã từng nghe một số người khẳng định là ngay ở Pháp người ta cũng dùng lối nói đó để tính điểm trong môn quần vợt (còn cá nhân chúng tôi thì không tin rằng tại Pháp, người ta cũng nói như thế – AC). Về sau, người Anh đã phát âm “l’oeuf” (của tiếng Pháp) thành “love” (trong tiếng Anh) để chỉ điểm “không” trong môn thể thao này.

Trở lên là lối giải thích của vị độc giả nọ nhưng chính William và Mary Morris thì còn nhận xét thêm rằng từ hơn 3 thế kỷ, ngay trong tiếng Anh, love đã là một từ đồng nghĩa với nothing (không gì (cả)) rồi. Bằng chứng là năm 1678, John Dryden đã viết một vở kịch nhan đề All for Love or the World Well Lost (Xem sđd, mục “love”, tr. 361 – 362). Cũng với nghĩa này của love, tiếng Anh còn có một thành ngữ đáng chú ý là (to) play for love. (To) play for love là “(to) play for nothing”, cũng như all for love trong nhan đề vở kịch của Dryden là “all for nothing”. Từ điển Anh – Việt của nhóm Lê Khả Kế (mà ông đã dẫn) đã đối dịch to play for love thành “chơi vì thích, không phải vì tiền”. Cách dịch này cũng là một biểu hiện khác cho thấy xu hướng “hoài cổ” của các nhà biên soạn mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 450. “Hoài cổ” là vì họ vẫn còn quá lệ thuộc vào nghĩa gốc của từ love là “lòng yêu thích” trong khi mà cái nghĩa này và cái nghĩa “nothing” (không gì (cả)) đã “đứt mối tơ vương”, nghĩa là mối quan hệ giữa hai nghĩa đã xa đến… mút chỉ cà tha. Nghĩa là ta đã có điều kiện cần và đủ để tách cái nghĩa “nothing” ra thành một từ “love” hoàn toàn riêng biệt, mà chúng tôi mạn phép gọi là love², một lối nói chuyên môn trong quần vợt, thực sự độc lập với cái từ dùng để chỉ một khái niệm liên quan đến “chức năng” của thần Eros là love¹, có nghĩa là “tình yêu”.

Cuối cùng xin nói thêm đôi điều liên quan đến tiếng lóng goose egg (trứng ngỗng) dùng để chỉ chữ số “0” (không) hoặc điểm “không”. Trước đây, ít nhất cũng là cho đến giữa thế kỷ XX thì giới học trò trong Nam, ít nhất cũng là ở Sài Gòn – Gia Định, cũng có dùng lối nói “ăn trứng ngỗng” để chỉ việc mình “bị ăn zéro”, nghĩa là bị điểm “không”. Vậy không biết đây là chuyện “tư tưởng lớn gặp nhau” hay là chuyện tiếng lóng của dân Ăng Lê và/hoặc Huê Kỳ ảnh hưởng đến tiếng lóng của giới học trò trong Nam?

§ 897. Kiến thức ngày nay, số 453, ngày 10-3-2003

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nhận xét của ông về quyển Đại tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính. Nghe nói tác giả là một người giàu kinh nghiệm trong công việc nghiên cứu chữ Nôm; xin cho biết có đúng như thế hay không.

AN CHI: Theo chúng tôi biết thì ông Vũ Văn Kính đúng là một người giàu kinh nghiệm trong công việc nghiên cứu chữ Nôm. Ông đã dành công sức cho việc nghiên cứu này trong vòng 40 năm và lợi thế của ông là ở chỗ ông lại còn có điều kiện để tiếp cận với khoảng 8.000 trang sách chữ Nôm của Maiorica bên Công giáo, nên đã phát hiện ra một số chữ hiếm, lạ. Tuy nhiên, về quyển Đại tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính, chúng tôi xin có một số nhận xét khái quát sau đây.

Nhược điểm lớn nhất của Đại tự điển chữ Nôm là nó đã được tác giả trình bày một cách hoàn toàn ngược chiều. Tự điển chữ Nôm thì phải đi từ chữ Nôm đến chữ quốc ngữ (là thứ chữ hiện hành rất tiện lợi cho việc ghi lại toàn bộ các tiếng (âm tiết) trong tiếng nói của dân tộc). Người đọc cần đến tự điển chữ Nôm là vì họ muốn biết từng chữ Nôm một phải đọc như thế nào và có bao nhiêu cách đọc. Đằng này tác giả lại đi từ âm của từng tiếng ghi bằng chữ quốc ngữ đến chữ Nôm thì làm sao giúp cho người ta đọc được chữ Nôm? Cách trình bày của tác giả chỉ có thể giúp cho người ta “diễn Nôm” những văn bản viết bằng chữ quốc ngữ mà thôi nhưng thử hỏi ngày nay ai lại cần viết hay sáng tác bằng chữ Nôm vì đây đã là một thứ “tử văn tự”. Cần tra một chữ nào đó của một văn bản Nôm mà lật suốt 1.600 trang của Đại tự điển chữ Nôm ra thì cũng vô phương tìm thấy. Ta chỉ có thể tìm thấy kết quả mong muốn trong những công trình được biên soạn theo hướng ngược lại mà thôi, chẳng hạn trong Bảng tra chữ Nôm của Viện Ngôn ngữ học (Hà Nội, 1976). Công trình này gồm có hai phần: phần thứ nhất, cũng là phần chính, là “Cách đọc chữ Nôm”; phần thứ hai, thực chất là phụ lục hoặc sách dẫn, là “Cách viết chữ Nôm”. Còn Đại tự điển chữ Nôm thì chỉ có cách viết, tương đương với phần phụ mà không có phần chính là cách đọc.

Thực ra, trong ba công trình sơ khởi của mình, tác giả cũng đã có làm theo hướng đúng là có nêu cách đọc chữ Nôm. Ba công trình đó là: Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII, (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992), Bảng tra chữ Nôm miền Nam (Hội Ngôn ngữ học Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) và Bảng tra chữ Nôm sau thế kỷ XVII (Hội Ngôn ngữ học Thành phố Hồ Chí Minh, 1994). Nhưng trong ba công trình này, cách phân chia thành bộ thủ của ông quá sơ lược, hoặc bất hợp lý. Vì vậy nên đến Đại tự điển chữ Nôm, là một công trình dài hơi, vừa tập hợp ba công trình sơ khởi kia, lại vừa bổ sung cho ba công trình này, có lẽ thấy lúng túng nên ông đã bỏ cách đọc (là phần chính) để chỉ làm phần phụ (là cách viết) mà thôi. Rất tiếc là cũng chính vì vậy nên Đại tự điển chữ Nôm không giúp ích nhiều lắm cho người đọc và người học. Thực ra, tác giả có thể làm như trong Bảng tra chữ Nôm của Viện Ngôn ngữ học, là sắp xếp các chữ Nôm vừa theo tổng số nét vừa theo các bộ thủ truyền thống của chữ Hán thì cũng sẽ giúp cho sự tra cứu trở nên dễ dàng hơn nhiều.

Nhược điểm lớn thứ hai của Đại tự điển chữ Nôm là đối với từng tiếng (âm tiết), tác giả đã cung cấp nhiều cách viết khác nhau kèm theo một số thí dụ về cách dùng, viết bằng chữ quốc ngữ (chữ cái La Tinh) mà lại hoàn toàn không cho biết cách viết (chữ Nôm) cụ thể nào ứng với thí dụ cụ thể nào bằng chữ quốc ngữ. Đây là một sự bất tiện lớn cho người đọc, nhất là người nghiên cứu.

Nhược điểm lớn thứ ba là do nhược điểm thứ hai nên ta không thể phân biệt được các từ đồng âm (khác nghĩa) viết như thế nào bởi có những trường hợp tuy khác nghĩa mà viết giống nhau; ngược lại chỉ là một từ mà lại có nhiều cách viết khác nhau.

Trở lên là mấy nhận xét khái quát của chúng tôi về quyển Đại tự điển chữ Nôm, qua đó ta có thể thấy nếu kiến thức phong phú mà được kết hợp với phương pháp trình bày khoa học thì người đọc sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ công trình này.

§ 898. Kiến thức ngày nay, số 454, ngày 20-3-2003

ĐỘC GIẢ: Trả lời cho ông Lê Tuấn Thọ, ông đã viết chính ông cũng thấy (như ông Thọ) rằng trong bài “Khoảng trống từ vựng, một biểu hiện của sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ”*, tác giả Trần Xuân Điệp “đã ngầm hiểu rằng doctor trong tiếng Anh là một danh từ giống đực”*. Nhưng nếu tác giả này cho biết ông ta không nghĩ rằng doctor là một danh từ giống đực – vì danh từ trong tiếng Anh hiện đại không có giống ngữ pháp (như ông Thọ cũng đã khẳng định trên Kiến thức ngày nay, số 452) – thì ông sẽ trả lời như thế nào?

AN CHI: Thì câu trả lời của chúng tôi sẽ rất đơn giản:

Danh từ “doctor” (của tiếng Anh) mà Trần Xuân Điệp đưa ra để minh họa cho khái niệm “khoảng trống từ vựng chỉ phụ nữ trong các nghề nghiệp/việc làm” là một thí dụ hoàn toàn không thích hợp. Lý do: Nếu đó không phải là một danh từ giống đực, thì ở đây ta sẽ chẳng làm gì có cái “khoảng trống từ vựng” đã nói.

§ 899. Kiến thức ngày nay, số 454, ngày 20-3-2003

ĐỘC GIẢ: Trong một bài phỏng vấn nhà văn Tô Hoài nhan đề “Kỉ niệm về những ngày đầu Cách mạng tháng Tám” đăng trên tạp chí Văn học, số 8-2000, tr. 11 – 12, ông Tô Hoài đã mở đầu bằng một câu nguyên văn như sau:

“Tôi vốn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội trước thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp đô hộ”.

Vậy tính đến thời điểm trả lời phỏng vấn thì nhà văn Tô Hoài khoảng bao nhiêu tuổi?

AN CHI: Chỉ cần sinh vào năm đầu tiên của thế kỷ XX thì, đến khi trả lời phỏng vấn, tính theo lối truyền thống, nhà văn Tô Hoài cũng đã thọ bách niên; huống chi ông lại ra đời “trước thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp đô hộ”! Thực ra thì đến thời điểm đang xét Tô Hoài mới thọ tám mươi vì ông sinh năm 1920. Chữ “trước” trong câu trả lời của Tô Hoài có lẽ chỉ là do lỗi của người phỏng vấn hoặc do khâu kỹ thuật mà thôi. Hẳn là ông đã nói:

“Tôi vốn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội trong thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp đô hộ”.

§ 900. Kiến thức ngày nay, số 454, ngày 20-3-2003

ĐỘC GIẢ: “Súng ống”: cái “ống” thì có liên quan gì đến vũ khí mà lại đi chung với “súng” còn “súng” thì do đâu (từ nguyên) mà ra?

AN CHI: Tự vị Annam Latinh của Pierre Pigneaux de Béhaine do Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch (phần La Tinh) và giới thiệu (Nxb. Trẻ, 1999) có mục từ sau đây:

“Ống đồng. Thứ ống để bắn tên hoặc bắn đạn”.

Vậy, ống cũng là một thứ vũ khí. Còn về từ nguyên của “súng” thì trong bài “Súng ống, đạn dược”*, tác giả Dương Xuân Đống cho biết như sau:

“Súng, là một từ thuần Việt. Để tạo từ súng 銃, chữ Nôm đã dùng phép hài thanh bằng hai từ Hán: từ kim 金 biểu ý từ sung 充 biểu âm. Từ súng ở Việt Nam có từ bao giờ, hiện chưa rõ, điều chắc chắn là phải sau thế kỷ XIV, khi vũ khí nóng bắt đầu xuất hiện nhưng nó cũng đã có mặt từ lâu trong ngôn ngữ dân gian: điếc không sợ súng – bắn súng không nên phải đền đạn…

(…)

Ở đây có một điều cần lưu tâm là tiếng Hán cổ không có từ súng. Có thể vì vậy mà trong Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh không thấy ghi. Thế nhưng ở tiếng Hán hiện đại, được ghi trong Từ điển Hán Việt (Hầu Hàn Giang – Mạch Vĩ Lương) lại thấy từ súng 銃, có dạng tự hệt kiểu chữ Nôm vừa nêu. Phải chăng đây là một từ Hán gốc Việt mới ra đời?”. (Bđd, tr. 25)

Rất tiếc là tuy muốn làm từ nguyên học nhưng tác giả Dương Xuân Đống lại tỏ ra có nhiều phần tùy tiện và hời hợt. Làm sao có thể căn cứ vào Hán – Việt từ điển của Đào Duy Anh mà kết luận rằng “tiếng Hán cổ không có từ súng”?

Quyển từ điển này chỉ thu thập có “5.000 đơn tự” trong khi cái kho Hán tự lại có đến mấy chục ngàn chữ thì làm sao nó có thể đầy đủ cho được? Ngay cả nhữngkhái niệm cơ bản như “từ” và “chữ” mà tác giả cũng hãy còn lẫn lộn. Vì thế nên ông mới viết “chữ Nôm đã dùng phép hài thanh bằng hai từ Hán” (!).

Thực ra thì súng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 銃 mà âm Hán Việt hiện đại là…“súng” và cũng có nghĩa là… súng. Vì vậy nên Mathews’ Chinese-English Dictionary mới đối dịch là “A pistol or gun” còn Dictionnaire classique de la langue chinoise của F. S. Couvreur thì đối dịch là “arme à feu”. Những lời đối dịch bằng tiếng Anh và tiếng Pháp trên đây đều có nghĩa là… súng và cái từ đang xét đã ra đời trong tiếng Hán tự thời xưa. Bằng chứng là nó đã được ghi nhận trong Quảng vận là một quyển tự điển ra đời năm 1008, cách đây gần 1000 năm. Vậy thì làm sao có thể nói rằng “Tiếng Hán cổ không có từ súng”? Và thực ra thì chính người Việt đã lấy Hán làm Nôm, đọc nguyên âm Hán Việt và dùng nguyên nghĩa đã có từ trong tiếng Hán nên tất nhiên càng không thể có chuyện “đây là một từ Hán gốc Việt mới ra đời”.

§ 901. Kiến thức ngày nay, số 455, ngày 1-4-2003

ĐỘC GIẢ: Tại sao khi “bị lộ”, Thuý Kiều phải rời Chiêu Ẩn am của sư Giác Duyên trongtư thế của một người đi trốn mà lại có thể “mặn phấn tươi son”, như đã được tả trong câu 2089 của nhiều bản Kiều quốc ngữ (chẳng hạn của Bùi Kỷ – Trần Trọng Kim, của Nguyễn Thạch Giang – Trương Chính 2002, v.v.)?

AN CHI: Thực ra thì câu “thấy nàng mặn phấn tươi son” chỉ là một dị bản đã được “tân trang”, nghĩa là đã được nhuận sắc, có lẽ bắt đầu từ bản Nôm của Kiều Oánh Mậu 1902. Chứ trong hai bản Nôm cổ nhất là Liễu Văn Đường 1871 (do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị (nhan đề: Truyện Kiều Bản Nôm cổ nhất Liễu Văn Đường 1871), Nxb. Văn học – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2002) và Duy Minh Thị 1872 (do Nguyễn Tài Cẩn công bố và biên khảo (nhan đề: Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002) thì câu đó là:

体娘*粉**

Nguyễn Tài Cẩn đọc là:

Thấy nàng lạt phấn nhàm son

và hiểu câu này như sau:

“(…) Thế có nghĩa là nàng Kiều đẹp. Đẹp nhưng sao lại mô tả là lạt phấn nhàm son?

Xin thưa: đây là lối khen cổ điển, dùng câu đặt theo cú pháp trong Cổ Hán ngữ!

Trong văn ngôn, tính từ có cách dùng đặc biệt là có thể đặt trước một danh từ chỉ sự vật, và sự vật đó:

– hoặc được coi là có tính chất nêu ở tính từ

– hoặc bị làm cho có tính chất đó.

(…)

Theo mô hình cú pháp đó, ở đây phải hiểu như sau:

– Lạt phấn là thấy nàng đẹp, “làm cho phấn bị lạt đi”

– Nhàm son là thấy nàng đẹp, “làm cho son bị nhàm đi”

(…)

Lời khen theo cú pháp lắt léo này không dễ hiểu đối với nhiều người”. (Sđd, tr. 46 – 47)

Cách giải thích trên đây của Nguyễn Tài Cẩn đã không đi vào thực chất của vấn đề vì:

– “Đẹp nhưng lại mô tả là lạt phấn nhàm son, – nếu có thật là bốn tiếng này mô tả vẻ đẹp – là chuyện tu từ chứ không phải chuyện cú pháp.

– Nếu có đúng là chuyện cú pháp thì đó cũng chỉ là cú pháp Cổ Hán ngữ chứ không phải cú pháp của tiếng Việt cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Ta không thể hình dung được rằng Nguyễn Du lại có thể bắt ép tiếng Việt ở thời của ông lại phải theo cú pháp của tiếng Hán thời thượng cổ.

– Cấu trúc cú pháp kiểu “lạt phấn”, “nhàm son” rất quen thuộc trong tiếng Việt (sạch bụi, trụi lông, trơ xương, sún răng, rậm râu, bự phấn, nghẹt xăng, nguyên xi, nghẽn mạch, v.v.) nên không cần nhờ đến cú pháp Cổ Hán ngữ mới có được.

Còn Nguyễn Khắc Bảo thì đọc thành:

Thấy nàng lướt phấn gièm son

và hiểu như sau:

“Với vẻ đẹp sẵn có (…) thì dù Thuý Kiều có coi thường, lướt qua chẳng thèm dùng phấn; lại xem khinh, chê bai cả son nữa nhưng vẻ đẹp trời cho của nàng vẫn không bị che khuất bởi cái mộc mạc của áo nâu sồng”*.

Thực ra thì cả cách đọc lẫn cách hiểu của ông Nguyễn Khắc Bảo đều không ổn. Chữ mà Nguyễn Tài Cẩn đọc là “lạt” thì ông đọc thành “lướt” với lý do: “Chữ Nôm * do có thủy + lạt nên có thể đọc là lướt với ý nghĩa là vượt qua, càn qua, sấn qua, lấn lướt” Thực ra, nếu muốn thể hiện những động tác trên đây bằng yếu tố biểu ý trong chữ Nôm thì người ta sẽ dùng bộ “túc” hoặc bộ “(quai) sước” chứ không phải bộ “thủy”. Ở thời của mình, Nguyễn Du nào đã biết đến môn lướt ván cho cam! Nhưng dù ông có biết đến môn thể thao trên nước này đi chăng nữa thì cái sự lướt trên nước cũng không qua mặt được cái sự lướt bằng chân vì nước ở đây chỉ là môi trường chứ bộ “túc” và bộ “(quai) sước” thì mới chính cống là những nghĩa phù thích hợp để diễn đạt những sự di chuyển của con người.

Thế nhưng để bác bỏ âm “lạt”, ở một đoạn khác, ông Nguyễn Khắc Bảo còn viết rằng “không cần có bộ thủy vẫn đọc là lạt rồi, viết thêm bộ thủy là vi phạm nguyên tắc tiết kiệm của các ông đồ nho”. (Bđd, tr. 22). Lời khẳng định này chứng tỏ ông Nguyễn Khắc Bảo không ngờ rằng trong lịch sử của chữ Nôm thì, càng về cuối, cái “nguyên tắc tiết kiệm của các ông đồ Nho” càng bị vi phạm nhiều hơn nên những chữ có bộ phận biểu ý (như bộ thủy mà ông đã nêu) mới càng ngày càng nhiều*.

Về cách đọc thì như thế còn về nghĩa và ý mà lại suy từ lướt ra “coi thường”, “chẳng thèm dùng” và từ gièm ra “xem khinh: “chê bai” thì cũng là chuyện khó hình dung. Dĩ nhiên, rất có thể là lần này ông Nguyễn Khắc Bảo cũng sẽ nói rằng đó là ông hiểu các từ gièm và lướt theo “nghĩa bóng” như ông đã từng làm với từ dệt trong câu “Lời lời châu dệt, hàng hàng gấm thêu” (câu 1316) mà “dệt” là một cách đọc do ông “lần đầu tiên phát hiện ra”*. Cách đọc và cách hiểu như thế không phù hợp với câu 2089. Đây không phải là nhận xét trực tiếp của người kể chuyện mà lại là nhận xét của nhân vật Bạc bà về dung mạo của Kiều ngay trong những giây phút tiếp xúc đầu tiên. Vậy mụ ta chỉ có thể thấy Kiều có trang điểm hay không trang điểm; nếu có trang điểm thì trang điểm kỹ lưỡng hay qua loa, v.v. chứ làm sao có thể nhìn thấy được tâm trạng của Kiều mà biết nàng “coi trọng” hoặc “xem khinh” son phấn? Huống chi, nàng đang bỏ trốn thì còn lòng dạ nào mà đắn đo chuyện coi trọng hoặc xem khinh mấy thứ phù du đó?

Chúng tôi cho rằng câu 2089 chẳng những không hề ca ngợi sắc đẹp của Kiều mà còn không phải là chỗ để Nguyễn Du làm việc đó. Câu này nằm trong đoạn mà tác giả tập trung tình tiết và ngôn từ để nêu bật cái cảnh sa cơ thất thế của Kiều. Nó hợp với câu 2090 thành một liên lục bát chặt chẽ mà chữ “thóp” của câu sau (“Mừng thầm được thóp bán buôn có lời”) sẽ góp phần soi tỏ ý của câu trước, tức câu 2089 đang xét, một cách rành mạch. Vậy câu này có thể đọc và hiểu như thế nào?

Chúng tôi xin mạo muội đọc là:

Thấy nàng nhạt phấn nhàm son

và mạo muội hiểu nhạt phấn nhàm son là phấn thì không đậm mà son thì cũng chẳng thắm. Nghĩa là Kiều chỉ có thể trang điểm vội vàng, qua loa để còn liệu mà tìm đường chạy trốn. Chính cái sự “nhạt phấn nhàm son” này mới là cái “thóp” (hoặc do xuất thân nhà nghèo, hoặc do sa cơ thất thế, v.v. trước cách nhìn của Bạc bà (nên làm sao có thể trang điểm cho ra hồn được?)) để cho Bạc bà “nắm” mà bắt bí Kiều một cách sỗ sàng.

Chúng tôi xin mạo muội đọc rồi hiểu như trên và rất lấy làm lạ trước cái thiên hướng hễ cứ nhắc đến Kiều thì cứ phải ca ngợi sắc đẹp của nàng cho bằng được, thậm chí ca ngợi một cách vô lý. Chẳng hạn:

“Mụ Bạc bà nhìn thấy Thuý Kiều ở Chiêu Ẩn am tuy đang “ăn mặc nâu sồng” nhưng vì vốn có vẻ đẹp “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” thì dù không thoa phấn (lướt phấn) cũng chẳng thèm bôi son (gièm son) mà cái “tòa thiên nhiên” trời cho vẫn “rõ màu trong ngọc trắng ngà (…)”*.

Chuyện “lướt phấn gièm son” – mà chúng tôi đọc là “nhạt phấn nhàm son” – chỉ là chuyện “dung nhan (nói rõ ra chỉ là chuyện mặt mũi) của tiểu thiền Thuý Kiều”. Thế mà qua đó ông Nguyễn Khắc Bảo lại nhìn thấy được cả cái “tòa thiên nhiên trong ngọc trắng ngà” của nàng nữa thì đó quả là một cách nhìn hơi “xếch”, nghĩa là một cách nhìn không được thẳng và không còn kiêng dè gì đến tôn giáo.

§ 902. Kiến thức ngày nay, số 455, ngày 1-4-2003

ĐỘC GIẢ: Gần đây trên một vài tờ báo, khi nói đến mấy tiếng “võ sĩ đạo” thì một vài tác giả lại chú là “samurai” trong ngoặc đơn. Xin cho biết chú như thế có đúng hay không.

AN CHI: Võ sĩ đạo trong tiếng Nhật là bushido và bushido là một đơn vị từ vựng tiếng Nhật gốc Hán, có nghĩa là truyền thống võ sĩ, quy tắc của võ sĩ. Còn samurai thì lại là một đơn vị từ vựng tiếng Nhật… “gốc Nhật”, có nghĩa gốc (xa xưa) là thị vệ, và nghĩa hiện hành là hiệp sĩ, võ sĩ, v.v.. Vậy samurai chỉ đồng nghĩa (nhưng không cùng gốc) với bushi (= võ sĩ) chứ không phải với bushido.

§ 903. Kiến thức ngày nay, số 456, ngày 10-4-2003

ĐỘC GIẢ: Trong Truyện Kiều, khi Mã giám sinh đưa Kiều về đến nơi và “lễ xong hương hỏa gia đường” thì “Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay” rồi

“Dạy rằng con lạy mẹ đây,

Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia”.

“Cậu mày” đương nhiên là Mã giám sinh.

Nhưng với lối xưng hô như thế thì có phải Tú bà muốn gián tiếp nói rằng họ Mã là em (hoặc anh), dù là em (hoặc anh) “kết nghĩa”, của mụ ta hay không?

AN CHI: Nếu ta cả tin theo Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1974) thì quả đúng là như thế vì tác giả đã ghi nguyên văn như sau:

“Cậu: Em của mẹ. Ví dụ: Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia (câu 952)”.

Và nếu ta lại cẩn thận đối chiếu thêm với Từ điển Truyện Kiều (của Đào Duy Anh), tái bản lần thứ nhất, do Phan Ngọc bổ sung và sửa chữa để nâng cấp (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1987) thì ta lại càng vững tin rằng ý của Tú bà quả đúng là như thế vì ngữ học gia Phan Ngọc đã “bổ sung và sửa chữa” như sau:

“Cậu: Em trai hay anh trai của mẹ. Thí dụ: Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia (câu 952)”.

Nghĩa là với sự bổ sung của ngữ học gia Phan Ngọc thì mối quan hệ Tú – Mã, nếu không phải tình tỉ đệ (cậu: em của mẹ) như Đào Duy Anh đã giảng thì cũng chỉ là tình huynh muội (cậu: anh của mẹ) mà thôi chứ… không có gì hơn.

Rất tiếc rằng học giả Đào Duy Anh và ngữ học gia Phan Ngọc chỉ dừng lại ở câu 952 chứ nếu các vị đi xa hơn cho đến câu 964 (“Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi”) thì các vị sẽ phải giảng rằng cậu ở đây lại là “bố”, là “cha”, nghĩa là “chồng của mẹ” chứ không phải “anh” hay “em trai”. Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên đã giảng như sau:

“Cậu (…) 6. Từ người cha dùng để tự xưng với con, người con gọi cha (trong một số gia đình, thường là ở thành phố) hoặc người vợ gọi chồng (gọi theo cách gọi của con cái trong gia đình)”.

“Cậu mày” là “chồng min” (= chồng tao); vậy (không kể cái đêm ở trú phường) nếu Mã giám sinh không phải là “cha”, là “bố” của Kiều thì còn là… “gì” nữa?

§ 904. Kiến thức ngày nay, số 456, ngày 10-4-2003

ĐỘC GIẢ: Liên quan đến từ chiềng (trong mường chiềng), trên Kiến thức ngày nay, số 425, ông có dẫn lời của Huệ Thiên như sau:

“Chiềng là một từ của các ngôn ngữ Tày – Thái, bắt nguồn ở một từ Hán ghi bằng chữ 城 mà Hán Việt hiện nay đọc là thành”.

Nhưng một người bạn ở Hà Nội đã gởi thơ cho biết trên tạp chí Dân tộc học, số 2-2001, trong bài “Người Môn và sự phát triển của Đông Nam Á lục địa”, tác giả Lương Ninh lại khẳng định như sau:

“Các trung tâm quần cư của người Môn, gọi là Chiềng (Chiềng (sic), Giềng) vẫn được lưu giữ, như Chiềng Không, Chiềng Tung, Chiềng Sên… nằm rải rác trên Me Ing, một nhánh thượng lưu Mê Kông, rồi Chiềng Ray, Chiềng Mai, Xiêng Hùng, Xiêng Khoảng… hơi lùi xuống phía Nam, xen kẽ bên cạnh các địa danh Thái như Mương Phang, Mương Nan, Mương Paya, Sip Soong Bản Na”.

Cứ theo đoạn văn trên đây của Lương Ninh thì mường (tác giả này viết “Mương”) mới là tiếng Thái còn chiềng là tiếng Môn (chứ không phải Tày- Thái như lời của Huệ Thiên). Vậy xin ông cho biết ý kiến của ông như thế nào.

AN CHI: Cho đến nay, các nhà Thái học đều nhất trí rằng chiềng, mường, viềng là những yếu tố Thái và từng khái niệm chứa đựng trong mỗi từ này đều có một nội hàm rành mạch và cụ thể.

Trong Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái của Viện Dân tộc học do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (Hà Nội, 1977), chẳng hạn, ta có thể đọc thấy như sau:

“Chiềng: nơi trung tâm của một mường, ở đó đặt bộ máy thống trị toàn mường. Chiềng thường là một bản lớn hay có khi là hai, ba bản. Đối lập với chiềng là pọng, tức bản dân. Dân ở chiềng thường là họ hàng quý tộc, các chức dịch lớn, các tay sai thân cận nhà quan, nên thường khinh miệt dân các pọng tức dân ở các bản dân.

Chiềng xưa là tên cũng dùng để chỉ một mường. Ví dụ Mường Muổi gọi là Chiềng Pha. Nay ta thường gặp chữ chiềng là chữ đứng đầu tên một xã, như xã Chiềng Cơi, Chiềng An, Chiềng Xôm. Ở Lào, biến âm của Chiềng là Xiềng: Xiềng Đông, Xiềng Tông, Xiềng Khoảng, v.v.”. (Sđd, tr. 440)

Ngược trở lại phần thứ nhất (“Truyện kể bản mường” (Quám tô mương)) của công trình này, ta có thể bắt gặp rất nhiều địa danh mà yếu tố thứ nhất là chiềng:

“Chúa qua Nặm Cá, về Chiềng An, Chiềng Cầm, Cọ, Kẹ”. (tr. 59)

“Pha Phòng Cằm trị vì đất Chiềng Đông, Chiềng Tòng (…) Mường Lay còn có tên là Chiềng Vai”. (tr. 66)

“Chúa dựng nhà cúng đẳm ở Chiềng Ten, Chiềng Cang”. (tr. 69)

v.v. và v.v..

Còn trong Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam của Cầm Trọng (Hà Nội, 1978), ta có thể đọc thấy như sau:

“Lỵ sở của “mường phìa” người Thái gọi là “mường” hay “chiềng”.

(…)

Khi nói đến “chiềng” thì thường người ta nghĩ đến cái đơn vị lỵ sở của một “mường”. Và như vậy “mường” hay “chiềng” theo nghĩa chỉ lỵ sở sẽ là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của “mường phìa” hay “châu mường”. Đây là nơi tập trung quyền lực cao nhất của một dòng quý tộc thống trị ở “mường phìa” hay “châu mường”.

(…)

“Mường” hay “chiềng” còn là nơi chứa đựng linh hồn và vận mệnh của mường. Nó còn là nơi hội hè và tổ chức các cuộc vui chơi cho nhân dân.

(…)

“Mường” hay “chiềng” là trung tâm nên mọi thành viên trong “mường” đều có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ nó (…) Khi có giặc đến thì phải bảo vệ “mường” hay “chiềng” vì mất nơi trung tâm coi như mất tất cả đất “mường”. Để bảo vệ “chiềng” người ta phải xây đắp xung quanh một lớp thành lũy gọi là “viềng” (cũng có nơi gọi là “vinh” hay “vềnh”)”. (Sđd, tr. 329 – 332)

Cứ như trên thì rõ ràng chiềng là một đơn vị hành chính – xã hội của người Thái. Kiểu tổ chức này thực ra không chỉ hiện diện ở địa bàn nay là Thái Lan và Lào như tác giả Lương Ninh đã giới hạn mà còn có mặt ở Tây Nam Trung Quốc, đặc biệt là tại vùng Xíp Xoong Pan Na (Tây Song Bản Nạp), và cả vùng cực Đông Myanmar giáp với Trung Quốc, Lào và Thái Lan nữa. Trong Thập nhị bản nạp chí (Chính trung thư cục, Đài Bắc, in lần đầu, 1955), tác giả Lý Phất Nhất khẳng định rõ ràng rằng chiềng là một loại đơn vị hành chính của người Thái, tương đương với trấn, với thủ phủ, mà người Trung Quốc đã phiên âm bằng các chữ cảnh 景, cảnh 耿, thanh 清, chỉnh 整, xương 昌 (Xem tr. 2, 184).

Vậy trước khi khẳng định rằng chiềng là “trung tâm quần cư của người Môn”, lẽ ra Lương Ninh đã phải bác bỏ được cái sự thật trên đây bằng những lý lẽ đủ sức thuyết phục. Rất tiếc rằng chẳng những ông không làm điều đó mà ông lại còn bộc lộ nhiều sai lầm.

Chẳng hạn ông đã sai khi định vị vùng Xíp Xoong Pan Na (Sip Soong Bản Na) của Trung Quốc ở cùng một miền vĩ độ với Mương Phang, Mương Nan, Mương Paya của Thái Lan!

Hoặc như ông đã sai khi viết rằng “ngôn ngữ Nam Á còn gọi là Môn – Khơme” (Bđd, tr. 6) mà không ngờ rằng Môn – Khmer chỉ là một chi của họ ngôn ngữ Nam Á. Thế thì có khác gì nói rằng động vật cũng gọi là chim, hoặc động vật cũng gọi là cá, v.v.!

Chẳng những cho rằng chiềng là một yếu tố Môn, ông còn gán sai nguồn gốc cho một từ Thái khác là doi (theo cách viết của ông) mà ông cũng cho là của tiếng Môn. Ngay trong cách ghi ông cũng đã không đúng vì đây là đoi [doj] chứ không phải doi [zoj]. Đoi là một từ Thái bắt nguồn ở (hoặc cùng gốc chung với) từ Hán ghi bằng chữ 堆 mà âm Hán Việt nay là đôi, âm Hán Việt xưa hơn nữa là đồi, và cũng có nghĩa là… đồi, y như từ đoi của tiếng Thái. Ông cứ ngỡ rằng đoi là một yếu tố Môn cổ trong các “địa danh” Đoi Inthanon, Đoi Suthep, Đoi Khuntan, Đoi Chiêng Dao, Đoi Chomthong Wat, Đoi Tung. Thực ra đây là một hình vị Thái hoàn toàn tự do, chẳng những có mặt trong các ngữ danh từ kể trên, mà còn có mặt từ lâu đời, trong một quán ngữ “rặt Thái” là chao khao chao đoi, có nghĩa là “người núi người đồi”, nghĩa là người miền núi.

Thực ra, chỉ cần quen quen với tiếng Thái, ta cũng đã nhận ngay ra rằng Đoi Inthanon, Đoi Suthep là những địa danh do người Thái (Xiêm) đặt ra, trong đó có những yếu tố gốc Pali “rặt màu sắc Thái” như:

Intha < Inda (Sanskrit: Indra);

Thêp (Lương Ninh ghi: thep) < deva (thần, trời, v.v.).

Vậy những cứ liệu ngôn ngữ trên đây, mà Lương Ninh cho là Môn cổ, thực chất lại là Thái và đó là những cứ liệu quá yếu nên không thể chống đỡ được cho cái luận điểm quá quan trọng mà ông muốn đưa ra.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3