Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 885 - 894
§ 885. Kiến thức ngày nay, số 446, ngày 1-1-2003
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 442, nhân giải thích về hai tiếng “vân vân” (v.v.), ông có liên hệ đến mấy tiếng “et cetera” trong tiếng Pháp. “Et” là “và” còn riêng “cetera” thì tìm không thấy trong từ điển.
AN CHI: Cetera là hình thái số nhiều, giống trung của đại từ bất định ceterus trong tiếng La Tinh. Ceterus là hình thái giống đực, số ít mà hình thái giống cái là cetera còn giống trung là ceterum, có nghĩa là “cái khác”. Số nhiều tương ứng của từng giống là: ceteri (g.đực), ceterae (g.cái), cetera (g.trung), có nghĩa là “những cái khác”. Ta dễ dàng thấy rằng ở đây hình thái giống cái số ít và hình thái giống trung số nhiều trùng với nhau vì đều là cetera. Trong et cetera thì cetera là giống trung số nhiều nên et cetera có nghĩa là “và những cái khác”.
Sở dĩ ông không tìm thấy từ cetera riêng lẻ trong từ điển tường giải tiếng Pháp hoặc từ điển song ngữ (Pháp – Việt, Pháp – Anh, v.v.) là vì tiếng Pháp chỉ mượn “trọn gói” cụm từ et cetera (hoặc et caetera) của tiếng La Tinh chứ không mượn riêng từ cetera (hoặc caetera).
§ 886. Kiến thức ngày nay, số 447, ngày 10-1-2003
ĐỘC GIẢ: Trước đây hơn nửa thế kỷ, cũng như nhiều người, sau khi nghiền ngẫm và buông mình cho sự lôi cuốn của dòng thơ, cá nhân tôi cũng có riêng một số câu Kiều ưa thích nhất, trong đó có câu 433 là đề tài bàn luận trên Kiến thức ngày nay, số 441. Tôi chỉ nói về sự cảm xúc của riêng tôi là:
Câu “Nhặt thưa gương giọi đầu cành”, gợi cho tôi hình ảnh mình đang ở dưới trăng. Ánh trăng in bóng những tàn cây trên mặt đất chỗ đậm chỗ thưa. Khi lá cành hắt ánh trăng thì có những lấp loáng tương tự như ánh sáng bị “gương” phản chiếu. Nếu lá và cành không hắt ánh trăng ngược trở lên thì không có bóng trên mặt đất. Mà phải có bóng thì mới thấy rõ sự “nhặt thưa” của lá cành. Do đó nên theo tôi “nhặt thưa” rất gắn bó với “gương giọi đầu cành”.
Nếu nay quí vị vận dụng phép chiết tự hoặc dùng những sự suy luận sâu xa nào khác để đề nghị phần cuối của câu là “gương gối đầu cành” hay “gương gội đầu cành” thì hai chữ “nhặt thưa” trở thành gượng ép vì nó quá xa rời với đoạn sau của câu thơ.
Tôi ca ngợi cái thiện chí muốn sửa sai vì nạn “tam sao, thất bổn” trong văn học. Nhưng trong khi chưa biết chắc chắn đâu là sai đâu là đúng thì chúng ta nên thận trọng.
Nếu có nhiều bản chép khác nhau mà không phân biệt được bản gốc thì cứ kê ra hết để mọi người tùy nghi chọn lấy cái nào mình thích. Bởi thế nên:
Mặc người mua khế bán chanh
Lòng riêng gương giọi đầu cành nhặt thưa.
AN CHI: Chúng tôi rất tiếc là đã phải đổi chữ (“giọi” thành “gội”) của một trong những câu Kiều mà ông ưa thích nhất. Nhưng nếu ông vui lòng đọc lại cách hiểu của chúng tôi về chữ gội và về cả câu “Nhặt thưa gương gội đầu cành” thì ông sẽ thấy chữ tuy thay đổi mà hiệu quả về hình ảnh thì không khác. Thật vậy, “Gội là hắt, là giội từ trên xuống rồi lan tỏa ra khắp cái vật thể được nói đến (…)”. Cái nghĩa đã nói trên đây của chữ gội mà vận vào câu Kiều thứ 433 thì rõ là quá hợp lý: Ánh trăng hắt xuống và lan tỏa trên (các) cành cây (vườn nhà Vương ông) một cách nhặt thưa “theo tỷ lệ thuận” với sự nhặt thưa của những cành (cây) đó”, như chúng tôi đã viết trên Kiến thức ngày nay, số 441. Đã như thế thì dĩ nhiên là “ánh trăng cũng in bóng những tàn cây trên mặt đất chỗ nhặt chỗ thưa” như chính ông đã viết. Vậy chữ tuy thay đổi nhưng cái hiệu quả về hình ảnh thì không khác:
“Cái hiện thực chỗ thưa chỗ nhặt này của ánh trăng làm cho hình và bóng của nàng Kiều trong đêm lúc ẩn lúc hiện, mờ mờ ảo ảo, thích hợp một cách rất “xi-nê-ma” với cái cảnh lén lút của nàng xăm xăm băng lối vườn khuya một mình mà đi tìm người tình”, như chúng tôi đã viết trên Kiến thức ngày nay, số 435. Cái hiệu quả của chữ nghĩa rõ ràng là như thế nên không thể nói rằng chữ “gội” thua chữ “giọi”. Chẳng qua là do ta đã quá quen với chữ “giọi” trong suốt thế kỷ XX, có lẽ là bắt đầu với bản Kiều Oánh Mậu 1902, nên mới dễ dị ứng với một sự thay đổi về ngôn từ mà thôi. Mà dù chữ “gội” có dở hơn đi nữa thì sự thay đổi đó vẫn cần thiết nếu nó cho phép ta thực sự tiếp cận với chữ gốc trong nguyên tác. Ta không nên sợ sự thay đổi sẽ làm cho Truyện Kiều dở đi chứ không hay hơn mà chỉ cần sợ sự thay đổi đó dẫn ta đi càng ngày càng xa với chữ (nghĩa là âm và nghĩa của từng từ) của Nguyễn Du vì chắc hẳn là tác giả cũng chẳng cần ai “nhuận sắc” cho đứa con tinh thần của mình cả. Chữ “giọi” theo chúng tôi, chẳng qua chỉ là hậu quả của một ca giải phẫu thẩm mỹ từ chữ gội mà thôi. Dưới đây, xin nói rõ thêm một chút về chữ này.
Bản Liễu Văn Đường 1871 viết * (bộ “thủ”), bản Duy Minh Thị 1872 viết 檜 (bộ “mộc”) còn bản Kiều Oánh Mậu 1902 thì viết 燴 (bộ “hoả”). Ba cách viết đó chỉ khác nhau ở nghĩa phù (cũng gọi hình phù) chứ thanh phù, tức bộ phận ghi âm đều là hội 会, 會. Chữ hội dùng để ghi âm “gội” là một hiện tượng hoàn toàn bình thường. Trong Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII của Vũ Văn Kính (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992), ở cả phần tra ngược lẫn tra xuôi, ta đều có thể thấy “gội” ghi bằng 檜 (tr. 34) hoặc chữ 檜 đọc là “gội” (tr. 127). Trong Đại tự điển chữ Nôm, cũng của Vũ Văn Kính (Nxb. Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh – Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2002), có ba cách viết chữ giọi mà không có chữ nào hài thanh bằng chữ “hội” (tr. 512) còn chữ gội được viết bằng bốn cách trong đó có 檜 (tr. 533). Vậy cách đọc của chúng tôi có cơ sở rất rõ ràng.
Rất may cho chúng tôi là ông còn chủ trương “nếu có nhiều bản chép khác nhau mà không phân biệt được bản gốc thì cứ kê ra hết để mọi người tùy nghi chọn lấy cái nào họ thích”. Vậy việc chúng tôi đưa ra chữ “gội” không hề mâu thuẫn với ý kiến này của ông. Và nhân tiện, xin nói thêm rằng, với quan điểm hợp lý này, hẳn là ông sẽ được thỏa mãn nếu ông tìm đọc quyển Tư liệu Truyện Kiều – Bản Duy Minh Thị 1872 của Nguyễn Tài Cẩn do Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2002. Theo Nguyễn Tài Cẩn thì đây là bản gần với bản gốc nhất và trong bản này ta sẽ thấy có rất nhiều chỗ khác với những gì ta đã được đọc từ trước đến nay.
§ 887. Kiến thức ngày nay, số 447, ngày 10-1-2003
ĐỘC GIẢ: INALCO là gì? Tại trang bìa bản Kiều Nôm Liễu Văn Đường 1871 công bố trong Truyện Kiều – Bản Nôm cổ nhất Liễu Văn Đường 1871 do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị (Nxb. Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2002 tr. 29), có đóng dấu “Ecole des LL.OO. vivantes”. Xin cho biết “LL” và “OO” đọc như thế nào và có nghĩa là gì. “Ecole des LL.OO. vivantes” có quan hệ gì với INALCO?
AN CHI: INALCO là hình thức viết tắt của “Institut National des Langues et Civilisations Orientales”, nghĩa là “Học viện quốc gia về các ngôn ngữ và các nền văn minh phương Đông”.
LL. là hình thức tắt số nhiều của “Langue” (= Langues) còn OO. là hình thức tắt số nhiều của “Orientale” (= Orientales). Vậy “Ecole des LL. OO. vivantes” là “Ecole des Langues Orientales Vivantes”, nghĩa là “Trường (các) sinh ngữ phương Đông”, là tiền thân của INALCO.
§ 888. Kiến thức ngày nay, số 449, ngày 1-2-2003
ĐỘC GIẢ: Giống dê du nhập vào nước ta từ bao giờ? Đâu là từ nguyên của từ “dê”?
AN CHI: Về thời điểm giống dê du nhập vào nước ta, trong bài “Bên lề lịch sử những chuyện nhỏ mà…”, sau khi đưa ra một số dẫn chứng từ Đại Nam thực lục chính biên, tác giả Nguyễn Đắc Xuân đã khẳng định:
“Cho mãi đến năm 1836 các giống dê mới được nhập vào tỉnh Thừa Thiên và 4 năm sau đó mới phát triển ra các tỉnh trong Nam ngoài Bắc. Tỉnh Thừa Thiên là nơi được nhập nhiều và nhập vào trước tiên, vì thế mà đến đời Tự Đức, các sử thần triều Nguyễn biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí đã cho con dê là loại thú đặc sản của tỉnh Thừa Thiên”.
Nguyễn Đắc Xuân kết luận:
“Tóm lại: dê được nhập vào Việt Nam cùng năm đúc Cửu đỉnh, tức năm Minh mạng thứ 17 (1836)”*.
Thế nhưng trong bài “Con dê trong nghi lễ hiến tế ngày xưa” thì tác giả Trần Đình Hằng lại cho biết:
“Đối với người Việt, con dê trong nghi lễ hiến tế xuất hiện sớm nhất từ thời Triệu Vương (Triệu Đà) của nước Nam Việt. Một lá thư của Triệu Vương gửi nhà Hán năm Nhâm Tuất có nói từ thời Cao Hậu, Trung Hoa cấm bán cho Nam Việt những nông cụ kim loại và “nếu bán trâu, bò, dê, ngựa thì chỉ bán những con đực chứ không bán con cái (…) lão phu (Triệu Đà tự xưng – AC) ở nơi hẻo lánh, trâu, bò, dê, ngựa đã già cả rồi, tự nghĩ không lấy gì để cúng tế thì đáng tội chết”*. Chúng ta không có được tư liệu để hiểu đầy đủ vấn đề này, chỉ biết rằng suốt thời phong kiến về sau, nghi lễ hiến tế thường có ba cấp độ: tam sinh hay còn gọi là lễ thái lao (trâu/bò, dê, lợn), hai con sinh (dê, lợn hoặc trâu, dê), đặc sinh (hoặc dê, hoặc lợn) và hoàn toàn chỉ dùng con đực”*.
Tác giả Trần Đình Hằng còn dẫn Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú mà cho biết thêm:
“Lệ định năm Khánh Đức IV (1652), lễ vật dùng tế bách thần chỉ được dùng mỗi thứ một con sinh, trong đó đối với Thượng đẳng thần thì theo cơ cấu tam sinh; Trung đẳng thần chỉ có một dê, một lợn và Hạ đẳng thần chỉ có một con lợn”*.
Ngay trong đời Minh Mạng thì Trần Đình Hằng cũng đã cho biết rằng:
– “Năm Minh Mạng III, chuẩn nghi nhân tiết Thánh đản Thế tổ Cao hoàng đế, ngày lễ chính, trong phẩm vật có trâu, dê, lợn, đều 9 con”.
– “Lệ năm Minh Mạng IX (1828) định hàng năm, những con sinh do đội Tế nhục lĩnh tiền công, chọn mua cho đủ số (…) đặt giá mua vật liệu để dựng chuồng bò, dê ở bờ Nam sông Hương (…)”*.
– “Năm Minh Mạng IX (1828), lại chuẩn y nghị định lập lễ tế Giao lớn, lấy thịt bụng dê, lợn, đều 6 miếng, dùng để nấu canh, đựng trong 12 cái bình”*.
Thế là ngay trong đời Minh Mạng thì những thời điểm do Trần Đình Hằng đưa ra trên đây cũng sớm hơn thời điểm của Nguyễn Đắc Xuân từ 8 đến 14 năm. Đến như niên đại đời Lê Thần Tông mà Trần Đình Hằng đưa ra (1652) thì còn sớm hơn niên đại của Nguyễn Đắc Xuân đến 184 năm. Thế nhưng ta còn có thể đưa ra những cứ liệu sớm hơn nữa.
Sử có chép một việc xảy ra vào năm Thiệu Phong thứ 17 (1357) đời Trần Dụ Tông, khi Thượng hoàng Minh Tông lâm trọng bệnh như sau:
“Bấy giờ Hiển-từ thái hậu phóng sinh các giống súc vật để cầu cho Minh Tông mạnh khoẻ lại. Minh Tông nói: “Thân của ta không thể lấy con lợn con dê mà đổi được””.*
“Con lợn”, “con dê” trong lời củaMinh Tông dĩ nhiên không phải là những con vật tưởng tượng; đó là dê và lợn nuôi để cung cấp cho nhu cầu tế lễ và ngự thiện trong cung vua. Thực ra thì dê vẫn là một trong mấy giống vật không thể thiếu trong việc tế lễ ngày xưa ở nước ta, nhất là trong việc tế lễ của cung đình. Chẳng hạn như, vào đời Lý Thái Tông:
“Giáp thân năm thứ 3 (1044). Ngày ấy hữu ty cúng sơn thần bằng lễ thiếu lao, lấy được cái mật to đem dâng lên vua”*.
Đào Duy Anh chú giải như sau: “Thiếu lao: Tế bằng con dê (Thiếu lao nghĩa đen là con bò nhỏ, người ta thường dùng con dê)”*.
Thế là với luận cứ trên đây, ta đã đi ngược “về nguồn” đến gần tám thế kỷ so với cái mốc thời gian của Nguyễn Đắc Xuân. Nhưng Trần Quốc Vượng thì còn đẩy cái mốc đó lên tận thời của người Lạc Việt khi ông dựa vào quyển 28 của Hán thư mà khẳng định rằng “người Lạc Việt có 5 giống gia súc là trâu, lợn, gà, dê, chó”*. Chúng tôi nghi ngờ lời khẳng định này nên đã kiểm chứng với bản Hán thư do Trung Châu cổ tịch xuất bản xã (Trịnh Châu, Hà Nam) ấn hành năm 1996 thì không tìm thấy điều mà tác giả Trần Quốc Vượng đã khẳng định.
Quyển 28 của Hán thư chia làm hai: 28 thượng và 28 hạ. Liên quan đến vấn đề đang bàn là quyển 28 hạ.
Tại quyển này, trong phần các quận, đáng chú ý là quận Nam Hải, quận Uất Lâm (tr. 573), quận Thương Ngô (tr. 573 – 574), quận Giao Chỉ, quận Hợp Phố, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam (tr. 574); tất cả đều thuộc Giao Châu. Tại tất cả những mục liên quan đến các quận này, đặc biệt là mục “Giao Chỉ quận”, không một câu nào nói người Lạc Việt có nuôi dê, mà cũng chẳng có câu nào nhắc đến người Lạc Việt. Tại phần các địa, đáng chú ý dĩ nhiên là “Việt địa” (tr. 583 – 584). Tại mục này, chỉ thấy nói ở Đạm Nhĩ và Chu Nhai (không phải địa bàn của người Lạc Việt) thì “dân hữu ngũ súc” (tr. 584), nghĩa là “dân có năm giống gia súc”. Nhưng tất cả cũng chỉ có thế mà thôi. Vậy không biết ông Trần Quốc Vượng lấy câu “Người Lạc Việt có 5 giống gia súc là trâu, lợn, gà, dê, chó” ở đâu ra! Dĩ nhiên rất có thể là chúng tôi đã kiểm chứng chưa đến nơi đến chốn nhưng, trước mắt, chúng tôi vẫn xin phép xem lời khẳng định trên đây của Trần Quốc Vượng là câu nói không có căn cứ.
Từ gợi ý của Trần Đình Hằng, chúng tôi cho rằng người Việt bắt đầu biết đến giống dê muộn nhất là sau khi nước ta (bấy giờ gọi là Âu Lạc) bị Triệu Đà xâm chiếm rồi sáp nhập vào nước Nam Việt vì chứng cứ liên quan đến chuyện này là điều hoàn toàn chắc chắn, như chính Trần Đình Hằng đã dẫn. Đặc biệt ở đây ta có một chi tiết tế nhị và rất thú vị để liên hệ với bài “Một chút chữ nghĩa về chi mùi và con dê” của Huệ Thiên trên Kiến thức ngày nay, số Xuân Quý Mùi (số 448). Tại bài này Huệ Thiên đã chứng minh rằng dê là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn
– hoặc ở từ ghi bằng chữ 羠 mà âm Hán Việt hiện đại là di, có nghĩa là dê (đực) thiến;
– hoặc ở từ ghi bằng chữ 羝 mà âm Hán Việt hiện đại là đê, có nghĩa là dê đực.
Đồng thời tác giả cũng cho biết di và đê là hai đồng nguyên tự, nghĩa là hai từ tuy riêng biệt nhưng lại phân hóa ra từ một từ gốc, có nghĩa là dê đực. Nhưng tại sao cái từ có nghĩa là dê của tiếng Việt lại không bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 羊, mà âm Hán Việt là dương, có nghĩa là dê nói chung, cả đực lẫn cái, mà lại bắt nguồn ở một từ có nghĩa là dê đực? Bức thư của Triệu Đà gửi cho vua Hán, mà Trần Đình Hằng đã dẫn, có thể giải đáp cho thắc mắc này. Đó là vì Cao hậu chỉ cho bán sang Nam Việt toàn là dê đực cho nên những con dê đầu tiên mà người Việt biết đến cũng chỉ toàn là… dê đực với cái tên dành riêng cho nó (di hoặc đê) mà thôi. Về sau, khi nhu cầu hoặc điều kiện thực tế bắt buộc hoặc cho phép “bung ra”, nghĩa là khi mà người Việt biết đến cả… dê cái thì cái danh từ dê đã được định vị một cách yên ổn trong từ vựng của tiếng Việt rồi.
Tóm lại thì từ nguyên của từ dê là như thế và người Việt đã biết đến dê từ rất sớm chứ không phải đến năm Minh Mạng thứ 17 thì con dê mới được du nhập để tạo ra một “biến cố” trong lịch sử của nghề chăn nuôi ở Việt Nam.
§ 889. Kiến thức ngày nay, số 449, ngày 1-2-2003
ĐỘC GIẢ: Tết Quý Mùi sắp đến. Xin vui lòng giới thiệu vài đôi câu đối bằng tiếng Hán liên quan đến con dê.
AN CHI: Sau đây là một vài câu trích từ Trung Quốc thực dụng đối liên đại toàn (Thượng Hải văn hóa xuất bản xã, 1998):
- Dương minh ca thịnh thế;
Tước dược khánh tân xuân.
(Dê kêu reo đời thịnh;
Sẻ nhảy đón xuân tươi.)
- Mã bôn xuân sắc lý ;
Dương ngọa thái vân gian.
(Ngựa phóng trong xuân sắc;
Dê nằm giữa thái vân (mây đẹp).)
- Mã trì đại đạo tiền trình mỹ ;
Dương thượng kỳ phong cảnh sắc kiều.
(Ngựa bon đường rộng tiền trình đẹp;
Dê lên đỉnh lạ cảnh quan xinh.)
- Mã khứ dương lai xuân sắc lý ;
Oanh ca yến vũ họa đồ trung.
(Ngựa đi dê đến trong xuân sắc;
Yến múa oanh ca giữa họa đồ (bức tranh).)
§ 890. Kiến thức ngày nay, số 450, ngày 10-2-2003
ĐỘC GIẢ: Tôi xin có ý kiến về danh từ doctor của tiếng Anh trên Kiến thức ngày nay, số 546 như sau:
Tôi không được đọc bài “Khoảng trống từ vựng – một biểu hiện của sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ”, đăng trên Ngôn ngữ, số 11-2002. Nhưng theo thiển ý, tôi cho rằng tác giả bài viết đã ngầm xem danh từ doctor của tiếng Anh cũng thuộc về giống đực như danh từ docteur của tiếng Pháp. Thực ra phần lớn các danh từ trong tiếng Anh đều không có giống ngữ pháp (grammatical gender), hoặc có thể nói là chúng “lưỡng tính”, y như danh từ bác sĩ của ta. Thuộc loại này, có thể kể ra một số như: friend (bạn), student (sinh viên), nurse (y tá), motorist (người lái xe ô-tô), v.v.. Nếu ta cần nói rõ giới tính thì ta phải viết boy friend (bạn trai), female student (nữ sinh viên), woman/lady doctor (nữ bác sĩ), male nurse (nam y tá), woman motorist (người lái xe ô tô nữ), v.v.. Nếu ta không biết doctor là nam hay nữ thì ta phải viết, chẳng hạn, “The doctor strolls aroundwith his/herdog” (Vị bác sĩ đi dạo với con chó của mình (ông/bà ấy)). Còn khi nói về những nghề nghiệp/việc làm mà theo truyền thống là do phái kia đảm nhiệm thì người ta nói, chẳng hạn, male secretary (nam thư ký), male nurse (nam y tá), male model (người mẫu thời trang nam), hoặc nói, chẳng hạn, woman barrister (nữ luật sư), woman driver (lái xe nữ), v.v..
Man và mankind, theo truyền thống, được dùng để chỉ “all men and women” (mọi ngươi). Nhưng nhiều người cho rằng những từ này biểu hiện sự kỳ thị giới tính đối với phái nữ nên thích dùng humanity, the human race, human beings hoặc people hơn.
Nhìn chung, trong tiếng Anh hiện đại, giới nữ cho rằng việc nêu giới tính trong các nghề nghiệp/việc làm là không cần thiết; nó chỉ biểu hiện sự kỳ thị giới tính đối với phái nữ. Vì vậy nên họ thích dùng cùng một danh từ cho cả hai phái: actor (diễn viên), author (tác giả), host (chủ nhà), v.v.. Với tinh thần tương tự, họ thay thế các cặp từ headmaster/headmistress bằng headteacher, policeman/policewoman bằng police officer, fireman/firewoman bằng firefighter, chairman/chairwoman bằng chairperson hoặc chair, v.v..
AN CHI: Chúng tôi cũng thấy như ông là Trần Xuân Điệp đã ngầm hiểu rằng doctor trong tiếng Anh là một danh từ giống đực. Nhưng khác với ông, chúng tôi lại cho rằng đây là một cách hiểu có căn cứ. Doctor là một danh từ giống đực tận cùng bằng -or, mà danh từ giống cái tận cùng bằng -ess tương ứng là doctress (và cả doctoress), giống như các cặp: actor//actress ((nữ) diễn viên); author//authoress ((nữ) tác giả); count//countess ((nữ) bá tước); shepherd//shepherdess (người chăn cừu (nữ)); v.v.. Chẳng qua là do người ta đã phế bỏ doctress (và doctoress) nên bây giờ sự đối lập đực // cái ở đây mới không còn hiển nhiên nữa mà thôi. Ngay từ giữa thế kỷ XX thì một quyển từ điển như Cassel’s New English Dictionary (Sixteenth Edition, 1953) cũng đã ghi chú rằng doctress là một từ cổ (archaism), nghĩa là một từ “đã chết”.
Tuy thế, có những tác giả “hoài cổ” vẫn còn ghi nhận nó mà cũng chẳng cần ghi chú rằng nó không còn lưu hành nữa, chẳng hạn nhóm biên soạn Từ điển Anh – Việt do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu và Bùi Ý hiệu đính (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975). Trở lại với từ doctor, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng ngay việc nó tận cùng bằng hậu tố -or (xin phân biệt với -or tạo tính từ và -or tạo danh từ trừu tượng) đã chứng tỏ rằng nó là một danh từ giống đực, cũng như actor, author, v.v. mà danh từ giống cái tương ứng được cấu tạo bằng chính nó (danh từ giống đực ấy) cộng với hậu tố tạo danh từ giống cái -ess (Đối với các danh từ giống đực mà hậu tố -or đứng liền sau -t thì -o- thường rụng đi (actor // actress; director // directress ((nữ) giám đốc); v.v.).
Không phải là “phần lớn các danh từ trong tiếng Anh đều không có giống ngữ pháp” vì thực ra mọi danh từ của thứ tiếng này đều thuộc một giống nhất định mà phần lớn thì thuộc giống trung (neuter gender). Còn những danh từ mà ông cho là “không có giống ngữ pháp” thì lại thuộc giống chung (common gender) hoặc giống đôi (double gender), nghĩa là dùng chung cho cả giống đực lẫn giống cái (“lưỡng tính”, như ông đã viết), chẳng hạn như: child (con trai hoặc con gái), parent (thân sinh (cha hoặc mẹ)), v.v.. Giống của danh từ trong tiếng Anh là một phạm trù ngữ pháp chưa hề bị phủ nhận còn danh từ của tiếng Việt thì lại không hề có giống ngữ pháp, như chúng tôi đã phân tích trên Kiến thức ngày nay, số 446. Vì vậy nên thiết lập sự tương đồng về giống ngữ pháp giữa doctor của tiếng Anh và bác sĩ của tiếng Việt để minh họa cho khái niệm “khoảng trống từ vựng” đang xét, như Trần Xuân Điệp đã làm, là một việc hoàn toàn không đúng.
Việc phái nữ thích dùng chung một từ cho cả hai phái chứ không thích nêu rõ giới tính trong các danh từ chỉ người hành nghề của tiếng Anh dù sao cũng là một sự lựa chọn cần tôn trọng. Nhưng cái khoảng trống từ vựng đang xét là hệ quả do lịch sử của tiếng Anh để lại nên không có cách gì san lấp cho đầy được. Các bà và các cô thích dùng actor, author, host, v.v. cho cả hai phái, như ông đã nêu, nhưng không có cách gì xóa được cái giống đực nguyên thủy của những danh từ này vì rõ ràng là bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những danh từ giống cái tương ứng: actress, athoress, hostess, v.v..
Một quyển từ điển thật sự cấp tiến về quan điểm như Webster’s New World College Dictionary, Third Edition, ©1997, cũng đã phải giảng từ actor, chẳng hạn, như sau:
“(…) 2. a person. often, specif., a man who acts in plays, movies, etc”. (người, thường là, chính xác là đàn ông diễn xuất trong kịch, phim, v.v.).
Dù có “đánh trống lảng” bằng từ “person” (người) thì cũng phải trở về với thực tế bằng từ “man” (đàn ông). Rõ ràng là sự “hoài niệm” ở đây rất dai dẳng và cái sẹo của giống đực thì vẫn còn đấy.
§ 891. Kiến thức ngày nay, số 450, ngày 10-2-2003
ĐỘC GIẢ: Cách đây chưa lâu, khi Mỹ lấy cớ chống khủng bố để ném bom vô tội vạ xuống Afghanistan, ông có nhận xét về một số khẩu hiệu chống Mỹ (hoặc chống ném bom xuống Afghanistan ngay trong lòng nước Mỹ). Bây giờ Mỹ đang đưa quân ồ ạt đến vùng Vịnh để “nhảy” vào Irak và thế giới cũng đang rầm rộ phản đối Mỹ; ông có nhận xét về khẩu hiệu nào không?
AN CHI: “Tin thế giới thu qua vệ tinh” trên HTV tối ngày 19-1-2003 đã phát hình một số cuộc tuần hành chống Mỹ (chuẩn bị đánh phá Irak) diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới. Trong một cuộc biểu tình tại Paris, một thiếu nữ xinh xắn giơ cao một tấm biển mang dòng chữ “Pas de busherie”. Vừa đủ thời gian để người quan sát có thể đọc hết dòng chữ này thì cô gái bèn quay mặt kia của tấm pancarte ra phía trước và ta được đọc tiếp: “Ferme ta bush”. Thật là một sự chơi chữ độc đáo và thú vị.
Dòng chữ thứ nhất nếu đọc lên thì sẽ là “Pas de boucherie” trong tiếng Pháp và nếu muốn dịch cho đúng ý của nguyên văn (pas de: không (được) có; boucherie: cuộc tàn sát (nào)) mà không phản lại phong cách của tiếng Việt thì sẽ là “không được tàn sát”. “Cuộc tàn sát” là nghĩa bóng của boucherie mà nghĩa đen là “lò sát sinh”. Với cái nghĩa đen này và với sự thay thế thân từ bouch- của tiếng Pháp bằng tên của tổng thống Hoa Kỳ (G. W.) Bush (= busherie), cô gái và những người đồng quan điểm với cô muốn gián tiếp nói – đây mới chính là chỗ thâm thuý của câu khẩu hiệu – rằng Bush là một anh đồ tể. Xin lưu ý rằng boucherie phái sinh từ boucher, có nghĩa là… đồ tể.
Dòng tiếp theo nếu đọc lên thì sẽ là “Ferme ta bouche” trong tiếng Pháp và có nghĩa là “hãy câm mồm”. Ferme là ngôi thứ hai, số ít, thức mệnh lệnh của động từ fermer. Và khi người ta đã thay bouche bằng Bush (“Ferme ta bush”) thì ta cũng dễ dàng thấy rằng kẻ phải câm mồm (“Đừng có phun ra những lời lẽ hiếu chiến và ngang ngược”) không phải ai khác hơn đương kim tổng thống của Hiệp chúng quốc châu Mỹ. Khốn nỗi, vì sự hiện diện của danh từ boucherie (lò sát sinh), nên với bouche, ta lại tự nhiên liên tưởng đến cái từ đồng nghĩa của nó là gueule, mà nghĩa gốc là… mõm của súc vật.
Dưới suối vàng, tướng de Gaulle và chính khách Pompidou hẳn cũng phải mỉm cười về sự chơi chữ của con cháu.
§ 892. Kiến thức ngày nay, số 451, ngày 20-2-2003
Bổ sung câu trả lời về giống ngữ pháp của danh từ doctor trong tiếng Anh.
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 450, chúng tôi đã viết rằng mỗi danh từ trong tiếng Anh đều thuộc một giống nhất định mà chưa nêu dẫn chứng trong thư tịch. Nay xin dẫn mục “Gender” trong quyển Index to Modern English của Thomas Lee Crowell, Jr. (McGraw-Hill Book Company, ©1964) như sau:
“A noun, a noun group, or a pronoun is classified in one of three grammatical categories called genders: masculine, feminine, or neuter. The gender of a word or group determines which personal pronoun or adjective is used to refer to it or to substitute for it. A singular masculine word or group has as its substitute or reference he, his, him, or himself. A singular feminine word or group has as its substitute or reference she, her, hers, or herself. A singular neuter word or group has as its substitute or reference it, its, or itself”.
(Danh từ, danh tổ hoặc đại từ nào cũng thuộc vào một trong ba phạm trù ngữ pháp gọi là giống: đực, cái hoặc trung. Giống của một từ hoặc một từ tổ quy định phải dùng đại từ nhân xưng hoặc tính từ nào để nói về nó hoặc thay thế nó. Nói về hoặc thay thế cho một từ hoặc từ tổ giống đực là he, his, him hoặc himself. Nói về hoặc thay thế cho một từ hoặc từ tổ giống cái là she, her, hers, hoặc herself. Nói về hoặc thay thế cho một từ hoặc từ tổ giống trung là it, its hoặc itself.).
§ 893. Kiến thức ngày nay, số 451, ngày 20-2-2003
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nhận xét về quyển Từ điển thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh.
AN CHI: Từ điển thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh là một quyển sách cần thiết và bổ ích mà một vài tờ báo đã giới thiệu từ đầu năm 2001. Nhưng sai sót của nó thì cũng không ít mà vì khuôn khổ nên chúng tôi chỉ xin tạm thời nêu lên như sau:
Điểm thứ nhất là các nhà biên soạn không nêu rõ tiêu chuẩn lựa chọn mục từ nên người đọc dễ có cảm tưởng là hoặc họ đã lựa chọn một cách tùy tiện hoặc họ chỉ đưa vào quyển từ điển những gì có sẵn trong tay họ mà thôi (để khỏi mất công tìm kiếm).
Điểm thứ hai là vì quá tham lam về số lượng các mục từ của nhiều phần nên các nhà biên soạn đã tạo cho người đọc cái cảm giác là họ muốn biến quyển từ điển của mình thành một thứ niên giám hoặc danh bạ. Nói một cách khác, hình như họ muốn thay tính trí tuệ của nó bằng những sự liệt kê liên miên, không cần có trọng điểm.
Điểm thứ ba là đối với biệt danh của những nhân vật nổi tiếng thì các nhà biên soạn đều nhất loạt chuyển chú về tên thật của họ cả, chẳng hạn: “Dương Tử Giang (Xem Nguyễn Tấn Sĩ)”; “Đông Hồ (Xem Lâm Tấn Phác)”; “Nam Quốc Cang (Xem Nguyễn Văn Sinh)”; v.v.. Đây là một sự áp đặt thô thiển đối với người đọc mà cũng là một sự xúc phạm đối với người có biệt danh hữu quan vì những nhân vật này muốn xã hội biết đến mình qua biệt danh mà họ tự mình đặt ra chứ không phải qua tên “cha sinh mẹ đẻ”.
Điểm thứ tư là các nhà biên soạn đã bỏ quên nhiều thứ quan trọng từng góp phần làm nên bộ mặt một thời của Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định mà sau đây chỉ là một thí dụ tiêu biểu:
Phần “Giáo dục – khoa học” ghi nhận hơn 1.000 tên của các trường Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, Cao đẳng, Đại học và các trung tâm dạy nghề thuộc nhiều thời kỳ khác nhau nhưng lại không có tên của trường Marc Ferrando, thường gọi là trường Bà Chiểu, nổi tiếng khắp vùng Bà Chiểu – Gia Định hồi nửa đầu thế kỷ XX.
Điểm thứ năm là các nhà biên soạn đã cung cấp cho người đọc quá nhiều chi tiết sai mà sau đây chỉ là vài dẫn chứng ít ỏi:
-“Vĩnh Bảo (Nxb). Năm thành lập: 1970. Đc: 66 Lê Lợi, SG”. (tr. 885)
Chỉ mười mấy chữ thôi mà đã có đến năm chỗ sai. Thứ nhất, chủ nhân là ông Đào Văn Tập trước sau vẫn gọi cơ sở xuất bản của mình là “Nhà sách Vĩnh Bảo” chứ không gọi là nhà xuất bản (Nxb). Thứ hai là về thời điểm thành lập thì các nhà biên soạn đã đi trễ đến 20 năm. Bằng chứng là ngay từ năm 1949, nhà sách Vĩnh Bảo đã ấn hành Tiền vàng và tiền giấy của Vũ Văn Hiền và Việt Nam văn-học-sử trích-yếu, tập 1 của Nghiêm Toản. Thứ ba, “66 Lê Lợi” là một địa chỉ sai vì địa chỉ đúng lại là 66 ter, Bonard (nay là Lê Lợi), tức là tại địa chỉ của Trung tâm Kim hoàn Sài Gòn hiện nay. Thứ tư, “66 ter, Bonard” cũng là một địa chỉ muộn màng vì khi mới thành lập thì nhà sách Vĩnh Bảo đặt tại số 46 Lagrandière – 156 Pellerin (nay là góc Lý Tự Trọng – Pasteur). Thứ năm, số 66 ter Bonard ban đầu là nhà in Vĩnh Bảo, về sau mới sửa lại làm nhà sách chứ không phải là nhà sách ngay từ đầu.
– “Yểm Yểm thư quán (Nxb). Nhà sách kiêm xuất bản. Năm thành lập: 1970. ĐC: 72 Trần Văn Thạch, SG”. (tr. 886)
Ở đây có bốn chỗ sai. Thứ nhất, tên của hiệu sách này là “Yiễm Yiễm thư quán” (“viết Yiễm Yiễm, đọc Diễm Diễm”, theo lời giải thích của chủ nhân) chứ không phải là “Yểm Yểm”. Thứ hai, đây không phải là nhà xuất bản mà chỉ là một chi nhánh của Yiễm Yiễm thư trang, 113 – 115 Kitchener (nay là Nguyễn Thái Học), do ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết chủ trương. Thứ ba, ngay cả Yiễm Yiễm thư trang cũng không phải là nhà xuất bản mà lại là nơi phát hành của nhà xuất bản Bốn Phương, cũng do ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết làm chủ. Thứ tư là về thời điểm thành lập thì các nhà biên soạn cũng đi trễ gần hai thập kỷ vì Yiễm Yiễm thư quán thành lập hồi thập kỷ 1950 chứ không phải năm 1970.
Xem ra, làm một quyển từ điển về một thành phố có hơn 300 năm tuổi như Thành phố Hồ Chí Minh thật không đơn giản chút nào.
§ 894. Kiến thức ngày nay, số 452, ngày 1-3-2003
ĐỘC GIẢ: Tôi xin mạo muội bàn tiếp về giống ngữ pháp (grammatical gender) của danh từ tiếng Anh như sau.
Theo thiển ý, tất cả các danh từ tiếng Anh đều không có giống ngữ pháp. Ta thử so sánh với danh từ tiếng Pháp. Các danh từ chung của tiếng Pháp đại đa số đều thuộc một trong hai giống: nom masculin (danh từ giống đực, viết tắt trong từ điển là n.m.) và nom féminin (danh từ giống cái, viết tắt n.f.); đôi khi thuộc cả hai giống mà trong từ điển ghi là “n.m. ou f.”, chẳng hạn như từ après-guerre. Còn trong tiếng Anh thì danh từ chỉ được viết tắt bằng “n.” (noun); tuyệt nhiên không có giống ngữ pháp.
Giống ngữ pháp và giống sinh học (biological gender) hoàn toàn khác nhau. (La) souris (chuột nhắt) của tiếng Pháp là một danh từ giống cái (n.f.) nên những từ hữu quan thuộc từ loại khác phải tương hợp với nó về giống ngữ pháp cho dù đây là chuột nhắt cái ((la) souris femelle) hay là đực ((la) souris mâle). Tương tự như thế, (le) rat (chuột cống) là một danh từ giống đực, bất kể giống sinh học của con vật mà nó chỉ là đực ((le) rat mâle) hay cái ((le) rat femelle). Ngay cả danh từ (la) table (bàn) chỉ vật vô tri vô giác (objet inanimé) nhưng vẫn có giống ngữ pháp là giống cái. Các ý tưởng trừu tượng như (la) liberté (tự do), (l’) égalité (sự bình đẳng) cũng thuộc giống cái còn (le) lycée (trường trung học) thì thuộc giống đực cũng như (le) musée (viện bảo tàng), (le) foie (gan), v.v..
Còn trong tiếng Anh thì những từ hữu quan chỉ tương hợp với giống sinh học của danh từ và ta có thêm giống trung (neuter gender) để chỉ các vật vô tri vô giác và các ý tưởng trừu tượng. Chẳng hạn danh từ doctor, bản thân nó không có giống ngữ pháp; nếu ta thêm lady thành lady doctor thì đó chỉ là giống sinh học và các từ hữu quan khác phải tương hợp với giống sinh học này (her, hers, v.v.).
Xin có đôi điều trình bày thêm như trên để ông xem xét.
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay, số 450, chúng tôi đã viết rằng “mỗi danh từ tiếng Anh đều thuộc một giống ngữ pháp nhất định” nhưng chưa nêu dẫn chứng từ thư tịch. Vì vậy nên, để chứng minh rằng lời khẳng định đó có cơ sở, trên Kiến thức ngày nay, số 451, chúng tôi đã trích dẫn mục “Gender” trong quyển Index to Modern English của Thomas Lee Crowell, Jr. (McGraw-Hill Book Company, ©1964). Nay nhân những lời góp ý bổ sung của ông, để chứng minh rằng mình đã khẳng định thực sự có cơ sở, chúng tôi lại xin nêu thêm một dẫn chứng nữa.
Đó là phần mở đầu của mục “Gender and Gender Systems” (Giống và các hệ thống giống) trong bộ The Encyclopedia of Language and Linguistics (10 vols), do R.E. Asher làm tổng biên tập (Pergamon Press, First edition, 1994), mà mục đang xét thì do G. G. Corbett đảm nhiệm. Tác giả này đã mở đầu cho mục của mình như sau:
“Gender is a fascinating category, which shows great variety in several respects. If its distribution in the world’s languages is reviewed, families like Indo-European and Dravidian are revealed where gender is widespread, and others like Uralic where it is absent. In languages which have gender, it may be central, forming an essential part ofthe lexical, syntactic, and morphological structure (as in German), or it may be more peripheral (as in English)”. (Vol.3, p. 1347)
(Giống là một phạm trù hấp dẫn, bộc lộ sự dị biệt lớ n về nhiều phương diện. Cho dù sự phân bố nó trong các ngôn ngữ trên thế giới có được xem lại thì các ngữ tộc như Ấn-Âu và Dravidian vẫn là nơi phạm trù “giống” được phát hiện là phổ biến còn những họ khác như Uralic lại là nơi mà nó không tồn tại. Trong các ngôn ngữ có “giống”, phạm trù này có thể nổi bật, tạo thành một phần thiết yếu của cấu trúc từ vựng, cú pháp và hình thái học (như trong tiếng Đức), hoặc nó có thể có nhiều tính chất biên hơn (như trong tiếng Anh)).
The Encyclopedia of Language and Linguistics tập hợp nhiều tên tuổi quan trọng của giới ngữ học quốc tế mà riêng G.G. Corbett thì lại là tác giả của một công trình chuyên khảo quan trọng về “giống” nhan đề Gender (Cambridge University Press, 1991). Vậy khi mà chính tác giả này khẳng định rằng tiếng Anh là một ngôn ngữ có phạm trù “giống” thì đây phải là một ý kiến đáng lưu tâm. Dĩ nhiên là theo tác giả này thì đây là giống ngữ pháp chữ không phải giống sinh học. Và dù chỉ là một hiện tượng biên trong tiếng Anh nhưng đây vẫn là phạm trù ngữ pháp “giống” chính danh.
Sở dĩ chúng tôi đã phải cẩn thận một cách dài dòng như trên là để ông và bạn đọc thông cảm rằng chúng tôi đã thực sự có trách nhiệm khi nêu quan điểm của mình lên mặt báo. Còn sở dĩ chúng tôi đã phải theo quan điểm như trên là vì, trước mắt, đây là một cách giải quyết vấn đề tiện lợi hơn chứ thật lòng thì chúng tôi vẫn tán thành quan điểm của ông. Nó tiện lợi hơn là vì nó vẫn còn được một số người có uy tín ủng hộ, nhưng nhất là vì nó phù hợp với quan niệm truyền thống và với lịch sử của tiếng Anh. Vâng, trong lịch sử của tiếng Anh thì danh từ là một từ loại có giống ngữ pháp chính danh mà sau đây là mấy dẫn chứng: mūth (nay là mouth = mồm, miệng) là một danh từ giống đực; tunge (nay là tongue = lưỡi) là một danh từ giống cái còn éage (nay là eye = (con) mắt) thì lại là một danh từ giống trung; v.v..
Và dĩ nhiên là tính từ cũng đã phải tương hợp về giống với danh từ mà nó là định ngữ; góda wifmann (nay: good woman) nhưng góde maegden (nay: good maiden). Góda là hình thái giống đực cổ xưa của tính từ good còn góde thì lại là hình thái giống trung cổ xưa của nó. Sở dĩ hình thái cổ xưa của tính từ good phải thay đổi như thế (góda: giống đực; góde: giống trung) thì chỉ vì wifmann (= phụ nữ) là một danh từ giống đực còn maegden (= trinh nữ; gái già) lại là một danh từ giống trung. Danh từ có nghĩa là “phụ nữ” mà lại thuộc giống đực, còn danh từ có nghĩa là “trinh nữ” hoặc “gái già” thì lại thuộc giống trung! Đây rõ ràng chỉ là chuyện ngữ pháp chứ chẳng có liên quan gì đến giống sinh học của phụ nữ, trinh nữ hay gái già*.
Ông cũng có nhấn mạnh rằng “giống sinh học” và “giống ngữ pháp” hoàn toàn khác nhau. Chúng tôi cũng không hề quan niệm khác ông vì trên Kiến thức ngày nay, số 446, chúng tôi cũng đã viết: “Trong khi cái sở chỉ của danh từ bác sĩ có “giống sinh lý”, nghĩa là có giới tính hẳn hoi (nam hay nữ) thì bản thân nó lại không hề có “giống ngữ pháp” (grammatical gender)”. Nghĩa là chúng tôi cũng không hề đánh đồng hai thứ “giống” này với nhau.
Tóm lại, “giống” với tính cách là một phạm trù ngữ pháp chính danh của tiếng Anh đã tiêu biến đi cùng với sự tiêu biến của hệ biến tố trong danh từ, tính từ và quán từ chỉ định của thứ tiếng này. Nhưng sự thật là nó đã từng tồn tại.