Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 873 - 884

§ 873. Kiến thức ngày nay, số 442, ngày 20-11-2002

ĐỘC GIẢ: Xin cho biết nguồn gốc của hai tiếng hên xui. Tiếng trước phải viết với -n cuối (hên) hay với -nh cuối (hênh) mới đúng? Chữ xui trong hên (hênh) xui có liên quan gì về nguồn gốc với chữ xúi trong xúi quẩy hay không?

AN CHI: Với chúng tôi thì phải viết với -nh cuối thành hênh mới đúng; vì vậy, trở xuống, ở những chỗ thuộc lời văn của mình, chúng tôi sẽ viết như thế. Về nguồn gốc của hai tiếng hênh xui, tác giả Tầm Hoan đã viết:

“Hên xui tức hạnh tai đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông. Hạnh là may, tai là rủi. Có lẽ chữ xúi trong xúi quẩy (tai quỷ?) là biến âm của chữ xui này”*.

Nhưng người Quảng Đông lại phát âm hai tiếng hạnh tai thành hặng chói, nghe ra chẳng… dính dáng gì đến hai tiếng hênh xui. Quảng Châu âm tự điển do Nhiêu Bỉnh Tài chủ biên (Quảng Đông Nhân dân xuất bản xã, 1997) phiên âm chữ hạnh là “heng⁶” (tr. 158) và chữ tai là “zoi¹” (tr. 269). Vậy hênh xui không liên quan gì đến “hạnh tai đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông”. Mà hai tiếng xui trong hênh xui và xúi trong xúi quẩy cũng chẳng có liên quan trực tiếp gì với nhau vì tiếng trước là một điệp thức của suy trong suy nhược còn tiếng sau thì lại chánh cống là gốc từ âm Quảng Đông.

Tác giả Đào Văn Phái cho rằng “chữ hên dùng ở miền Nam có nghĩa là may, vận đỏ bắt nguồn từ chữ Hán Việt hưng 興 (nghĩa là dấy lên), do âm đọc chệch đi lâu ngày coi như Việt hóa”*. Nếu hênh thực sự có liên quan đến hưng thì đây, theo chúng tôi, lại không phải là chuyện “nội bộ” của tiếng Việt mà chỉ là một trường hợp phương ngữ Nam Bộ (của tiếng Việt) vay mượn từ phương ngữ Triều Châu (của tiếng Hán) mà thôi. Hưng đọc theo âm Triều Châu là hênh. Triều Châu âm tự điển của Đạt Phủ và Trương Liên Hàng (Quảng Đông Lữ du xuất bản xã, 1996) phiên âm chữ hưng là “hêng¹” và hêng¹ (hênh) mới chính là nguyên từ (etymon) của tiếng hênh trong phương ngữ Nam Bộ.

Nhưng chúng tôi không cho rằng hênh trong phương ngữ Nam Bộ lại là một từ Việt gốc Triều Châu. Hênh, theo chúng tôi, là một từ Việt cổ mà phương ngữ Nam Bộ còn bảo tồn được và đó là một điệp thức của hình vị Hán Việt hanh 亨, có nghĩa là thông suốt, thuận lợi, may mắn (Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng: Điều may mắn trời cho. Điều phúc). Xin nhấn mạnh rằng bộ ba -inh, -ênh, -anh vốn vẫn có duyên nợ ngữ âm lịch sử với nhau nên mối tương ứng “-anh ~ -ênh” ở đây là hoàn toàn bình thường: ảnh ương ~ ễnh ương; doành ~ duềnh; gành ~ ghềnh; buồn tanh ~ buồn tênh; v.v..

Thế là mối quan hệ từ nguyên giữa hanh trong hanh thông và hênh trong hênh xui đã được chứng minh một cách thực sự chặt chẽ về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa. Chỉ xin nói thêm hai điều sau đây. Thứ nhất, chữ đang xét, dù nó có quan hệ với hạnh trong hạnh tai, hưng trong hưng suy hay với hêng¹ của tiếng Triều Châu thì cũng phải được viết thành “hênh” mới phản ánh được một cách chính xác cái phụ âm cuối (-nh, -ng) của từ gốc. Thứ hai, hênh trong hênh xui chính và chỉ là một với hênh trong hớ hênh. Khác nhau chỉ là ở chỗ trong hênh xui nó diễn đạt cái nghĩa “may mắn”, “có phước” còn trong hớ hênh thì nó lại diễn đạt cái nghĩa “thông đạt”, “trống trải”, nghĩa là “chẳng được che chắn gì cả”. Cả hai nghĩa này đều có trong cái chữ/từ hanh 亨 gốc của tiếng Hán.

Về chữ xui (trong hênh xui) thì chúng tôi nhất trí với tác giả Đào Văn Phái rằng nó có liên quan về nguồn gốc với chữ suy 衰 trong suy nhược, suy vi, v.v..* Nói cho rõ ra, thì xui là một điệp thức của suy với một sự chuyển nghĩa từ “sút kém” thành “không may”, “rủi ro”. Nhưng xúi trong xúi quẩy thì không phải do chữ suy này mà ra như Đào Văn Phái đã khẳng định. Cả hai tiếng xúi quẩy đều là những từ Việt gốc Quảng Đông. Quẩy (Hán Việt: quỷ) là ma. Pạc quẩy (ma trắng) là hai tiếng mà người Quảng Đông dùng trong khẩu ngữ để chỉ người da trắng còn hắc quẩy (ma đen) là hai tiếng mà họ dùng để chỉ người da đen. Dưới đây, xin nói kỹ một chút về chữ xúi (trong xúi quẩy).

Dĩ nhiên là người Quảng Đông không phát âm chữ này thành xúi y như người Việt. Họ phát âm là soéy theo cách ghi của Hoàng Tích Lăng (mà chúng tôi đã thay ký hiệu thanh điệu bằng dấu sắc) trong Việt âm vận vựng (Hong Kong, 1973) và cái chữ Hán hữu quan là 祟 (âm Hán Việt là túy), có nghĩa là ma ám, là quỷ thần giáng hoạ, v.v.. Từ nghĩa gốc của từng thành tố như đã thấy, người Quảng Đông mới dùng hai tiếng xúi quẩy để chỉ cái cảnh ngộ xui xẻo mà người khác gây ra cho mình. Vì thế, khi vào tiếng Việt, xúi quẩy mới có nghĩa là “rủi ro, không may mắn”.

Vậy xui trong hênh xui và xúi trong xúi quẩy là hai từ có nguồn gốc riêng biệt.

§ 874. Kiến thức ngày nay, số 443, ngày 1-12-2002

ĐỘC GIẢ: Chính (chánh) trong chính (chánh) cống là đúng, là thật (không giả) như trong chính (chánh) gốc, chính (chánh) hiệu; còn cống là gì? Đâu là nguồn gốc của hai tiếng chính (chánh) cống?

AN CHI: Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức ghi chú rằng chính cống là “do chính thống hay chính tông nói trại ra”. Cách giải thích quá dễ dãi này rất khó tin. Ý kiến sau đây có vẻ như hợp lý hơn: chính cống là lối nói tắt từ “chính gốc Tây Cống”. Tây Cống là Sài Gòn. Vậy chính cống là “chính gốc Sài Gòn”, hiểu rộng ra là “chính gốc”. Rất tiếc rằng Tây Cống chẳng những không phải là hai tiếng thông dụng mà còn hoàn toàn không có tính chất thực tiễn: nó không bao giờ được dùng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của dân chúng. Tây Cống chỉ là âm Hán Việt của hai chữ Hán mà người Quảng Đông dùng để ghi tên gọi thành phố Sài Gòn trong phương ngữ của họ mà thôi. Họ gọi Sài Gòn là “Xấy Cung” và Xấy Cung là cách mà người Quảng Đông dùng để phiên âm tên gọi Sài Gòn theo tiếng Pháp là [sajgɔ̃], trên chữ viết là “Saïgon”.

Theo chúng tôi thì chính và cống là hai tiếng vô nghĩa vì chính cống chỉ là kết quả của một sự vay mượn mà người Việt đã thực hiện bằng cách phiên âm hai tiếng chính cúng, là âm Quảng Đông của hai chữ tinh công 精工. Nhiều người cứ nghĩ rằng chính ở đây là một từ hoặc một hình vị Hán Việt có nghĩa là “đúng: “thật” (không giả) đồng nhất với chữ chính trong chính gốc, chính hiệu. Thực ra đây vốn là âm Quảng Đông của chữ tinh 精. Chữ này đã được Việt âm vận vựng (A Chinese syllabary pronounced according to the dialect of Canton) của Hoàng Tích Lăng (HongKong, 1973) phiên là “dʒiŋ” (tr. 28) còn Quảng Châu âm tự điển do Nhiêu Bỉnh Tài chủ biên (Quảng Đông Nhân dân xuất bản xã, 1997) thì phiên là “jing¹” (tr. 413). Ghi theo chữ quốc ngữ (của tiếng Việt) thì cả hai cách phiên âm trên đây đều là chính và chính là âm của chữ tinh mà ta còn thấy được trong âm Quảng Đông của hai chữ vị tinh 味精. Đó là mềi chính và đây là hai tiếng mà người Việt ở miền Bắc đã mượn và đọc thành mì chính để chỉ cái chất gia vị mà người miền Nam gọi là bột ngọt. Vậy chính ở đây chính là tinh 精 chứ không phải là chính 正 (trong chính đáng, chính thức, v.v.). Còn cúng, âm Quảng Đông của chữ công 工, mà người Việt đã nghe thành cống thì có lẽ là vì nguyên âm hữu quan của tiếng Quảng Đông có độ mở trung gian “nhập nhằng” giữa u và ô của tiếng Việt. Ngoài chữ cúng này, tiếng Quảng Đông còn có một chữ cúng khác cũng được người Việt phát âm thành cống. Đó là cúng trong cúng hểi 恭喜 (Hán Việt: cung hỷ) mà người Việt đọc thành cống hỷ:

Cống hỷ, méc-xì thông mọi tiếng.

(Tú Xương)

Tóm lại, chính cống chẳng qua là tinh công. Đương đại Hán ngữ từ điển của nhóm Lý Quốc Viêm (Thượng Hải từ thư xuất bản xã, 2001) giảng tinh công là “công nghệ tinh xảo; gia công tinh trí” còn Mathews’Chinese – English Dictionary thì đối dịch là “clever workmanship” (tay nghề khéo léo). Vậy hàng chính cống là “hàng tinh công”, nghĩa là hàng sản xuất bằng công nghệ tinh xảo, hàng xịn. Đây chính là nội dung của hai tiếng chính cúng mà người Hoa ở Việt Nam, trước nhất là người Quảng Đông ở Chợ Lớn vẫn dùng để nói về chất lượng của các mặt hàng mà họ sản xuất hoặc nhập cảng để bán ra thị trường. Người Việt Nam ở Nam Bộ, trước nhất là dân Sài Gòn – Chợ Lớn, đã mượn hai tiếng đó của người Quảng Đông để diễn đạt cái ý “xịn”, cái ý “chất lượng cao”, hiểu rộng ra là “thứ thiệt” khi nói về hàng hóa mà không hề, vì cũng không cần, biết từng thành tố có nghĩa là gì trong tiếng Quảng Đông. Nhưng một phần cũng chính vì thế mà hai tiếng này đã dần dần “mất gia phả” và sự mất gốc của hai tiếng chính cống khiến người bản ngữ (người Việt) cứ ngỡ rằng đây là một ngữ tính từ cố định do mình tạo ra chứ không phải là sản phẩm của một sự vay mượn. Đã thế, sự mờ nghĩa của nó lại khiến họ đồng hóa thành tố đầu của nó (chính) với thành tố đầu của các ngữ cố định chính gốc, chính hiệu. Vì vậy nên Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên mới giảng chính cống là “đúng nguồn gốc” còn Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên thì giảng là “đúng với bản chất của người hay sự việc”. Ở đây, chúng tôi xin nhắc lại hiện tượng lây nghĩa (contamination de sens) mà chúng tôi đã nói đến trên Kiến thức ngày nay, số 434 khi giải thích về câu “Phận gái mười hai bến nước”. Rõ ràng là hai ngữ cố định chính gốc và chính hiệu đã lây nghĩa cho chính cống, khiến người bản ngữ hiện nay không những cho rằng chính là “đúng” là “thật”, mà còn mặc nhiên hiểu rằng cống là một cái gì đó rất gần với các khái niệm “nguồn gốc”, “xuất xứ”, “bản chất”, v.v. như có thể thấy trong lời giảng của hai quyển từ điển trên đây. Trong cái sự “áp đặt” và “cưỡng bức” ngôn từ này, dân Nam Bộ còn đi xa hơn nữa. Họ đã loại suy từ các biểu thức

“chính gốc ~ chánh gốc”,

“chính hiệu ~ chánh hiệu”

để đọc chính cống thành “chánh cống” mà không cần biết rằng chỉ có chữ chính 正 mới có thể đọc thành chánh chứ chữ tinh 精 thì không. Rồi đến khi người Bắc cũng dùng hai tiếng chánh cống của miền Nam thì họ lại loại suy theo chiều ngược lại (chánh gốc ~ chính gốc, chánh hiệu ~ chính hiệu) để phát âm chánh cống thành chính cống. Họ cứ ngỡ rằng làm như thế là đã trả lại cho chữ 正 cái âm “chính thống” của nó mà không ngờ rằng chính ở đây chẳng qua chỉ là âm Quảng Đông của chữ tinh 精 mà thôi.

Tóm lại, chính cống (chánh cống) có nghĩa gốc là “xịn”, là “tinh xảo”, hiểu rộng ra là “thứ thiệt” và đây là một đơn vị từ vựng mà người Việt đã phiên âm từ tiếng Quảng Đông, trước nhất là người Việt ở Sài Gòn – Chợ Lớn.

§ 875. Kiến thức ngày nay, số 443, ngày 1-12-2002

ĐỘC GIẢ: Đâu là nguồn gốc của chữ tiệm trong tiệm cà phê, tiệm mì, tiệm vàng, v.v.?

AN CHI: Tầm-nguyên tự-điển Việt Nam của Lê Ngọc Trụ (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993) đã nêu hai nguồn gốc khác nhau cho từ tiệm. Tại phần II chương II (Tiếng Việt chuyển gốc Hán – Việt), tác giả khẳng định rằng tiệm là do điếm 店 mà ra (tr. 397) rồi tại phần III (Tiếng mượn ở ngoại-ngữ) thì tác giả lại khẳng định rằng tiệm là do tiếng Khmer tiêm mà ra (tr. 777). Đây là một điều không chấp nhận được về từ nguyên học vì mỗi từ chỉ có một nguồn gốc mà thôi. Huống chi cả gốc Hán Việt lẫn gốc Khmer mà Lê Ngọc Trụ đưa ra cũng đều không đúng.

Tiệm là một từ mà tiếng Việt đã vay mượn của một phương ngữ ở miền Nam Trung Hoa chỉ trong khoảng 300 năm trở lại đây mà thôi. Nhưng đó không phải là tiếng Quảng Đông như tác giả Tầm Hoan đã nêu trong bài “Một số từ gốc Hoa trong phương ngữ Nam Bộ”*. Tầm Hoan viết: “Tiệm tức điếm đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông (…). Chữ tiệm này du nhập vào Nam Bộ lúc ngôn ngữ Trung Quốc đã mất hẳn phụ âm đầu đ nhưng chưa mất phụ âm cuối n (đây thật ra là chữ m bị in sai – AC)” (Sđd, tr. 345). Tác giả này đã nhầm: tiệm là điếm đọc theo giọng Triều Châu chứ không phải giọng Quảng Đông. Âm Quảng Đông của chữ này là [dim³] (đọc là tim) như đã cho trong Quảng Châu âm tự điển do Nhiêu Bỉnh Tài chủ biên (Quảng Đông Nhân dân xuất bản xã, 1997, tr. 119) còn âm Triều Châu thì mới là [diam³] (đọc là tiẹm) như đã cho trong Triều Châu âm tự điển của Đạt Phu và Trương Liên Hàng (Quảng Đông Lữ du xuất bản xã, 1996, tr. 154).

Tầm Hoan cũng đã sai khi cho rằng “chữ tiệm này du nhập vào Nam Bộ lúc ngôn ngữ Trung Quốc chưa mất phụ âm cuối m.”. Thực ra thì cho đến đầu thế kỷ XXI này phụ âm cuối -m vẫn còn tồn tại trong bốn phương ngữ quan trọng ở Hoa Nam là tiếng Phúc Kiến, tiếng Triều Châu, tiếng Quảng Đông và tiếng Hẹ (Khách Gia), chưa kể đến tiếng Hải Nam (trên đảo Hải Nam).

Trong phương ngữ Nam Bộ, ta thấy có một số từ hoặc đơn vị từ vựng gốc Quảng Đông hoặc Triều Châu. Tuy đó đều là những yếu tố gốc Hán nhưng việc phân biệt rành rọt Quảng hay Triều là một yêu cầu nghiêm khắc của từ nguyên học. Rất tiếc rằng một số tác giả đã nhầm Quảng thành Triều hoặc ngược lại một cách quá dễ dàng như trường hợp chữ tiệm gốc Triều Châu mà Tầm Hoan lại cho là có nguồn gốc Quảng Đông. Đúng như Cao Tự Thanh đã viết: “Rõ ràng nếu không biết chữ Hán, chữ Nôm, Trung Văn và các phương ngữ Hoa Nam thì rất khó nếu không nói là không thể tìm hiểu phương ngữ Nam Bộ”*. Sự thông thạo các phương ngữ Hoa Nam hiển nhiên là một điều kiện lý tưởng. Nhưng trước khi đến được với sự thông thạo, ta vẫn có thể đi học chớp nhoáng lấy vài tiếng nơi người Quảng Đông và người Triều Châu ở Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh để biết được rằng chữ tiệm thì tiếng Quảng Đông là tim còn tiếng Triều Châu mới là tiẹm (nên mới là nguyên từ (etymon) của tiệm trong phương ngữ Nam Bộ).

Tóm lại, chữ tiệm trong phương ngữ Nam Bộ là một từ Việt gốc Triều Châu chứ không phải Quảng Đông. Nó cũng không có liên quan gì đến âm Hán Việt của chữ điếm, càng không phải là một từ Việt gốc Khmer còn chính chữ tiêm (= tiệm) cũng lại là một từ Khmer gốc Triều Châu y như từ tiệm của tiếng Việt.

§ 876. Kiến thức ngày nay, số 444, ngày 10-12-2002

ĐỘC GIẢ: Câu 327 của Truyện Kiều đã được tuyệt đại đa số các nhà phiên âm (sang chữ quốc ngữ) đọc là:

“Tháng tròn như gửi cung mây”.

Nhưng trong bài “Phương pháp văn bản học chân chính và lối làm việc không có phương pháp” đăng trên tạp chí Văn học, số 4-1999, tác giả Vũ Đức Phúc đã chê rằng đó “là một câu chữa liều do dốt nát” mà ra. Lý do của tác giả này là:

“Nguyễn Du rất tỉ mỉ, chính xác. Từ khi Kim Trọng gặp Kiều ngày thanh minh đến lúc Kim Trọng tỏ tình là hơn ba tháng. Không phải ngẫu nhiên khi Nguyễn Du viết “Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai”. Thế thì sao khi gặp Kiều chỉ nói là tháng “tròn”? Tròn là thế nào? Sao lại cần “tròn” đến thế? Sao xa nhau đến gần bốn tháng mà lại chỉ si tình trong một tháng tròn?”.

Tác giả này cho biết cách hiểu và cách phiên của mình như sau:

“Nguyên trong Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự có hai câu: Tờ trời sớm ngỡ riêng giăng, Thì lên nhờ Cuội cung trăng kẻo còn, có nghĩa là anh si tình chỉ xe duyên một mình tơ trời, nay lên nhờ thằng Cuội (ám chỉ mấy cô hầu gái của Dao Tiên) nó nói với Nguyệt lão trên cung trăng cho để buộc cả hai người với nhau, xe duyên hai sợi bện chặt chứ không phải một sợi.

Nguyễn Du rất thích cái ý ấy đưa vào Truyện Kiều thành hai câu: “Nằm tròn nhờ Cuội cung mây, Trần trần một phận ấp cây đã liều”, hai câu liền mạch đều có ý là si tình, tương tư một mình”.

Ông An Chi có đồng ý với ông Vũ Đức Phúc không và nếu không thì ông sẽ phiên và hiểu câu 327 như thế nào?

AN CHI: Hơn ba tháng là thời gian của ông Vũ Đức Phúc chứ trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thì chỉ mới một tháng mà thôi. Nguyễn Du đã theo sát nguyên truyện nên mới viết:

Nhẫn từ quán khách lân la,

Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai.

Thêm hai tuần trăng nữa là ba và ba tuần trăng thì chỉ mới một tháng mà thôi chứ sao lại ba tháng? Các nhà chú giải Truyện Kiều vì quá mải mê với văn học mà quên mất cái khái niệm thiên văn học và khái niệm dân gian hàm chứa trong danh ngữ tuần trăng. Họ cho rằng một tuần trăng là một tháng nhưng chỉ cần đọc một quyển sách thiên văn học loại phổ thông như Vì sao nên dùng dương lịch? của Nguyễn Xiển (Nxb. Phổ thông, 1997), ta cũng có thể thấy được vấn đề một cách rõ ràng. Tại mục “Các tuần trăng”, ta đọc được:

“Từ trăng non cho đến thượng huyền, tức là từ giao hội cho đến trực giao là tuần đầu, khoảng 7, 8 ngày. Tuần thứ hai bắt đầu từ trực giao cho đến xung đối (…) Hết tuần trăng ấy lại bắt đầu một tuần trăng non mới. Bốn tuần trăng đó diễn ra trong khoảng thời gian gọi là tháng Mặt trăng dài 29 ngày rưỡi. Mỗi tuần trăng dài khoảng 7, 8 ngày (…) Tuần trăng (chúng tôi nhấn mạnh – AC) khác với tuần lễ 7 ngày”.(tr. 81 – 83).

Còn dân gian thì đã đồng nhất tuần trăng với tuần mười ngày trong tháng. Thượng tuần (mười ngày đầu), trong đó có ngày trăng thượng huyền, là tuần trăng non; trung tuần (mười ngày giữa), trong đó có ngày trăng rằm, là tuần trăng tròn; hạ tuần (mười ngày cuối, hoặc chín nếu là tháng thiếu), trong đó có ngày trăng hạ huyền, là tuần trăng già (hoặc trăng khuyết).

Cứ như trên thì “tuần trăng khuyết (đĩa dầu hao)” là hạ tuần; “vừa tuần nguyệt sáng gương trong” là trung tuần và “tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai” thì chỉ có hai mươi ngày thôi (chứ đâu phải hai tháng!). Các nhà chú giải Truyện Kiều đã giảng sai, đáng lẽ phải sửa sai thì nhiều nhà biên soạn từ điển lại “nói theo” họ nên đã gán cho danh ngữ tuần trăng cái nghĩa mà nó không hề có. Chính vì một tuần trăng chỉ có mười ngày nên

Nhẫn từ quán khách lân la,

Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai

thì chỉ có ba mươi ngày mà thôi và cũng chính vì chỉ có đúng ba mươi ngày nên Nguyễn Du mới viết “tháng tròn”. Ông Vũ Đức Phúc đã hỏi: “Tròn là thế nào? Sao lại cần “tròn” đến thế?”. Xin trả lời ông một cách đơn giản rằng tròn là vừa đủ, không thiếu không thừa! Và chúng tôi đành làm phật ý ông mà đọc câu 327 là:

Tháng tròn như gửi cung mây

vì đây là cách đọc hợp lý nhất. Huống chi không chỉ bản Nôm Kiều Oánh Mậu 1902, mà bản cổ nhất tìm lại được cho đến nay là Liễu Văn Đường 1871 cũng khắc in rành mạch chữ thứ nhất của câu đó là * (tháng). Còn ở câu 328 thì chúng tôi không đọc hai chữ đầu là “trần trần” mà xin mạn phép đổi “ớ” thành “á” để đọc là:

Trằn trằn một phận ấp cây đã liều.

Dictionnaire annamite-français của J. F. M. Génibrel đối dịch trằn trằn là inquiet (lo lắng), préoccupé (bận tâm), le coeur agité (xốn xang trong lòng), ému (xúc động). Vậy

Tháng tròn như gửi cung mây,

Trằn trằn một phận ấp cây đã liều

có thể được hiểu là:

“Cả tháng nay (tháng tròn), tôi như người sống ở cõi hư hư ảo ảo (như gửi cung mây), đến trọ cạnh nhà nàng mà trong lòng cứ thấp thỏm lo (trằn trằn) rằng mình chỉ là một kẻ ôm cây đợi thỏ (một phận ấp cây)”.

Cách đọc và cách hiểu của chúng tôi là như thế còn cách đọc của ông Vũ Đức Phúc thì lại là:

Nằm tròn nhờ Cuội cung mây (!)

Chúng tôi không cho rằng Nguyễn Du lại muốn “tấu hài” mà “dàn cảnh” cho Kim Trọng “nằm tròn” (!) để nhờ vả thằng Cuội trên cung trăng. Tay này chỉ biết

(…) ngồi gốc cây đa,

Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời

thì giúp cho ai được chuyện tơ duyên! Hắn ta có tư cách gì mà đi “nói với Nguyệt lão trên cung trăng để buộc cả hai người với nhau” như ông Vũ Đức Phúc đã suy luận và diễn đạt? Huống chi Nguyệt lão chính là Nguyệt hạ lão nhân, nghĩa là “ông già dưới (ánh) trăng” − Tục truyền rằng Vi Cố đời Đường tình cờ trông thấy ông ta đang ngồi đọc quyển sổ nhân duyên của trần gian dưới ánh trăng – chứ có phải “Nguyệt thượng lão nhân” đâu mà ông Vũ bảo là “Nguyệt lão trên cung trăng”! Ông lại còn viết rằng Nguyễn Huy Tự dùng hình ảnh thằng Cuội để “ám chỉ mấy cô hầu gái của Dao Tiên”. Lẽ ra nếu muốn nói đến vai trò mai mối của mấy ả này thì phải ví ngầm họ với Nguyệt lão mới đúng chứ.

Thực ra, hình ảnh thằng Cuội chỉ cho thấy sự “sáng tạo” vụng về trong ngôn từ của Nguyễn Huy Tự mà thôi. Trong nguyên bản Đệ bát tài tử Hoa tiên ký thì hai câu hữu quan là như sau:

Tảo tri phàm thế tương tư khổ

Bất nhược di cư quế thụ bàng

Nghĩa là:

Nếu sớm biết được cái khổ của sự tương tư ở cõi đời phàm tục thì thà lên sống cạnh cây quế trên cung trăng còn hơn.

Nguyễn Huy Tự “diễn Nôm” thành:

Tơ trời sớm ngỡ riêng giăng

Thì lên nhờ Cuội cung trăng kẻo còn.

Nguyên bản ám chỉ việc Hậu Nghệ ở trần gian nhớ vợ là Hằng Nga đã ăn cắp thuốc trường sinh rồi bay lên cung trăng. Còn Nguyễn Huy Tự thì lại “phóng tác” cây quế thành thằng Cuội rồi ông Vũ Đức Phúc lại cho rằng “Nguyễn Du rất thích cái ý ấy (của Nguyễn Huy Tự) nên đưa vào Truyện Kiều thành hai câu: Nằm tròn nhờ Cuội cung mây, Trần trần một phận ấp cây đã liều”.

Thế có oan cho Nguyễn Du hay không, vì ông Vũ Đức Phúc chỉ suy bụng ta ra bụng người mà thôi. Bản thân hai tiếng “nằm tròn” chẳng những không hay mà còn diễn đạt một thái độ tiêu cực nên làm sao thích hợp được với tính cách của Kim Trọng là một nhân vật tích cực khắc phục khó khăn trở ngại để giành lấy tình yêu lứa đôi? Nguyễn Du cần gì và dại gì mà đi mượn mấy cái ý không hay đó để tự mình mâu thuẫn với mình (muốn xây dựng một nhân vật tích cực phấn đấu trong tình yêu mà lại để cho hắn ta “nằm tròn nhờ Cuội cung mây”).

Tóm lại, lối phiên âm của ông Vũ Đức Phúc cùngvới những lời biện giải của ông không ổn chút nào. Vì vậy nên chúng tôi vẫn đọc câu 327 là:

Tháng tròn như gửi cung mây

và xin thay đổi một chút mà đọc câu tiếp theo thành:

Trằn trằn một phận ấp cây đã liều.

§ 877. Kiến thức ngày nay, số 444, ngày 10-12-2002

ĐỘC GIẢ: Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên có mục: “Đúng bon: đúng phóc”. Xin cho biết chữ thứ hai là bon hay boong và đâu là xuất xứ của chữ này.

AN CHI: Theo chúng tôi thì đó là “boong” và đây là một từ Việt gốc Pháp của phương ngữ Nam Bộ, bắt nguồn ở danh từ point, có nghĩa là “điểm”, là “chấm”. Point d’ ébullition là điểm sôi; point de fusion là độ (điểm) nóng chảy; point mort là điểm chết; v.v.. Vậy đúng boong có nghĩa gốc là “đúng đến điểm cần nói,” rồi nghĩa thông dụng hiện nay là “đúng phóc”, như đã giảng trong quyển từ điển nói trên. Xin nói thêm một chút rằng point bắt nguồn từ tiếng La Tinh punctum, cùng nghĩa và thân từ punct- còn được phản ánh trong tính từ ponctuel của tiếng Pháp, có nghĩa là chính xác, đúng giờ.

§ 878. Kiến thức ngày nay, số 445, ngày 20-12-2002

ĐỘC GIẢ: Xin mạn phép nêu một vấn đề có thể xem là thời sự nóng hổi về mặt chữ nghĩa. Số là trên Xưa & Nay, số 121, 8-2002, khi đăng bài “Câu đối của cụ Huỳnh Thúc Kháng viếng cụ Nguyễn Hữu Cầu” của Hoàng Mộc, tạp chí này có cho in cả nguyên văn chữ Hán với dòng lạc khoản “Lão hữu Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng vãn”. Ở dòng này, chữ “kháng” được viết là 沆. Một số người nghi ngờ chữ này. Vì vậy nên trên Xưa & Nay, số 125, 10-2002, trong bài “Về việc phiên dịch chữ Hán”, tác giả Nguyễn Khắc Bảo đã khảo chứng ở nhiều quyển từ điển, trong đó có cả Khang Hy tự điển, để khẳng định rằng chữ đó phải đọc là “Hãng” rồi chính ông Bảo cũng đã phiên âm lại dòng lạc khoản thành “Lão hữu Mính Viên Huỳnh Thúc “Hãng” kính vãn”. (tr. 31). Ngay trên số Xưa & Nay này, tại trang tiếp theo (tr. 32), BBT còn cho đăng bài “Về tên cụ Huỳnh Thúc Kháng (Trao đổi với ông Nguyễn Khắc Bảo)” của tác giả Nguyễn Minh Tường. Ông Tường đã viết:

“Theo chúng tôi, cụ Huỳnh có tên là Kháng (亢), còn bộ thủy (⺡) bên cạnh tên chỉ có ý nghĩa làm “bộ thủ” biểu trưng cho dòng họ hoặc một đời nào đó của dòng họ Huỳnh mà thôi. Nước ta từng có nhiều dòng họ có thói quen đặt tên ghép thêm một “bộ thủ biểu trưng” như thế. Thí dụ: tên các chúa Trịnh (Kiểm, Tùng…) đều có thêm bộ Mộc (木), tên các chúa Nguyễn (Hoàng, Nguyên…) đều có thêm bộ Thủy (⺡). Do đó, khi đọc tên những người có tên đặt theo lối trên thì trong nhiều trường hợp đều phải “ngầm” bỏ qua “bộ thủ biểu trưng” đi. Đôi khi “bộ thủ biểu trưng” cũng góp phần tạo nên nghĩa của tên người như chữ Tùng (松) chẳng hạn thì lại là chuyện khác”.

Ông Tường còn cho rằng chữ 亢, tên của cụ Huỳnh, là chữ trong Kinh Dịch. Ông cũng bày tỏ sự hoài nghi đối với chữ 抗 (kháng) mà tác giả Nguyễn Q. Thắng đã dùng để ghi tên cụ Huỳnh trong hai quyển sách của mình. Vậy xin hỏi: Chữ mà cụ Huỳnh dùng để ghi tên của mình là 沆 hay 抗 và tên của cụ là Kháng hay “Hãng”? Có phải các chúa Trịnh và các chúa Nguyễn được đặt tên theo lối mà tác giả Nguyễn Minh Tường đã nói hay không?

AN CHI: Khi mà chính tay cụ Huỳnh viết tên mình bằng chữ 沆* thì đó hiển nhiên không thể là chữ 抗 của ông Nguyễn Q. Thắng và khi mà chính cụ cũng đọc và viết tên mình bằng chữ quốc ngữ là Kháng thì tất nhiên đó không thể là “Hãng” như ông Nguyễn Khắc Bảo đã đọc. Nội dung của sự việc thật ra cũng đơn giản; chỉ vì người ta chưa đi đến tận ngọn nguồn của nó nên mới sinh ra nhiều sự rắc rối mà thôi.

Trước nhất xin nói về cách hành xử của tác giả Nguyễn Q. Thắng. Cùng với đồng tác giả Nguyễn Bá Thế, tác giả này đã tự tiện đổi họ của cụ Huỳnh thành “Hoàng” trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nxb. Khoa học Xã hội, 1991, tr. 260 – 261). Đây là một việc làm không được phép. Rồi ở bìa 4 một cuốn sách khác, ông đã đổi bút hiệu của học giả Giản Chi thành “Lan Chi” vì ông đã nhầm giản 簡 thành 蘭 (lan). Với một lề lối làm việc như thế thì chẳng có gì lạ nếu ông đổi chữ ghi tên cụ Huỳnh từ 沆 thành 抗.

Còn cái lệ mà Nguyễn Minh Tường muốn nói đến thì thực chất lại là chọn những chữ có sẵn trong cùng một bộ thủ để đặt tên cho con cháu trong dòng họ mình chứ không phải là đặt tên (bằng một chữ nhất định) rồi mới ghép bộ thủ (biểu trưng) vào sau. Vì vậy nên không bao giờ có thể “ngầm” bỏ qua bộ thủ khi đọc những chữ hữu quan vì bộ thủ này bao giờ cũng góp phần tạo nên nghĩa của chữ đang xét. Hai dòng họ đã gây ra cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh đều có áp dụng cách đặt tên mà chúng tôi đã nói. Trong họ Trịnh thì các chữ tên: Kiểm, Cối, Tùng, Tráng, Tạc, Căn, Bách, Bính, Cương, Giang, Doanh, Sâm, Cán, Khải, Bồng đều thuộc bộ “mộc”. Còn trong họ Nguyễn thì các chữ tên: Cam (thường đọc Kim), Hoàng, Nguyên, Lan, Tần, Trăn, Chu, Thụ (thường đọc nhầm thành Chú), Khoát, Thuần đều thuộc bộ “thủy”.

Để cho thật rạch ròi, xin nói kỹ về chữ Tráng và chữ Khoát như sau.

Chữ Tráng của họ Trịnh được Trần Trọng Kim ghi là trong Việt Nam sử lược (Tân Việt, Sài Gòn, in lần thứ ba, 1949, tr. 361 và một số trang khác) còn Ngô Đức Thọ thì ghi thành 壯 (không có bộ mộc) trong Nghiên cứu chữ huý Việt Nam qua các triều đại (Nxb. Văn hóa, 1997, tr. 82). Chúng tôi không tin ở hai cách ghi này vì chữ sau không có bộ “mộc” còn chữ trước chỉ là một chữ giả tạo. Đại Việt sử ký toàn thư, bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) ghi là 梉*. Đây là “nội các quan bản” nên cách ghi của nó, về nguyên tắc, đáng tin tưởng hơn. Âm của chữ này là trang nhưng vì thanh phù của nó là tráng 壯 nên nó thường được đọc trại đi thành “tráng” (cũng có thể là vì kỵ huý). Đây cũng là một chữ có sẵn.

Còn chữ khoát của họ Nguyễn thì vốn thuộc bộ “môn” và viết thành 䦚. Chữ này có một dị thể là 濶*. Vậy đây là một chữ thuộc bộ “thủy” và cũng là một chữ có sẵn.

Tóm lại, mười lăm chữ tên thuộc bộ “mộc” của họ Trịnh và mười chữ tên thuộc bộ “thuỷ” của họ Nguyễn đều là những chữ có sẵn trong mỗi bộ, dĩ nhiên là với ba mặt hình, âm, nghĩa cụ thể và rành mạch. Vậy không có bất cứ chữ nào mà khi đọc lại phải “ngầm” bỏ qua bộ thủ cả.

Trở lại với chữ 沆 mà chính cụ Huỳnh dùng để ghi tên của mình, xin nói rằng đây là một chữ sẵn có của bộ “thuỷ” và tất nhiên là ta không thể “ngầm” bỏ qua bộ thủ này để đọc nó. Vấn đề là khi tra cứu, ta có nghiêm túc và chu đáo hay không mà thôi. Vâng, cái âm cần thiết của chữ 沆 đã nằm sẵn trong Khang Hy tự điển và ta sẽ tìm thấy nó nếu ta chịu đọc kỹ mục từ hữu quan từ đầu chí đuôi vì cái âm này đã được “giấu” ở tận phần cuối. Bất cứ ai chịu tra cứu cho đến nơi đến chốn cũng đều có thể đọc được năm chữ cuối cùng của mục “沆” trong Khang Hy tự điển. Năm chữ đó là:

“沆 hoặc độc nhược 抗”,

Nghĩa là:

“Chữ 沆 cũng có thể đọc như chữ 抗 (kháng)”.

Rõ ràng là chữ đang xét cũng có thể đọc thành “kháng” và đây là lý do cho phép cụ Huỳnh chọn chữ 沆 để ghi tên của mình (Kháng). Vậy ta không nên sỗ sàng mà đổi chữ cụ đã chọn thành 抗, cũng như không nên tếu táo đọc dòng lạc khoản đang xét thành “Lão hữu Mính Viên Huỳnh Thúc “Hãng” (!) kính vãn”.

§ 879. Kiến thức ngày nay, số 445, ngày 20-12-2002

ĐỘC GIẢ: Quyển Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học của Lê Trung Hoa (Nxb. Khoa học Xã hội, 2002) có bài “Tục ngữ gốc Pháp trong tiếng Việt” (tr. 145 – 154). Tôi ngờ ngợ về một vài dẫn chứng bằng tiếng Pháp hoặc cách dịch từ Pháp sang Việt trong bài này.

AN CHI: Ông đã có cảm giác đúng vì trong bài này tác giả đã dẫn hoặc dịch không đúng ở một số chỗ:

– Câu “Après la pluie, le beau temps” (Sau cơn mưa, trời lại sáng) được tác giả thêm động từ être (là) mà sửa thành “Après la pluie, c’est le beau temps” (tr. 149). Cũng có thể có một vài ông Tây nói như thế vì các vị này không thuộc đúng nguyên văn câu tục ngữ trong tiếng mẹ đẻ của mình. Thực ra, chính sự vắng mặt của động từ ở đây mới “điểm xuyết” cho cái dáng dấp tục ngữ của câu đang xét.

– Câu “Aide-toi, le ciel t’aidera” (Hãy tự giúp mình, trời sẽ giúp cho) cũng đã được tác giả “cải biên” thành “Aide-toi, Dieu t’aidera” (tr. 146).

– Câu “Chien qui aboie ne mord pas” (Chó sủa, chó không cắn) cũng được tác giả sửa thành “Tous les chiens qui aboient ne mordent pas” (tr. 150). Rồi câu “cải biên” này được ông dịch thành “Chó sủa to hay nằm co một xó”. Lời dịch này cũng không đúng vì “nằm co” chỉ sự lười biếng còn câu tục ngữ của Pháp thì lại đối lập sự hung hăng bề ngoài hoặc sự ồn ào (sủa) với sự vô hại hoặc sự vô hiệu (không cắn).

– Tác giả này cũng cải biên câu “Il ny a pas de sot métier, il n’y a que de sottes gens” (Không có nghề ngốc, chỉ có người ngốc (mà thôi)) thành “Il n’y a pas de mauvais métiers, il y a seulement de mauvaises personnes” (tr. 151). Chỗ ý nhị trong nguyên văn là vế trước có tác dụng phủ định còn vế sau thì khẳng định nhưng cả hai đều bắt đầu bằng “il n’y a” còn ông Lê Trung Hoa thì đã đổi “il n’y a (que)” của vế sau thành “il y a (seulement)”. Huống chi, sot (ngốc, khờ) cũng khác mauvais (xấu, tồi).

– Câu “La fin justifie les moyens” được tác giả dịch là “Cứu cánh biện minh cho phương tiện” và đối chiếu với câu “The end justifies the means” của tiếng Anh (tr. 147). Nhưng trong tiếng Pháp fin không chỉ có nghĩa là “cứu cánh” mà còn là mục đích và moyen không chỉ có nghĩa là “phương tiện” mà còn có nghĩa là cách thức, biện pháp. End và mean trong tiếng Anh cũng thế. “La fin justifie les moyens” thực ra là “Mục đích chứng giải cho biện pháp”. Le petit Larousse illustré 2002, tại mục “fin” (tr. 433, nghĩa 6) và tại tr. 1100 của các “trang hồng” (pages roses) cũng đã giảng như thế: “Principe d’après lequel le but excuserait les actions coupables commises pour l’atteindre”. (Nguyên tắc theo đó mục đích (có thể) biện giải cho hành động phạm tội để đạt được nó). Câu này đồng nghĩa với câu “Qui veutla fin veutles moyens”, hiểu là ai đã nhắm mục đích gì thì nhất định chọn biện pháp thích hợp cho việc thực hiện mục đích đó. Đối với hành động của Al Qaeda và bọn khủng bố quốc tế cũng như sự ráo riết chuẩn bị của Mỹ (qua mặt cả Liên hợp quốc) để tấn công Irak, tưởng không có câu nào thích hợp bằng câu “The end justifies the means”, mà tiếng Pháp là “La fin justifie les moyens”.

§ 880. Kiến thức ngày nay, số 446, ngày 1-1-2003

ĐỘC GIẢ: Trong bài “Khoảng trống từ vựng – một biểu hiện của sự kỳ thị giới tính trong ngôn ngữ” đăng trên Ngôn ngữ, số 11-2002, tác giả Trần Xuân Điệp có viết như sau:

“Do có những KTTV (khoảng trống từ vựng) chỉ phụ nữ trong các nghề nghiệp/việc làm như vậy nên trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, để khái niệm nữ bác sĩ được chấp nhận vào tâm thức của người sử dụng thì trong tiếng Anh người ta phải thêm từ woman vào trước doctor – Woman doctor. Trong tiếng Việt ta cũng thấy có tình hình tương tự: nữ bác sĩ, chị bác sĩ, bà bác sĩ, v.v.” (tr. 57).

Tôi hơi phân vân về thí dụ bằng tiếng Việt mà tác giả đã nêu; không biết ông An Chi thấy thế nào.

AN CHI: Chúng tôi cũng thấy những thí dụ bằng tiếng Việt mà tác giả Trần Xuân Điệp đưa ra đều không ổn. Có điều là không biết những chỗ không ổn mà chúng tôi thấy được có trùng với những điểm mà ông thấy là không ổn hay không.

Sai lầm căn bản, theo chúng tôi là ở chỗ tác giả này đã xem bác sĩ của tiếng Việt là một danh từ giống đực. Thực ra trong khi cái sở chỉ của danh từ bác sĩ có “giống sinh lý”, nghĩa là có giới tính hẳn hoi (nam hay nữ) thì bản thân nó lại không hề có “giống ngữ pháp” (grammatical gender). Chẳng qua do đã nhìn nó theo cái quan điểm “chiếu Âu tầm chuẩn”, ở đây là “dĩ Anh vi chuẩn”, nên tác giả mới thấy ở nó cái gọi là “tính vô hình của nữ giới trong ngôn ngữ” (the invisibility of women in language) mà thôi. Danh từ bác sĩ của tiếng Việt không phải chỉ dành riêng cho nam giới. Bác sĩ là “người thầy thuốc tốt nghiệp đại học y khoa” (Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên), hoặc là “học vị của người tốt nghiệp đại học y khoa” (Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên). Cứ theo hai định nghĩa trên đây, nghĩa là cứ theo cách hiểu của người bản ngữ, thì chức năng hoặc học vị bác sĩ tuyệt nhiên chẳng phải là độc quyền của nam giới. Vì vậy nên chỉ với danh từ doctor của tiếng Anh ta mới có cái gọi là “tính vô hình của nữ giới” (còn nam giới thì “hữu hình”) chứ với danh từ bác sĩ của tiếng Việt thì cả nữ giới lẫn nam giới đều… “invisible” (vô hình).

Trong ngữ pháp của tiếng Việt, không hề có phạm trù “giống”. Khi nghe một người chơi chim nói rằng mình rất thích chim thì đố ai biết được người đó thích chim “giống đực” hay chim “giống cái”. Chỉ khi nào anh ta tuyên bố rõ ràng, chẳng hạn như: “Trong mười con chim của tôi, chỉ có một con trống, còn lại bao nhiêu đều là mái”, thì ta mới biết được cái tỷ lệ đực/cái ở đây là 1/9. Và sở dĩ ta biết được như thế là hoàn toàn nhờ vào phương tiện từ vựng chứ tuyệt đối chẳng phải là nhờ vào bất cứ đặc điểm ngữ pháp nào cả . Khi ta nghe một câu, chẳng hạn như “Bệnh viện nọ có một bác sĩ gây mê rất giỏi”, thì ta cũng chẳng làm sao biết được vị bác sĩ đó thuộc “giống cái” hay “giống đực”, trừ phi người ta nói rõ đó là một ông (chàng, v.v.) bác sĩ hay một bà (nàng, v.v.) bác sĩ. Trong trường hợp trước, ta biết được người bác sĩ đó thuộc phái nam còn trong trường hợp sau thì người đó thuộc phái nữ. Cũng là hoàn toàn nhờ vào phương tiện từ vựng chứ ngữ pháp chẳng có chuyện gì để làm ở đây. Trong cả hai trường hợp, danh từ bác sĩ cũng đều không hề có “giống ngữ pháp” và cả phái nam lẫn phái nữ đều “invisible” nếu không có các phương tiện từ vựng (ông/bà, anh/chị, nam/nữ, v.v.) để làm rõ.

Vậy trong tiếng Việt chẳng làm gì có cái gọi là “những khoảng trống từ vựng chỉ phụ nữ trong các nghề nghiệp/việc làm” như tác giả đã khẳng định. Chẳng qua là tác giả đã suy từ bụng dân Ăng Lê ra bụng của dân ta mà thôi, chứ ở phạm vi của vấn đề đang bàn thì trong tâm thức của mình, dân ta còn “bình đẳng” hơn dân Ăng Lê nhiều.

§ 881. Kiến thức ngày nay, số 446, ngày 1-1-2003

ĐỘC GIẢ: Từ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994) giảng “ngầu” là “nóng nảy, cộc cằn, dớ dẩn” với thí dụ “Tính thằng chả ngầu lắm”. Chữ “ngầu” này có phải cũng là một với chữ “ngầu” trong “đỏ ngầu”, “đục ngầu” hay không?

AN CHI: Chữ “ngầu” mà ông hỏi là một từ Việt gốc Quảng Đông trong khẩu ngữ ở Nam Bộ. Đó là âm Quảng Đông của chữ ngưu 牛 mà nghĩa gốc là “trâu” hoặc “bò”, còn nghĩa đang xét là nghĩa phái sinh. Quảng Châu thoại phương ngôn từ điển của Nhiêu Bỉnh Tài, Âu Dương Giác Á và Chu Vô Kỵ (HongKong, 1991) chú và giảng như sau:

“Ngưu (ngeo⁴). Dã man. Hoạnh” (tàn ác, dã man; hung dữ, hỗn láo) (tr. 170).

Nghĩa của chữ ngầu trong khẩu ngữ Nam Bộ chính là do nghĩa trên đây của chữ ngưu trong tiếng Quảng Đông mà ra; còn cách phiên âm “ngeo⁴” thì cũng đọc là “ngầu”.

§ 882. Kiến thức ngày nay, số 446, ngày 1-1-2003

ĐỘC GIẢ: Trong “che chở” thì “che” là “làm cho người ta không còn thấy được bằng cách dùng một vật ngăn hoặc phủ lên” (Từ điển tiếng Việt 1992) còn “chở” là gì thì khó hiểu cho đúng.

AN CHI: Có thể có người sẽ cho rằng ở đây chở chính là trở trong trở ngại, cách trở, v.v. mà phụ âm đầu tr- đã bị phụ âm đầu ch- của che đồng hoá. Sự thực không phải như thế: trở chỉ là một hình vị phụ thuộc nên dĩ nhiên không thể dùng độc lập như che. Chở ở đây thực chất cũng chính là chữ chở trong chuyên chở, chở đò, chở khách, v.v.. Che chở là hai vị từ đẳng lập dùng để “diễn Nôm” hai tiếng phú tải của Hán ngữ, có nghĩa là… che chở. Còn chính hai tiếng phú tải thì lại được “rút tỉa” từ thành ngữ thiên phú địa tải, có nghĩa là “trời che đất chở”. Trong tiếng Hán, thành ngữ này dùng để chỉ phạm vi cực to cực rộng còn trong tiếng Việt thì che chở có nghĩa là ngăn chặn bảo vệ, phù hộ, v.v. như có thể thấy trong câu Kiều:

Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.

§ 883. Kiến thức ngày nay, số 446, ngày 1-1-2003

ĐỘC GIẢ: Rất nhiều người trong giới tin học của Việt Nam hiện nay đã dịch danh từ fire wall của tiếng Anh thành “bức tường lửa”. Xin cho biết dịch như thế có ổn hay không.

AN CHI: Nếu dịch như thế thì e là sẽ làm “cháy” các trang web chăng? Webster’s New World College Dictionary giảng fire wall là “a fireproof wall to prevent the spread of fire, as from one room or compartment to the next” ((bức) tường chịu lửa (khó cháy) để ngăn lửa lan từ phòng hoặc gian này sang phòng hoặc gian kế bên). Còn A New English – Chinese Dictionary (The Commercial Press, Beijing, 1996) thì dịch là “phòng hỏa tường, cách hỏa tường”.

Vậy fire wall là “(bức) tường chống lửa”.

§ 884. Kiến thức ngày nay, số 446, ngày 1-1-2003

ĐỘC GIẢ: Trên Tuổi trẻ ngày 19-11-2002, trong bài “Trung Quốc phát hiện châu Phi trước Bồ Đào Nha”, dịch giả viết:

“Bản gốc của tấm bản đồ vải lụa có tên “Bản đồ nhà Đại Thanh” hiện đang được cất giữ bí mật ở Bắc Kinh và thậm chí theo phía Trung Quốc tấm bản đồ gốc này cũng chỉ là bản sao của tấm bản đồ vẽ từ năm 1320 và đã bị hủy (…) Người TQ, vào thời của nhà hàng hải Trịnh Hòa (đời nhà Thanh, 1371 – 1435), chủ yếu tìm cách làm vinh danh hoàng đế của mình (…)”.

Xin cho biết “trích đoạn” trên đây sai ở chỗ nào.

AN CHI: Nếu thuộc về năm 1320 hoặc trước 1368 thì đó không phải là nhà “Đại Thanh” (1644 – 1911) mà là nhà Nguyên (1206 – 1368) còn Trịnh Hòa thì không sống vào đời nào trong hai nhà này cả vì ông là người đời nhà Minh (1368 – 1644). Trung Quốc lịch đại nhân danh đại từ điển do Trương Huy Chi, Thẩm Khởi Vĩ và Lưu Đức Trọng chủ biên, quyển hạ (Thượng Hải Cổ tịch xuất bản xã, 1999) đã ghi về Trịnh Hòa như sau:

“(1371 hoặc 1375 – 1433 hoặc 1435) Người Côn Dương, tỉnh Vân Nam đời Minh, vốn họ Mã, tên Văn Hoà, người dân tộc Hồi (đây là tên một dân tộc chứ không phải đạo Islam). Đầu đời Minh, vào cung làm hoạn quan rồi sau do công lao (…) mà được ban họ Trịnh”. (tr. 1564)

Mẩu tin được dịch giả lấy từ nguồn AFP của Pháp. Người Pháp hiện nay áp dụng lối ghi danh từ riêng của người Trung Quốc theo phương án pinyin của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo kiểu này, “Nguyên” là “Yuán”, “Minh” là “Míng” còn “Thanh” là “Qīng” nhưng người Pháp bỏ các dấu ghi thanh điệu. Không biết AFP diễn đạt như thế nào mà lại khiến dịch giả nhầm lẫn một cách kỳ lạ đến như thế.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3