Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 862 - 872
§ 862. Kiến thức ngày nay, số 437, ngày 1-10-2002
ĐỘC GIẢ: Ngôn ngữ & Đời sống, số 7-2002 có bài “Dấu gạch ngang (–) và dấu nối (-)” của Nguyễn Thị Ly Kha (tr. 4 – 7). Tác giả đã nêu rõ từng chức năng của mỗi loại dấu rồi nhận xét: “Hiện nay những sự khu biệt giữa dấu gạch ngang (–)và dấu nối (-) đang bị đánh mất. Thường gặp nhất là hiện tượng chỉ dùng dấu nối (…) Và ngược lại có những văn bản chỉ thấy dùng dấu gạch ngang mà không dùng dấu nối (…). Thậm chí, không ít trường hợp trong văn bản sử dụng cả hai loại dấu nhưng lại dùng sai chức năng (thường gặp dùng dấu nối sai chức năng)”. Ba kiểu dùng sai trên đây đều được tác giả minh họa bằng nhiều thí dụ cụ thể để đi đến kết luận: “Ta có thể nói việc đánh mất sự khu biệt giữa dấu gạch ngang (–) và dấu nối (-) là một điều đáng tiếc”.
Xin hỏi ông An Chi có đồng ý với tác giả Nguyễn Thị Ly Kha về cách dùng mỗi loại dấu mà tác giả này đã trình bày hay không. Nếu không đồng ý thì xin ông cho biết cách dùng từng loại dấu theo quan niệm của ông. Còn nếu đồng ý thì chính ông cũng có dùng sai. Bằng chứng là trong bài của ông nhan đề “Về những lời “châu dệt” của ông Nguyễn Khắc Bảo” đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 8-2002, tr. 24 – 25, tại dòng 12, cột 1, trang 25 và dòng 4, dòng 7, dòng 16, dòng 19, cột 3 cùng trang, đáng lẽ phải dùng dấu gạch ngang (–) thì ông lại dùng dấu nối (-).
AN CHI: Bài của Nguyễn Thị Ly Kha là một hồi chuông báo động mà chúng tôi hy vọng là sẽ có tiếng vang để góp phần duy trì sự tồn tại riêng biệt của dấu gạch ngang và dấu nối. Chỉ xin nói rõ rằng không phải tất cả các thí dụ về cách dùng sai cả hai loại dấu mà Nguyễn Thị Ly Kha đã nêu đều là của các tác giả hữu quan vì ở đây đã có sự “cống hiến” không nhỏ của khâu in ấn, bắt đầu từ việc gõ vi tính. Tất cả những chỗ mà ông đã nêu trong bài của chúng tôi đều là dấu gạch ngang (–) trong lai cảo chứ không phải gạch nối (-). Dấu gạch ngang của chúng tôi sau chữ “ngữ” ở d.14, c.1, tr. 25 cũng bị bỏ sót. Ngay cả trong bài đã dẫn của Nguyễn Thị Ly Kha, tại các dòng 14, 16, 23 cột 1, trang 4, các dòng 1, 4, 6, 8, 9, 15, 17, 21, 22 cột 2 và 1, 8 cột 3 cùng trang, các dòng 3, 6, 8 cột 2 trang 5, các dấu gạch ngang cũng bị gõ thành dấu nối nên phải sửa lại bằng tay để kéo dài ra mà vẫn còn sót: tại dòng 5, cột 2, trang 5, dấu gạch ngang của tác giả cũng bị gõ thành dấu nối mà vẫn để nguyên. Đặc biệt là tại trang 6, khi tác giả sửa thí dụ (9)d thành (9’)d’ cho đúng thì dấu gạch ngang mở đầu của tác giả cũng bị gõ thành dấu nối mà vẫn không được sửa nên chẳng những hoàn toàn không tương xứng với dấu gạch ngang kết thúc mà còn làm cho sự diễn đạt của tác giả trở nên rất khó hiểu (Thế nào là “các tiểu loại vị từ – động từ có giới hạn”?).
Khâu in ấn cũng có khi đóng góp cho học thuật những “cống hiến” “chết người” mà sau đây là một thí dụ điển hình: Trong quyển Merriam-Webster New International Dictionary, Second Edition (1934), người ta đọc được mục từ sau đây: “Dord, n. Density”. Dĩ nhiên là theo kiểu in ấn này, ta phải hiểu rằng trong tiếng Anh thì danh từ (n.) dord có nghĩa là “tỉ trọng”. Và dĩ nhiên là có nhiều người đã tự trách một cách thật thà rằng chỉ có một cái chữ đơn giản và ngắn gọn như thế mà mình vẫn chưa biết đến. Hóa ra, cái mục từ chính xác lại là: “D. or d., Density”, nghĩa là “D. hoặc d. là chữ viết tắt của density (tỉ trọng)”. Dẫn chứng này lấy từ Morris Dictionary of Word and Phrase Origins của William and Mary Morris*.
Trở lại với bài của Nguyễn Thị Ly Kha, chúng tôi hy vọng rằng khâu in ấn sẽ không vô ý “truất phế” dấu gạch ngang mà đưa dấu nối lên ngôi hoặc ngược lại. Xin cứ để cho chúng chung sống hòa bình với nhau!
§ 863. Kiến thức ngày nay, số 438, ngày 10-10-2002
ĐỘC GIẢ: Từ lâu, tôi vẫn thắc mắc không biết “Mang Khảm” là một địa danh phiên âm từ tiếng nước nào và có nghĩa là gì (vì nếu là tiếng Hán thì vô nghĩa). Nay may mắn được đọc cuốn Nhận thức mới về đất Hà Tiên của Trương Minh Đạt do Nhà xuất bản Trẻ và Tạp chí Xưa & Nay ấn hành năm 2001 thì thấy tại trang 27, địa danh “Mang Khảm” đã được tác giả giải thích như sau:
“Chữ mang phiên âm Hán Việt của “Muang” là Mường (tiếng Mường – Thái). Về chữ khảm, người Xiêm và người Lào nói là khỏm, người Khmer nói là krom, tiếng Mã Lai gọi là kram, tiếng Nôm Việt Nam gọi là hỏm hay tràm có nghĩa là thấp, ngập. Tiếng Hán Việt âm ra là khảm 坎 hoặc trầm 沉. Từ đó Mang Khảm là xóm dân vùng nước ngập”.
Ông có đồng ý với tác giả không?
AN CHI: Trước nhất, cần phải nói rằng chữ mang là hình thức phiên âm bằng chữ Hán (đọc theo âm Hán Việt) của “mường” chứ không phải của “muang” vì muang là hình thức phiên âm kiểu Tây của chính âm (tiết) “mường”. Khi Trịnh Hoài Đức và các tiền bối khác dùng chữ mang để ghi âm (tiết) “mường” thì họ làm gì đã biết đến kiểu phiên âm thành “muang” của mấy ông Tây. Đó là còn chưa kể đến việc cùng với thời gian, về sau, nhiều ông Tây đã chọn những cách phiên âm thích hợp hơn. P. Lévy, chẳng hạn, thì ghi “muong” trong Histoire du Laos (Paris, 1974); G. Coedès còn kỹ hơn nên đã dùng dấu tréma (..) thay cho dấu “râu”(của chữ “ư” và chữ “ơ”)mà viết thành “müöng” trong Les peuples de la péninsule indochinoise (Paris, 1962); v.v.. Vậy mang là hình thức phiên âm của mường và mường là một từ gốc Tày – Thái (chứ không phải “Mường – Thái”), có nghĩa là vùng, xứ, nước, v.v.. Đối dịch mường thành “xóm” như ông Trương Minh Đạt đã làm (Mang Khảm = “xóm dân vùng nước ngập”) thì chẳng oan cho cái từ mường lắm ru vì “xóm” bất quá chỉ tương đương với “bản” chứ ngang bằng thế nào được với “mường”?
Còn khảm thì người Xiêm và người Lào nói là khỏm, hoàn toàn đúng như tác giả Trương Minh Đạt đã khẳng định. Nhưng tác giả cũng chỉ đúng riêng ở điểm này mà thôi chứ krom (Khmer), kram (Mã Lai?), hỏm, tràm (Việt) thì tuyệt đối chẳng có liên quan gì đến khảm (âm Hán Việt) và khỏm (Xiêm, Lào) cả. Krom trong tiếng Khmer có nghĩa là dưới; kram không tồn tại trong tiếng Mã Lai còn trong tiếng Việt thì hỏm không thể cùng gốc với tràm.
Vậy Mang Khảm được phiên âm từ tiếng nước nào và có nghĩa là gì? Xin trả lời rằng đây là hình thức phiên âm Hán Việt của tiếng Xiêm và tiếng Lào Mường Khỏm trong đó Khỏm là hình thức phiên âm bằng tiếng Xiêm và tiếng Lào của tộc danh “Khmer” để chỉ chính người Khmer và nước Campuchia. Sau đây là mục từ “khỏm” của tiếng Xiêm trong quyển Thai-English Students Dictionary của Mary M. Haas (California, Reprinted 1967, p. 54):
“khɔ̌ɔm N lit. Cambodia; Cambodian. This term is used in historical chronicles”.
(khỏm (là) danh từ có tính chất văn chương, (có nghĩa là) nước Campuchia, người Campuchia. Từ này được dùng trong các biên niên sử.)
Còn sau đây là mục từ “khỏm” của tiếng Lào trong quyển Dictionnaire laotien-français của Marc Reinhorn, tập I (Paris, 1970, p.270):
“K’ɔ̄᷈m n.eth. Khɔ̄m, l’ancien Khmer”.
(khỏm tộc danh (tức) Khom (tiếng Pháp không có dấu thanh – AC), nước Khmer cổ xưa).
Khỏm là hình thức phiên âm bằng cách âm tiết hóa tổ hợp phụ âm đầu khm- (Reinhorn ghi k’m-) của từ Khmer còn khảm là hình thức phiên âm Hán Việt của khỏm. Vậy khảm ở đây không phải gì khác hơn là “Khmer” và hoàn toàn không dính dáng gì đến krom (tiếng Khmer), kram (không hề tồn tại trong tiếng Mã Lai), hỏm và tràm (tiếng Việt) và dĩ nhiên cũng chẳng dính dáng gì đến cái nghĩa “thấp, ngập” mà ông Trương Minh Đạt đã nêu.
Mang Khảm chỉ đơn giản là Mường Khỏm phiên bằng âm Hán Việt để chỉ nước Khmer cổ xưa, tiền thân của nước Campuchia ngày nay.
§ 864. Kiến thức ngày nay, số 438, ngày 10-10-2002
ĐỘC GIẢ: Xin được tò mò một chút: thỉnh thoảng ông có “cỡi ngựa xem hoa” tiếp ở một vài quyển từ điển nào đó và phát hiện thêm những điều ngộ nghĩnh (chữ của chính ông đấy!) nào khác nữa hay không?
AN CHI: Xin thưa thật với ông rằng đối với chúng tôi thì “cỡi ngựa xem hoa” trong từ điển cũng là một cách… thư giãn.
Vì vậy nên thỉnh thoảng, để “nghỉ mệt” chúng tôi vẫn “dạo chơi” ở trong đó. Gần đây, trong Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 1, chúng tôi lại thấy thêm:
1. Tại mục “Bách khoa thư”, chữ Anh (British English) encyclopaedia đã bị viết thành “encyclopedia” (thiếu chữ “a” giữa “p” và “e”) nên thành ra chữ Mỹ (American English). Muốn ghi “vừa Anh vừa Mỹ” thì phải là encyclop(a)edia như người ta vẫn làm.
2. Tác giả của mục “Bái vật giáo” ghi rằng Zarathoustra là tiếng Pháp thì không đúng vì tiếng Pháp là Zoroastre (tiếng Anh là Zoroaster).
Xin nói thêm về trường hợp này rằng tiếng Anh Zoroaster bắt nguồn từ tiếng Pháp Zoroastre, tiếng Pháp Zoroastre từ tiếng La Tinh Zoroastres và hình thức La Tinh này là chuyển tự từ tiếng Hy Lạp Zôroastrês. Còn Zorathoustra, Zarathushtra (Zarathustra), Zarathustra chỉ là những hình thức chuyển tự từ tên của nhân vật này bằng tiếng Avestan. Zarathustra trong tiếng Avestan có nghĩa là “người mà những con lạc đà đã già” (chủ của những con lạc đà già). Ta có thể nhận ra rằng tiếng Avestan Zarant cùng gốc với tiếng Sanskrit jarant có nghĩa là già, còn tiếng Avestan uṣṭra thì cùng gốc với tiếng Sanskrit uṣṭra (Pali: ottha) có nghĩa là lạc đà. Rồi từ tiếng Pali sang tiếng Khmer thì cái danh từ dùng làm tên chung cho giống lạc đà đã trở thành ôt.
Thực ra, hình thức chuyển tự từ tiếng Avestan chỉ được biết đến sau khi tác phẩm Also sprach Zarathustra (Zarathustra đã nói như thế) của F. Nietzsche ra đời hồi nửa đầu của thập kỷ 1880.
3. Tác giả của mục “Bất lực tình dục” đã cho chữ “tình” nhập cư mà ruồng bỏ chữ tính mặc dù đây hiển nhiên là chuyện “tính” (sex) chứ không phải chuyện “tình” (love). Hai khái niệm này rất khác nhau. Hiện nay người ta đang ra sức dẹp chuyện sex mà không love của nạn mua bán dâm và khuyên thanh niên chỉ love mà chưa có sex khi chưa tiến tới hôn nhân. Vậy xin phân biệt đâu ra đấy mà gọi tên của mục này là “Bất lực tính dục”, nhất là trong một quyển từ điển cỡ… bách khoa.
4. Tại mục “Biên tập”, ta đọc được rằng đây là “thuật ngữ dịch từ chữ La Tinh: redastus – sắp xếp lại cho có trật tự”. Xin sửa “redastus” thành redactus cho đúng nhưng redactus lại có nghĩa là “được sắp xếp lại cho có trật tự” vì đây là phân từ bị động giống đực của động từ redigere và chính redigere mới có nghĩa chủ động là “sắp xếp lại cho có trật tự”.
5. Tại mục “Bồ tát”, ta đọc được rằng đây là do tiếng Sanskrit Bodhisattva trong đó bodhi là “giác ngộ” còn sattva là “hữu tình”. Thực ra, nếu hiểu theo một cái nghĩa “thấp” thì sattva ở đây là “sinh linh” còn hiểu “cao” hơn, thì đó là “tâm linh” hoặc “trí tuệ”. Với cái nghĩa thông thường của nó, danh từ Sanskrit sattva (Pali: satta) đã đi vào tiếng Khmer thành săt, có nghĩa là thú vật, động vật.
6. Tại mục “Chức nữ”, ta được biết rằng tên của chòm sao Thiên Cầm trong tiếng La Tinh là “Lyre” còn tên của sao Ngưu Lang là “Altair”. Rất tiếc rằng trong hai cái tên mà tác giả của mục từ này đưa ra chẳng có cái nào là La Tinh cả. Lyre là tiếng Pháp và tiếng Anh (mượn từ tiếng Pháp) còn Altair thì lại là tiếng Anh (còn tiếng Pháp là Autel). Trong tiếng La Tinh thì Thiên Cầm là Lyra (tiếng Anh cũng mượn cả tiếng La Tinh nên vừa có Lyre vừa có Lyra) còn Ngưu lang là Altaria.
7. Tại mục “Biến thể”, ta được tác giả giới thiệu mục “Bất biến thể” nhưng tìm không thấy mục này ở đâu rồi tại mục “Danh từ đếm được” ta cũng được giới thiệu mục “Danh từ biệt loại” nhưng tìm cũng không thấy mục này nơi nao. Có vẻ như khâu biên tập chưa được “bôi trơn”.
§ 865. Kiến thức ngày nay, số 439, ngày 20-10-2002
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 400 và số 401, ông An Chi đã nêu một số vấn đề trong bài “Châu dệt trong một câu Kiều” của tác giả Nguyễn Khắc Bảo trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 8-2001. Ông Nguyễn Khắc Bảo đã phản bác lại trong bài “Lại bàn về Châu dệt trong một câu Kiều” trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 3-2002 rồi kết luận như sau:
“Ông An Chi đánh số có tới 10 cái “ngỡ là” sai trong lập luận của tôi mà vẫn không dám kết luận việc phát hiện danh ngữ “Châu dệt” là sai. Ông cũng không bày tỏ quan điểm của mình, sẽ giải thích cho độc giả rõ vì sao các nhà khắc ván in Truyện Kiều ngày trước lại cứ đồng lòng khắc chữ châu nguyệt và cũng không thử nêu cách đọc của mình về hai chữ lạ lùng trên theo âm nào là hợp tình hợp lý”. Chúng tôi muốn biết quan điểm của ông.
AN CHI: Rõ ràng là sau khi nêu lên những cái sai của ông Nguyễn Khắc Bảo thì, ở cuối câu trả lời, chúng tôi đã kết luận một cách rành mạch và dứt khoát rằng “dệt” là một âm không thể chấp nhận được cho cách đọc Nôm của chữ 月 (nguyệt) tại các dòng 1 – 15 (từ dưới lên), cột 3, trang 51 trên Kiến thức ngày nay, số 401. Trên Kiến thức ngày nay, số 400 và số 401, chúng tôi chỉ chọn cho mình cái việc duy nhất là bác bỏ cái âm “dệt” do ông Nguyễn gán cho chữ 月 mà thôi. Nhưng vì ông Nguyễn có nhã ý nhắc chúng tôi bác bỏ chính chữ 月 (nguyệt) của ông nên chúng tôi xin lĩnh ý mà thưa với ông như sau.
Hoàn toàn không có gì lạ nếu một số (chứ không phải “các”) nhà khắc ván in Truyện Kiều ngày trước lại cứ “đồng lòng” khắc chữ 月(nguyệt) mà không khắc chữ ngọc 玉 vì cái sự “đồng lòng” này, đối với một số bản, chẳng qua chỉ là một sự “chép theo”, “khắc theo” đôi khi có “nhuận sắc” mà thôi. Do đó vấn đề không phải là ở chỗ trưng ra đến 17 bản Nôm như ông làm mà là ở chỗ phải căn cứ vào những bản thuộc loại xưa nhất. Thuộc loại này, phải kể đến hai bản:
– Liễu Văn Đường 1871 (LVĐ) và
– Duy Minh Thị 1872 (DMT).
Ông Nguyễn Khắc Bảo xem thường Duy Minh Thị nên đã gọi vị này là một “ông Tầu” và cũng xem thường bản Duy Minh Thị chỉ vì bản này ghi ngọc 玉 chứ không phải là 月 (nguyệt) theo ý muốn của ông. Nhưng đây chỉ là chuyện cảm tính của ông Nguyễn Khắc Bảo chứ Nguyễn Tài Cẩn, nhà văn bản học dày dạn kinh nghiệm và rất có uy tín thì lại nhận định như sau:
“Bản Duy Minh Thị quí ở chỗ là nó còn bảo lưu được cho chúng ta hình ảnh của một văn bản gốc rất cổ có thể đã có mặt trong khoảng 1803 – 1825 (…) Bản Duy Minh Thị còn gợi ý cho chúng ta rằng rất có thể bản gốc của nó là một trong những văn bản đã được bà con, học trò hay bạn bè của Nguyễn Du trực tiếp biên tập, theo đúng tinh thần của Nguyễn Du”*.
Vì những lẽ trên đây nên ta có thể tin chắc rằng ngọc 玉 của bản Duy Minh Thị mới đúng là cái “chữ Kiều gốc” mà Duy Minh Thị, “Nam Việt Gia Định thành cư sĩ,” đã có công tân thuyên (khắc mới) và trùng san để giữ lại cho chúng ta đến tận ngày nay. Chữ ngọc này còn được khẳng định trong bản Kiều quốc ngữ 1875 của Trương Vĩnh Ký mà ta có thể phỏng đoán rằng có lẽ cũng căn cứ vào bản Duy Minh Thị hoặc một bản xưa hơn nữa để phiên âm.
Còn bản Liễu Văn Đường thì sao? Sau đây cũng là nhận định của Nguyễn Tài Cẩn:
“Bản Liễu Văn Đường có lẽ có một bản gốc đã điều chỉnh lại theo tinh thần của một giai đoạn mới hơi chậm hơn: một bản gốc biên tập vào khoảng cuối đời Minh Mạng, tức khoảng 1836 – 1840”. (Bđd, tr. 6)
Liễu Văn Đường là bản đã chép chữ 月 (nguyệt) thay vì chữ ngọc 玉 và cái chữ mới này chẳng qua chỉ là hậu quả của một sự chép sai rồi/hoặc khắc sai mà thôi. Cái lý do thôi thúc chúng tôi quả quyết như trên là bản Liễu Văn Đường có quá nhiều chữ sai thô thiển về tự dạng, có thể phục hồi nguyên dạng để đọc cho đúng âm, đúng từ một cách hoàn toàn chắc chắn. Những chữ sai như thế có đến trên 200 (trung bình mỗi trang có 1,5 chữ) theo sự ghi nhận ban đầu của chúng tôi trên văn bản Liễu Văn Đường do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị trong Truyện Kiều – bản Nôm cổ nhấtLiễu Văn Đường 1871 (Nxb. Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2002). Sau đây là một số dẫn chứng thuộc loại đơn giản nhất nên dễ thấy nhất (ký hiệu hình mũi tên (→) đọc là “nhầm thành” và “c.” là “câu”):
– đầy 苔 → thủ 首 (c.425); ô 污 → cái 丐 (c.854); tây 西 → dậu 酉 (c.1439); nấy 乃 → đao 刀 (c.1876); nhân 人 → đại 大 (c.2207); quan 官 → nghi 宜 (c.2451); thổ 土 → sĩ 士 (c.2132, 2598, 2637); đèo 岧 → nham 岩 (c.2801); nỡ 女 → văn 文 (c.2816); v.v..
Đến cái chữ nhân 人 hai nét ai ai cũng biết mà còn bị nhầm thành đại 大, cái chữ thổ 土 ba nét “dễ ợt” mà còn bị nhầm thành sĩ 士, v.v. thì có chi là lạ nếu chữ ngọc 玉 bị nhầm thành nguyệt 月! Và đối với những chữ “nhầm thành” như thế mà cứ phí công đi tìm cho chúng cái âm và cái nghĩa “thích hợp” với từng văn cảnh như ông Nguyễn Khắc Bảo đã hăm hở đi tiên phong chứ không chịu ra sức tìm cho đúng chính cái chữ gốc đã bị khắc sai thì…
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong!
Chữ 月 (nguyệt) trong câu 1316 của bản Liễu Văn Đường chính là một chữ bị khắc sai từ chữ ngọc 玉 và vì đây là một chữ bị khắc sai nên làm sao chúng tôi lại có thể lẩm cẩm mà tìm cách đọc nó? Giả sử đó có thật là chữ của Nguyễn Du đi nữa thì âm của nó cũng dứt khoát không phải là “dệt” như ông đã đọc. Về cách đọc sai này, chúng tôi đã phân tích trên Kiến thức ngày nay, số 400 và số 401. Nhưng giả sử chữ đó có thể đọc là dệt thì tổ hợp “châu dệt” cũng chỉ là một ngữ danh từ ảo do ông Nguyễn “lần đầu tiên phát hiện ra” mà thôi. Lý do rất đơn giản: châu và dệt không thể kết hợp với nhau vì giữa hai từ này không có sự tương thích ngữ nghĩa như chúng tôi đã nêu rõ trong bài “Về những lời “châu dệt” của ông Nguyễn Khắc Bảo”, đăng trên Ngôn ngữ & Đời sống, số 8-2002.
Mong rằng ông Nguyễn Khắc Bảo sẽ không phí sức đi tìm âm Nôm và nghĩa của những chữ đã nêu và hàng trăm chữ khắc sai khác chưa nêu trong trong bản Liễu Văn Đường mà hãy dành công sức để tìm ngược về những chữ gốc tương ứng vì đó mới đích thực là chữ của Nguyễn Du và là đối tượng mà văn bản học về Truyện Kiều phải tìm đến.
§ 866. Kiến thức ngày nay, số 439, ngày 20-10-2002
ĐỘC GIẢ: Ngôn ngữ & Đời sống, số 9-2002 có bài Ngôn ngữ “dễ” và ngôn ngữ “khó” của Ka-tô Lôm-bơ do Đỗ Thanh dịch. Bài này có nói rằng “antiestablismentarison” là một từ được xem là “kì cục” của tiếng Anh. Khốn nỗi những thí dụ khác thì được dịch còn từ này lại không. Vậy xin cho biết nó có nghĩa là gì.
AN CHI: Trước nhất, xin nói nếu được viết đúng thì cái từ kỳ cục này của tiếng Anh phải là antiestablishmentarian. Cứ như đã in trên Ngôn ngữ & Đời sống, 9-2002 thì từ này thiếu “h” sau “s” trước “m”, thừa chữ “s” thứ ba và thay vì “a” trước “n” cuối thì lại là “o”.
Tất cả bắt nguồn từ cái từ gốc establishment, ở đây có nghĩa là việc nhà nước công nhận giáo hội. Từ điển Anh – Việt của Viện ngôn ngữ học do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu, Bùi Ý hiệu đính (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975) dịch establishment là “sự chính thức hóa (nhà thờ)” thì thật là sai. Cái mà quyển từ điển này gọi là “nhà thờ” thì tiếng Anh là Church (với chữ “c” hoa = C), có nghĩa là giáo hội. Một giáo hội có biết bao nhiêu là nhà thờ. Vậy xin sửa hai tiếng “nhà thờ” trong lời đối dịch của quyển từ điển này thành “giáo hội” cho đúng.
Với cái nghĩa “việc nhà nước công nhận giáo hội”, danh từ đang xét đã được dùng theo hoán dụ và viết với chữ “e” hoa (E) thành Establishment để chỉ chính cái giáo hội được nhà nước công nhận, cũng có nghĩa là để chỉ quốc giáo. Và establishmentarian có nghĩa là tín đồ quốc giáo, người chủ trương nhà nước công nhận giáo hội. Vậy cứ theo cấu tạo mà xét thì antiestablishmentarian có nghĩa là người chống lại việc nhà nước công nhận (một) giáo hội, người chống lại quốc giáo. Với cái từ phái sinh sau cùng này, lẽ ra phải có danh từ antiestablishment nhưng chúng tôi đã dò trong từ điển mà tìm không ra cái từ cấu tạo với tiền tố anti- này; chỉ thấy có disestablishment, với tiền tố dis-, có nghĩa là “việc tách giáo hội ra khỏi nhà nước”.
Vậy không biết cái từ antiestablishmentarian của tác giả Ka-tô Lôm-bơ có thực sự tồn tại trong tiếng Anh hay không? Cũng có thể. Nhưng từ sau đây thì chắc chắn có và được xem là thuộc loại dài nhất trong tiếng Anh (28 chữ cái). Đó là: antidisestablishmentarianism, có nghĩa là thuyết chống lại việc đòi tách giáo hội ra khỏi nhà nước. Từ này đã được ghi nhận trong Morris Dictionary of Word and Phrase Origins của William and Mary Morris*.
§ 867. Kiến thức ngày nay, số 440, ngày 1-11-2002
ĐỘC GIẢ: Mang Khảm có phải là một tên khác của đất Hà Tiên hay không?
AN CHI: Nhiều tác giả, cả xưa lẫn nay, đã tin như thế, gần đây nhất là Trương Minh Đạt trong quyển Nhận thức mới về đất Hà Tiên (Tạp chí Xưa & Nay, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 2002). Nhưng Mang Khảm lại là hình thức phiên âm Hán Việt của Mường Khỏm, vốn là một địa danh bằng tiếng Xiêm và tiếng Lào, dùng để chỉ nước Campuchia cổ xưa, như chúng tôi đã phân tích và chứng minh trên Kiến thức ngày nay, số 438. Vậy việc đồng hóa Hà Tiên với Mang Khảm là một sai lầm thô thiển cần phải cải chính.
Chúng tôi xin xác định cho thật rõ ràng thêm rằng sở dĩ trên Kiến thức ngày nay, số 438 chúng tôi nói Mang Khảm là hình thức phiên âm Hán Việt của Mường Khỏm là vì chúng tôi muốn nương theo “nhận thức” của ông Trương Minh Đạt mà diễn đạt chứ thực ra thì hai chữ 茫坎 – mà ông đã noi gương những người đi trước để đọc theo âm Hán Việt thành “Mang Khảm” – thực chất là những chữ Nôm nên âm của chúngphải được đọc thẳng thành Mường Khỏm”.
Vậy xin trả lại cho hai chữ đang xét cái âm “Mường Khỏm” của nó. Và vì Mường Khỏm là tên bằng tiếng Xiêm và tiếng Lào − mà tiếng Việt cũng đọc… y chang − của nước Khmer cổ xưa, tiền thân của nước Campuchia ngày nay nên không thể nói rằng Hà Tiên cũng còn có tên là… Mường Khỏm (Mang Khảm). Nhưng để chứng minh cho “nhận thức” của mình về sự đồng nhất giữa Hà Tiên và Mang Khảm, ông Trương Minh Đạt đã dẫn và dịch Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức như sau:
“Hà Tiên trấn nãi Chân Lạp cố địa, tục xưng Mang Khảm, Hoa ngôn Phương Thành dã (Trấn Hà Tiên, nguyên thuộc đất của Chân Lạp, xưa gọi là đất Mang Khảm, tiếng Trung Hoa gọi là đất Phương Thành vậy)”. (Sđd, tr. 27)
Chúng tôi không hiểu như ông Trương Minh Đạt vì chúng tôi chấm câu và phiên âm như sau:
“Hà Tiên trấn nãi Chân Lạp cố địa (tục xưng Mường Khỏm), Hoa ngôn Phương Thành dã”.
Nghĩa là:
“Trấn Hà Tiên là đất xưa của Chân Lạp (thường gọi Mường Khỏm), tiếng Hoa là Phương Thành vậy”.
Chấm câu và hiểu như thế thì bốn chữ “tục xưng Mường Khỏm” (chứ không phải “Mang Khảm”) là thành phần chêm vào (incise), để nói rõ thêm về địa danh Chân Lạp chứ không phải thành phần trực tiếp giải thích về địa danh Hà Tiên. Nghĩa là Trịnh Hoài Đức không sai. Còn nếu đúng là Trịnh Hoài Đức cũng hiểu như ông Trương Minh Đạt đã dịch thì ta buộc phải khẳng định rằng trong trường hợp này, Trịnh Hoài Đức đã sai. Cái sai này tự nó đã hiển nhiên vì Hà Tiên làm sao lại có thể mang tên của nước Khmer (Campuchia)? Chính Mạc Thiên Tích, con của Mạc Cửu (người có công thành lập trấn Hà Tiên), khi viết lời tựa cho Hà Tiên thập vịnh, cũng chỉ nói rằng “Trấn Hà Tiên nước An Nam xưa là đất hoang” chứ không nói rằng Hà Tiên cũng gọi là Mường Khỏm (Mang Khảm). Dĩ nhiên ta có thể biện luận rằng vì đây không phải là yêu cầu của một lời tựa (nên Mạc Thiên Tích mới không chú thích rõ) nhưng viết như thế thì ít nhất Mạc Thiên Tích cũng đã tránh được một sai lầm thô thiển.
Từ lời thông báo rõ gọn của Mạc Thiên Tích, (Hà Tiên xưa là đất hoang) ta có thể suy ra rằng, trước khi họ Mạc đến khai khẩn để lập trấn thì vùng đất hoang Hà Tiên cũng chẳng có bóng dáng của người Khỏm, nghĩa là người Khmer. Vậy làm sao mà Hà Tiên lại có thể có tên là “Mường Khỏm”, nghĩa là nước Khmer? Tiếc rằng xưa nay một số người không chịu khảo chứng mà cứ mặc nhận rằng cái đẳng thức “Hà Tiên = Mang Khảm (đúng ra là Mường Khỏm)” là một chân lý không có gì phải bàn cãi. Nguyễn Văn Hầu, chẳng hạn, đã viết một cách thản nhiên: “Đất Man (sic) Khảm là một biên thuỳ dị vực, (…) đã trở nên Hà Tiên Đồng Trụ Trấn (…)”*. Còn Hãn Nguyên thì nhắc lại ý kiến của Vũ Thế Dinh: “Theo Mạc Thị Gia-Phả do Đinh Đức Hầu Vũ Thế Dinh viết thì Hà-Tiên vốn thuộc đất đai của Chân Lạp mà Cao Miên gọi là Máng (sic) Khảm”*. Với Vũ Thế Dinh, qua lời của Hãn Nguyên, thì cái sai còn bị đẩy đi xa hơn: Máng (sic) Khảm là tiếng Miên!
Đã đến lúc phải trả về cho hai chữ 茫坎 cái âm chính xác của nó là “Mường Khỏm” và trả về cho địa danh Mường Khỏm cái sở chỉ đích thực của nó là nước Khmer cổ xưa.
§ 868. Kiến thức ngày nay, số 439, ngày 20-10-2002
ĐỘC GIẢ: Tạp chí Văn học, số 8-2002 có bài “Tiền Phục hưng Nga trong lịch sử văn hóa thế giới” của D.S Likhachov do Đào Tuấn Ảnh dịch (tr. 73 – 81). Trong bài này có câu: “Tiền Phục hưng Italia (Protorenessans) – “Phục hưng ở giai đoạn đầu” về bản chất dường như không khác với Phục hưng (Renesans)”. (tr. 80). Nếu đối chiếu hai chữ trong ngoặc đơn với nhau, thì có thể khẳng định: hoặc là “Protorenessans” thừa một chữ “s” (trước “a”) hoặc “Renesans” thiếu một chữ “s” (cũng trước “a”). Vậy xin cho biết đây là chuyện thừa hay thiếu và dù thừa hay thiếu, cũng xin cho biết đây là thứ tiếng gì (Anh, Pháp, Ý, v.v.) mà trông có vẻ là lạ…
AN CHI: Protorenessans thì “vừa đủ” còn Renesans thì thiếu một chữ “s” ở giữa. Vậy xin sửa lại thành Renessans cho đúng. Sở dĩ ông thấy mấy chữ này có vẻ là lạ là vì nó được chuyển tự từ chữ Nga sang chữ cái La Tinh chứ không phải viết theo tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, vốn là hai sinh ngữ quen thuộc hơn. Renessans là một từ mà tiếng Nga đã mượn từ tiếng Pháp Renaissance, có nghĩa là thời kỳ Phục hưng (trong lịch sử văn học, nghệ thuật, v.v.). Tiếng Anh cũng mượn của tiếng Pháp mà viết đúng như thế còn tiếng Ý thì lại là Rinascimento.
Có điều là dịch Protorenessans thành “Tiền Phục hưng” thì… sai vì trong tiếng Nga thì pred(o) – mới là “tiền-” chứ proto- thì lại là “nguyên thủy”, “nguyên sơ”. Vậy Protorenessans là “Phục hưng sơ kỳ”. Chính vì vậy nên trong lời văn của mình (ngay ở đoạn mà ông đã dẫn), tác giả Likhachov mới diễn giải thêm rằng Protorenessans là “Phục hưng ở giai đoạn đầu”.
Có người làm từ điển thuật ngữ, cũng dịch sai yếu tố proto-. Các tác giả của quyển Từ điển thuật ngữ khoa học xã hội Nga – Pháp – Việt của Viện ngôn ngữ học (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1979) đã dịch protoneolit của tiếng Nga là “thời đại trước đá mới” mà quên bẵng đi rằng nó đã thuộc về neolit, tức thời đại đá mới rồi vì protoneolit là “thời đại đầu đá mới” như đã dịch trong Từ điển thuật ngữ sử học – dân tộc học – khảo cổ học Nga – Pháp – Việt, cũng của Viện ngôn ngữ học (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978). Trớ trêu hơn nữa là theo “Lời mở đầu”, các nhà biên soạn của quyển trước đã thừa hưởng nội dung của quyển sau nhưng lại chữa đúng (“thời đại đầu đá mới”) thành sai (“thời đại trước đá mới”).
§ 869. Kiến thức ngày nay, số 441, ngày 10-11-2002
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 435, ông có trả lời một độc giả về từ “giọi” trong câu 433 (Nhặt thưa gương giọi đầu cành) của Truyện Kiều. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông về mặt logique ngữ nghĩa, không thể nào “gối” mà nhặt thưa được. Phân tích và giải thích ngang chỗ đó là đủ; đằng này ông lại đi hơi xa khi đem cả thơ của Tản Đà vào để minh chứng cho luận điểm của mình là trăng thì ở xa, tận cung Quảng Hàn của chị Hằng thì làm sao mà gối đầu cành cho được (!). Một cách khách quan, tôi cho rằng ông Nguyễn Khắc Bảo không hề cắt từ “đầu” trong “đầu cành” để gắn nó với từ “gối” thành “gối đầu” rồi để “cành” nằm trơ vơ vô nghĩa. Thật ra, từ “gối” không cần gì mượn từ “đầu” mới có thể diễn ý “gối đầu”. Và cũng không nên gay gắt đến vô lý buộc trăng phải mọc thêm đầu mới gối được mà bỏ qua biện pháp tu từ trong văn học, nhất là trong thơ: “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu” hoặc một đôi chữ trong “Chơi thuyền dưới trăng” của Hàn Mặc Tử mà ở đây ta thấy phép nhân cách hóa đã được tác giả sử dụng nhiều.
Nếu có gì thất thố, mong ông vui lòng bỏ qua cho.
AN CHI: Những lời góp ý của ông chẳng những không có gì thất thố mà ngược lại, còn thể hiện chiều sâu của một sự cảm thụ buộc người đối thoại phải suy ngẫm nghiêm túc. Và trên cơ sở của một sự suy ngẫm ngiêm túc, chúng tôi xin bộc bạch với ông như sau.
Ông cho rằng ông Nguyễn Khắc Bảo không hề cắt từ đầu trong đầu cành để gắn với từ gối thành gối đầu rồi để cành nằm trơ vơ vô nghĩa. Nhưng chính tác giả đó đã viết rành mạch rằng “mảnh trăng cũng như đang gối đầu vào cành cây mà ngủ” chứ chúng tôi không hề thêm bớt. Chúng tôi cũng biết rằng động từ gối không cần mượn danh từ đầu mới diễn được cái ý “gối đầu” và nếu đúng chữ của Truyện Kiều là “gối đầu cành” thì ở đây Nguyễn Du đã thực hiện biện pháp nhân hóa (chính tác giả đó cũng đã nói rõ như thế). Nhưng nhân hóa cũng phải có cái lý, cái lẽ của nó như sẽ trình bày ở phần sau.
Còn sở dĩ chúng tôi phải đem cả thơ Tản Đà vào là vì chúng tôi muốn chứng minh cho rạch ròi rằng thực ra ta có đến hai thứ trăng: mặt trăng, tức nguyệt cầu và ánh trăng, tức nguyệt quang.
Trăng trong bài thơ của Tản Đà là nguyệt cầu còn trăng trong câu Kiều đang xét thì lại là nguyệt quang. Đối với ánh trăng mà lại dùng động từ gối để nhân hóa thì cái lối nhân hóa như thế cũng chẳng hơn gì mấy câu “Quả bóng đã dừng chân” (thay vì ngừng lăn) hoặc “Cỗ máy đang nghỉ tay” (thay vì tạm ngừng chạy), v.v.. Vậy khi chúng tôi chê cách hiểu và cách cảm đó là chúng tôi chê một biện pháp tu từ không cần lý, không cần lẽ chứ không phải chúng tôi không ý thức được rằng đó là phép nhân hoá. Và để cho cùng kỳ lý, xin nói thêm rằng nếu trăng trong câu thơ đó có là nguyệt cầu đi nữa thì một lối nhân hóa như thế cũng chẳng may mắn gì hơn. Mặt trăng tự nó đã là một thiên thể hình cầu; vậy toàn bộ “thân thể” của nó đã là một cái “đầu” rồi thì còn lấy đâu ra đầu nữa mà gối? Mà đã gối thì cũng chỉ có thể gối “tại chỗ”, nghĩa là liền với thân thể chứ ở cách trái đất đến 384.000km thì gối thế nào được tới hành tinh này? Nếu biện pháp nhân hóa mà tuyệt đối “ly khai” với thực tế thì chẳng hóa ra mọi thứ đều có thể được nhân hóa một cách tùy tiện ở mọi lúc, mọi nơi hay sao? Và một lối nhân hóa xoàng xĩnh đến như thế thì sánh thế nào được với câu
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
của Hàn Mặc Tử. Giá trị tu từ của động từ nằm ở đây hơn hẳn cái động từ gối kia một trời một vực nhờ cái lý, cái lẽ chắc chắn, vững vàng của sự nhân hóa, trong cái chu cảnh ngôn từ cụ thể của câu thơ, nhất là khi ta liên hệ với câu tiếp theo:
Đợi gió đông về để lả lơi,
và nhất là nếu ta lại liên hệ đến bệnh trạng và cả nỗi niềm… ẩn ức (refoulement) của tác giả nữa.
Câu trước có trăng, câu sau có gió mà gió trăng, trăng gió lại là chữ dùng để chỉ chuyện trai gái lăng nhăng. Trong cái chuyện lăng nhăng này thì việc chuyển đổi tư thế từ đứng hoặc ngồi thành nằm là chuyện có thể xảy ra. Huống chi trăng của Hàn Mặc Tử đang ở trong cái tâm thế “đợi gió đông về để lả lơi” thì việc nó tự phô bày trong cái tư thế nằm, mà lại là “nằm sóng soãi”, cũng là chuyện… dễ thông cảm. Nằm là một chữ có quyền tồn tại trong văn cảnh này để chỉ cái tư thế của trăng, bất kể đây là một vật thể có hình thù như thế nào, vuông hay tròn, đều hay méo, có đầu hay không, có lưng hay không, có chân hay không, v.v.. Cái chuyện đã lăng nhăng như thế thì cái tư thế nằm là một “hệ quả” hoàn toàn hợp lý bất luận đối tượng được miêu tả có là cái chi chi. Vậy bên cạnh chữ nằm có thể được cấp chứng chỉ ISO thì cái chữ gối kia chỉ là một sản phẩm thủ công quá thô sơ mà thôi.
Ông cho rằng chúng tôi đã gay gắt đến vô lý khi đòi trăng phải mọc thêm vô số đầu thì mới có thể gối lên vô số cành cây vườn nhà Vương ông. Chẳng qua chúng tôi đã cố ý đưa sự vô lý gay gắt này ra để vạch rõ sự vô lý thật thà trong cách hiểu của tác giả kia mà thôi. Đồng thời, chúng tôi cũng còn có dụng ý nhấn mạnh rằng sự cảm thụ văn học chỉ có thể sâu sắc và thỏa đáng khi nó xuất phát từ một cơ sở lý tính vững vàng chứ không thể chỉ là biểu hiện của một thứ cảm tính hời hợt. Muốn thế thì cái điều kiện đầu tiên là phải nắm cho thật vững các quy luật của ngôn ngữ. Xét về mặt này thì chữ “gối” đã làm hỏng câu 433 của Truyện Kiều một cách toàn diện.
§ 870. Kiến thức ngày nay, số 441, ngày 10-11-2002
ĐỘC GIẢ: Để kết thúc câu trả lời về chữ thứ tư trong câu 433 của Truyện Kiều (Nhặt thưa gương giọi đầu cành), ông có viết trên Kiến thức ngày nay, số 435: “Tạm thời chúng tôi chưa thấy có chữ nào thích hợp hơn chữ “giọi” cả”. Vậy bây giờ ông đã tìm thấy chưa?
AN CHI: Nếu xét theo ba mặt hình, âm và nghĩa thì về mặt nghĩa chữ “giọi” không có vấn đề gì nhưng hai mặt còn lại thì đã hé lộ những điều khả nghi.
Các bản quốc ngữ chép thành “giọi” có lẽ là vì đã căn cứ vào bản Nôm của Kiều Oánh Mậu. Bản này ghi chữ thứ tư của câu 433 là 燴 nhưng theo chúng tôi thì đây là một chữ đã được Kiều Oánh Mậu hiệu đính từ cái chữ gốc là *, như có thể thấy ở bản Liễu Văn Đường 1871. Chữ này thường đọc thành “gối” nhưng có lẽ do nhận thấy “gối” thì không ổn về mặt nghĩa (như chúng tôi cũng đã phân tích) nên Kiều Oánh Mậu mới đổi bộ thủ của nó từ 扌(tức là 手 (thủ)) thành 火 (hoả) để đọc thành giọi cho thông nghĩa. Nhưng giọi mà ghi bằng 燴 thì thực sự không bình thường vì những tiếng có phụ âm đầu gi- thường được ghi bằng những chữ có phụ âm đầu ch-, d-, đ-, tr- hoặc bản thân phụ âm gi-. Nếu tiếng có phụ âm đầu gi- đó là biến thể ngữ âm của một tiếng có phụ âm đầu r- (như giọi < rọi) thì nó còn có thể được ghi bằng chữ có phụ âm đầu l-. Trường hợp gi- ghi bằng h- như giọi 燴 ghi bằng hội 會 là một chuyện lạ. Tuy là lạ nhưng đây là một trường hợp có thể giải thích được: Kiều Oánh Mậu chỉ thay nghĩa phù (扌thành 火) để đọc thành “giọi” cho thông nghĩa nhưng vẫn muốn giữ lại thanh phù (會)của chữ gốc (*).Chữ này đã đi vào từ điển hoặc bảng tra chữ Nôm với âm “giọi” có lẽ cũng chỉ do trường hợp duy nhất trong câu Kiều thứ 433 mà thôi.
Vậy theo chúng tôi thì cái chữ Kiều gốc đang xét là * và âm của nó ở đây là gội chứ không phải gối. Việc chọn lựa cách đọc này tuyệt đối không có gì bất thường, trước nhất là vì hội 會 (chữ dùng để biểu âm) và gội (chữ được biểu âm) đều cùng có thanh điệu 6 (dấu nặng). Dĩ nhiên là chữ này cũng có thể dùng để ghi âm “gối” cho những trường hợp khác, giống như chữ 檜 (bộ mộc 木) và chữ 浍 (bộ thủy 氵) cũng dùng để ghi hai âm “gối” và “gội”*. Và khi mà cả hai chữ trên đây, một thuộc bộ mộc, một thuộc bộ thủy, đều có thể ghi cả hai âm “gối” và “gội” thì ta cũng không nên đòi hỏi một cách vô lý rằng phải viết với bộ thủy thành 澮 thì mới có thể đọc là “gội” chứ với bộ thủ thành * thì không.
Vậy theo chúng tôi thì chữ thứ tư của câu Kiều thứ 433 là *.
Và vì âm của nó ở đây là “gội” cho nên câu này sẽ phải đọc là:
Nhặt thưa gương gội đầu cành.
Chữ gội này không đơn độc vì ta đã có một tiền lệ ở câu 77 của Chinh phụ ngâm.
Sương đầu núi buổi chiều như gội.
Gội là hắt, là giội từ trên xuống rồi lan tỏa ra khắp cái vật thể được nói đến. Nghĩa của gội trong gội mưa, gội gió, v.v. chẳng qua cũng chỉ là một sự ứng dụng từ cái nghĩa này còn nghĩa của gội trong gội ơn thì cũng chỉ là cái nghĩa bóng xuất phát từ cái nghĩa đen trên đây mà thôi. Cái nghĩa đã nói trên đây của chữ gội mà vận vào câu Kiều thứ 433 thì rõ là quá hợp lý: Ánh trăng hắt xuống và lan tỏa trên (các) cành cây (vườn nhà Vương ông) một cách nhặt thưa “theo tỷ lệ thuận” với sự nhặt thưa của những cành (cây) đó.
Một sự khẳng định về các mặt hình (*), âm (gội), nghĩa (giội xuống rồi lan tỏa ra) như trên mà vận vào câu Kiều thứ 433 thì tưởng không còn gì hợp lý bằng. Vậy xin mạo muội trình bày để ông, các bạn đọc và các nhà chuyên môn thẩm định.
§ 871. Kiến thức ngày nay, số 442, ngày 20-11-2002
Về một chi tiết trong bài “Tết trung thu – Bánh và quà trung thu” của Nguyễn Thị Bảy (Văn hóa nghệ thuật, số 10, 2002, tr. 36-37,46).
Trong bài này, tác giả Nguyễn Thị Bảy có viết một đoạn liên quan đến chúng tôi như sau:
“Theo GS. Trần Quốc Vượng, sau khi tra cứu thư tịch cổ, thì vốn xưa ở vùng lưu vực sông Hoàng Hà – Hoa Bắc (Trung Hoa) chưa có hội trung thu. Đã có người phản bác ý kiến này (6) bảo rằng từ đời nhà Đường (617 – 907), ở kinh đô Trường An (Thiểm Tây) đã có hội vũ khúc nghê thường với tích truyện Đường Minh Hoàng du nguyệt điện. Giáo sư im lặng, song có lần ngồi nhâm nhi trong đêm trung thu, với bạn bè và học trò (…) giáo sư nói với bạn bè và học trò rằng: – Chuyện Đường Minh Hoàng đêm trung thu ngủ và nằm mơ du nguyệt điện… thì đã chứng tỏ đêm ấy không có hội hè gì!”
Ở cuối bài, tại chú thích (6), tr. 46, tác giả Nguyễn Thị Bảy đã ghi rằng người phản bác ý kiến trên đây của GS. Trần Quốc Vượng là “Huệ Thiên – An Chi, Tạp chí Kiến thức ngày nay của Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh”.
Chúng tôi rất ngạc nhiên về chi tiết trên vì chúng tôi không hề bàn về chuyện “Đường Minh Hoàng du nguyệt điện” trên Kiến thức ngày nay, (hoặc bất cứ ở đâu khác). Vậy nếu tác giả Nguyễn Thị Bảy vui lòng cho biết đã đọc thấy chúng tôi bàn đến chuyện đó trên Kiến thức ngày nay, số bao nhiêu (hoặc ở đâu khác) thì chúng tôi rất cảm ơn.
§ 872. Kiến thức ngày nay, số 442, ngày 20-11-2002
ĐỘC GIẢ: Ngày nay tôi thấy người ta hay dùng cụm từ “và v.v.” cả trong văn nói lẫn văn viết. Ngày xưa đi học tôi chỉ thấy thầy dạy “vân vân” viết tắt là “v.v.”. Cũng có lúc tôi nghe “và v.v.” mà tôi cho là không sai nếu đây là trường hợp dùng có ý hài hước, châm biếm. Bây giờ trong văn chính luận, người ta cũng viết “và v.v.”; xin ông cho biết viết như thế thì có thêm sắc thái gì hay không. Trước khi tiếp xúc với tiếng Pháp, ta có dùng hai tiếng vân vân (v.v.) không? Đâu là xuất xứ của hai tiếng này?
AN CHI: Nghĩa và cách dùng của hai tiếng vân vân đã được Cao Xuân Hạo nêu rõ như sau:
“Đó chính là nghĩa và cách dùng của etc. (et caetera), et al. (et alii), and so on, and the like, i tak dalee, i tomu podobnoje, i drugije, đẳng, đẳng đẳng, chư như thử loại, v.v. trong các thứ tiếng gần gũi nhất với sinh hoạt văn hóa của ta. Những từ ngữ này có nghĩa là “và những thứ khác”, “và những việc khác”, “và những người khác”, “và những thứ tương tự”, “và những người tương tự”, “và cứ thế mà tiếp”, v.v.. Trong tất cả các bản dịch từ ngoại văn ra tiếng Việt, ta đều thấy có sự tương ứng hoàn toàn như vậy, không trừ một trường hợp nào”*.
Cứ như trên thì trong vân vân (v.v.) đã có “và”. Vì vậy nên, trừ trường hợp “Vân vân và vân vân” (“V.v và v.v.”), nếu nói (hoặc viết) “và vân vân” (“và v.v.”) thì cũng chẳng tạo ra được một sắc thái nào ngoài hiện tượng trùng ngôn (pleonasm).
Vân vân là hai hình vị Hán Việt, nghĩa là hai hình vị gốc Hán mà người Việt đã đọc theo âm của tiếng Hán đời nhà Đường. Tuy một số từ điển (Mathews, Couvreur, Nguyễn Quốc Hùng, v.v.) có giảng rằng vân vân có cái nghĩa giống như et cetera của tiếng Pháp (cũng viết et caetera) và tiếng Anh nhưng cái nghĩa rõ rệt nhất của hai tiếng này trong Hán ngữ cổ đại thì lại là “như thử” (“như thế”) với hàm ý tóm tắt sự việc là chính. Văn học Việt Nam bằng chữ Nôm ngày xưa cũng thừa hưởng cái nghĩa này chứ không phải cái nghĩa tuyệt đối tương ứng với et cetera. Chẳng hạn, trong những câu như:
Đắp tai biếng mắng sự vân vân
(Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập)
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
thì cái nghĩa “et cetera” không thể nào vận vào cho thông được. Chỉ sau khi tiếp xúc với tiếng Pháp thì người Việt mới chính thức dùng hai tiếng vân vân (v.v.) sẵn có để đối dịch ngữ phó từ (locution adverbiale) et cetera (etc.) của tiếng Pháp mà thôi. Et cetera (etc.) thường đi sau một sự liệt kê mà đặc điểm tương ứng này của hai từ vân vân (v.v.) chỉ thấy có trong tiếng Việt hiện đại chứ trong các tác phẩm bằng chữ Nôm ngày xưa thì không.
Tóm lại, vân vân là hai hình vị gốc Hán vốn đã tồn tại trong tiếng Việt từ xưa nhưng nghĩa và công dụng của nó trong tiếng Việt hiện đại thì chỉ xuất hiện từ khi có sự tiếp xúc với tiếng Pháp.