Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 851 - 861

§ 851. Kiến thức ngày nay, số 433, ngày 20-8-2002

ĐỘC GIẢ: Cũng thời là tên dưa, mà các từ ghép như dưa chuột, dưa lê, dưa tây, dưa gang, v.v. lại dễ hiểu vì tiếng thứ hai của các từ đó đều có nghĩa và cũng đều là từ. Đến như dưa hấu thì thật là khó hiểu vì chẳng ai biết được hấu có nghĩa là gì và có phải là từ hay không.

AN CHI: Về thắc mắc của ông, Cao Xuân Hạo đã giải thích như sau:

“Hấu là một từ, vì 1. nó là một “hình thái ràng buộc tuyệt đối”; vì 2. nó có chức năng cú pháp; vì 3. nó được kết hợp với một từ (dưa) và không có một lý do gì cho phép ta nói rằng ở đây từ dưa đã biến thành một căn tố hay một phụ tố và vì 4. nếu hấu là từ tố, tức ví thử dưa hấu là một từ, thì không thể gọi dưa hấu bằng dưa như người ta vẫn gọi xe thay cho xe đạp, đàn thay cho đàn nguyệt, máy thay cho máy khâu v.v., và mặt khác đã có thể đặt những câu hỏi như *Đây là quả dưa hay quả dưa hấu? hoặc nói được và chấp nhận được những câu như *Đây là hột đậu nành chứ khôngphải là hột đậu (cũng như *Anh đi xe hay đi xe đạp? hay *Tôi đến đây bằng xe chứ không phải bằng xe đạp) là những câu không thể chấp nhận được vì người Việt nhận thức một cách rõ ràng và chắc chắn tính đồng nhất của hai chữ xe, hai chữ dưa và hai chữ đậu”*.

Về chức năng cú pháp của từ hấu, ở một đoạn trước, Cao Xuân Hạo đã nói rõ như sau:

“Hấu là định ngữ của dưa cũng như chuột, kim, gang, bở, lê. Những tổ hợp như dưa hấu, đậu nành hoàn toàn tương đồng với các tổ hợp gồm một danh từ và định ngữ hạn định của nó, kể cả về mô hình trọng âm [01] (iambe) vốn khu biệt loại tổ hợp này với loại tổ hợp đẳng lập với mô hình [11] (spondée). Dưa hấu, đậu nành, dưa gang, đậu đũa là những tổ hợp chặt. Cũng như tất cả các tổ hợp tương tự, bộ phận trước có thể dùng thay thế cho cả tổ hợp, nhưng bộ phận sau không thể dùng một mình, chẳng hạn như để trả lời câu hỏi “dưa gì?”, “đậu gì?”, nếu không thể trả lời bằng một tiếng “hấu”, “nành” gọn lỏn, thì cũng không thể trả lời bằng “chuột”, “gang” hay “đen”, “đũa” được”*.

Tóm lại, theo Cao Xuân Hạo, thì hấu trong dưa hấu là một từ và từ này, theo chúng tôi, vốn có nghĩa là “đỏ”. Trước nhất, xin lưu ý rằng có địa phương gọi dưa hấu là dưa đỏ. Vậy ta có đẳng thức:

dưa hấu = dưa đỏ.

Từ trên đây, ta có thể tạm thời suy ra:

hấu = đỏ (?)

Theo chúng tôi thì đẳng thức trên đây có thể chứng minh được. Chúng tôi nhớ đã có đọc ở đâu đó, một tác giả có nói rằng hấu trong dưa hấu có nghĩa là đỏ. Chúng tôi không biết tác giả đó đã căn cứ vào đâu còn với chúng tôi, nếu đúng hấu có nghĩa là “đỏ”, thì đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ 煦, âm Hán Việt hiện đại là hú, mà “đỏ” là một trong các nghĩa đã được ghi nhận trong từ điển. Về nghĩa thì đã là chuyện hiển nhiên còn về âm thì mối tương ứng “hấu ~hú”, cũng giống như “châu ~chu”, “thâu ~thu” v.v. không phải là chuyện chưa hề xảy ra.

Tóm lại, trong dưa hấu thì hấu hẳn hoi là một từ và từ này, theo chúng tôi, có nghĩa là “đỏ” như đã thử chứng minh ở trên.

§ 852. Kiến thức ngày nay, số 433, ngày 20-8-2002

ĐỘC GIẢ: Còn nhớ có lần, chữ 炸 mà các quyển từ điển (Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt của Trần Văn Chánh, v.v.) đều đọc thành tạc thì ông An Chi lại đọc là “trá”. Xin cho biết lý do.

AN CHI: Trước nhất, xin lưu ý rằng chữ 炸 không được ghi nhận trong một vài quyển từ điển quan trọng thời xưa như Quảng vận và Khang Hy tự điển. Đây là một hình thanh tự mà nghĩa phù là hỏa 火 còn thanh phù là sạ 乍. Nhiều người làm từ điển trước đây đã đọc nó thành “tạc” có lẽ là do suy luận từ âm của chữ 昨 (tạc) nhưng đó là một việc làm không có căn cứ. Từ hải đã ghi rõ ràng là, với nghĩa là “nổ’, nó phải được đọc như chữ trá 詐. Chúng tôi đã theo cách đọc này. Nhân tiện, xin nói thêm rằng với thanh phù sạ thì về mặt ngữ âm lịch sử ta từng có mối tương ứng “tra ~ tak” mà cái dẫn chứng thú vị nhất, theo chúng tôi là: chữ tạc 酢 có nghĩa là báo đáp lại, còn có âm cổ Hán Việt là trả, nay vẫn còn dùng rộng rãi như trong trả lời, trả ơn, v.v..

§ 853. Kiến thức ngày nay, số 434, ngày 1-9-2002

ĐỘC GIẢ: Tôi là một bạn đọc trung thành của Chuyện Đông chuyện Tây và sẵn sàng tin rằng chữ chí 至 hài thanh cho chữ thất 室 như ông đã trả lời trên Kiến thức ngày nay, số 432. Nhưng liệu có còn trường hợp nào khác mà chữ có vận -i lại hài thanh cho chữ có vận -ât (hoặc ngược lại) hay không? Nếu có thì tôi tin rằng ý kiến của ông sẽ có nhiều sức thuyết phục hơn.

AN CHI: Ông đã cho ý kiến rất xác đáng. Ngữ âm học lịch sử và văn tự học đã khẳng định rằng trong tiếng Hán và chữ Hán còn có nhiều trường hợp khác mà chữ có vận -i hài thanh cho chữ có vận -ât hoặc ngược lại. Sở dĩ chúng tôi không đi sâu vào vấn đề trên Kiến thức ngày nay, số 432 là vì câu hỏi trên số đó nặng về mặt nghĩa hơn là về mặt âm và vì chúng tôi còn muốn dành chỗ cho hai câu hỏi còn lại của hai bạn đọc khác.

Lĩnh ý ông, kỳ này chúng tôi xin nêu thêm một số trường hợp sau đây:

– Chữ tất 必, mà âm Hán Việt chính thống là bất, hài thanh cho chữ bí 祕 (cũng viết 秘) trong bí mật;

– Chữ chất 質 cũng có âm chí (nghĩa khác);

– Chữ khất 乞 (= cầu, xin) và chữ khí 气 (= không khí) vốn là một và hệ quả là chữ hất 汽 cũng đọc là khí;

– Chữ ni 尼 cũng có âm nật;

– Chữ phất 弗 (= chẳng, đừng) hài thanh cho các chữ phí: 沸((nước) vọt lên, sôi lên), 費 (hao, tốn);

– Chữ thị 是 đã được Vương Lực chứng minh là đồng nguyên (cùng gốc) với chữ thật 實 và cả chữ thực 寔*;

– Chữ úy 尉 cũng có âm uất;

– Chữ xuất 出 cũng có âm xuý; v.v..

Trở lại với chữ chí 至 và chữ thất 室, chúng tôi xin nói thêm để ông và bạn đọc được rõ rằng trong Đồng nguyên tự điển tái bổ (Ngữ văn xuất bản xã, Bắc Kinh, 1999), tác giả Lưu Quân Kiệt đã khẳng định rằng đó là hai chữ đồng nguyên (Xem tr. 139, c.1). Còn về phần cá nhân thì chúng tôi xin nhắc lại rằng với nghĩa là “rất, lắm: chữ chí 至 còn có âm cổ Hán Việt là rất (rất thông dụng trong tiếng Việt hiện đại), và là một chữ đồng nghĩa và đồng nguyên với chữ chất 郅, như chúng tôi cũng đã có lần khẳng định tại Chuyện Đông chuyện Tây .

Xin trân trọng cảm ơn ông đã gợi một vấn đề bổ ích để chúng tôi có dịp trình bày cho đầy đủ hơn.

§ 854. Kiến thức ngày nay, số 434, ngày 1-9-2002

ĐỘC GIẢ: Trong câu chuyện râm ran ngày Tết, một chị bạn của tôi thắc mắc: “Sao lại nói “con gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu”? Sao lại mười hai chứ không phải là hai?” Tôi nhớ lại, cũng với câu này, khi vui chuyện với ông xã tôi, tôi hỏi: “Ông là bến thứ mấy trong mười hai bến nước mà kéo được thuyền của tôi vào bến của ông vậy?” Ông trả lời: “Làm gì có đến mười hai bến, nhiều vậy!” Theo ông, chỉ có hai bến thôi và ông đã tự hào là “bến trong” để cho tôi tìm ghé thuyền vào. Tôi xác nhận ông xã tôi thiệt là một bến trong. Nhưng còn mười một bến kia là những bến nào, thưa ông An Chi?

AN CHI: Ngay từ kỳ Chuyện Đông chuyện Tây đầu tiên cách đây gần 10 năm, trên Kiến thức ngày nay, số 95, ngày 1-11-1992, chúng tôi đã có trả lời về câu “Phận gái mười hai bến nước”. Sau đó, một bạn đọc lại góp ý và chúng tôi đã trả lời vị này trên Kiến thức ngày nay, số 106. Từ bấy đến nay, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nhận được thư hỏi về câu này, gần đây nhất là thư đề ngày 17-2-2002 của Mme Phương, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì nhiều bạn đọc muốn tìm hiểu và vì hai số Kiến thức ngày nay, số 95 và số 106 đến nay rất khó tìm nên chúng tôi xin mượn cách đặt vấn đề của bà Phương để trả lời chung bằng cách nhắc lại, có bổ sung, những ý chính trên Kiến thức ngày nay, số 95 và số 106 như sau.

Nhiều người cho rằng “mười hai bến nước” là: công, hầu, khanh, tướng, sĩ, nông, công, thương, ngư, tiều, canh, mục. Đây rõ ràng là một cách giải thích hoàn toàn khiên cưỡng vì chẳng có lẽ “công”, “khanh” lại không phải là “sĩ” còn “canh” thì lại không phải là “nông”? Rõ ràng đây là một kiểu “phân phối” phản luận lý.

Lại có người cho rằng “mười hai bến nước” là: sĩ, nông, công, thương, nho, y, lý, bốc, ngư, tiều, canh, mục. Cũng vẫn phản luận lý: chẳng lẽ “nho” lại không phải là “sĩ” rồi “nông” và “canh” lại không phải là một? Cuối cùng, có người cho rằng “mười hai bến nước” là mười hai con giáp: tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Không có gì phản luận lý trong cách “phân phối” này và có vẻ như ở đây người ta muốn trông chờ vào khoa tử vi! Nhưng chúng tôi cũng không tin vào cách giải thích này.

Theo chúng tôi thì chỉ có hai bến mà thôi. Trong Đại Nam quấc âm tự vị, Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng như sau:

“Con gái mười hai bến nước: Thân con gái như chiếc đò, hoặc gặp bến trong, hoặc mắc bến đục, hoặc đưa người tốt, hoặc đưa người xấu, may thì nhờ, rủi thì chịu. Tiếng nói “mười hai bến nước” là nói cho vần”.

Cái mà Huình-Tịnh Paulus Của gọi là “nói cho vần” thì chúng tôi lại quan niệm là do từ nguyên dân gian mà ra. Số là hai danh từ bến và thuyền vẫn được dùng để chỉ người con trai và người con gái trong việc hẹn hò, đính ước.

Từ cách dùng này, đi xa thêm một bước, bến lại được dùng để chỉ số phận của cá nhân, thường là của phụ nữ trong quan hệ nhân duyên. Chữ nhân ở đây viết là 姻 và nhân duyên được Mathews’ Chinese – English Dictionary giảng là “the fate or influence which brings lovers together”, nghĩa là “số phận hoặc ảnh hưởng gắn bó (hai) người yêu với nhau”. Bến nước trong thành ngữ mười hai bến nước chính là thứ nhân duyên này. Nhưng trong tiếng Hán, lại còn có một thứ nhân duyên khác, mà chữ nhân viết là 因. Đây là nhân duyên của nhà Phật mà cũng quyển từ điển trên giảng là “the cause which produces effects in a future life”, nghĩa là “cái nhân tạo ra những cái quả trong kiếp sau”. Theo điển lý nhà Phật thì có tất cả là mười hai nhân duyên, tiếng Hán gọi là thập nhị nhân duyên. Chẳng qua là do cách hiểu theo từ nguyên dân gian nên người ta mới đánh tráo thứ nhân duyên của Thần Ái tình vào chỗ thứ nhân duyên của nhà Phật mà diễn Nôm thập nhị nhân duyên thành mười hai bến nước. Kỳ thực, như Huình-Tịnh Paulus Của đã giảng, và như bà Phương đã ghi lại ý kiến của ông nhà, chỉ có hai bến (bến trong và bến đục) cho người phụ nữ mà thôi. Chẳng qua từ điển gia của chúng ta vì không nghĩ đến tác dụng của từ nguyên dân gian nên mới viết rằng “tiếng nói “mười hai bến nước” là nói cho vần”. Nhưng ông vẫn rất đúng ở chỗ ông không thừa nhận rằng ở đây hai tiếng mười hai lại có nghĩa xác thực như nhiều người vẫn tưởng.

Để cho rõ hơn, chúng tôi xin được nhắc đến lý thuyết hữu quan của nhà ngữ học người Pháp là Pierre Guiraud trong cuốn Les locutions françaises (Paris, 1973). Đó là Chương V mang tiêu đề Accidents linguistiques (Các sự cố ngôn ngữ) trong đó tác giả đã bàn đến những sự đan chéo hình thức (croisements de formes) và những sự lây truyền nghĩa (contaminations de sens) giữa các từ ngữ và thành ngữ với nhau. Trong tiếng Việt, ta cũng thấy có những hiện tượng như thế mà sau đây là một thí dụ. Trên Kiến thức ngày nay, số 432, chúng tôi có bàn đến vấn đề “Rút dây động rừng hay Bứt mây động rừng?” và “Đánh trống động chuông, Bứt mây động rừng (với dị bản “động dừng”) có phải là một câu tục ngữ hoàn chỉnh có tám chữ hay không?”. Ở đây, ban đầu ta có ba câu riêng biệt:

1. Đánh trống dộng chuông;

2. Tai vách mạch dừng; và

3. Bứt mây động rừng.

Do không còn hiểu nghĩa của dộng trong câu 1, lại liên hệ với động ở câu 3, người ta mới cho ra dị bản “Đánh trống động chuông”. Do đồng hóa tiếng cuối câu 2 với tiếng cuối câu 3, người ta mới cho ra dị bản “Tai vách mạch rừng”. Nghĩa của mạch (liên quan đến khái niệm “đường”) ở câu 2 và nghĩa của mây (liên quan đến khái niệm “dây”) ảnh hưởng đến nhau đã làm phát sinh các dị bản “Rút dây động rừng” và “Rút dây động dừng”. Nghĩa của những dị bản này thường khó hiểu vì không chặt chẽ. Đó là hậu quả của những sự đan chéo hình thức (từ ngữ) và những sự lây truyền nghĩa mà Pierre Guiraud đã nói đến.

Phàm đối với những thành ngữ hóc búa kiểu mười hai bến nước mà khi tìm nghĩa lại không xét đến các hiện tượng trên đây thì khó lòng tìm cho ra sự thật. Chúng tôi cho rằng ở đây “nhân duyên” của nhà Phật đã lây truyền nghĩa cho “nhân duyên” của Thần Ái tình nên mới sinh ra cái sự “mười hai bến nước” đó thôi. Dĩ nhiên đây chỉ là một cái hướng để tìm hiểu và dĩ nhiên là cách hiểu mà chúng tôi đưa ra có thể hoàn toàn chẳng dính dáng gì đến cái nghĩa thật mà sau này người ta sẽ tìm ra. Xin cứ tạm nêu lên để thỉnh giáo ở các nhà chuyên môn.

§ 855. Kiến thức ngày nay, số 435, ngày 10-9-2002

ĐỘC GIẢ: Ngôn ngữ & Đời sống, số 8-2002 có đăng bài “Rắc rối về chữ gối trong Truyện Kiều, của tác giả Nguyễn Khắc Bảo. Tác giả này khẳng định rằng chữ thứ tư của câu 433 (Nhặt thưa gương giọi đầu cành) là gối chứ không phải giọi hay rọi. Vì vậy nên ông đã đọc câu này thành:

Nhặt thưa gương gối đầu cành.

Nguyễn Khắc Bảo viết:

“Toàn bộ 10 bản Kiều Nôm cổ kể trên (Liễu Văn Đường 1871, Quan Văn Đường 1879, Thịnh Mỹ Đường 1879, Duy Minh Thị 1879, Thuận Thành 1879, Diễn Châu chép tay, A.des Michels 1884, Quế Võ 1894, Ấn thư hội 1896, Chu Mạnh Trinh 1906 – NT Minh chép lại) và 3 bản Quốc ngữ cổ nhất của Trương Vĩnh Ký 1875, A.D. Michels 1884 và Nordemann 1897 đều chép là: Nhặt thưa gương gối đầu cành (Do chữ nôm * có bộ thủ 扌 biểu nghĩa và chữ hội 會 biểu âm). Tác giả tả cảnh Thuý Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” trong lúc mọi người đã yên giấc ngủ cả rồi, nên liên tưởng đến mảnh trăng cũng như đang gối đầu vào cành cây mà ngủ”. (Bđd, tr. 27)

Xin hỏi ông An Chi: Trăng có đầu và có ngủ hay không mà ông Nguyễn Khắc Bảo lại viết “mảnh trăng cũng như đang gối đầu vào cành cây mà ngủ”? Chữ thứ tư của câu này phải đọc thế nào mới đúng?

AN CHI: Theo cú pháp Nguyễn Du thì, đúng như thực tế thiên văn học mà mọi người đều biết, dĩ nhiên là trăng chẳng làm gì có đầu. Với cú pháp Nguyễn Du thì trong câu 433 (dù chữ thứ tư của nó được phiên là gối hay giọi), hai tiếng cuối đi với nhau để tạo thành ngữ danh từ đầu cành mà đầu đương nhiên là trung tâm. Với quan hệ cú pháp này thì “đầu” thuộc về cành của cây trong vườn nhà Vương ông.

Chỉ có với cú pháp Nguyễn Khắc Bảo thì trăng mới mọc đầu mà thôi. Ông Nguyễn đã cắt “đầu” của ngữ danh từ đầu cành để gán nó với động từ gối thành gối đầu nên mới sinh ra cái sự “mảnh trăng gối đầu vào cành cây mà ngủ”. Sự “hành hình” này chẳng những không đúng với luật của tiếng Việt mà còn làm cho hồn thơ của Nguyễn Du, tuy là thơ tự sự nhưng đầy chất trữ tình, tan biến đi hết. Câu 433 nằm trong trích đoạn kể chuyện Kiều “xé rào” (dĩ nhiên là rào cản của đạo đức và ý thức hệ phong kiến) sang gặp Kim Trọng lần thứ hai ngay trong một đêm. Nó nằm trong cái trường đoạn thơ mộng nhất của thiên diễm tình Kim-Kiều mà Nguyễn Du lại ép trăng của nó gối đầu vào cành cây để ngủ thì còn đâu nữa cái tố chất văn chương nết đất thông minh tính trời của một bậc thi hào. Chị Hằng, chú Cuội nơi cung Quảng, nếu có chút tố chất nhân văn thì dù có buồn ngủ đến mấy cũng phải gắng thức mà dõi bước nàng Kiều xăm xăm băng lối vườn khuya một mình mới phải chứ!

Huống chi trong thực tế thì trăng có ở dưới trần gian này đâu mà ông Nguyễn Khắc Bảo bắt nó gối đầu lên cành cây để ngủ. Nó ở tít mãi trên trời, trong vũ trụ kia mà! Vì thế nên một nhà thơ tài hoa khác của Việt Nam thời hiện đại là Tản Đà mới viết:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nữa rồi.

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi.

(Muốn làm thằng Cuội)

Vậy thì trăng ở trên trời chứ ở đâu dưới đất mà gối đầu lên cành cây vườn nhà Vương ông bên Trung Hoa đời nhà Minh. Còn cái mà Nguyễn Du muốn diễn đạt bằng chữ gương thì lại là ánh trăng. Nó bàng bạc khắp không gian và trong khoảng không bao la nó chiếu sáng đó có vườn nhà Vương ông, tại đây nó lọt qua cành cây kẽ lá chỗ thưa chỗ nhặt nên mới có chuyện “nhặt thưa gương giọi đầu cành”. Cái hiện thực chỗ thưa chỗ nhặt này của ánh trăng làm cho hình và bóng của nàng Kiều trong đêm lúc ẩn lúc hiện, mờ mờ ảo ảo, thích hợp một cách rất “xi-nê-ma” với cái cảnh lén lút của nàng xăm xăm băng lối vườn khuya một mình mà đi tìm người tình. Nguyễn Du đã dụng công tạo ra một sự nhịp nhàng cảnh-tình sống động đến như thế thì nỡ nào ta lại thay thế nó bằng cái cảnh vô hồn “mảnh trăng gối đầu vào cành cây mà ngủ”?

Ông Nguyễn Khắc Bảo đã cất công đi tìm cái chữ “gối” trong mười bản Kiều Nôm cổ; kể ra đây cũng là một việc làm đáng khâm phục. Nhưng chỉ cần ông quan tâm một chút đến hai chữ đầu của câu 433 là nhặt thưa thì ông sẽ thấy đó là một việc làm không bõ công. Chính sự tồn tại của hai chữ “nhặt thưa” chắc chắn không cần phải khảo dị này tự nó đã bác bỏ cái âm “gối” và cái cách giảng từ gối mà ông đã vun đắp một cách rất tự tin. Vâng, giá như ông chịu khó thử đặt câu hỏi: “Thế nào là gối đầu vào cành cây mà ngủ một cách… nhặt thưa?” hoặc “gối đầu một cách nhặt thưa?” thì ông sẽ thấy ngay lập tức rằng cách phiên âm rồi cách giảng ý của mình có vấn đề. Không có bất cứ ai sành tiếng Việt mà lại có thể hiểu được thế nào là “ngủ (một cách) nhặt thưa”. Ngủ ngon, ngủ ngon lành, ngủ yên, ngủ say, ngủ mê ngủ mệt, v.v. thì được. Chứ “ngủ (một cách) nhặt thưa” thì lại không phải là tiếng Việt.

Dĩ nhiên là để tự biện bạch, rất có thể ông sẽ nói rằng ở đây hai tiếng nhặt thưa là định ngữ đảo của danh từ cành (“gối đầu trên cành nhặt thưa”). Một sự chống chế như thế cũng không ổn chút nào vì tiếng Việt chỉ chấp nhận đảo trạng ngữ chứ vị từ chỉ tính chất đóng vai định ngữ thì không, dù là ở trong thơ. Nhưng cứ cho là có thì trong trường hợp này ta lại phải thừa nhận rằng ở đây cành là một danh từ thuộc số phức (thì mới có thể có “cành nhặt, cành thưa”) và như thế thì trăng phải được gắn thêm vô số đầu mới đủ mà gối lên vô số cành cây vườn nhà Vương ông.

Thực ra, ở đây, hai tiếng nhặt thưa chỉ thích hợp để diễn tả ánh trăng và/hoặc bóng cây mà thôi. Chữ “gối” tuyệt đối không thể có chỗ đứng trong câu 433. Vậy nên chăng ta cứ bằng lòng với nguyên trạng như vốn có trong nhiều bản quốc ngữ quen thuộc:

“Nhặt thưa gương giọi đầu cành”.

Tạm thời chúng tôi chưa thấy có chữ nào thích hợp hơn chữ “giọi” cả.

§ 856. Kiến thức ngày nay, số 435, ngày 10-9-2002

ĐỘC GIẢ: Xin giới thiệu một số câu đối trong Lăng Ông Bà Chiểu.

AN CHI: Sau đây là một số câu trích từ bài “Văn bia và câu đối tại Lăng Ông Bà Chiểu” của Lý Việt Dũng, đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ, Thừa Thiên – Huế, số 4-2002, vừa in lại trong Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn (Huế, 7-2002, tr. 642 – 652). Phần phiên âm và lời dịch đều là của Lý Việt Dũng.

1.

Chinh Thi Nại phong công đệ nhất

Thu Quy Nhơn vĩ tích vô song.

(Đánh cửa Thi Nại, phong công đệ nhất

Chiếm thành Quy Nhơn, vĩ tích vô song).

2.

Phan Lang tá quốc tiền lương tướng

Gia Định cần vương hậu hiển thần.

(Giúp nước ở Phan Rang, thuở trước nên trang tướng giỏi

Phò vua tại Gia Định, về sau thành bậc thần linh).

3.

Gia trấn mạc hồng, nhân dân tư hãn mã, triều đình sùng bái biệt thiên Nam

Hoành Sơn phục hổ, vật sắc hội vân long, tiết việt chỉ huy vi đế tá.

(Tại trấn Gia Định vùng vẫy như cánh hồng bay vút, nhân dân nhớ công trận to lớn, triều đình sùng bái riêng cõi trời Nam

Nơi núi Hoành Sơn mai phục tựa con hổ nép mình, gặp cơ hội rồng mây, cầm cờ tiết búa việt, giúp chúa việc chỉ huy).

4.

Lương tướng tài năng, thiên cổ lưu phương huyền Bắc khuyết

Anh hùng khí tiết, bách niên trước tích tráng Nam cung.

(Tài năng bậc tướng giỏi, tiếng thơm ngàn đời treo nơi thành vua phía Bắc

Khí tiết đấng anh hùng, thành tích trăm năm nêu tại cõi nước phương Nam).

5.

Quân thánh, thần trung, Thi Nại phong công suy đệ nhất Địa linh, nhân kiệt, Rạch Gầm phát tích định vô song.

(Chúa thánh, tôi trung, trận Thi Nại phong công có một Đất linh, người giỏi, vùng Rạch Gầm phát tích chẳng hai).

6.

Nam triều Vĩnh bá thanh danh, tịnh biên tái kình thiên nhất trụ

Bắc trấn trường lưu nghĩa khí, diệu tinh linh hộ quốc thiên thu.

(Tiếng thơm truyền mãi miền Nam, yên bờ cõi chống trời một cột

Nghĩa khí vang dài đất Bắc, vững oai linh giúp nước ngàn thu).

7.

Cố quốc giang sơn, nguy nhiên tồn cổ miếu

Tướng quân sự nghiệp, trác nhi dị công thần.

(Cổ miếu còn kia, sừng sững với non sông đất nước

Công thần hiển hiện, rờ rỡ cùng sự nghiệp tướng quân).

§ 857. Kiến thức ngày nay, số 436, ngày 20-9-2002

ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 328, ông đã giải thích về hiện tượng nói lái trong tiếng Anh (spoonerism) và khẳng định rằng đó là một cái tật mà ông gọi là nói nhịu. Vậy kết quả của sự nói nhịu có phải bao giờ cũng là những lời nói rõ nghĩa hoặc có nghĩa hay không? Sở dĩ tôi hỏi như vậy là vì tôi thấy những câu nói nhịu của ông William Archibald Spooner mà ông đã dẫn ra đều là những câu có nghĩa cả. Ông cũng có nói rằng một vài phát thanh viên truyền thanh truyền hình của ta thỉnh thoảng cũng nói nhịu (bằng hình thức nói lái). Vậy phát thanh viên người nước ngoài có nói nhịu khi phát thanh bằng tiếng của họ hay không? Nhân đây, xin được hỏi thêm: Trên một tạp chí nọ, thường thấy có mục “Viết nhịu” có kèm theo mấy chữ (chắc là La Tinh) “Lapsus calami” trong ngoặc đơn. Xin cho biết lapsus là gì, calami là gì và nếu “viết nhịu” là “lapsus calami” thì “nói nhịu” là lapsus gì hoặc là calami gì.

AN CHI: Ông đã nêu lên một câu hỏi rất bổ ích. Vâng, dĩ nhiên là kết quả của sự nói nhịu không phải, vì không thể, bao giờ cũng là những lời nói rõ nghĩa hoặc có nghĩa. Ít nhất thì cũng không phải mọi “từ” ở trong đó đều có nghĩa. Cũng về nhân vật William A. Spooner, người ta còn ghi lại nhiều giai thoại khác nữa cho thấy sự nhịu mồm đã khiến lời nói của ông ta có khi trở nên rất ngớ ngẩn. Có lần ông ta đang làm lễ cưới cho một đôi tân hôn (theo giai thoại này thì Spooner lại là một mục sư) thì chàng rể vì quá bồn chồn nên đã bỏ qua một phần quan trọng của nghi lễ. Cuối buổi lễ, ông đã nói với anh ta: “Son, it is kisstomery to cuss the bride”. Đúng ra phải là “Son, it is customary to kiss the bride”. (Này con, theo lệ thường thì (con) phải hôn cô dâu). Chứ “Kisstomery” và “to cuss the bride” thì vô nghĩa (cuss (sự nguyền rủa) chỉ có thể là danh từ chứ không phải là động từ). Lại một hôm, ông ta hỏi một phụ nữ thuộc giáo phận của mình: “Marden me, padam, aren’t you occupewing the wrong pie? May I sew you to another sheet?”. Lẽ ra phải là “Pardon me, madam, aren’t you occupying the wrong pew? May I show you to another seat?” (Thưa bà, bà tha lỗi cho (tôi), không phải là bà đang ngồi nhầm chỗ dành riêng đấy chứ? Tôi có thể đưa bà đến một chỗ (ngồi) khác chăng?). Chứ “marden”, “padam” và “occupewing” thì vô nghĩa; “the wrong pie” (tạm hiểu) là “chiếc bánh nướng không dành cho mình” còn “May I sew you to another sheet” thì (tạm dịch) là “Tôi có thể khâu bà vào một tấm khăn trải giường khác không?”

Chúng tôi lấy hai giai thoại trên đây từ quyển Morris Dictionary of Word and Phrase Origins của William & Mary Morris (Harper Collins Publishers, New York, 1988, p. 545). Với hai giai thoại này thì rõ ràng là những lời nói của William A. Spooner không còn sáng nghĩa, rõ nghĩa như những câu, cũng của ông ta, mà chúng tôi đã dẫn ra, trên Kiến thức ngày nay, số 328, tuy những câu này và những câu kia đều do nói nhịu mà ra. Và vì nói nhịu là cái tật chung cho toàn thể nhân loại nên tất nhiên là các phát thanh viên của nước ngoài cũng có thể có nói nhịu trong tiếng mẹ đẻ của họ.

Sau đây là mấy dẫn chứng, cũng lấy từ quyển từ điển nói trên của ông bà Morris (tr. 546). Harry Von Zell, phát ngôn từ Washington, đã đọc tên của tổng thống Herbert Hoover thành “Hoobert Heever”. Còn Ben Grauer thì nói với bà Carrie Chapman Catt, một phụ nữ nổi tiếng về đấu tranh cho quyền bầu cử của phụ nữ: “We are deepful greatly that you could be here today”. Lẽ ra phải là “We are deeply grateful that you could be here today”. (Chúng tôi vô cùng biết ơn (về việc) bà lại có thể có mặt ở đây ngày hôm nay). Tuy greatly có tồn tại nhưng “deepful” thì không và “deepful greatly” thì vô nghĩa. Xin nêu thêm một trường hợp nữa. Hồi Thế chiến II, trong một buổi phát thanh truyền đi từ Luân Đôn, Lowell Thomas đã gọi tên vị bộ trưởng Stafford Cripps thành “Stifford Crapps”. Vậy thì rõ ràng là phát thanh viên người nước ngoài vẫn có nói nhịu trong thứ tiếng của họ.

Xin nói thêm rằng chẳng những có nói nhịu, viết nhịu, mà còn có cả… “in nhịu” nữa. Sự in nhịu trong những quyển sách “fast book” (kiểu fast food) thì không nói làm gì. Đằng này lại là những quyển hoặc bộ từ điển nghiêm túc, thậm chí đồ sộ nữa. Sau đây là mấy dẫn chứng. Trong Từ điển Việt- Anh của Viện Ngôn ngữ học do Đặng Chấn Liêu, Lê Khả Kế, Phạm Duy Trọng biên soạn (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997), trang 643 có mục “chủ nghĩa vô sanh”(chauvinism), lẽ ra phải là chủ nghĩa sô vanh. Trong bộ từ điển đồ sộ The Encyclopedia of Language and Linguistics, 10 vols., 5644pp., do R. E. Asher làm tổng biên tập (Pergamon Press, First edition 1994), vol.9 có mục “Vietnamese Writing Systems” (pp. 4934 – 4935) do Dinh-Hoa Nguyen (Nguyễn Đình Hoà) viết. Tại mục này, phần đối dịch chữ “mệnh” đã được in thành “density” (tỉ trọng) thay vì destiny (số phận). Sô vanh nhịu thành “vô sanh”, destiny nhịu thành “density”, chúng tôi cho rằng đây là do khâu in ấn. Nhưng không phải lúc nào cũng có thể đổ lỗi cho khâu này, chẳng hạn như trường hợp sau đây trong Từ điển Mường – Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành biên soạn (Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2002). Trong “Lời nói đầu”, các tác giả đã cung cấp cho người đọc một “câu cửa miệng của người Mường” (chữ của các tác giả) như sau:

“Nhất Bi, nhì Thang, tam Vàng, tứ Động”. (tr. 7)

Nhưng bất cứ ai có tìm hiểu hoặc nghiên cứu về xứ Mường và người Mường đều biết rằng nguyên văn chính xác của cái “câu cửa miệng” đó lại là:

“Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”.

như đã được ghi nhận trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, đặc biệt là trong công trình Người Mường ở Hòa Bình (Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội, 1996) của Trần Từ, nhà dân tộc học người Việt số một (cho đến nay) về người Mường*. Những tưởng chỉ có sai ở “Lời nói đầu” (tr. 7) mà thôi, nào ngờ cái sai đó cũng còn được lặp lại y chang tại mục “Nguyên tắc và thể lệ biên soạn” (tr. 9). Nhì Vang, tam Thàng đã bị nhịu thành “nhì Thang, tam Vàng”, cái sai này khó có thể do khâu in ấn mà ra: người gõ vi tính khó có đủ thông minh để nhịu như thế đến hai lần ở hai chỗ khác nhau. Chỉ có do ăn sâu vào tiềm thức của nhà biên soạn thì mới có thể ra nông nỗi mà thôi.

Nhân tiện, xin nói thêm rằng trên Kiến thức ngày nay, số 328 chúng tôi có ghi nhận là Từ điển Anh – Việt của Viện Ngôn ngữ học do Lê Khả Kế, Đặng Chấn Liêu và Bùi Ý hiệu đính (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975) đã dịch spoonerism thành “sự nói ngọng” nhưng chúng tôi lại không nhận xét (vì cũng không phải chỗ và cũng chưa phải nhu cầu) rằng dịch như thế thì không xác đáng. Người ta có thể ngọng mà không nhịu và ngược lại. Ngọng là tật phát âm sai một số âm nhất định (thí dụ: “khôi, tôi không i âu!” thay vì “thôi, tôi không đi đâu!”) còn nhịu là tật nói nhầm tiếng này thành tiếng khác. Spoonerism là tật nói nhịu mà có “tráo âm” từ tiếng này sang tiếng khác, nghĩa là có nói lái.

Đúng như ông nói, lapsus calami là tiếng La Tinh. Lapsus vốn là phân từ của động từ labori, có nghĩa là trượt, ngã, sụp, v.v. rồi nghĩa phái sinh là nhầm, lẫn, sai. Dùng như danh từ, ở đây lapsus có nghĩa là lỗi, là sự nhầm lẫn. Calami là sinh cách của danh từ calamus, có nghĩa là cọng rơm, cọng sậy, rồi nghĩa phái sinh là bút sậy (làm bằng cọng sậy vót nhọn), hiểu rộng ra là bút. Vậy lapsus calami là “lỗi của cây bút”, nghĩa là sự viết sai, viết nhịu; cũng như lapsus linguae là “lỗi của cái lưỡi”, nghĩa là sự nói sai, nói nhịu; lapsus memoriae là sự nhớ nhầm, nhớ “nhịu”.

§ 858. Kiến thức ngày nay, số 436, ngày 20-9-2002

ĐỘC GIẢ: Tuổi trẻ ngày 5-9-2002 có bài “Guitar VN đang được thế giới chú ý”. Trong bài này, tác giả đã dịch tên cuộc thi ghi-ta quốc tế (lần thứ 8) mang tên “Printemps de la guitare” thành “Cung đàn mùa xuân”. Xin cho biết dịch như thế có đúng hay không (ông vẫn chủ trương dịch đúng theo nguyên ngữ).

AN CHI: Hẳn là ông cũng sẵn sàng thừa nhận rằng Printemps de la guitare thì không thể là “Cung đàn mùa xuân”. Đàn thì có nhiều loại: đàn bầu, đàn cò, đàn kìm, đàn tranh, đàn tơrưng, đàn piano, đàn violon, v.v.. Vậy “cung đàn” ở đây là “cung” của loại đàn nào, khi mà “nhân vật” chính của cuộc thi này chỉ là cây ghi-ta, được nêu đích danh? Trong ngữ danh từ Printemps de la guitare của nguyên ngữ thì danh từ printemps (mùa xuân) là trung tâm nên ta nỡ lòng nào biến nó thành phần phụ khi chuyển sang tiếng Việt. Vậy xin cứ cho nó giữ đúng vai trò trung tâm mà dịch thành “Mùa xuân của cây ghi-ta”. Trong dịch thuật, cái sự êm tai tuyệt đối không thể lấn lướt sự sát nghĩa mà lại xuôi chèo mát mái được, có phải không, thưa ông?

§ 859. Kiến thức ngày nay, số 437, ngày 1-10-2002

ĐỘC GIẢ: Có một bản nhạc rất quen thuộc thuở nhỏ tôi được biết với cái tên là “Au revoir, scout”. Nay trong nhiều đĩa CD lại thấy ghi là “Auld langsyne”. Nhưng điều khiến tôi lấy làm lạ không phải là ở chỗ khác tên mà ở chỗ cái tên “mới” này hơi kỳ quặc. Chắc chắn đó không phải là tiếng Anh hay tiếng Pháp nhưng không biết là thứ tiếng gì.

AN CHI: Auld lang syne là tiếng Scottish (của xứ Scotland), tương đương từng từ một với tiếng Anh old long since và có nghĩa là “long ago” (từ lâu). Auld lang syne cũng là bản nhạc trong phim La valse dans l’ombre (tên gốc bằng tiếng Anh là Waterloo Bridge) do Robert Taylor và Vivien Leigh thủ vai nam và vai nữ chính, từng làm bao thiếu nữ Sài Gòn hồi giữa thế kỷ XX phải “lệ tràn thấm khăn”.

§ 860. Kiến thức ngày nay, số 437, ngày 1-10-2002

ĐỘC GIẢ: Tối 8-9-2002, HTV7 bắt đầu chiếu hai tập đầu của bộ phim Thiên sứ (tên do HTV7 dịch) mà tên chính thức bằng tiếng Anh là The saint. Xin cho biết nếu Saint là “thiên sứ” thì angel là gì?

AN CHI: Chúng tôi hoàn toàn đồng cảm với sự khó chịu của ông trước một lối dịch như trên. Nhưng chắc ông cũng sẵn sàng đồng ý với chúng tôi rằng không có lẽ vì saint bị dịch thành “thiên sứ” một cách oan uổng mà chúng ta lại đành lòng dịch angel thành “thánh” để tạo ra một cái sai “đối xứng”. Vậy xin dịch lại the saint là vị thánh cho đúng còn “thiên sứ” thì xin dành để dịch angel vì đây mới là cái nghĩa đích thực của từ này trong tiếng Anh.

§ 861. Kiến thức ngày nay, số 437, ngày 1-10-2002

ĐỘC GIẢ: Câu 13 của Cung oán ngâm khúc đã được Vân Bình Tôn Thất Lương phiên là:

“Áng Đào Kiển đâm bông não chúng”

(Ôn-như hầu, Cung oán ngâm khúc, Sách giáo khoa Tân Việt, in lần thứ tư, không ghi năm, tr. 26).

Tác giả giảng câu này là “Về phần nét mặt thì cung-phi có vẻ tốt-tươi như Đào Kiển, cung-phi vua Thuận đế nhà Nguyên”. (Sđd, tr. 27). Giáo sư Vân Bình còn khẳng định rằng “Có lắm bản chép “đào kiểm” là lầm” (Sđd, tr. 29, chú thích 1). Nhưng giáo sư Nguyễn Lộc thì lại chép “đào kiểm” và chú giải rõ ràng như sau: “Kiểm là cái gò má, chỉ chung cái khuôn mặt. Khuôn mặt hồng đẹp như hoa đào nên tác giả viết áng đào kiểm. Có bản chép áng Đào Kiển và chú Đào Kiển là Đào Kiển phu nhân tức nàng Qua Tiểu Nga, một cung nữ đẹp đời Nguyên. Nhưng Đào Kiển là người, không ai gọi là “áng Đào Kiển” cả”*. Hai từ khác nhau với hai lời khẳng định phủ định lẫn nhau! Vậy theo ông An Chi thì ai đúng, ai sai?

AN CHI: Phong cách của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều chỉ cho phép chấp nhận “đào kiểm” (má đào) chứ không phải “Đào Kiển”. Cái lý do mà Nguyễn Lộc đưa ra (không ai dùng “áng” để chỉ người) tuy quan trọng nhưng chưa phải là tất cả vì còn có những lý do khác nữa. Lấy danh từ chung (thu ba) mà đối với danh từ riêng (Đào Kiển) là biểu hiện của một sự “non tay” khó có thể có với Ôn Như hầu, một bậc thầy về lối bình đối trong thể song thất lục bát. Chỉ có đào kiểm mới có thể đối với thu ba một cách hài hòa mà thôi. Đó là lý do thứ hai. Lý do thứ ba là nói đào kiểm (má đào) đâm bông thì còn dễ nghe chứ nói cả người của nàng Đào Kiển mà đâm bông thì mới nghe đã thấy… sờ sợ.

Vậy, theo chúng tôi thì đào kiểm mới đúng là chữ của Ôn Như hầu chứ không phải “Đào Kiển”.

Báo cáo nội dung xấu

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3