Chuyện Đông Chuyện Tây - Tập 3: Câu hỏi 836 - 850
§ 836. Kiến thức ngày nay, số 428, ngày 1-7-2002
ĐỘC GIẢ: Thể thao ngày nay, ngày 11-6-2002 đã ghi chú rằng “Dae Han Min Guk” có nghĩa là “Hàn Quốc chiến thắng”. Xin cho biết có đúng như vậy hay không.
AN CHI: Dae Han Min Guk là “Đại Hàn Dân quốc: thường nói tắt thành “Hàn Quốc” và có nghĩa là (nước) Cộng hòa Đại Hàn chứ không phải “Hàn Quốc chiến thắng”.
§ 837. Kiến thức ngày nay, số 428, ngày 1-7-2002
ĐỘC GIẢ: Bài “Ai cười? Ai khóc?” trên trang 6 – 7 của báo Thể thao ngày nay ngày 14-6-2002 có mấy lần nói đến tên tờ nhật báo “HanKook Ilbo”. Ilbo nghĩa là gì?
AN CHI: Ilbo chính là nhật báo đọc theo âm Hán Hàn và nếu viết thường (không hoa) chữ cái đầu tiên thì sẽ là ilbo. Il là âm Hán Hàn của chữ nhật. Kim Il Sung là Kim Nhật Thành. Nam Il là Nam Nhật (tên của ngoại trưởng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên từng dự Hội nghị Genève hồi 1954).
§ 838. Kiến thức ngày nay, số 428, ngày 1-7-2002
ĐỘC GIẢ: Không phải là người nhiều chuyện mà tôi vẫn chưa thông suốt trước câu trả lời của ông trên Kiến thức ngày nay, số 426 về cách chú giải của cụ Chiêm Vân Thị. Tôi vẫn cảm thấy có cái gì đó không ổn trong lời giải thích của cụ Chiêm mà chính ông đã dẫn ra.
“Con đen”: Chàng thanh niên trẻ tuổi. Thơ của Lục Du trong sách Kiếm-nam thi-tập :
Diệc tri tuyết mấn nghi sòa lạp
Phân phó điêu-thuyền dữ hắc đầu.
(Mái sương nón lá đành mang,
Dành mũ điêu đẹp phần chàng đầu đen.)
Có vẻ như ông đã bỏ qua hai tiếng “con đen” mà chỉ bàn đến hai chữ “hắc tử” trong câu thơ của Lục Du mà cụ Chiêm đã dẫn. Vậy có phải vẫn là nhất bên trọng nhất bên khinh như tôi đã hỏi trên Kiến thức ngày nay, số 426 hay không?
AN CHI: Không phải là “có vẻ” mà hẳn hoi là chúng tôi đã không bàn gì về hai tiếng con đen trong lời chú giải của Chiêm Vân Thị. Lý do rất đơn giản: đó không phải là trọng tâm trong câu hỏi ở cả hai số Kiến thức ngày nay, số 424 và số 426. Trên số 424, ông Phùng Nguyên Hạnh hỏi: “Vậy hai tiếng hắc đầu có phải là như vậy (tức là bọn khách làng chơi có bản chất hắc ám, tối tăm, ngu dốt) hay không?”. Còn trên số 426 thì chính ông cũng chỉ hỏi: “Cả hai cụ (cụ Kiều Oánh Mậu và cụ Chiêm Vân Thị) đều có nói đến hai tiếng “hắc đầu” nhưng tôi chỉ thấy ông (An Chi) nhận xét về cái sai của cụ Kiều mà không thấy ông nhận xét gì về ý kiến của cụ Chiêm (…)”. Cả hai vị độc giả đều không trực tiếp hỏi gì về hai tiếng con đen thì chúng tôi bàn đến làm chi cho… lạc đề. Còn lần này vì ông đã trực tiếp hỏi về hai tiếng đó trong lời chú giải của Chiêm Vân Thị nên chúng tôi xin trả lời như sau.
Hai tiếng con đen trong Truyện Kiều không có nghĩa là “chàng thanh niên trẻ tuổi” vì đó là con mắt như chúng tôi đã trả lời cho ông Nguyễn Khắc Chính trên Kiến thức ngày nay, số 427. Vậy con đen không có liên quan gì đến hai tiếng hắc đầu trong tiếng Hán và trong hai câu thơ của Lục Du như Chiêm Vân Thị đã giải thích. Nói cho rõ ràng ra, Chiêm Vân Thị chỉ hoàn toàn đúng khi giảng rằng hắc đầu là “chàng thanh niên trẻ tuổi” nhưng đã sai khi nêu cái đẳng thức.
“Con đen = chàng thanh niên trẻ tuổi = hắc đầu”
Vì con đen ở đây là con ngươi nên chỉ ứng với tiếng Hán hắc mâu hoặc hắc nhãn chu (như đã gợi ý trên Kiến thức ngày nay, số 427) chứ không thể là “hắc đầu”.
§ 839. Kiến thức ngày nay, số 429, ngày 10-7-2002
ĐỘC GIẢ: Tôi rất tán thành những nhận xét của ông về một số sai sót trong quyển Từ điển bách khoa Việt Nam, tập II (Kiến thức ngày nay, số 422). Riêng với sai sót khi dịch tên hai tác phẩm của A.Gide Retour de l’U.R.S.S và Retouches à mon Retour de l’U.R.S.S, tôi nghĩ rằng Retour de l’U.R.S.S mà dịch là Từ Liên Xô trở về là sai. Vì nói “từ Liên Xô” là mặc nhiên nói “trước nay ở Liên Xô” điều hoàn toàn sai. A. Gide ở Pháp cho nên phải dịch là Đi Liên Xô trở về mới đúng. Cũng như đi Pháp trở về rõ ràng là khác từ Pháp trở về, “từ Pháp trở về” chỉ dùng để nói về một Việt kiều ở Pháp.
Đó là chưa kể A. Gide mà viết là Giđơ A, không tôn trọng cái tên của ông A. Gide thì quả là lạ ở một quyển Từ điển Bách khoa Việt Nam, trong khi Nguyễn Du của ta các sách báo của Pháp viết Nguyen Du (không viết ễ, vì trong chữ Pháp không có) không đâu viết thành “Nguyen Zou” cả.
Một số ý kiến xin góp với ông.
AN CHI: Chúng tôi mạo muội cho rằng cách dịch Retour de l’U.R.S.S thành Từ Liên Xô trở về (của Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập II) không có gì sai. Ngữ đoạn từ Liên Xô trở về, theo chúng tôi, chỉ có tiền giả định là “đã từng có mặt tại Liên Xô trước đó (bất kể thời gian lưu lại tại nước này dài hay ngắn” chứ không mặc nhiên hàm ý là “trước nay ở Liên Xô”. Giới từ từ ở đây hoàn toàn vô can đối với thời gian (dài hay ngắn) mà chủ thể có mặt hoặc lưu lại tại địa điểm hữu quan. Một Việt kiều có thể đi du học tại Pháp và sinh sống tại đấy mười, mười lăm năm rồi mới từ Pháp trở về. Nhưng phái đoàn Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi dự Hội nghị Fontainebleau thì từ Pháp trở về chỉ sau hơn hai tháng (6-7 đến 10-9-1946) chính thức lưu lại tại đó mà thôi. Mới đây thôi (trong những ngày cuối tháng 6-2002) người ta đã có thể nói “Từ Nam cực trở về” để chỉ việc các nhà khoa học Nga trên tàu Magdalena Oldendorff được giải cứu khỏi cảnh “neo băng” để trở về Cape Town mặc dù con tàu này chỉ bắt đầu bị nạn từ ngày 11-6, nghĩa là chỉ trong vòng chưa đầy một tháng*.
Xin có vài lời phân trần với ông như trên và xin trân trọng bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với cống hiến của ông cho từ điển học của nước nhà.
§ 840. Kiến thức ngày nay, số 429, ngày 10-7-2002
ĐỘC GIẢ: Tôi xin trao đổi thêm với ông một chút về cấu trúc “à moi” trong bài dịch của hai tác giả người Pháp (đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 427) mà theo ông là “hãy đến với ta”, “đến với ta đi” chứ không phải là “của tôi”, như cách tôi hiểu. Tôi hoàn toàn tôn trọng cách hiểu của ông và nếu tôi có thêm mấy lời này thì chỉ là nhằm mục đích nói lên tại sao tôi lại hiểu như vậy. Tất cả chỉ là để tìm ra sự thật là thứ mà cả ông và tôi đều thích. Thật ra tôi cũng đã có tra bộ từ điển mà ông nêu tên trong bài trả lời, của nhà ngôn ngữ học Arsène Darmesteter (1846 – 1888) và nhà từ vựng học Adolphe Hatzfeld (1824 – 1900). Ngoài ra tôi cũng tra cứu thêm bộ Dictionnaire Encyclopédique Quillet (6 volumes) in năm 1933 và thấy họ định nghĩa cấu trúc “à moi” là “cri pour appeler à l’aide”. Nhưng với cả hai bộ từ điển thì cấu trúc này đều là một exclamation mà theo chỗ hiểu biết của tôi thì từ exclamation được định nghĩa như sau: “L’interjection, ou exclamation, est un mot ou un groupe isolé, sans relation grammaticale avec les mots voisins. Elle exprime un mouvement vif (joie, douleur, doute, surprise, interpellation, ordre, onomatopée, etc…)”. Do đó tôi đã suy nghĩ và lý luận là đã là một exclamation thì nó phải luôn luôn có một dấu cảm thán (dấu than) ở ngay đàng sau. Và dấu cảm thán (point d’ exclamation) đã được đem vào sử dụng từ thế kỷ XVII thì không lẽ vào năm 1954 mà hai ông Huard và Durand lại viết “à moi” với dấu chấm ở đằng sau thay vì dấu chấm than? Đó là về mặt viết lách, còn về mặt tình-lý thì tôi nghĩ rằng ông sư đang gạ gẫm bà vãi thì phải dùng những lời lẽ êm dịu, mơn trớn, lôi cuốn, chứ có lý nào lại dùng một exclamation (động từ s’exclamer có nghĩa là kêu lên, la lên) để kêu lên la lên, có nguy cơ làm phật lòng kẻ mình đang gạ gẫm… Ngoài ra, tôi còn có ý nghĩ là, rất có thể trên thực tế, hai tác giả người Pháp đã viết: “Je te prie bonzesse d’ entrer dans l’ arrière-salle à moi”, nhưng các ông đã ngưng ở chữ “arrière-salle” để khớp với chữ “nhà hậu”. Sau đó, các ông lại viết tiếp hai chữ “à moi” xuống dưới để dịch chữ “Ta” mà không để dấu phẩy và như vậy, dấu phẩy là do ấn công, theo thói quen, đã đưa vào mỗi khi xuống dòng, đồng thời viết hoa luôn chữ “à” (thành A) ở đầu dòng kế tiếp.
Trên đây là lý do khiến tôi dịch cấu trúc “à moi” là “của ta”, “của tôi” chứ không dịch là “hãy đến với ta” theo cách ông hiểu. Nhưng dù sao đi nữa, như ông đã nói, cả ông và tôi đều thấy rõ là, dù các tác giả người Pháp có dịch thành “của ta” hay “hãy đến với ta” thì căn bản là hàm ý của chữ “Ta” yết hậu vẫn bị các ông ấy hiểu sai.
Để thực hiện tinh thần trao đổi, mong ông vui lòng công bố những ý kiến trên đây của tôi.
AN CHI: Chúng tôi rất hân hạnh nhận được những ý kiến trao đổi của ông. Xin trân trọng giới thiệu như trên cho rộng đường dư luận và xin phân trần thêm đôi lời như sau.
Tại trang 283 trong sách Connaissance du Vietnam của Pierre Huard và Maurice Durand, sau hai chữ “A moi” không phải là dấu chấm (point) như ông nói lần này mà là dấu hai chấm (deux-points) như ông đã trích (và trích đúng) lần trước và như chúng tôi đã cho in đúng tại d.5, c.2, tr. 55 của Kiến thức ngày nay, số 427. Dấu hai chấm (:) này cho phép chúng tôi suy đoán theo chủ quan rằng đó chính là dấu chấm than (!) của Huard và Durand nhưng ấn công đã làm sai lạc đi. Nghĩa là theo chúng tôi thì chính Huard và Durand đã viết:
“A moi!”
Nhưng đây dù sao cũng chỉ là suy luận hoàn toàn chủ quan. Ước gì ông và chúng tôi đều được nhìn thấy bản thảo của tác giả. Đây là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai mà chúng tôi muốn phân trần thêm là s’exclamer không chỉ có nghĩa là “kêu lên”, “la lên”, mà còn có nghĩa là “than thở” nữa. Nếu hiểu theo nghĩa này thì lời mời gọi của sư sẽ có thể không làm phật lòng vãi chăng?
Nhưng dù “à moi” có được hiểu là “của ta” hay “hãy đến với ta” thì, như ông đã nhấn mạnh, đây cũng cứ là một cách dịch không đúng của Pierre Huard và Maurice Durand.
§ 841. Kiến thức ngày nay, số 429, ngày 10-7-2002
ĐỘC GIẢ: Tôi nghe nói một số trường đại học của ta hiện nay có một khoa gọi là “Hàn Quốc học”? Xin cho biết môn “Hàn Quốc học” nghiên cứu những gì.
AN CHI: “Hàn Quốc học” là một cách gọi hoàn toàn không ổn vì nếu đây là một cách đặt tên chính xác thì ta phải có thêm một môn học bổ sung nữa là “Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên học”. Cả hai cái môn học “đờ-mi” này ráp lại một cách thật khít khao, vừa vặn (nếu có hai môn như thế) mới cho ta một môn học đích thực và chính danh là Triều Tiên học.
Hàn Quốc, như đã nói trên Kiến thức ngày nay, số 428, là cách nói tắt của Đại Hàn Dân quốc, có nghĩa là “nước Cộng hòa Đại Hàn”, hiện nay là một quốc gia ở Đông Bắc Á, nằm trên phần Nam của bán đảo Triều Tiên mà phần Bắc là nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Hàn Quốc và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vốn là hai bộ phận của một đất nước thống nhất, nước Triều Tiên, trước kia còn gọi là Cao Ly (nên mới được phiên thành Corée (tiếng Pháp), Korea (tiếng Anh), v.v.). Sau thế chiến thứ hai, Triều Tiên mới bị chia cắt thành hai miền nhưng dân tộc và ngôn ngữ thì hoàn toàn thống nhất.
Môn Triều Tiên học là một môn học nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử, v.v. của người Triều Tiên ở cả Hàn Quốc lẫn Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Vậy “Hàn Quốc học” là một cách gọi khập khiễng. Dù nó đi vào tiếng Việt bằng con đường nào, nhất là bằng tiền, thì cách gọi tên đó cũng không có lý do gì để tiếp tục tồn tại cả.
Để cho được dè dặt một cách tối đa, xin nói rõ ràng thêm rằng vì người Triều Tiên cũng còn được gọi là người Hàn cho nên môn Triều Tiên học còn có thể được gọi là Hàn học (chỉ là Hàn học chứ không thể là “Hàn Quốc học” vì Hàn Quốc chỉ gồm có một nửa nước Triều Tiên từ vĩ tuyến 38°B trở xuống mà thôi). Ta không thể để cho kinh tế can thiệp vào lịch sử và văn hóa một cách sỗ sàng được!
§ 842. Kiến thức ngày nay, số 430, ngày 20-7-2002
ĐỘC GIẢ: Bây giờ thì Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 tại Hàn – Nhật đã thực sự khép lại. Nhưng trên Kiến thức ngày nay, số 428, ông đã viết “World Cup tuy có qua đi mà chữ nghĩa thì vẫn còn đó”. Vì vậy nên tôi xin nêu một số thắc mắc (ít thôi) “vét” ở một số bản tin nhanh cuối cùng. Mong ông vui lòng giải đáp.
1. Bài “Đòn độc của chữ R… vắng mặt” trên Sài Gòn giải phóng Thể thao ngày 27-6-2002 có câu: “Chứng kiến những pha bóng đầy nghệ thuật như thế, tất cả những cổ động viên yêu mến jogo bonito (bóng đá đẹp) chỉ có thể nói: tuyệt vời!”. Xin cho biết jogo bonito là tiếng gì (của nước nào) và có đồng nghĩa với fair play hay không.
2. Bài “Chuyện những người nghiện… SVĐ” trên Thể thao & Văn hóa ngày 1-7-2002 có mấy câu: “Chàng sinh viên kinh tế người Đức Heiko Hagenauer tạm biệt World Cup với vẻ mặt mãn nguyện. Anh là một trong những người đang theo đuổi một thú vui kỳ lạ: chuyên sưu tầm… sân vận động (…) Hagenauer là một trong số rất ít người trên thế giới này được gọi là “groundhopper” (tạm dịch: Những người thích khám phá sân vận động.
Xin cho biết từ groundhopper được đặt ra trên cơ sở nào.
3. Bài “World Cup từ A đến Z” trên Thể thao (Sở Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh) ngày 1-7-2002 có câu: “Beckham không chỉ thành công trên sân cỏ mà cầu thủ điển trai này còn làm dấy lên làn sóng “Beckhamania” khắp châu Á”.
Xin cho biết Beckhamania nghĩa là gì.
4. Bài “Brazil tràn ngập những vũ điệu samba” trên Thể thao & Văn hóa ngày 5-7-2002 có câu: “Bên ngoài (Dinh tổng thống) có khoảng 500.000 hincha nhảy múa reo hò xung quanh cung điện”.
Xin cho biết hincha là tiếng nước nào và có nghĩa là gì.
AN CHI: 1. Jogo bonito là tiếng Bồ Đào Nha. Jogo là một danh từ cùng gốc với joco (của tiếng Ý), juego (của tiếng Tây Ban Nha) và jeu (của tiếng Pháp), bắt nguồn từ tiếng La Tinh jocus, có nghĩa là trò chơi, lối chơi. Bonito (không có hình thái tương ứng tuyệt đối trong tiếng Ý và tiếng Pháp – còn tiếng Tây Ban Nha cũng là bonito) là một hình thái phái sinh mang sắc thái thân mật từ tính từ La Tinh bonus (đã > bom (Bồ Đào Nha), bueno (Tây Ban Nha), buono (Ý) và bon (Pháp)). Bonus (La Tinh) là tốt còn bonito (Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) là đẹp đẽ, xinh xắn, duyên dáng. Jogo bonito là “lối chơi đẹp” (không cứ gì trong bóng đá).
Jogo bonito không hẳn là fair play vì fair play trước nhất là lối chơi đúng luật và sòng phẳng, đối lập với foul play, là lối chơi phạm luật. Trong World Cup 2002 tại Hàn – Nhật, tuyển Bỉ đứng nhất về fair play còn tuyển Brazil chỉ đứng hàng thứ năm theo sự xếp hạng của FIFA nhưng về jogo bonito thì rõ ràng Brazil là “number one”, nhất là ở trận chung kết với tuyển Đức.
2. Nói đến football (bóng đá) thì không thể không nói đến ground (sân bóng) mà đã nói đến ground thì có lẽ cũng phải nhắc đến grass (cỏ) vì nếu không có cỏ thì bất thành… sân bóng đá (ngoài trời). Và khi nói đến grass (cỏ) thì người ta cũng dễ nghĩ đến giống côn trùng thường thấy trên hoặc trong cỏ (mặc dù không phải giống duy nhất) là grasshopper (= châu chấu (ngoài Bắc) = cào cào (trong Nam)).
Có lẽ sự liên tưởng “dây chuyền” mà chúng tôi nêu ra trên đây đã là cơ sở cho sự ra đời của từ groundhopper chăng?
3. -Mania là một hình vị thường được ghép vào sau một hình vị khác để chỉ cái chứng điên, cái tật mê về một lĩnh vực hoặc một loại hành động do hình vị trước biểu hiện. Thí dụ: Anglomania là thói vọng Anh (coi cái gì của Anh cũng là “number one”); bibliomania là tật mê sách; dipsomania là chứng khát rượu; kleptomania là tật (thích) ăn cắp vặt; megalomania là chứng vĩ cuồng; nymphomania là chứng cuồng dâm (của đàn bà); v.v.
Vậy Beckhamania là chứng mê… Beckham.
4. Hincha là tiếng Tây Ban Nha và có nghĩa là “cổ độngviên”.
§ 843. Kiến thức ngày nay, số 430, ngày 20-7-2002
ĐỘC GIẢ: Trong bài “Bi kịch của các thủ môn Brazil không dành cho Marcos” (Thể thao & Văn hóa, ngày 5-72002), tác giả viết:
“Trong ký ức người dân Brazil không gì có thể xóa nổi niềm tuyệt vọng của năm 1950. 16 giờ 33 phút ngày 16-6, tỷ số đang là 1 – 1 và đội nhà chỉ cần “đổ bê-tông” cho đến hết giờ. Trung phong Gigghia của Uruguay lướt qua hậu vệ Bigode. Cú sút trên vạch 16,5 mét làm tung vôi trắng và 200.000 trái tim ngừng đập trong mấy giây. Quả bóng sượt bên trái qua thủ môn Barbosa vào lưới. “Trên đời có ba người có thể làm cả sân Maracana im bặt bởi một động tác. Đó là Frank Sinatra, Giáo hoàng Jean Paul đệ nhị và tôi”. – nguyên văn lời Gigghia hôm nay”. Tôi rất thích những bài điểm lại các trận cầu lịch sử nhiều kịch tính như bài này nhưng rất tiếc là đoạn trên đây lại có một chỗ sai. Xin nhờ ông An Chi phân tích chỗ sai đó.
AN CHI: Đó là một chỗ sai về anachronism, tạm dịch là lỗi nhầm lẫn về niên đại. Tác giả đang nói về một sự việc của năm 1950. Vào thời điểm này thì Đức Giáo hoàng là Pie XII (chữ này đọc theo tiếng Pháp là [pi] chứ không phải [pjs]), đăng quang từ năm 1938 và là vị giáo hoàng thứ 260. Vị giáo hoàng thứ 261 là Jean XXIII, đăng quang năm 1958. Vị thứ 262 là Paul VI, đăng quang năm 1963. Vị thứ 263 là Jean-Paul I, đăng quang năm 1978 rồi cũng qua đời trong năm này và người kế vị là Jean-Paul II, vị giáo hoàng thứ 264, người Ba Lan, tên thật là Karol Vojtyla.
Đến 1978, Jean-Paul đệ nhị mới lên ngôi thì hồi 1950 Gigghia làm sao có thể biết đến Ngài được? Không biết có phải đây là cái lỗi mà ông muốn nói đến hay không.
Ngoài ra, từ tổ hôm nay (trong “nguyên văn lời Gigghia hôm nay”) cũng được dùng không đúng và cũng là một dạng anachronism. “Hôm nay” chỉ có thể là ngày 5-7-2002, ngày phát hành số 54 (1354) của báo Thể thao & Văn hóa mà thôi chứ ngày 16-6-1950 thì đã là “hôm ấy” (hoặc “hôm đó”) của thế kỷ XX.
§ 844. Kiến thức ngày nay, số 430, ngày 20-7-2002
ĐỘC GIẢ: Phần I chương III trong sách Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam của Trần Trí Dõi (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999) có một câu như sau:
“Các nhà nghiên cứu dân tộc, dựa vào kết quả phân loại của bộ môn khoa học nói trên của ngôn ngữ học (môn ngôn ngữ học so sánh – lịch sử), sắp xếp các dân tộc theo cách nhìn ngôn ngữ dân tộc học (Ethnolinguistique) và góp phần làm chính xác thêm sự phân loại ấy”. (Sdđ, tr. 127)
Xin cho biết ethnolinguistique mà dịch thành “ngôn ngữ dân tộc học” thì có đúng hay không.
AN CHI: Trước Trần Trí Dõi, nhiều tác giả khác cũng đã dịch ethnolinguistique thành “ngôn ngữ dân tộc học”. Đây là một cách dịch không chính xác. Như bạn đã biết, từ ethnolinguistique được cấu tạo theo kiểu “chính phụ” trong đó phần chính là linguistique (ngôn ngữ học) còn ethno- (liên quan đến tộc người) là phần phụ. Vậy ethnolinguistique là ngôn ngữ học dân tộc (nếu muốn theo “cú pháp xuôi” của tiếng Việt) hoặc dân tộc ngôn ngữ học (nếu muốn theo “cú pháp ngược” của tiếng Hán) chứ không thể là “ngôn ngữ dân tộc học” vì trong cấu trúc này thì “dân tộc học” lại là phần chính, hiểu theo “cú pháp ngược” của tiếng Hán (mà như thế thì hoàn toàn trái ngược với cấu trúc của ethnolinguistique).
Tương tự như trên, sociolinguistique là ngôn ngữ học xã hội hoặc xã hội ngôn ngữ học chứ không thể là “ngôn ngữ xã hội học”; psycholinguistique là ngôn ngữ học tâm lý, hoặc tâm lý ngôn ngữ học chứ không thể là “ngôn ngữ tâm lý học”; ethnomusicologie là âm nhạc học dân tộc hoặc dân tộc âm nhạc học chứ không thể là “âm nhạc dân tộc học”; ethnobiologie là sinh học tộc người hoặc dân tộc sinh vật học chứ không thể là “sinh vật dân tộc học”; v.v..
Tên của các ngành khoa học mà không minh xác thì rõ ràng cũng là chuyện rất đáng lo.
§ 845. Kiến thức ngày nay, số 431, ngày 1-8-2002
ĐỘC GIẢ: Trên Kiến thức ngày nay, số 427, ông có bàn về hai tiếng “con đen” trong Truyện Kiều (hai câu 839 và 1414) mà ông Lê Trung Hoa đã dẫn từ điển của Huình-Tịnh Của để giảng là “con mắt”. Theo tôi thì việc Tú Bà dùng “nước vỏ lựu, máu mào gà” không phải để đánh lừa con mắt mà để lừa cái trí khôn của khách chơi. Vậy giảng con đen là “con mắt” e rằng ép uổng, khiên cưỡng. Tôi xin nêu một cách giải thích khác hợp lý hơn để ông An Chi và ông Lê Trung Hoa tham khảo.
Trong dân gian, có câu “Con đen đầu thì bỏ, con đỏ đầu thì nuôi”. Con đỏ đầu là con mới đẻ, con đen đầu là con đã lớn, tóc đen. Dân ta cũng dùng màu sắc để tả con người, ví dụ: Trắng răng cho đến bạc đầu; má hồng răng trắng; v.v.. Hai tiếng “răng trắng” chỉ người còn trẻ. Và người ta cũng nói “đánh lừa trẻ con” để chỉ những trò lừa lọc chỉ lừa được trẻ con.
Vậy hai tiếng con đen trong truyện Kiều là hình tượng một người non trẻ, như trẻ con, chứ không phải nói mắt đen. Cụm từ con đỏ đầu, tinh giản thành “đỏ đầu”, người ta hiểu được thì con đen đầu cũng tinh giản thành “con đen” được.
Con đỏ: con mới đẻ còn đỏ hỏn. Sau biến thành hình tượng là con còn nhỏ. Ví dụ: thằng xích tử.
Con đen: Dân gian nói “Con đen đầu thì bỏ, con đỏ đầu thì nuôi”, chỉ người đàn ông phụ bạc (với vợ cả) bỏ cả con cái, ham vợ lẽ, chỉ lo cho con của vợ lẽ (với mình). “Con đen” không chỉ con đã trưởng thành, đã có gia đình.
Con đỏ con đen mang tính chất đối chọi nhau, rất dễ hiểu. Nếu ông An Chi đồng ý thì xin đăng trên số Kiến thức ngày nay, số kế tiếp.
AN CHI: Chúng tôi rất hân hạnh nhận được “cách giải thích khác, hợp lý hơn” mà ông đã gởi đến. Ban biên tập Kiến thức ngày nay, chủ trương không chỉ đăng những ý kiến mà BBT hoặc người phụ trách Chuyện Đông chuyện Tây tán thành. Những ý kiến phản bác hoặc những lời góp với An Chi vẫn được giới thiệu tại Chuyện Đông chuyện Tây một cách trân trọng từ trước đến nay.
Chúng tôi rất lấy làm tiếc rằng cách giải thích mà ông cho là hợp lý hơn thực ra lại không nhất quán. Ở phần trước, ông cho rằng con đen đầu là con đã lớn, tóc đen (đối với con đỏ đầu là con mới đẻ) nhưng ở phần sau ông lại cho rằng con đen đầu, nói tắt thành con đen “không chỉ con đã trưởng thành, đã có gia đình” mà chỉ con của vợ cả. Sự bất nhất này là điểm bất hợp lý đầu tiên mà chúng tôi muốn nói đến. Điểm bất hợp lý thứ hai là ông cho rằng con đen đầu có thể nói tắt thành con đen và con đỏ đầu có thể nói tắt thành con đỏ.
Chúng tôi chẳng thấy có cơ sở nào để nói tắt như thế cả, mặc dù kiểu nói tắt này có được ghi nhận trong từ điển, chẳng hạn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên (Nxb. Văn hóa – Thôngtin, 1999). Quyển từ điển này có nhiều khuyết điểm và một phần nhỏ những khuyết điểm này đã được nêu ra trên mặt báo. Việc nó ghi nhận câu “Con đen thì bỏ, con đỏ thì nuôi” như là dị bản của câu “Con đen đầu thì bỏ, con đỏ đầu thì nuôi” là một việc làm rất đáng ngờ. Việc nó giảng “con đen (đầu)” là con vợ cả, “con đỏ (đầu)” là con vợ lẽ lại càng là một việc khó tin. Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam của Việt Chương (Nxb. Đồng Nai, 1995) chỉ ghi có một hình thức duy nhất là “Con đen thì bỏ, con đỏ thì tìm” và giảng rằng con đen là con nuôi còn con đỏ là con ruột. Đây là một cách giảng khác hẳn.
Chúng tôi nêu những cách giảng khác nhau trên đây về hai ngữ danh từ con đen và con đỏ để gợi ý rằng có lẽ vì sự khác nhau đó nên chính ông cũng thấy khó chọn một cách giảng dứt khoát chăng. Và có lẽ vì thế nên ông mới không nhất quán trong cách hiểu hai tiếng con đen trong lời góp ý của mình chăng?
Nhưng dù ông có hiểu hai tiếng con đen như thế nào thì chúng tôi cũng chưa thấy ông chỉ ra sự liên hệ giữa cách hiểu đó với cái khái niệm mà ông gọi là “cái trí khôn của khách làng chơi” cả.
§ 846. Kiến thức ngày nay, số 431, ngày 1-8-2002
ĐỘC GIẢ: Tại sao Hầu vương trong Tây du ký có tên là Tôn Ngộ Không?
AN CHI: Về câu hỏi của ông, tác giả Lê Anh Dũng có phân tích như sau:
“Thoạt đầu, Tổ sư hỏi Hầu vương có tánh gì, Hầu vương đáp rằng không có tánh. Thế thì:
“Tổ sư cười nói: Ngươi tuy thân thể thô lậu, nhưng giống loài khỉ ăn quả tùng. Ta và ngươi trên thân đều lãnh họ tên, ý ta muốn đặt ngươi họ Hồ 猢 [chiết tự: khuyển ⺨ (con chó) + cổ 古 (xưa) + nguyệt 月 (trăng)]. Chữ Hồ bỏ con thú [bỏ chữ khuyển] bên cạnh thì còn là cổ nguyệt. Cổ là già, nguyệt là âm, lão âm không thể sinh hóa dưỡng dục được. Nên ta đặt họ ngươi là Tôn 猻 [chiết tự: khuyển ⺨ + tử 子 + hệ 系] mới tốt. Chữ Tôn bỏ con thú [bỏ chữ khuyển] bên cạnh thì còn là tử hệ. Tử là con trai, hệ là trẻ sơ sinh, quả là hợp với bản chất trẻ thơ. Vậy ta đặt cho là họ Tôn nghe”.
Một trò chơi lý thú! Chữ Hán tánh (tính) 姓 nghĩa là họ; nhưng theo Phật, tánh (tính) 性 còn có nghĩa là bản thể, là phần trường tồn bất biến nơi con người. Nhờ đó mà con người dù xấu xa vẫn có thể tương lai tu thành Phật được. Và tu Phật là cốt đạt tới chỗ minh tâm kiến tánh, theo Nho là tồn tâm dưỡng tánh, theo Lão là tu tâm luyện tánh.
Đặt cho tánh là Tôn, rồi giải chi li ra thành trẻ nhỏ, Tây du ký đã đưa ra một vấn đề trọng tâm của đạo Lão. Muốn tu hành đạt đạo, con người phải có được cái tâm hồn nhiên của trẻ mới đẻ (xích tử chi tâm). Cũng vậy, Tân ước chép lời Chúa Giê-xu khuyên môn đệ hãy giữ tâm hồn như con trẻ thì mới vào được thiên đàng nước Chúa.
Hầu vương có tên là Tôn hành giả. Hành giả là người thực hành thiền. Lại có pháp danh là Ngộ Không, ngụ ý muốn ngộ nhập được cái Không (sunyata), hành giả phải dọn sạch lòng như tâm con trẻ.
Một hành giả thiền môn ngày xưa, dọc bước phong trần đi tìm cửa động trăng sao, như Tôn ngộ không hành giả, dấu chân của khách lữ còn in lại lời thơ thâm trầm vọng vào u uẩn cõi phù vân:
Nhất bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du,
Thanh mục đổ nhân thiểu,
Vấn lộ bạch vân đầu.
Nghĩa là:
Một bát cơm ngàn nhà,
Thân đơn muôn dặm xa,
Mắt xanh nào ai có,
Hỏi đường mây trắng qua.
Phải! Mây trắng ơi, con đường nào ta đi? Câu hỏi của Tôn ngộ không hành giả sẽ vẫn còn được hỏi mãi giữa từng cuộc đời ai kia muốn xin một lần được trở về quê xưa để làm trẻ nhỏ ngồi bên thềm cũ hồn nhiên nhìn thế sự dần qua”*.
§ 847. Kiến thức ngày nay, số 432, ngày 10-8-2002
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết các nghĩa của chữ thất trong gia thất, thứ thất, trắc thất, v.v..
AN CHI: Theo Hán ngữ đại tự điển của “Hán ngữ đại tự điển biên tập uỷ viên hội”(Thành Đô, 1993) thì chữ thất 室 là một chữ hội ý kiêm hình thanh. Theo phép hội ý, chữ thất đã được Thuyết văn giải tự của Hứa Thận giảng là một chữ gồm có miên 宀 và chí 至 mà chí là chỗ để ở, để nghỉ (tùng miên, tùng chí; chí, sở chỉ dã). Còn theo phép hình thanh thì Thuyết văn hệ truyện của Từ Khải phân tích rằng thất là một chữ mà nghĩa phù là miên còn thanh phù là chí (tùng “miên” 宀, “chí” 至 thanh). Xét theo ngữ âm học lịch sử, về tiếng Hán và về văn tự học thì ý kiến của Từ Khải hoàn toàn chính xác mặc dù thoạt nghe thì thấy rất vô lý. Một chữ có thanh phù là chí 至 (thanh phù là thành tố ghi âm) mà lại đọc là “thất” thì rõ là chuyện khó tin. Nhưng sự thật thì lại đúng như vậy: chữ chí 至 không chỉ hài thanh cho chữ thất đang xét mà còn hài thanh cho một số chữ khác thuộc vận -ât như: 桎 (chất), 窒 (trất), 蛭 (chất, cũng có âm điệt), v.v..
Với tự hình đã phân tích ở trên và liên quan đến khái niệm “nhà cửa” và “gia đình”, chữ thất có mấy nghĩa đáng chú ý sau đây:
1. Nhà. Thí dụ: thập thất cửu không (mười nhà thì đến chín nhà mất sạch của cải (do thiên tai, chiến tranh, v.v.));
2. Phòng (trong một tòa nhà). Thí dụ: giáo thất (phòng học); ngọa thất (phòng ngủ); v.v.
3. Vợ. Thí dụ: chính thất (vợ cả); thứ thất hoặc trắc thất (vợ lẽ, thiếp); v.v..
§ 848. Kiến thức ngày nay, số 432, ngày 10-8-2002
ĐỘC GIẢ: Nho giáo có nói: “Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thất thập cổ lai hy”. Vậy có “bát thập”, “cửu thập” không?
AN CHI: Câu mà ông đã nêu gồm có hai phần của hai nhân vật khác nhau: Đỗ Phủ và Khổng Tử.
Câu “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” (người sống đến bảy mươi xưa nay hiếm) là của Đỗ Phủ trong bài “Khúc giang”:
Triều hồi nhật nhật điểm xuân y,
Mỗi nhật giang đầu tận túy quy.
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
Nhân sinh thất thập cổ lai hy.
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,
Điểm thủy thanh đình khoản khoản phi.
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
Tản Đà đã dịch như sau:
Trên sông Khúc
Khỏi bệ vua ra, cố áo hoài,
Bên sông say khướt, tối lần mai.
Nợ tiền mua rượu đâu không thế,
Sống bảy mươi năm đã mấy người?
Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn,
Chuồn chuồn giỡn nước lửng lơ chơi.
Nhắn cho: quang cảnh thường thay đổi,
Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài*.
Phần còn lại là lời của Khổng Tử trong Luận ngữ, thiên thứ 2 (Vi chính):
“Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học; tam thập nhi lập; tứ thập nhi bất hoặc; ngũ thập nhi tri thiên mệnh; lục thập nhi nhĩ thuận; thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ”.
Nguyễn Hiến Lê đã dịch như sau:
“Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tức khắc kỉ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm); bốn mươi tuổi không nghi hoặc nữa (tức có trí đức, nên hiểu rõ ba đức nhân, nghĩa, lễ); năm mươi tuổi biết mệnh trời (biết được việc nào sức người làm được, việc nào không làm được); sáu mươi tuổi đã biết theo mệnh trời (chữ nhĩ ở đây không có nghĩa là tai, mà là dĩ = đã); bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lý (không phải suy nghĩ, gắng sức mà hành động tự nhiên hợp đạo lí)”*.
Cả hai vị, Khổng Tử và Đỗ Phủ, đều không ai nói đến “bát thập”, “cửu thập” trong hai nguồn đã trích cả.
§ 849. Kiến thức ngày nay, số 432, ngày 10-8-2002
ĐỘC GIẢ: Xin có nhận xét về hai câu sau đây:
1. “Rút dây động rừng” hay “Bứt mây động rừng”?
Việt Nam tự điển của Khai Trí tiến đức và nhiều quyển từ điển thông dụng hiện nay đều ghi “Rút dây động rừng”. Nhưng Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân thì lại chính thức ghi “Rút dây động dừng” và chú thích rằng dừng là “(cái) cốt để trát bức vách”. Vậy dừng ở đây gần nghĩa với dứng, là cái nan để làm cốt vách. Dứng phên cũng là đan phên. Do đó mà trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Pháp, Nguyễn Lân mới dịch là “En tirant une corde, on secoue les palançons”.
Nhưng ở một cuốn sách cổ (nói “cổ” là vì nó được ấn hành trên 60 năm có dư) mà rất tiếc là Thuý Quỳnh chỉ có được bản photocopie từ trang 298 đến trang 375 và được biết tên là Grammaire française annamite (?), Thuý Quỳnh đọc được tại trang 335 như sau:
“Đánh trống động chuông; bứt mây động rừng (Frappez le tambour, la cloche vibre; arrachez le rotin, la forêt murmure).
Vậy “bứt mây động rừng” là vế thứ hai của một câu tục ngữ hoàn chỉnh có tám chữ.
2. “Của mình thì để, của rể thì bòn”: “rể” hay “nễ”?
Câu này cũng tương đương với các câu “Của người bồ tát, của mình lạt buộc” hoặc “Của mình mình giữ bo bo, Của người thì thả cho bò nó ăn” nhưng có lẽ dành riêng cho các ông bố vợ, các bà mẹ vợ, nhất là các bà, hay tham lam bòn mót của cải của các chàng rể. Tục ngữ Việt Nam của nhóm Chu Xuân Diên, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân đều ghi như vậy tuy cũng có sách ghi rể thành “dễ” (facile). Ở vị trí của chữ “dễ” phải là một danh từ hoặc một đại từ chứ không thể là một tính từ. Vậy chữ “dễ” là một chữ viết sai.
Nhưng có một quyển sách (rất tiếc là quá cũ, rách cả đầu cả cuối nên không rõ tác giả và nhà xuất bản) lại ghi như sau:
“Của mình thì để, của nễ thì bòn: Ménagerson bien etgratter sur celui d’autrui” (Tiết kiệm của cải của mình và kiếm chác của người khác).
“Nễ”, cũng như “nĩ” 你 là đại từ ngôi thứ hai, ví như you trong tiếng Anh hoặc tu, vous trong tiếng Pháp. Vậy “của mình thì để, của nễ thì bòn” rất có thể đã có xuất xứ xa xưa, lâu đời, trước cả “Của mình thì để, của rể thì bòn”.
AN CHI: 1. Về trường hợp này, chúng tôi xin có ý kiến như sau:
1.1. Chúng tôi không cho rằng dừng lại đồng nghĩa với dứng. Dứng là nan để làm cốt vách còn dừng thì lại là cốt vách và vì là cốt vách, nghĩa là cả một cái phên đan bằng dứng nên nó mới có mạch chứ riêng từng cái dứng thì không thể có mạch. Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên đã ghi nhận:
“Dứng₁ = Dừng₁ = thanh bằng tre, nứa cài ngang dọc để trát vách”.
Chúng tôi cho rằng ghi nhận như thế thì không chính xác.
1.2. Chúng tôi thừa nhận câu “Bứt mây động rừng” mới là dạng gốc còn “Rút dây động rừng” chỉ là một dị bản hậu kỳ mà nghĩa đã “lỏng lẻo” đi nhiều so với dạng gốc. Đến như nói “Rút dây động dừng”, thì lại càng vô lý vì trong dừng chỉ có dứng chứ không làm gì có dây .
1.3. Trong phương ngữ Nam Bộ từng tồn tại câu “Đánh trống dộng chuông” như đã được ghi nhận trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (Xem quyển thượng, chữ “dộng”). Dộng chuông là “đánh chuông cho kêu bằng cái chày treo ngang lủng lẳng trên không” (lời giảng của Lê Văn Đức). “Đánh trống dộng chuông” còn có một dị bản là “Đánh trống dộng chiêng”.
1.4. Vế đầu của câu “Đánh trống động chuông, bứt mây động rừng” có thể chỉ là một hình thức nói lệch từ câu “Đánh trống dộng chuông” mà thôi. Nhưng dù có phải như thế hay là không thì vế này cũng không thể hợp với bốn tiếng “Bứt mây động rừng” thành một câu tục ngữ hoàn chỉnh có tám chữ được vì vần lưng ở vế sau (tiếng thứ ba) không thể cùng vị trí với tiếng cùng vần với nó ở vế trước (cũng là tiếng thứ ba) mà lại hoàn toàn đồng âm.
2. Chúng tôi không cho rằng nễ ở đây lại là đại từ ngôi thứ hai, vì “mình” ở vế trước chỉ có thể đối với “người” (tương đương ngôi thứ ba) chứ không thể đối với ngôi thứ hai (mầy, mi, v.v.) được. Theo chúng tôi thì nễ ở đây là “nhà thờ ông bà” như đã được giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của (tác giả này viết thành “nể”). Vậy “của nễ thì bòn” có nghĩa là của ông bà thì bòn rút (còn của mình thì lại giữ “bo bo”). Chúng tôi đồng ý rằng đây là hình thức xưa hơn vế “của rể thì bòn”.
§ 850. Kiến thức ngày nay, số 433, ngày 20-8-2002
ĐỘC GIẢ: Từ ngày 28-7-2002, HTV7 đã trình chiếu bộ phim 28 tập của Trung Quốc mà nhan đề được dịch là “Cây ngô đồng”. Nhưng tên gốc của bộ phim bằng tiếng Hán thì lại thấy là “Ngô đồng vũ” (梧 桐 雨). Ngô đồng vũ dĩ nhiên không thể là “cây ngô đồng”. Nhưng liệu đó có phải là “mưa (mùa) ngô đồng”, kiểu như hoàng mai vũ là “mưa (mùa) hoàng mai” hay không?
AN CHI: Ngô đồng vũ vốn là tên một vở tạp kịch của Bạch Phác đời Nguyên mà tên gọi hoàn chỉnh ban đầu là Đường Minh Hoàng thu dạ ngô đồng vũ. Cảm hứng của tác giả bắt nguồn từ các tác phẩm Trường hận ca của Bạch Cư Dị, Trường hận ca truyện của Trần Hồng đời Đường và Dương Thái Chân ngoại truyện của Nhạc Sử đời Tống. Nội dung vở kịch cũng lấy tình tiết từ các tác phẩm đó và xoay quanh sự sủng ái mà Đường Minh Hoàng dành cho Dương Quý Phi.
Tướng biên thùy là An Lộc Sơn phạm tội đáng chém, được Đường Minh Hoàng tha chết và phong làm tiết độ sứ Ngư Dương, lại được Dương Quý Phi nhận làm con nuôi. Chẳng bao lâu sau, An Lộc Sơn khởi loạn, đem quân về vây hãm Trường An. Vua phải bỏ chạy vào Tứ Xuyên. Đến đèo Mã Ngôi, quân sĩ giết anh họ Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung rồi ép vua phải bắt Quý Phi thắt cổ. Sau khi dẹp xong loạn, trở về Trường An, ngày nào Đường Minh Hoàng cũng khóc nhớ Dương Quý Phi và ban tế trước chân dung nàng. Một ngày cuối thu, mưa dập ngô đồng, Đường Minh Hoàng mộng thấy Quý Phi. Đến khi tỉnh dậy, càng nhớ nhung da diết; lòng sầu muộn không bút mực nào có thể tả xiết.
Tên của vở kịch vốn là chữ ở câu thứ hai của đoạn sau đây (câu thứ 62 của cả bài) trong bài Trường hận ca củaBạch Cư Dị:
Xuân phong đào lý hoa khai nhật,
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì.
Tây cung Nam nội đa thu thảo,
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo.
Tạm dịch:
Buổi gió xuân đào mận nở hoa,
Lúc mưa thu ngô đồng rụng lá.
Cung Tây điện Nam ngập cỏ thu,
Lá rụng đỏ thềm chẳng màng quét.
Trung Quốc lịch đại danh thi phân loại đại điển do Hồ Quang Chu và Chu Mãn Giang chủ biên, (Quảng Tây Nhân dân xuất bản xã, 1992) giảng về hai câu 61 – 62 rằng “bất kể ngày xuân đào mận nở hoa hoặc về thu mưa dập ngô đồng rụng lá, Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) đều thương nhớ không nguôi” (quyển 4, tr. 437, chú thích 50). Lòng nhớ thương triền miên đó đã được Bạch Phác hình tượng hóa bằng ngữ đoạn “Đường Minh Hoàng thu dạ ngô đồng vũ” mà ông dùng làm tên cho vở kịch của mình và chúng tôi tạm dịch (cho thoát ý) là “Đêm thu, mưa dập ngô đồng, Đường Minh Hoàng nhớ Dương Quý Phi”. Về sau, vở kịch được gọi tắt thành “Ngô đồng vũ” và cách gọi tắt này vô hình trung đã biến ba tiếng Ngô đồng vũ thành một cấu trúc cú pháp giống hệt với ngữ danh từ hoàng mai vũ như ông đã có ý muốn so sánh. Nhưng nếu hoàng mai vũ (mưa vào mùa mai vàng (nở rộ)) chỉ thuần túy là chuyện khí hậu thì ngô đồng vũ lại là một lối nói mang tính hình tượng. Vẫn dùng để diễn đạt bối cảnh tự nhiên (thời tiết) cho nỗi niềm thương nhớ của Đường Minh Hoàng, ba tiếng ngô đồng vũ đã trở thành một lối nói tượng trưng cho chính nỗi niềm thương nhớ đó.
Chúng tôi cho rằng không phải ngẫu nhiên mà tên của bộ phim “Cây ngô đồng” bằng tiếng Hán (Ngô đồng vũ) lại trùng hợp với tên vở tạp kịch của Bạch Phác đời Nguyên. Ở đây, người ta đã mượn tên một vở kịch ngày xưa để đặt cho một bộ phim thời nay vì một điểm chung là tình yêu say đắm, thậm chí mù quáng của nhân vật nam hữu quan đối với nhân vật nữ hữu quan. Xin nhắc rằng ca từ của bài hát trong phim Cây ngô đồng có câu chót được dịch sang tiếng Việt là:
Yêu em anh mãi mãi yêu.